Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
QH30–T4Đ
Tác giả:
Trần Hoài Thư
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Ít ra, cách mạng phải mang những điều tốt
đẹp hơn trước, nếu không, thì cách mạng cái quái gì. Họ làm sao
biết khi ông nói về những điều này lòng ông cảm thấy bất an. Ông
phải chứng tỏ ông là một đứa con trung kiên của đảng, để đám cán
bộ xung quanh không thể có chứng cớ nào để buộc tội được ông. Ông
cũng đã viết thư qua Mỹ, dạy hai đứa em của ông, phải sống như
người lương thiện. Thằng em nhận thư, đọc xong, nổi giận viết thư
trả lời: Anh ở trong hàng ngũ bất lương mà lại dạy tôi phải sống
như người lương thiện.
Buổi trưa nóng như lò lửa. Ngồi trong
nhà, ông Ba Thi có thể nhận ra những những tàn cây bông sứ im lìm
không lay động, con đường bên ngoài hàng rào như chảy nhựa, và
những mảng nắng lay động trên chiếc hồ nuôi cá đặt trong vườn đến
nhức mắt. Mặc dù chiếc quạt máy đã mở tối đa, nhưng hơi nóng như
theo gió táp vào da thịt ông. Tự nhiên, ông nhớ lại hơi mát lạnh
tỏa ra từ chiếc máy điều hòa không khí chạy suốt đêm ngày trong
văn phòng ông đã làm việc suốt gần hai năm, kể từ sau khi bộ đội
ông tiếp thu thị xã. Ông nhớ đến chiếc bàn làm việc bằng gỗ láng
bóng, khung cửa kính có treo màn, và căn phòng phía sau cánh cửa,
với chiếc giường nệm êm ả để ông tìm đến khi cần một chỗ đặt
lưng. Ông nhớ đến nỗi êm ái thật dịu dàng khi ông ngồi trên chiếc
ghế nệm, trước mặt là điện thoại, và lá cờ quân đội nhân dân,
trên vách treo tấm hình của Bác, thêm những tấm hình chụp chung
với anh Văn, người mà ông xem như người anh đỡ đầu của ông trong
suốt quãng đời binh nghiệp.
Ông nhớ đến những người lính phục vụ,
buổi sáng không quên mang vào bình trà, và buổi trưa mùa hè,
không quên mang vào những chai bia ngoại, cùng chiếc cốc đầy nước
đá... Họ bước vào khúm núm, rời phòng khúm núm. Có khi họ biết ý
ông, lại mang vào gói thuốc ngoại như Camel, Craven A, hoặc 555.
Không biết họ lấy ở đâu loại thuốc quí hiếm như thế này. Mặc kệ.
Ông không bao giờ thắc mắc. Ông chỉ biết tận hưởng, như cả đảng
ông, từ trung ương xuống hạ tầng đang điên cuồng tận hưởng. Mà
tại sao lại không. Những biệt thự nguy nga sang trọng mà Mỹ ngụy
để lại, với bao nhiêu đồ đạc tiện nghi, những ngôi nhà vắng mà
chủ của chúng đã bỏ chạy ra nước ngoài, những chiếc xe bóng
loáng, những tủ lạnh, máy truyền hình, những thảm, bàn ghế, máy
may... ê hề, dư dật, no nê, sẵn sàng chờ tiếp thu....
Không chụp thì dại. Ông biết điều ấy,
nhưng ông không thể nhanh tay hơn đám trung ương ngoài Bắc. Họ đã
đánh hơi trước ông. Họ đã chặn đầu ông bằng cách cho người mau
mắn vào Nam kiểm kê vơ vét tất cả để chở mang ra Bắc. Ông đã bó
tay. May mà ông giành được một ngôi nhà bên con phố chính của
thành phố. Nếu không, giờ này ông đâu còn được ngồi trong căn
phòng với điện nước xài thả dàn, quạt máy quạt tối đa, tủ lạnh
cũng chạy suốt cả đêm lẫn ngày để sản xuất những bịch đá cục mà
ông bám vào để sống trong lúc: Đầu đường đại tá vá xe. Cuối đường
thiếu tá bán chè đậu đen... như số phận của hầu hết những anh
hùng Điện Biên bị về vườn khác...
Ông nhớ lại những ngày tháng đầu tiên
sau giải phóng. Ông đã trở lại thành phố nơi ông đã ra đời, và đã
trải qua những năm tuổi thơ đến tuổi trưởng thành. Ông trở về, bộ
quân hàm tướng trên cổ áo, ngồi xe díp Mỹ, có lính hầu, lính phục
vụ, và cả một đại đơn vị dưới quyền. Ông trở về như một người
hùng. Ông đã ngồi lại chỗ ngồi của viên tướng ngụy tự sát, nhìn
lại cái bản đồ còn sót lại trước khi Mỹ cút ngụy nhào, để cám ơn
bác, đảng, cám ơn đại tướng đã tiến cử ông... Rõ ràng ông đã sống
như cơn mơ. Ông bấy giờ chẳng khác bậc lãnh chúa. Ông còn hơn cả
những người đảng viên tập kết khác. Như lão sáu bồng, giữ chức
viện trưởng viện đại học, lão tám minh, giữ chức bí thư tỉnh ủy.
Ông nắm quyền số một của ủy ban quân quản, là người muốn tha ai
là tha, và bắt ai là bắt. Ông thi hành nghiêm chỉnh chính sách
của Đảng, lùa sĩ quan ngụy vào rọ, đập tư sản mại bản, đổi tiền,
đốt hủy văn hoá đế quốc, truy kích tàn dư. Họ gọi ông là anh ba,
tâng bốc ông lên tận mây xanh. Họ đọc tên ông đầu tiên trong các
bài diễn văn, trong các buổi họp... Ông ngồi ở hàng ghế danh dự,
ban huấn thị. Họ xem ông là một tấm gương cho một người lính công
bộc trung với đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành,
khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Nhưng ông có nỗi lo buồn không ai có
thể hiểu nổi. Cả gia đình ông, trừ ông, đều là đại phản động. Một
thằng em của ông nguyên là trung tá, hiện đang nằm trong trại cải
tạo. Và hai đứa em khác đã chạy qua Mỹ vào tháng 4 năm 1975. Tàn
tích Mỹ ngụy rõ ràng quá sâu đậm trong dòng họ ông mà những người
thèm chức vụ của ông thì quá nhiều và những kẻ ganh tị với ông
thì cũng không ít. Bọn họ đang chờ chực cơ hội để giành lấy chức
vụ béo bở... Bởi vậy, ông càng chứng tỏ là một người không có
dính líu gì đến cái huyết thống giai cấp đầy nợ máu. Mặc mẹ ông
đã từng khóc lóc khi nói về thằng em đang cơ cực trong trại cải
tạo... Hãy để cách mạng giáo dục dạy dỗ nó nên người. Ông luôn
luôn nói với bà như thế. Nó đã phạm quá nhiều tội ác đối với nhân
dân. Mặc bà luôn luôn kể về những năm huy hoàng cũ, chưa bao giờ
bà biết cơm độn khoai độn sắn, với những bữa cơm lúc nào cũng
thịt, cá ê hề. Ông nghe bà than thở, chỉ biết nói: “Đất nước mình
còn nghèo, mới thoát ra từ chiến tranh, má à. Không bao lâu, Nhật
bò ta chạy, nhà nhà đều có tủ lạnh, có đài.” Ông đã lặp lại những
lời của tổng bí thư lê Duẩn, để động viên bà. Nhưng ông đã bị bà
mỉa mai bằng một câu quá đau: “Chờ đến ngày ấy, người dân đói quá
làm sao mà chạy được hả con?”.
Khi ban huấn thị hay nói về những đề
tài liên quan đến chính trị, ông thao thao bất tuyệt, ca ngợi chế
độ, ca ngợi bác, đảng lên tận mây xanh. Ông say sưa kể về một thủ
đô Hà Nội không có một cô gái điếm, nhân dân được tự do đến nỗi
chuông nhà thờ Hà Nội còn đổ sớm hơn chuông nhà thờ Rô Ma. Ông
không quên nói về người con gái Hà Nội xinh đẹp, má khỏi cần đánh
phấn hồng như cô gái miền Nam. Ông nói gái Hà nội đẹp tự nhiên
bởi vì mỗi ngày họ đều ăn một quả trứng ngỗng, còn gái Sài Gòn vì
thiếu ăn đói rách nên da mặt xanh xao, phải ngụy trang bằng đánh
phấn má hồng. Bài nói chuyện của ông khiến sinh viên, công nhân
viên miền Nam phải nín thở, phải hít hà. Thì ra thiên đàng đâu
cần tìm ở đâu xa, mà ngay tại Hà Nội này. Họ vỗ tay. Họ hoan hô
cách mạng. Ít ra, cách mạng phải mang những điều tốt đẹp hơn
trước, nếu không, thì cách mạng cái quái gì. Họ làm sao biết khi
ông nói về những điều này lòng ông cảm thấy bất an.
Ông phải chứng tỏ ông là một đứa con
trung kiên của đảng, để đám cán bộ xung quanh không thể có chứng
cớ nào để buộc tội được ông. Ông cũng đã viết thư qua Mỹ, dạy hai
đứa em của ông, phải sống như người lương thiện. Thằng em nhận
thư, đọc xong, nổi giận viết thư trả lời: Anh ở trong hàng ngũ
bất lương mà lại dạy tôi phải sống như người lương thiện. Rồi đến
cả lời chúc Tết của nó trên đài Hoa Kỳ nhân danh một nhân sĩ hải
ngoại đúng vào nửa đêm giao thừa. Nó mạt sát chế độ. Nó lại còn
hẹn một ngày về trong vinh quang... Đúng là thằng ngoan cố phản
động. Trời ơi, ông rủa thầm. Giữa lúc cuộc đời của ông lên như
diều gặp gió thì tiếng nói của nó trên đài nước ngoài như một cái
điềm tai ách. Tay chân ông rụng rời. Vợ ông, người đàn bà mà ông
cưới ngoài Bắc, thì đau khổ không ít. Bà linh cảm được cái tương
lai u ám trước mặt. Sẽ không còn cái mộng làm một bà tướng của
quân đội nhân dân. Sẽ hết cái mộng tậu thêm một căn nhà có vườn
ăn trái, có cả một cây đàn dương cầm cho con gái hay cho con cái
bà qua Mỹ du học như đám con của các cán bộ cao cấp khác...
Và cái ngày ấy đã đến. Trước hết, vai
trò của đại tướng bị hạ bệ từ chức tổng trưởng quốc phòng xuống
chức ngồi chơi xơi nước. Dù sao người anh nuôi của ông vẫn còn
được may mắn. Còn ông và đám bạn bè cùng lứa thì từng người một
ôm khăn gói về vườn. Mà vườn thì chẳng có để mà an hưởng tuổi
già. Thôi thì cả bọn chỉ biết tụ họp tại câu lạc bộ kháng chiến
để ngồi lại mà nhớ thời dĩ vãng vàng son. Nhưng cuối cùng đảng
cũng không chịu buông tha. Câu lạc bộ cũng bị đóng cửa dẹp tiệm
nốt.
Nhục.
Hèn. Ông nhắm mắt nhìn tuổi già trôi qua hiu hắt. Đời của một ông
tướng cuối cùng như vậy sao?
*
– Ông ba, còn nước đá cục không ông ba!
Giọng của thằng bé hàng xóm như hét
ngoài cổng, khiến ông phải bỏ dở dòng ý tưởng đang tuôn trào trên
ngòi viết. Ông tháo cặp kính lão bỏ xuống bàn viết rồi mở tủ lạnh
nhìn vào. Còn khoảng ba bịch đá. Ông mở cửa, nói vọng ra:
– Còn, mua mấy bịch?
– Dạ, mười bịch, ông Ba.
Ông nhìn thằng nhỏ. Nó là một khách
hàng quen thuộc với ông. Nó lại hỏi, giọng có vẻ xấc xược:
– Tôi kêu mấy lần mà ông không nghe. Bộ
ông ngủ hở?
–
Ừ thì tao ngủ.
Ông trả lời, lòng tê tái. Ông hỏi thằng
bé:
– Hôm nay
nhà mày có khách hay đình đám mà mày mua nhiều thế?
– Dạ, có khách Việt kiều. Cô Năm của
tôi, thêm con trai của cổ. Ảnh là bác sĩ.
– Từ Mỹ về?
– Dạ. Cô về mang nhiều quà. Cổ cho tôi
chiếc quần cao bồi...
– Nhà cô Năm chắc gần đây?
– Cổ là con ông Tám Lợi.
– Tao biết rồi.
– Ông vào nhà lấy nước đá đi ông. Kẻo
người ta chờ... Tiệc lớn lắm ông Ba.
– Tao biết...
Ông nói. Phải ông đã biết. Biết thế nào
là một sự phũ phàng của lịch sử. Ông đã trả cái giá quá đắt cho
cả đời của ông, tuổi trẻ của ông, hoài bão của ông, và lý tưởng
của ông nữa.
–
Ông biết cô Năm của tôi không?
– Không. Nhưng tao biết ông Tám Lợi.
Thằng bé nhận lấy ba bịch nước đá rồi
vụt chạy. Ông trở vào nhà, ngồi lại trước bàn. Bản thảo về bộ
quân sử mà đại tướng nhờ ông viết nằm trước mặt. Đó là niềm vui
trong những ngày còn lại của ông, và của đại tướng. Đó là bát tro
tàn của quá khứ làm của tự hào. Nhưng hôm nay ông cảm thấy bất
an. Danh dự của ông đã bị tổn thương. Ngay một đứa con nít vẫn
còn sai ông chạy. Nó đâu cần biết quá khứ của ông. Nó chỉ biết cô
nó, một Việt kiều trở về để nó có quyền hãnh diện cùng bạn bè,
hàng xóm, và cả ông nữa.
Buổi chiều, ông ba Thi đạp xe đạp trở
về nhà mẹ ông. Ông cần lấy vài cuốn sách trong tủ sách gia đình
của thằng em ở Mỹ để lại. Vừa bước vào nhà, bà Năm, mẹ của ông đã
nói:
– Con Năm
con của chú Tám Lợi ở Mỹ về, mới ghé nhà. Nó có mang ít quà của
thằng Sáu gởi về má.
– Bộ con Năm có quen biết thằng Sáu?
– Nó nói gặp thằng Sáu hoài.
Rồi bà lại khóc tấm tức.
– Dù sao em con vẫn còn biết thương má.
Tuy ở xa, nó vẫn còn biết má ho mà gởi về hộp thuốc ho...
Bà không nói hết, nhưng ông Ba biết là
bà đang gián tiếp trách ông.
Ông nói với bà:
– Má có thể nói giùm cho con được gặp
cô Năm được không?
– Để má sẽ nói cho. Gia đình mình và
gia đình chú Tám Lợi thân thiết từ xưa nay. Ngày xưa ba con và
chú Tám vẫn hay đánh tứ sắc chung...
– Con nhớ.
Buổi tối ông Ba đạp xe đến nhà chú Tám.
Ông nhớ lại căn nhà mà thời tuổi trẻ, trước khi ông ra Hà Nội
học, ông vẫn thường ghé qua. Ông cũng có thể nhớ lại đứa con gái
mà ngày xưa vẫn hay rụt rè, với đôi mắt to đen như hai hòn bi.
Bây giờ cô bé ấy đã trở thành quá lạ. Cô ta không rụt rè như
trước nữa, mà trái lại đã nói huyên thuyên khi ông mới bước vô
nhà:
– Anh
Hai, anh còn nhớ em không. Em là Thương đây.
Cô líu lo nói, mừng rỡ như thể gặp lại
một người thân xa cách từ lâu:
– Em nhớ có lần anh Hai đến nhà học bài
chung với anh Hai Minh của em... Má em sai em nấu nước pha cà phê
cho hai anh uống...
Lòng ông Ba Thi ấm lại. Ông ngậm ngùi
nói, lòng dâng lên xúc động:
– Anh nhớ. Anh nhớ hết em Năm. Anh làm
sao quên được. Anh cũng nhớ đến bên kia đường, tên mật thám Tây
bị bọn anh bắn nằm trước cổng nhà.
– Bộ anh bắn sao?
– Anh ở trong toán công tác nội thành
mà.
– Sao ngày
ấy em thấy anh hiền khô không à.
Ông Ba cười. Rồi ông hỏi tiếp:
– Em có thường liên lạc với thằng Sáu
em của anh không?
– Dạ, thỉnh thoảng anh Ba.
– Gia đình nó thế nào?
– Dạ thưa khá lắm. Con cái ảnh đều
thành tài hết.
– Năm à. Cho anh tâm sự với em điều
này.
Ông ngưng
lại, như lấy can đảm. Mắt ông đỏ, ngấn lệ:
– Anh vẫn nhớ ngày nó còn nhỏ anh vẫn
hay cõng nó đi chơi. Chiều chiều, anh hay dẫn nó ra bờ sông, anh
em cùng tắm lội... Có lần anh tập nó chạy xe đạp, anh phải chạy
theo nó kẻo sợ nó té. Tại sao nó vẫn không hiểu anh.
Giọng của ông trở nên tha thiết hơn:
– Anh mong em nếu trở lại Mỹ gặp nó thì
nói lại là anh lúc nào cũng thương cũng nhớ nó. Nói với nó bây
giờ anh khổ lắm. Anh cần nó gởi cho anh một ít quà hay thuốc men.
Anh bây giờ là một ông tướng bán nước đá... Nhục lắm. Nhục lắm...
Đôi vai ông bật run lên và giọng nói
nghẹn trong cổ họng. Chừng như ông đã mất hết bình tĩnh. Cái bình
tĩnh cố hữu của một ông tướng ngoài mặt trận.
Trần Hoài Thư
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Batkhuat Nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu Phục Sinh, April 22,
Mùa chay 2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang