Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang
sách báo–Hồi Ký
Chủ đề:
QH30–T4Đ
Tác giả:
Ngọc Ánh
MỤC LỤC
1.
Lời giới thiệu
2. Ngược Dòng
3. Ngày tháng buồn hiu
4. Chặng đường đã qua
5. Cát bụi
6. Ông già Noel là Mẹ
7. Nỗi xót xa riêng
8. Cảm ơn
9. Phụ bản cuốn “Nhật Ký Mực Tím”
10.
Lời cuối
11.
Một chuyến đi
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Chiếc xe ngừng lại
ở cây số 19 của huyện Hàm Thuận trên quốc lộ 1A. Ngôi mộ nằm dưới
chân núi đất cách quốc lộ chưa tới một km, ngày đầu tiên ra thăm
anh, tôi hỏi người dân quanh vùng hầu như ai cũng biết về vụ xử
bắn mươi năm trước, họ còn tả rất chi tiết về cái chết của anh.
Sau ngày anh bị bắn thì một người quen đã vào Sài Gòn báo tin,
anh chị Sáu vội vã đến chụp mấy tấm hình, ngôi mộ đắp sơ sài với
tấm bia bằng gỗ viết tên anh, cây cột trói anh vẫn để đó và mấy
viên sỏi dưới chân còn vướng máu được anh chị gói cẩn thận cất
giữ như lưu lại nỗi đau của gia đình. Lá thư được anh chị gởi vào
trại có mấy chữ “Bảy đã về với Má ngày 14/6/1982” như một mật
khẩu để tránh sự kiểm duyệt của trại mà đọc ra chỉ có mình tôi
hiểu. Vậy là anh đã bỏ chúng tôi ra đi thật rồi! Biết trước thế
nào cũng có ngày này. Nhưng sao tôi vẫn thấy lòng quặn thắt nhói
đau khi phải đối mặt với sự thật đau buồn.
Đêm đó hai mẹ con vào mùng, tôi ôm
thằng bé nghẹn ngào kể cho nó nghe chuyện của Ba bay về trời như
dũng sĩ trong truyện cổ tích bay đi giết con quái vật hung ác. Nó
còn quá nhỏ để đón nhận nỗi buồn quá lớn này. Tôi không thể làm
trái tim Vy Dân tan nát, đêm đó sau khi dỗ thằng bé ngủ, tôi đã
khóc như chưa bao giờ đau đớn đến như vậy, biết là dù sớm hay
muộn thì mình cũng xa nhau, nhưng mà Tài yêu ơi, anh có thanh
thản để về cõi vĩnh hằng khi bỏ lại mẹ con em?
Anh nằm đây chắc cũng yên vì nghe đâu
trước kia ngọn đồi này là nơi đóng quân của một đơn vị lính VNCH,
ít ra anh cũng có đồng đội ở cạnh để cùng chia sẻ nỗi đau đất
nước điêu tàn.
Dù xa nhưng tôi vẫn tới lui thăm anh,
thủ thỉ chuyện này đđ kia cho nỗi buồn nguôi ngoai, khi đau khổ
người ta thường kêu Trời ơi, còn tôi chỉ biết khấn nguyện anh
thôi, “Hãy phù hộ cho mẹ con em Tài ơi! Phù hộ cho con dế mèn Vy
Dân bé bỏng của chúng ta đang phiêu lưu nơi xa xăm nửa vòng trái
đất được bình yên.” mặc dù tôi biết bệnh tật của thằng bé khó mà
phục hồi.
Vùng
anh ở mùa mưa nước lầy lội, mùa nắng đất khô cằn nứt nẻ, ngôi mộ
như lún sâu thêm bên dưới, có lần VT (con ông Thầy cũ) theo tôi
ra tận đây, hắn cũng cảm phục anh quá nên hai chị em khiêng những
hòn đá dựng lại ngôi mộ cho tươm tất. Những tưởng anh sẽ yên nghỉ
lâu dài nơi đây, nhưng không ngờ họ có kế hoạch mở rộng quốc lộ
trong vài năm nữa, có thể sẽ đào tới chỗ anh nằm, Suy nghĩ mãi
rồi mới tính chuyện hốt cốt, “Phải mang anh về nhà thôi Tài à, em
không muốn mộ anh bị vùi dập nát tan giữa nơi xa lạ này, mặc dù
em vẫn chưa biết anh thích ở chùa hay ở nhà thờ, người như anh
thì chỉ lên thiên đàng thôi, anh sẽ làm ngọn gió trời bay cao
lồng lộng hay làm ánh sáng trên một hành tinh xa xôi, rong chơi
quên lãng... em tin thế cho lòng nguôi ngoai”.
Tôi thuê người ra mộ, một tay dân làng
ở đây nhận bốc cốt với giá phải chăng và thêm rượu thịt để hắn
lấy can đảm, vì theo lời hắn kể thì anh chết do hung khí như vậy
nên linh thiêng lắm, đêm đêm từ trong nhà ngó vô núi, hắn thấy
bóng người ngồi trên mộ trong ánh lửa bập bùng, dân trong vùng
kháo nhau như huyền thoại về ngôi mộ duy nhất trong vùng đất này.
Đất đá xới tung lên cả một buổi chiều
mà không thấy anh đâu, tôi cứ khấn thầm “Tài ơi, giúp em” mà lòng
chỉ muốn điều ngược lại, nghĩa là không có anh trong huyệt mộ
này, nghĩa là anh thoát chết như phép lạ rồi bỏ đi đâu mất... Cái
hy vọng mong manh như trẻ con chờ ông Bụt hiện lên cho bao điều
ước thần kỳ. Thấy tội nghiệp cho tôi vô cùng trong ảo tưởng mơ hồ
ngay lúc này, cả đời tôi cứ ngồi mơ phép lạ xảy ra!
Cuối cùng thì cũng tìm thấy mấy sợi dây
nylon cùng khúc xương ống chân, khiến tôi hình dung mọi việc xảy
ra trong ngày tang tóc đó, chắc chúng nó đã trói anh, bịt mắt bịt
miệng anh, kê súng bắn hàng loạt đạn vào người anh và sau đó ném
xuống hố như người ta vất xác một con chó.
Nỗi đau không thể diễn tả được, tôi
nghĩ mình phải thật can đảm để đối diện sự thật này. Lần đầu tiên
trong đời tôi làm một việc quá sức chịu đựng của mình, cứ tưởng
như trong phim khi mở nắp hòm ra, bộ xương khô nằm ngay ngắn
trong đó.
Nhưng đây là cái chết của một tử tù, bọn cộng sản đã bắn anh ấy
bằng bảy phát súng ghim bất kỳ chỗ nào trên thân thể anh như một
mục tiêu cố định, và phát ân huệ trên màng tang để kết liễu sự
sống cuối cùng!
Những gì tôi tìm thấy dưới đáy mồ mới
là chứng tích của sự tàn ác dã man mà luật pháp quốc tế chắc cũng
không thể chấp nhận được khi thi hành án tử hình. Anh là kẻ thù
của cả chế độ nên bọn chúng phải hành xử như vậy cho đáng tội hay
sao?
Không còn
cái gì hết ngoài cát bụi thời gian, bộ xương nằm cong queo còn
vướng víu dây nhợ của người bị trói, đầu gục sang một bên với hộp
sọ vỡ nát, chỉ có chiếc dép nhựa duy nhất nằm trên phần bụng anh,
và cục đá xanh quấn giẻ nhét vào miệng vẫn còn nguyên màu vải,
tôi cũng nhận ra tấm thẻ nhựa lủng một lỗ mà lúc chia tay tôi đã
đưa anh ấy giữ, trong đó là hình vợ con, tôi nghĩ nó đã nằm trên
túi áo trước ngực anh, bọn chúng đã bắn trúng tim anh, mấy tấm
ảnh đã hòa vào cát bụi, da thịt, quần áo, mọi thứ đã mục nát
không còn dấu tích vật dụng nào sót lại ngoài vài hột nút nhựa
của bộ đồ tù.
Sự đau đớn uất hận trào dâng khi tôi hình dung ra những gì mà anh
ấy đã phải chịu đựng trước và sau khi chết. Nghĩa tử là nghĩa
tận, có thể tôi không hiểu hết ý nghĩa của điều này nhưng tôi
biết anh ấy chết trong câm lặng vì cục đá nhét vào miệng, anh
cũng không đi được vì bị trói, anh không nhìn thấy gì vì cặp
kiếng cận của anh bị chúng lấy đâu mất rồi, anh chỉ có một chiếc
dép thôi, khi chúng kéo lê anh từ cột bắn đến huyệt mộ nó đã rớt
đâu mất và chiếc còn lại được đá xuống sau cùng trên bụng của anh
trước khi bọn chúng lấp đất lại.
Cái ác của kẻ giết người không phải là
phát súng mà là hành động thô bạo bất nhân trong giờ phút cuối
cùng, họ đã thi hành bản án bằng trái tim vô cảm của loài dã thú.
Mãi mãi tôi sẽ không bao giờ quên sự thật kinh tởm đáng nguyền
rủa này. Tôi mang tất cả những gì được tìm thấy dưới huyệt mộ đem
về như một chứng tích của sự tàn ác. Tôi nghĩ đến bản cáo trạng
dành cho cộng sản, chế độ bất nhân này sẽ phải sụp đổ, chỉ còn là
thời gian sớm hay muộn thôi.
Buổi chiều xám xịt màu mây, giữa vùng
núi non gió lộng này tôi không biết phải làm sao với mớ xương cốt
xếp lộn xộn trong nón lá, chưa bao giờ tôi làm việc này và cũng
không ai chỉ dạy tôi phải làm thế nào cho đúng nghi lễ, phải coi
ngày lành tháng tốt để mang anh về cho được giờ hoàng đạo kẻo xui
rủi cả nhà... Câu chuyện tù đày của chúng tôi là cái xui tận cùng
rồi, không còn gì để sợ, để mất nữa... Tôi tin ông Trời có mắt và
có lẽ công bằng!
Tôi chất củi trước bia mộ để hỏa táng
xương anh thành tro bụi, sau đó trịnh trọng bỏ vào cái bình gốm
nhỏ. Bóng chiều lãng đãng khi mặt trời đang khuất dần sau núi,
gió lạnh khiến tôi rùng mình, tôi nghĩ hồn thiêng anh đang quanh
quẩn bên tôi. Buồn ơi!
Ra đường đón xe về Sài Gòn mà lòng lo
lo, xe mà biết mang hài cốt thì không ai dám chở, họ cũng sợ xui
như bao người, tôi cẩn thận gói cái hũ trong chiếc khăn choàng,
bỏ vào cái ba lô đeo ngược ra trước, gương mặt thật bình tĩnh mà
run khi bước lên xe, lúc sống tính anh cũng thích trêu đùa nghịch
ngợm, biết đâu được anh phá chuyến xe này, quả thật, tới ngã ba
Dầu Giây xe bị “ban”, gần vô ngõ Sài Gòn xe chết máy lần nữa. Tôi
ngồi im trên xe mà cứ vái thầm “Xin cho đến nhà bình yên anh ơi!”
Tôi viết thư hỏi ý những người thân của
Tài bên Pháp nên để anh ấy ở đâu, anh Ba hỏi vặn lại “Vậy em muốn
để ở đâu?” – “Em muốn để ở nhà”.
Tôi đặt anh bên cạnh hình Ba má Sáu
trên bàn thờ và mỗi ngày đốt nhang cho hương linh anh ấm cúng,
tôi vẫn tin rằng anh luôn ở bên tôi để chở che tôi trong biển đời
mênh mông đầy bất trắc này.
Mỗi ngày tôi dọn cơm đều có cái chén
đôi đũa dành riêng cho anh. Khi con bé lớn lên một chút, nó vẫn
vô tư làm theo lời Má dạy, nó không biết bác ấy là ai mà tôi yêu
quý trân trọng như vậy, thỉnh thoảng trẻ con loay hoay trên bàn
ăn làm rơi chiếc đũa, con bé lại suýt xoa xin lỗi bác và đặt lại
cho ngay ngắn.
Hơn chục năm trôi qua, cả nhà tôi không
ai biết điều đó, thật tình tôi cũng không muốn tâm sự kể lể với
người thân về mọi đau buồn trong quá khứ, tình cảm gia đình hàn
gắn được là tốt rồi, tuyệt đối không nhắc lại chuyện cũ để ray
rứt thêm. Tôi có căn nhà nhỏ trên Thủ Đức. Không có bóng dáng
người đàn ông trong cuộc sống của hai mẹ con, chúng tôi bình yên
hạnh phúc bên nhau, có chút chữ nghĩa kiến thức và tấm chân tình
để giúp hàng xóm khi họ cần, từ chuyện nhỏ như đưa rước mấy đứa
trẻ đến trường hay viết giùm đơn từ này nọ, chạy qua giúp đỡ khi
tối lửa tắt đèn, lâu dần bà con trong xóm thương mến tin cậy bầu
tôi làm tổ trưởng dân phố.
Chức vụ cho vui vậy mà, dĩ nhiên tôi có
lập trường riêng của mình, không ai biết về dĩ vãng tù tội của
tôi cho đến một hôm đi làm về tôi nhận được thư mời của tên
trưởng công an phường với nội dung “có việc riêng”. Trực giác cho
tôi biết rằng bọn họ vẫn chưa để tôi yên. Tôi bình thản bước vào
phòng trực, mặt tên công an lạnh tanh, câu đầu tiên hắn hỏi
“Chồng chị sao chết vậy?” Tôi biết là hắn đã rõ mọi chuyện nên
tôi cũng không cần che dấu, tôi kể một hơi dài sự thật về bản án
của mình và nhìn thẳng vào mặt hắn kết luận “chuyện đã hơn hai
chục năm rồi, thời đó tôi còn trẻ như anh bây giờ, nếu anh là tôi
sống trong thời điểm khó khăn ấy thì anh cũng phải khó chịu và
phản kháng vậy thôi.”
Tên công an cúi đầu suy nghĩ, hắn cũng
thú thật là bất ngờ khi biết về lý lịch của tôi do cấp trên thông
báo “Cả thời gian dài chị sống trong khu vực do tôi quản lý mà
tôi không biết chị là ai thì cũng lạ” – “Nếu anh không cho ở thì
tôi đi” miệng nói cứng mà lòng tôi lo lắng không biết đi đâu bây
giờ, nhưng hắn làm như thông cảm vì rõ ràng suốt thời gian qua
tôi luôn chứng tỏ mình là một công dân sống tốt ở địa phương.
“Không có gì đâu, chị cứ ở lại, miễn đừng dính líu gì với bọn
phản động chống phá nhà nước là được rồi”. Tôi cười thầm thì ra
hắn cũng ngán “bọn phản động”.
Nói thì có vẻ như chuyện của tôi không
có gì đáng ngại nhưng chỉ tuần sau trên phường lấy cớ là tôi bận
đi làm không có thì giờ họp hành để thay tên đảng viên về hưu lên
làm tổ trưởng, dân ai cũng thắc mắc sự thay đổi kỳ cục này, riêng
tôi thì quá biết nguyên nhân vì sao, cộng sản nói một đằng làm
một nẻo vốn là bản chất gian xảo của bọn chúng. Thật ra tôi chỉ
muốn yên thân!
Rồi Má tôi cũng biết chuyện tôi để hũ
cốt anh Tài trong nhà khi con bé thủ thỉ với bà ngoại về cái chén
đôi đũa bên mâm cơm, cả nhà cũng ngạc nhiên y như tên công an
phường biết tôi “phản động”. Má không nói gì chuyện đã qua nhưng
bà khuyên tôi nên đem vô chùa “Ai đời nhà có con nít mà để hũ cốt
trong nhà để vong linh ám ảnh không tốt cho đứa nhỏ”. Tôi cười
làm thinh, anh ấy là người tốt chớ đâu phải ma quỷ gì đâu mà sợ,
cái đáng sợ là bọn ma vương lộng hành đội lốt công an nhà nước
húng hiếp áp bức người dân kia kìa Má ơi.
Xã hội ngày càng phát sinh nhiều tệ nạn
trộm cướp giết người, xì ke gái điếm, quan chức thì tham nhũng
trắng trợn, làm gì đụng tới công quyền là phải có bao thư đút lót
mới xong việc. Mạnh ai nấy quơ quào đạp giẵm lên nhau để kiếm
sống bằng mọi thủ đoạn lưu manh. Ba tôi nếu còn sống chắc ông
cũng hối hận vì cái công cuộc “giải phóng thần thánh” của mình
chẳng còn tuyệt vời hay ho như lý tưởng mà ông bỏ cả đời để theo
đuổi phục vụ và tin tưởng đến hơi thở cuối cùng.
Biết sống cũng không thoải mái trước
đôi mắt cú vọ của tụi công an địa phương lâu lâu kêu lên phường
để hỏi han vớ vẩn, nhất là những dịp lễ 30/4 hay 2/9 bọn chúng
gọi là “làm công tác tư tưởng” như một hình thức răn đe, tôi bán
nhà dọn về Củ Chi. Vùng quê xa xôi này mà dân chúng đa phần là
“gia đình cách mạng” nhưng còn rất nghèo, có thể trước đây là
vùng chiến khu, cái nôi của đất thép thành đồng nên nhà nào cũng
có con em tham gia vào biệt động hay du kích để chiến đấu trong
hàng ngũ Việt cộng, nhưng khi hòa bình rồi vinh quang lại thuộc
về mấy tên đảng viên cao cấp tiếp thu Sài Gòn phồn hoa đô hội,
hưởng giàu sang phú quý do cướp chính quyền mà có được. Mấy o du
kích nhỏ bây giờ đã già, đất nước hoà bình, mấy o trở lại với
mảnh vườn miếng ruộng, hay ôm lấy nghề tráng bánh truyền thống để
khi trái gió trở trời đau nhức từng cơn vì mảnh bom miếng đạn còn
vướng víu đâu đó trên cơ thể. Sở dĩ tôi chọn Củ Chi vì tánh lương
thiện chơn chất của họ chưa bị “nhiễm mặn” với xã hội trời thần
đất lở ở thành phố, dân chúng đa phần đều hiền lành dễ thương và
dĩ nhiên họ cũng không biết tôi là ai cho đến ngày tôi theo chồng
qua Mỹ.
Hũ cốt
để lại thì hương tàn khói lạnh cũng thương cho anh ấy, mà đem đi
thì chắc anh cũng không thích vậy đâu, bởi vì mục đích anh chiến
đấu cho Công Bằng Tự Do của đất nước Việt Nam, nên dù chết thì
anh cũng phải chọn sự ở lại như một người lính đầy dũng khí.
Sau khi bàn bạc với gia đình bên anh,
tôi chọn ngày mang anh ra giữa sông Sài Gòn để tro cốt anh hoà
với phù sa đất Mẹ. Cát bụi xin trả về cát bụi.
Hãy ra đi thanh thản Tài ơi, mọi người
sẽ luôn nhớ tới anh như một anh hùng đã hy sinh vì Quê Hương Đất
Nước, và trong tận cùng sâu thẳm của trái tim em thì anh vẫn luôn
có một chỗ để nhớ để yêu.
Tôi có hai đứa con mà đứa nào cũng mồ côi cha rất sớm.
Khi thằng con trai đầu lòng được hơn
một tuổi thì bất hạnh xảy ra, vợ chồng con cái nhà tôi kéo nhau
vào trại giam không hẹn ngày về... Thật ra câu chuyện đáng buồn
này nếu nhìn theo góc độ nào đó cũng không có gì bi thảm, bụng
làm thì dạ rán chịu vậy. Bất cứ ai còn có tấm lòng với quê hương
đất nước khi nhìn thấy cảnh trái tai gai mắt, áp bức bất công xảy
ra trong cái gọi là Xã hội chủ nghĩa mà cộng sản miền Bắc xâm
chiếm và thống trị miền Nam sau ngày 30/4/75 thì cũng làm như
chúng tôi thôi, dù sự phản đối được thể hiện bằng cách này hay
cách khác. Vợ chồng chúng tôi bị bắt về tội phản động, nhà cửa bị
niêm phong và tôi chỉ kịp mang theo mấy gói gạo lứt Bích Chi cùng
ít khăn tã cho con... Ngoài ra tất cả đều mất hết, kể cả tính
mạng của chồng tôi.
Nhưng điều tôi ân hận nhất đời là phải
đẩy thằng bé vào trong hoàn cảnh khốn khổ này. Đêm Giáng Sinh đầu
tiên trong phòng biệt giam tăm tối ở một tỉnh nhỏ xa lạ ngoài
Trung, tôi nghe tiếng chuông nhà thờ đổ rất gần, tôi ôm thằng bé
đang khóc ngất vì đói sữa mà nát cả lòng “Lạy Chúa con là người
ngoại đạo, nhưng tin có Chúa ngự trên cao...” Tôi thành tâm cầu
nguyện theo cái cách riêng của mình để mong Chúa nghe thấy, nhưng
chắc Ngài cũng bận rộn với hàng triệu triệu con chiên đang khốn
khổ trong cái xã hội loi nhoi ngoài kia cần cứu rỗi hơn, nên bóng
tối vẫn phủ trùm quanh đây sự im lặng đáng sợ và tôi lại mơ đến
ông già Noel đầy huyền thoại của tuổi thơ. “Ước gì ông già Noel
là có thật để ông mang đến đây một bình sữa cho thằng bé nhà
tôi”.
Rồi
những năm tháng lạnh lùng trôi qua trong trại giam, chồng tôi bị
tử hình sau đó không lâu, con trai tôi qua những cơn sốt nặng
không thuốc men, thiếu dinh dưỡng, thoi thóp trong hôn mê kéo
dài... Để khi tỉnh dậy thì tay chân co rút và lưỡi líu lại, một
bác sĩ tù nào đó nói với tôi về di chứng của bệnh viêm não. Tôi
tuyệt vọng tưởng mình có thể giết chết đứa bé và tự tử để thoát
khỏi kiếp lưu đày. Nhưng khi nghe tiếng kêu thét đầy hoảng sợ của
con, tôi lại chùn tay bật khóc! Gương mặt ngây thơ của nó đáng
yêu biết bao nhiêu, tôi phải sống để giữ lời hứa với anh ấy là sẽ
nuôi dạy nó nên người, cho dù bây giờ hình hài nó không còn giống
như bao đứa trẻ khỏe mạnh bình thường khác, cho dù chúng tôi đang
sống trong sự trả thù hèn hạ của bên chiến thắng, nhưng tôi không
thể dạy nó lòng căm ghét kẻ đã giết cha nó, không thể dạy nó sự
oán hận cái xã hội đã đẩy người dân vào bước đường cùng. Chưa bao
giờ tôi kể cho nó nghe về sự thật đáng buồn của gia đình mình.
Tôi không muốn tinh thần nó bị tổn thương, chịu đựng một thân thể
khiếm khuyết cũng đủ làm đau nó cả đời rồi.
Nó chỉ là thằng bé tật nguyền lớn lên
ngơ ngác giữa núi rừng hiu quạnh, bệnh hoạn èo uột như rong rêu
bám vào cái lu mẻ ở xó hè, như bụi cỏ dại mọc trên bờ tường đá
quấn đầy kẽm gai sau trại. Cả tuổi thơ buồn thảm của nó chỉ biết
có Mẹ thôi, Mẹ là Trời là Đất, là nắng sớm là mưa chiều, là trăng
treo ngoài cửa sổ, là tiếng cú kêu thê thiết đêm sương lạnh...
Tôi gom hết những yêu thương dành cho nó, tôi cố đem những kiến
thức mà tôi có được để mong dạy cho thằng bé quen dần với đoạn
đời đầy gian khổ hôm nay, nhưng có lẽ nó quá nhỏ bé để cảm nhận
ra cuộc sống bất thường này, nên dễ dàng chấp nhận hiện tại trong
sự hồn nhiên đến xót xa. Mỗi ngày đối với nó đều là những trang
sách mới toanh với nhiều điều thú vị mà thằng bé ba, bốn tuổi đầu
như nó luôn hồ hởi phấn khởi để... nghe, từ một chiếc lá rơi bên
hàng rào hay hòn sỏi lượm ngoài bờ suối trong lúc đi lao động,
hoặc lông chim vướng ngoài bụi tre đều là những câu chuyện cổ
tích đầy sinh động mà tôi cố gắng tưởng tượng ra để làm quà cho
nó. Và dĩ nhiên hình ảnh ông già Noel tuyệt vời không thể thiếu
trong tuổi thơ tội nghiệp của nó.
Bắt đầu từ cánh thiệp Giáng Sinh của ai
đó gởi vào trại cho người thân, nhưng bị tên công an gác cổng ném
đi không cho nhận (liên lạc thư từ thăm hỏi đã khó khăn, huống
chi loại bưu thiếp xa xỉ của đế quốc) cánh thiệp nhàu nát lem
luốc bị gió cuốn vào đống rơm sau nhà kho và tôi cũng vội cuốn nó
trong vạt áo mang về. Đêm đó hai mẹ con chun vô mùng đốt đèn lên
để ngắm hình ông già Noel có hàm râu dài trắng như tuyết, mặc bộ
đồ đỏ chót và sau lưng vác một bao đầy quà. Tôi nói thao thao với
thằng bé như thể tôi đã từng gặp ông, từng được ông ôm vào lòng
và cho những món quà mà tôi đã viết thư xin ông trước ngày Giáng
Sinh hàng năm. Nhưng bây giờ thì khác hơn một chút, ông quá bận
rộn nên không thể đến thăm từng đứa trẻ được, chỉ cho quà những
bé ngoan nếu nó treo chiếc vớ ngoài cửa sổ trong đêm 24 tháng 12.
Trong đống đồ nhàu nát của hai mẹ con, tôi tìm thấy chiếc vớ len
cũ kỹ của nó hồi mới nhập trại, nó có vẻ thất vọng khi thấy chiếc
vớ quá nhỏ lại còn bị rách ở dưới gót, món quà có thể bị rớt
mất... Tôi đành phải cắt ống tay áo mình ra may cho nó cái túi ba
gang như trong truyện ăn khế trả vàng và rù rì với bạn bè chung
quanh xin ít kẹo bánh để dành làm quà cho nó. Ông già Noel đã hứa
như vậy mà. Đêm đó nó ngủ không yên, lâu lâu lại ngóc đầu nhìn ra
cửa sổ trông chờ...
Với tôi thời gian này là những khoảng
đời đau buồn nhất mà tôi phải chịu đựng trong cảnh tù đày khốn
khổ, nhưng có lẽ là niềm hạnh phúc của cả hai chúng tôi là được
sống bên cạnh nhau trong thời gian khá dài, khi mà những túng
thiếu đói kém đã trở thành chuyện bình thường trong mỗi ngày qua
đi cháo rau hiu hẩm, dù bệnh tật đã đày đoạ thằng bé đến kiệt
sức, có lúc tôi tưởng nó bỏ Mẹ theo Ba...
Nhưng ơn Trời! Nó vẫn sống sót đến ngày
rời khỏi trại giam. Một tổ chức nhân đạo của Thụy Sĩ đã làm hồ sơ
bảo lãnh và mang nó đi xa hơn, thoát khỏi gông cùm khắc nghiệt
của cái đất nước mà Ba mẹ nó đã chọn ở lại sau những ngày đen tối
đó.
Hơn mười
năm mòn mỏi tù đày, cuối cùng tôi cũng được thả về sau khi bỏ lại
cả khoảng trời thanh xuân tươi trẻ của mình trong trại giam. Ngày
về thênh thang đến trống rỗng, tôi không biết mình phải làm gì,
sống ra sao trong những ngày tháng tới. Mọi thứ đều thay đổi, xa
lạ khiến tôi như hụt chân chới với, cái cảm giác bơ vơ lạc lõng
trong thành phố thay tên lạ lẫm này làm tôi thấy mình cô đơn đến
tội nghiệp...
Con bé được sinh ra như một định mệnh trớ trêu, thật lòng tôi
không yêu người đàn ông ấy, nhưng tôi phải cám ơn anh ta đã cho
tôi một sinh linh bé bỏng này, nó đáng yêu biết bao nhiêu khi làm
thay đổi cuộc sống buồn tẻ của tôi.
Được làm Mẹ là một thiên chức cao quý,
trong hoàn cảnh này tuy buồn nhưng tôi thấy nguôi ngoai nhiều khi
mỗi ngày nhìn nó lớn lên hồn nhiên mạnh mẽ. Tôi cố gắng để trở
thành người phụ nữ đảm đang trong vai trò “Ba mẹ là bóng mát, che
chở suốt đời con”. Tôi trở lại giảng đường khi con bé vừa vô lớp
một, để sau giờ tan ca mệt mỏi, tôi lật sách ra đọc thì con bé
cũng ê a tập đánh vần, thế là ròng rã mấy năm trời hai mẹ con
“thi đua lập thành tích”, con bé cứ học sinh giỏi, học sinh xuất
sắc đều đều, còn tôi thì rớt dài dài mấy môn lịch sử Đảng...
Nhưng không hề gì, học để có chút kiến thức nhỏ nhoi trong cuộc
sống bon chen này, còn hơn chấp nhận sự thua thiệt vì dốt nát,
tôi vẫn thích tự đứng trên đôi chân của mình, dù mỏi đuối!
Dĩ nhiên ông già Noel cũng không thể
thiếu trong tuổi thơ êm đềm của con bé, khi thì hộp bút chì màu,
con búp bê hay cái áo đầm trong lứa tuổi mẫu giáo, lớn lên một
chút nó biết viết thư gởi ông già Noel để vòi quà thì tôi “gài
độ” thêm mức khen thưởng chăm ngoan cho nó “phấn đấu tiến bộ”. Có
năm nó còn vẽ bản đồ chỉ đường cho Ông già Noel qua phát quà cho
bạn của nó, vì hỏi ra trong cái xóm lao động nghèo này, không đứa
nào biết có Ông già Noel tồn tại trên đời. Để “củng cố” niềm tin
của nó, tôi lại tốn công gói thêm vài món quà để nửa đêm Noel chờ
tụi nhỏ ngủ mà treo lên cây trứng cá trước nhà. Có thấy được vẻ
mặt hí hởn của chúng nó khi nhận quà thì mới cảm nhận được sự cần
thiết của Ông già Noel đầy huyền thoại trong trí tưởng tuổi thơ,
tác động lên việc hình thành nhân cách của trẻ nhỏ, phải ngoan,
phải chăm học, phải biết vâng lời cha mẹ thầy cô thì mới có quà.
Và con bé tôi đã lớn lên trong niềm tin như vậy, cứ mỗi năm nó
lại gởi thư cho Ông già Noel, tâm sự vòng vo ở đoạn đầu và xin
quà ở đoạn cuối, thỉnh thoảng nó còn chê ông viết chữ khó đọc hơn
năm ngoái hay chỉ viết có mấy dòng khi bây giờ nó đã biết đọc rào
rào. Và tôi lại cố rèn chữ theo ý nó, viết lưu loát tình cảm
hơn... Cho đến năm nó lên 12 tuổi, một hôm từ trường trở về, nó
thủ thỉ với tôi “Tụi bạn con nói không có ông già Noel đâu, là Má
mày làm đó, nghĩa là sao Má?”
Tôi chợt khựng người bối rối, thật lòng
lúc đầu bịa ra câu chuyện Ông già Noel tôi chỉ muốn con mình vui
trong cảnh mẹ góa con côi, nhưng nếu sự dối trá là một điều không
thể chấp nhận được đối với trái tim ngây thơ, và niềm tin hồn
nhiên của con trẻ, thì có lẽ tôi cũng nên quỳ sám hối về những gì
mà tôi đã làm cho các con tôi trong tuổi thơ cô đơn bất hạnh của
chúng nó. Tôi ôm con bé vào lòng với niềm xót xa thương cảm “Ông
già Noel chỉ có thật khi ai tin vào điều đó, nếu con tin thì ông
ấy sẽ yêu thương con, sẽ ở bên cạnh con, cũng như Má vậy thôi,
con tin là Má luôn yêu thương con thì Má sẽ giữ mãi tình yêu đó
cho con.”
Thế
đấy, chuyện ông già Noel là có thật trong tuổi thơ của tất cả trẻ
em trên trái đất này, hàng năm bưu điện khắp nơi vẫn nhận đầy thư
gởi cho Ông già Noel, và họ cũng chuyển những gói quà đến các trẻ
nhỏ dưới nhiều hình thức khác nhau, để tạo nên mùa Giáng Sinh
lung linh sống động, biểu tượng Ông già Noel là hạt giống của
niềm tin, của hy vọng, của tình yêu thương không biên giới được
chia xẻ ấm áp, là trái tim nhân hậu, là tấm lòng bao la của cha
mẹ dành cho các con, cho dù khi chúng nó nhận thức rằng Ông già
Noel chỉ là sản phẩm tưởng tượng của người lớn, nhưng cả thế giới
không ai cảm thấy thất vọng về niềm tin hoang đường này, thật
lòng mà nói, có phải bạn cũng thích được nhận quà trong đêm Giáng
Sinh? Dù chỉ là một tấm card mỏng manh hay cái ôm choàng thân
tình của bạn bè, người thân. Sự ấm áp có sức lan tỏa kỳ diệu
trong cái lạnh giá của cuộc sống hôm nay. Hãy tin như vậy đi.
Switzerland–2015
Sài Gòn 1998
Sài Gòn 2001
Tôi
và nó bà con với nhau, nó con nhà cậu, còn tôi nhà cô, hai đứa
xuýt xoát vài ba tuổi nên chơi thân từ nhỏ, mỗi lần nghỉ hè thì
nó theo “mợ Năm” về thăm quê, ngang chợ Sóc Trăng, mợ luôn ngủ
lại một đêm với tôi lấy cớ đường xa nghỉ mệt, và lần nào vô mùng
mợ cũng ôm tôi muốn ngộp thở, tôi nghĩ là mợ thương cháu gái vậy
thôi. Sóc Trăng của tôi chẳng có gì để khoe với nó ngoài cảnh đẹp
ở “hồ nước ngọt” nên tôi rủ nó lội bộ ra đó đi thơ thẩn rồi về
ngang cầu Bon tôi đãi nó ly sâm bổ lượng, lần nào nó cũng ăn lẹ
để “lấn” qua nửa ly còn lại của tôi... Rồi hôm sau mợ xin Má tôi
dẫn luôn hai đứa vô Xẻo Gừa chơi, vì là “dân chợ” nên bọn tôi
thấy cảnh quê cái gì cũng lạ nên thích lắm khi theo mấy đứa hàng
xóm lội ruộng bắt cá lia thia đá chơi hay bứt cọng năng ăn cái
lõi trắng dòn dòn...
Lâu lâu thì Má tôi dẫn lên Sài Gòn thăm
bà con, nhà ai cũng nghèo chỉ có cậu Tám làm ăn khấm khá nhờ có
cái xe lam chở hàng bông đi bán dạo. Nghỉ hè cậu chở hết cả bầy
con cháu ra “Cấp” chơi, khỏi nói là đứa nào cũng náo nức để được
giỡn sóng biển xanh, đối với bọn tôi thời đó đi Vũng Tàu là một
mơ ước xa xỉ.
Cứ thế mỗi mùa Hè là dịp để bà con gặp nhau, tôi lên Sài gòn
nhiều hơn là nó xuống Sóc Trăng, hai đứa đi lang thang từ chợ cá
Trần Quốc Toản đến cầu Khánh Hội để chơi với đám con cậu Tám, cậu
Mười, nó lớn một chút nên cuối tuần theo cậu năm phụ hồ, để dành
tiền bao tôi ăn bò bía ở “Hồ con rùa”, ngược lại tôi cũng để dành
tiền ăn sáng để mua báo “Tuổi hoa” cho nó coi mệt nghĩ. Hai đứa
bàn luận chuyện trời trăng coi mòi tâm đắc lắm, mà lạ, nó luôn
tâm phục khẩu phục tôi trên bất cứ vấn đề nào. Có lẽ tuổi tôi hơn
nó, học giỏi hơn nó hay vì tôi là người con gái duy nhất biết
chia sẻ với nó những tâm tình của thời mới lớn mà nó tin cậy
được. Không chắc là tôi “thông thái” gì ở tuổi ăn chưa no lo chưa
tới, nhưng tôi siêng đọc sách và biết lõm bõm nhiều chuyện hơn
nó. Con gái bao giờ cũng lanh hơn con trai ở lứa tuổi này.
Tháng 4/75 tôi lên Sài Gòn trước khi
bãi trường vì bà Ngoại tôi đau nặng... Cả thành phố lúc đó như
muốn vỡ tung qua những bản tin chiến sự hàng ngày, nhưng tôi và
nó thì vô tư trước thời cuộc, cái thờ ơ của người ngoài lề khi
nghĩ đến chiến tranh đang xảy ra ở đâu đó xa xôi không dính tới
phố thị của mình. Thật tình tôi không có khái niệm gì về chủ
nghĩa cộng sản, về sự chiến đấu của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa,
về cái đúng sai của chế độ mà tôi đang sống. Tôi hoàn toàn mù mịt
đến ngu ngốc, thiên đường ngông nghênh của tôi là trường học, bạn
bè và những bướm hoa lãng mạn... Tôi sẽ buồn nếu ngày mai mình
không đến lớp được nhưng không biết rằng từng giây hiện tại có
bao người đã ngã xuống trong cuộc chiến kinh hoàng này để tôi
biết xót xa đau đớn...! Ôi, cái tôi vô tâm đáng trách.
Cả nhà “cậu mợ” tôi bình thản chờ đợi,
“Cậu năm” tôi nói “sẽ có Hòa bình, mọi người sẽ no cơm ấm áo”.
Tôi và nó đều ngơ ngác nai vàng...
Ngày 28/4/75 Tôi và nó đi vòng vo quanh
khu chợ xem người ta “di tản”. Thiên hạ ùn ùn kéo nhau đi đâu
không biết, xe cộ ngoài đường hối hả phóng nhanh, tiệm giặt ủi ở
đầu hẻm bỗng nhiên liệng ra đường từng xấp quần áo kaki còn thẳng
nếp hồ, ai cũng lo lắng khi chứa trong nhà những quân trang quân
dụng của lính... Tôi và nó lượm được hai bộ đồ bay, áo dính liền
quần với nhiều túi có dây kéo, để dành mặc ngủ ngoài sân gác,
trùm kín mít thay mền. Nó cũng thú vị khi ôm về một thùng giấy
trắng để dành đóng tập học, còn tôi thì nghĩ đến việc để dành
quay roneo mấy cuốn đặc san cho lớp... Vậy đó, tôi quanh quẩn
dưới đáy giếng của mình, hồn nhiên như rong rêu, củi mục lềnh
bềnh trên nước đọng, ngu ngốc dại khờ.
Tàn cuộc chiến, hòa bình đâu không
thấy, chỉ thấy Sài Gòn bỗng chốc hoang vắng tha ma, màu cờ đỏ rợp
trời như cỗ áo quan chói chang nhức mắt. Ngoại bớt bệnh và tôi
trở về phố nhỏ của mình trong một chuyến xe đêm khoắc khoải. Hình
như có cái gì đó vừa tan vỡ trong tôi, sự thất vọng hoài nghi về
một tương lai mịt mờ phía trước, Sóc Trăng của tôi xơ xác như vừa
qua cơn bão dữ, Thầy trò đến lớp bằng nỗi ngập ngừng dè dặt trên
mỗi bước chân quen, bạn bè nói đến tên một ông Thầy quay súng vào
đồng nghiệp kêu gọi đầu hàng và kéo cờ đỏ giữa sân trường sáng
ngày 1/5/75 khiến mọi người sững sờ, chết điếng. Cuộc họp đầu
tiên của trường Hoàng Diệu ở rạp hát Nguyễn Văn Kiển để nghe mấy
ông Quân quản nói thánh nói tướng về một thế hệ tuổi trẻ Hồ Chí
Minh, về thời đại quang vinh gì gì đó nghe mà phát chán. Cả bọn
chúng tôi bỏ về để nghe bước chân mình hụt hẫng chới với, dường
như có điều gì sụp đổ trong tôi.
Nhưng chuyện làm tôi bất ngờ sửng sốt
nhất trong cuộc đổi đời này khi biết được tôi và nó là chị em
ruột... Má tôi chính là Cô sáu, em của “Cậu Năm” bà không có con
gái nên mới xin tôi về nuôi khi còn đỏ hỏn, làm khai sanh cho tôi
lấy họ Trần của dượng, “Mợ Năm” nể chồng không dám cãi nên lâu
lâu chỉ biết ôm tôi chặt cứng trong mùng và tôi cũng hồn nhiên
rúc vào lòng “mợ” tìm hơi ấm cho giấc ngủ thơ ngây. Hèn gì...
Trong khi tôi vùng vằng khóc hết nước
mắt chia tay với Ba Má Sáu để về Sài Gòn “đoàn tụ gia đình” thì
nó vui ra mặt lúc đón nhận tin này, nó gọi tôi bằng “chị Tư” đầy
thân thiện. Mấy ngày đầu thấy tôi mặt mày ủ ê rầu rĩ tiếc nhớ về
Sóc Trăng một thời yên ổn đã mất thì nó lăng xăng lấy xe đạp rủ
tôi đi uống sinh tố, chở tôi đi đây đó đỡ buồn. Khi chạy ngang
trường Chu Văn An, nó than với tôi là bạn bè của nó ngày càng
vắng, không biết biến đi đâu. Tôi nói như hét “thì lên rừng đi
Kinh tế mới hay xuống biển vượt biên chớ đâu”. Không hiểu sao tôi
lại bực dọc cau có với nó. Chuyện giải phóng này đâu phải lỗi của
nó đâu?
Xã hội
mới xếp gia đình tôi vào loại “lớp nghèo thành thị” nghĩa là
thành phần nhân dân lao động không dính dáng đến “ngụy quân ngụy
quyền” nên cho nó tham gia vào đội đoàn nòng cốt của Phường khóm.
Nó đi họp ngày họp đêm về chính sách mới của Xã hội chủ nghĩa, nó
huênh hoang tự hào về lý tưởng, về chủ nghĩa vô thần của Mác
Lenin, người ta bơm thuốc trừ sâu vào cái đầu non nớt của nó “nào
là thế hệ HCM vinh quang, nào là tổ quốc nằm trong tay của tuổi
trẻ, v.v. và v.v.” khiến nó tưởng mình là dũng sĩ khi hăm hở tình
nguyện đi “nghĩa vụ quân sự” đợt đầu tiên. Ngày nó về khoe với
tôi là được kết nạp Đoàn, một danh dự cho thanh niên thời này,
tôi chỉ cười lặng lẽ khi nhìn con ngựa non háo thắng, không chắc
là vẻ vang gì đâu nhóc ơi. Tôi chưa biết gì về cộng sản nhưng tôi
biết từ ngày “giải phóng” đến giờ, miền Nam bỗng trở thành nghèo
đói, nhà nhà đều ăn bo bo, thực phẩm thuốc men cái gì cũng
thiếu... Vậy mà no cơm ấm áo cái nỗi gì, Xã hội chủ nghĩa chỉ là
viên thuốc độc bọc đường bằng những danh từ hoa mỹ, lừa dối lòng
dân thôi. Càng ngày nó như xa dần tôi với bộn bề “công tác”, tôi
mơ hồ nhận ra giữa chúng tôi có một khoảng cách vô hình.
Câu chuyện bùng nổ khi tôi phát hiện ra
cục phấn tròn vo trên tay nó “Ở đâu em có cái này?” nó cười khẩy
“Em bẻ trong tượng Phật ra”. Tôi hét lên như gặp ác quỷ, “Sao em
lại làm việc điên khùng vậy, bà Nội sẽ giận lắm nếu biết em đập
bể tượng Phật của bà để làm phấn viết bảng”. Nó nhởn nhơ trả
treo: “Phật thánh gì, chỉ là thạch cao thôi mà”. Thế là cuộc
tranh luận xảy ra giữa hai đứa về tín ngưỡng, về tôn giáo về chủ
thuyết vô thần của cộng sản duy vật. Tôi giận nó từ đó...
Ngày nó lên đường đi bộ đội cũng là
ngày tôi rời bỏ gia đình để dấn thân vào nơi nguy hiểm, tham gia
trong một tổ chức chính trị. Nếu trước đây Ba và các chị tôi
kháng chiến chống Mỹ thì bây giờ đến lượt tôi “chống kháng chiến
chống Mỹ”. Tôi viết cho nó lá thư ngắn nhưng đầy xúc cảm “Có thể
hai đứa mình sẽ đứng trên hai chiến tuyến đối đầu nhau, nhưng mãi
mãi chị vẫn là chị của em nhóc à!” Máu chảy ruột mềm, tôi nghĩ
mình sẽ không bao giờ bỏ rơi nó.
Mười mấy năm sau tôi trở về xơ xác
trong bộ đồ tù rộng thùng thình. Nó đón tôi tươi cười như hồi nào
đón tôi mới lên Sài Gòn “đoàn tụ gia đình”. Sự mất mát lần này
tuy nhỏ hơn lần trước, nhưng làm tôi đau âm ỉ cả đời. Năm 75 tôi
mất nước vào tay cộng sản, còn bây giờ tôi mất cả thời thanh xuân
trong “trại cải tạo” với mức án dài, chồng tôi bị tử hình vì tội
“phản động”...
Cho tới hôm nay nhắc lại chuyện buồn
này, tôi vẫn không ân hận về sự chọn lựa của mình lúc đó. Trong
một cuộc chiến đấu, thua thắng là chuyện bình thường, chỉ có điều
đau lòng là đứa con trai duy nhất của chúng tôi, mới hơn một tuổi
phải theo mẹ sống đói khổ bệnh tật suốt mấy năm trời trong trại
giam, tới khi được một tổ chức quốc tế can thiệp đưa ra khỏi tù
thì thằng bé đã bị tật nguyền èo uột vì suy kiệt...
Còn nó bây giờ có vợ đẹp con khôn, cửa
nhà êm ấm, việc làm ổn định. Coi như trong cuộc sống, nó đang là
người chiến thắng, còn tôi, tôi có cái tự hào của kẻ chiến bại.
Nó bỏ ra một đêm để kể lể cho tôi nghe nhiều điều về nó trong
thời gian xa vắng, nhưng tôi thì không, tôi im lặng trước những
bất hạnh của mình. Tôi có cái kiêu hãnh riêng tư, tuyệt nhiên
không đứa nào đá động tới chuyện cũ, tới bức thư “hai đầu chiến
tuyến” ngày trước. Mỗi người đều có mục đích để hướng về phía
trước. Nó cũng biết tánh tôi ngang tàng, gai góc, cứ lầm lũi mà
đi tới. Miền Nam mười mấy năm qua chắc nó cũng thấm đau khi nhìn
ra thực tế của cái gọi là cộng sản. Quả bóng lý tưởng của nó đang
xẹp dần bầu nhiệt huyết. Tuy không nói ra, nhưng chắc nó hiểu
những điều tôi hiểu.
Bước đầu trở về tôi sống tạm nhờ người
chị họ xa ở Bình Dương, nhà chị nghèo đông con, ăn uống thiếu
thốn, nó gởi tiền cho chị hàng tháng để lo cho tôi có nơi yên ổn.
Mỗi ngày tôi cố tìm việc làm, đọc báo thấy gần nhà nó có cần
người giúp việc, tôi vội vã đến. Chủ nhà còn rất trẻ, dân Bắc kỳ
75 đanh đá chanh chua, tôi cần tiền nên cũng dẹp tự ái để làm con
sen quần quật từ sáng sớm đến tối mịt mới ngả lưng nằm. Nhiều lúc
thấy tủi thân nhưng tôi phải tập cho mình lòng kiên nhẫn. Một hôm
con nhỏ chủ liệng cái quần lót từ tầng 3 xuống thau đồ tôi đang
ngồi giặt rồi cười hăng hắc vì “trúng mục tiêu” khiến tôi nổi
giận thật sự. Tôi chửi con chủ te tét rồi xách giỏ đi về, không
cần đòi món tiền lương hèn hạ của đứa khốn nạn. Đang đứng đón xe
buýt trở lại Thủ Đức thì tôi gặp nó đi làm về, nó ngạc nhiên khi
thấy tôi lang thang ở đây, nó kéo tôi vào một tiệm gần đó để ăn
và gặng hỏi mãi, tôi ấm ức kể cho nó nghe mọi việc. Nó cũng bực
bội không kém, đòi tôi chỉ nhà để nó mắng con chủ thêm một trận
nữa. Tôi nhìn nó tự dưng thấy nó vẫn y như “thằng nhóc” hồi nào,
bênh chị và bảo vệ chị khi ở xóm có đứa nào gây sự. Bây giờ thì
khỏi cần nữa rồi nhóc à, “chị Tư” làm đại bàng mà, cả xóm nghe
tôi tù mười mấy năm, ai cũng ớn, có người không biết chuyện phán
một câu “Con mẹ đó tội gì mà dữ vậy, chắc cũng giết người mới ra
nông nỗi!”. Nhớ hồi trong trại, cán bộ khai cung gằn giọng chỉ
vào mặt tôi “Giết một người là bị tội tử hình rồi, còn chị thì
ghê gớm hơn, chị âm mưu giết cả chế độ, tội chị xử bắn hàng trăm
lần cũng chưa đáng”. Tôi nhớ lúc đó mình đã cười phá lên khi nhìn
gương mặt “khẩn trương” của hắn “Có thật là tôi nặng tội đến vậy
sao?” Thật buồn cười những từ đao to búa lớn của cộng sản nghe sợ
chết khiếp!
Sau lần đó nó năn nỉ tôi về ở với gia đình nó, nhưng tôi từ
chối... Mấy tên công an phường lâu lâu kêu lên trình diện, hỏi
han này nọ về lý lịch trích ngang, khiến tôi ngán ngẫm. Ở không
được thì đi, mà đi đâu bây giờ? Tôi không có một phân vàng lận
lưng thì nói gì đến chuyện tìm đường vượt biển. Thời buổi nhất
thân nhì thế này dễ gì tìm một chỗ làm ổn định... May nhờ mấy
người bạn cũ chỉ giúp, tôi xin vào làm công nhân cho một xưởng gỗ
trên Bình Dương, ban ngày làm hai ca, tối về học thêm một khóa
hàm thụ, biết thêm chút chữ nghĩa cầu may. Nó mua cho tôi một
đống sách vở, ông Thầy cũ cho chiếc xe đạp, bạn bè có đứa đóng
giùm tiền học. Tôi ạch đụi chèo thuyền nước ngược mấy năm trời
mới lấy được cái bằng “học đại”...
Nhân buổi tiệc liên hoan của trường,
tôi đứng lên kể về thành tích “cua rơ xe đạp” của tôi suốt mấy
năm qua, từ Bình Dương đạp về Quận Nhất sau giờ tan ca để kịp vào
lớp học luyện thi, nhiều hôm trời mưa, xe cán đinh xẹp bánh, tôi
lết về nhà cũng đến nửa đêm. Tôi nhìn xuống cuối giảng đường thấy
gương mặt nó hân hoan chia sẻ, tôi đâu muốn rủ nó tới đây nhưng
nó cũng tới để tự hào về gương vượt khó của “chị Tư”. Tôi biết nó
xót thương tôi, nhưng nhóc ơi chuyện nhỏ thôi mà, giải quyết cơm
no áo ấm cho dân chúng trong cái Xã hội chủ nghĩa của nhóc mới là
chuyện lớn, hãy ngồi vào phòng họp với mấy tay Đảng Ủy để nói
thẳng với bọn họ rằng đừng lếu láo mỵ dân nữa, người ta chán cái
chế độ đầy sự giả trá bịp bợm này rồi.
Nói thì nói vậy, chớ tôi biết nó cũng
chỉ là tên đảng viên quèn trong cái thời buổi bát nháo lưu manh
giả danh trí thức, mua bằng cấp giả, bán hàng hóa giả, xài tiền
giả, nhơn nghĩa giả... thì mong gì có một tiếng nói trung thực
trong cái chung của cả nước, để đánh động lương tri những kẻ bán
nước hại dân. Bạn bè của tôi cũng vậy thôi, danh vị đảng viên như
cái nhãn dán bên ngoài nồi cơm của những gia đình không có dính
líu tới chế độ cũ nên còn chút cơ hội để vươn lên trong cuộc sống
bon chen này. Tôi biết nó cũng mang trong lòng đầy ắp nỗi thất
vọng, leo lưng cọp dễ gì leo xuống, nó thừa hiểu nghĩa của cụm từ
“thanh trừng nội bộ” là thế nào mà, nó chỉ là con mèo nhỏ trong
cái hang cọp đầy nguy hiểm, mơ ước bây giờ của nó là tiếp tục học
lên cao học, nó muốn ra nước ngoài...
Những năm tháng mòn mỏi khoắc khoải,
tôi vẫn chờ đợi cái gì đó xảy ra ở ngày mai, nhưng giống như con
đỉa sống dai nhờ hút máu động vật, cái chế độ cộng sản ác nghiệt
hút máu đồng bào này vẫn tồn tại nhởn nhơ mấy chục năm nay, không
biết bao giờ mới sụp đổ. Trong khi người dân đen sống dở chết dở
trong cái “xã hội ưu việt” này để làm giàu cho bọn tư bản đỏ phè
phỡn hưởng vinh hoa phú quý thì cuộc sống của nó, nhân viên kế
toán cho một công ty nước ngoài không phải danh giá gì nhưng
trong thời buổi người ta thiếu nhiều thứ mà nó đủ ăn đủ mặc, tiền
bạc đủ xài là ấm quá rồi.
Tôi thì trôi nổi lên tận Thủ Đức, dành
dụm mua được miếng đất cất nhà, tưởng sống yên thân, ai dè nhằm
khu giải tỏa, phường xã bẻ miếng đất ra dọc ra ngang gọi là lộ
giới, viện cớ đất mua giấy tay nên khó đền bù, tôi chỉ còn mỗi
cái nền trơ trụi vừa đủ cất mái nhà lá che nắng che mưa cho hai
mẹ con, (cũng nói thêm là ở tù về tôi bước thêm bước nữa, nhưng
bị đạp gai đau quá nên hai người chia tay sau đó vài năm, tôi lời
được đứa con gái 3 tuổi thỏ thẻ dễ thương, đối với tôi đó cũng là
cách giải quyết hợp lý nhất trong bước đường lênh đênh của mình).
Cuối cùng thì vận may cũng mỉm cười với
tôi khi gặp lại người Thầy cũ sau mấy mươi năm biền biệt, duyên
phận gắn bó chúng tôi thành vợ chồng, anh là người đàn ông rộng
lượng mà tôi có thể tin cậy để tựa vào vai... Sau ngày cưới, anh
ấy quyết định mang hai mẹ con tôi rời khỏi đất nước có quá nhiều
bất trắc đau thương này. Quá khứ là điều đáng buồn, tôi cần phải
ra đi, cho dù biết mình như đang trốn chạy một sự thật, giống như
người lính trận buông súng khi chiến trường còn nồng mùi khói
lửa, bỏ lại quê hương còn trăm nỗi nhọc nhằn.
Ngày tôi lên máy bay, nó ra phi trường
tiễn đưa bịn rịn, nó vẫn nắm bàn tay tôi thân thiết như dạo nào,
tôi thấy lòng rưng rưng thương cảm, có lẽ mình cũng nên quên đi
câu chuyện “hai đầu chiến tuyến” của thời chúng tôi còn trẻ, quên
đi những hận thù tủi nhục trong giai đoạn tù đày, quên những cái
đáng quên và nhớ những điều đáng nhớ trong suốt năm tháng đã
qua...
Cánh
cửa khép lại, tôi quay lưng đi mà còn thấy dáng nó đứng đó nhìn
theo, cái bóng đổ dài gầy guộc cô đơn...
Sau đó vài năm thì nghe tin nó mất vì
bệnh ung thư, ngày tang lễ nó tôi không về được cũng bùi ngùi
trong bụng, nhưng tôi biết nó luôn quanh quẩn theo tôi, trước kia
nó mơ ước được du lịch sang Mỹ cho thỏa lòng thì bây giờ với hồn
vía nhẹ tênh, nó sẽ bay được qua đây, không hiểu sao tôi lại hay
tin những điều có vẻ như hoang tưởng như vậy, nhưng sự thật nước
Mỹ là thiên đường của nó mà, “American dream” mà lúc sống nó
không thể vói tới vì quá muộn.
Câu
chuyện đã qua lâu rồi, tôi nghĩ mình sẽ không có đủ can đảm để
khơi dậy một vết thương đã liền da theo thời gian, dĩ nhiên nó
vẫn còn dấu thẹo đậm nét trong tâm hồn, mãi mãi khó nguôi ngoai,
nhưng may cho tôi là biết giác ngộ theo kiểu nhà Phật “Oán thù
nên cởi chớ không nên trói.”
Gần 40 năm trôi qua, tuổi đời đã già,
đã lớn, tôi nghiệm ra rằng chỉ có lòng khoan dung độ lượng mới
giúp ta thanh thản trong lòng, và tôi đã tha thứ cho họ, những
người cộng sản trong quá khứ của cuộc đời tôi, tha thứ những oan
nghiệt mà họ gây ra cho cá nhân tôi, bản án nặng nề đã giết chết
anh ấy và hủy hoại cả thời tuổi trẻ của tôi, nhưng điều đó không
có nghĩa là tôi chấp nhận chế độ cộng sản tồn tại trên quê hương
Việt Nam, sự áp đặt một chủ nghĩa sai lầm của họ đã và đang giết
chết cả một dân tộc, với bản tính độc tài tham lam, manh tâm bán
nước sau khi tàn phá một nền văn hóa có từ bao đời của cha ông để
lại của bọn vô thần cộng sản là một tội lỗi kinh khiếp mà lịch sử
Việt Nam sẽ đời đời nguyền rủa. Đối với chế độ cộng sản không thể
khoan nhượng hay hòa giải mà chỉ có sự tiêu diệt tận gốc rễ thì
mới giải thoát được bao hiểm họa mà dân chúng đang chịu đựng.
Câu chuyện của tôi kể ra chỉ để nguôi
ngoai nỗi buồn của một cá nhân trong giai đoạn đầy đau thương của
đất nước.
Khi
nói về cuốn sách của mình, thú thật tôi không biết phải mở đầu
như thế nào vì nó không phải là cuốn sách nổi tiếng bởi một tay
viết chuyên nghiệp trên văn đàn, nó mỏng mảnh nhỏ nhoi như số
phận của tất cả phụ nữ miền Nam sau ngày 30/4 đáng nguyền rủa ấy,
cuốn sách không phải là truyện tiểu thuyết dài nhiều tập hư cấu
ly kỳ mà là cuốn sách kể về nỗi buồn của chính tôi, và nó được
viết ra bằng nước mắt và lòng đau xót không nguôi. Nếu so với
hàng vạn câu chuyện viết sau ngày 30/4/75 về những gian nan trên
đường tìm tự do mong manh giữa cái sống và cái chết, hay hoàn
cảnh đau đớn khốn cùng của kẻ ở lại chịu đựng đòn thù trong các
trại giam suốt từ Nam ra Bắc đã không có ngày về, thì nỗi đau của
cá nhân tôi chỉ là hạt muối nhỏ không đáng vào đâu trong đại
dương mặn đắng của cả dân tộc đang oằn mình dưới ách cộng sản hôm
nay.
Cái giá
của Tự do quá đắt, so ra tôi vẫn còn may mắn để sống sót trở về
sau gần 11 năm trong trại tù cộng sản, có chăng là nỗi đau đớn
của sự mất mát, chồng bị tử hình, con tù đày theo Mẹ, sống trong
thiếu thốn đói khổ trăm bề, khiến thằng bé bệnh hoạn èo uột đến
tật nguyền. Tôi không bao giờ hối hận về tất cả những gì tôi đã
làm để chấp nhận dấn thân vào chốn lao tù, nhưng điều hối hận lớn
nhất đời tôi là đẩy thằng bé mới hơn 1 tuổi vào trại giam vì
không có sự chọn lựa nào khác.
Ơn trời, mọi gian khổ nhọc nhằn rồi
cũng qua đi, con trai tôi nhờ gia đình bên chồng can thiệp và tổ
chức Foundation của Thụy Sĩ mang nó ra khỏi trại giam sau 8 năm
sinh tử, dù muộn còn hơn không.
Và bây giờ thì tôi đang có mặt ở đây
trong một đất nước mà Tự do và Nhân quyền được tôn trọng để nói
với mọi người rằng, nếu có cơ hội làm lại từ đầu, chắc chắn tôi
vẫn giữ nguyên ý chí của mình là “Chống–Kháng–Chiến–Chống–Mỹ”,
chống bọn cộng sản chóp bu đang lãnh đạo đất nước mà hèn với
giặc, ác với dân, tham lam, quỷ quyệt... đẩy đất nước ngày càng
tụt hậu vì sự ngu dốt của họ đã khiến người dân trong nước phải
hứng chịu bao hiểm họa điêu đứng, xã hội rối loạn vì đạo đức suy
đồi, vô cảm. Chế độ cộng sản phải bị khai tử để cái chết của
những người như anh Trần Thắng Tài và bao anh hùng vị quốc vong
thân khác đã nằm xuống cho quê hương Việt Nam sẽ không phải là sự
hy sinh vô nghĩa.
Ngày Tháng Buồn Hiu không hẳn là của
riêng tôi, nó là nỗi buồn chung của một giai đoạn lịch sử mà
chúng ta cần phải nhớ như một kinh nghiệm xương máu. Lịch sử
không thể lập lại, chế độ độc tài Đảng trị phải bị diệt vong thì
dân tộc Việt Nam mới có cơ hội đứng thẳng để xây dựng đất nước
giàu mạnh tự do.
Cuốn sách này được in ra và tới tay mọi
người thân của tôi là cũng nhờ sự khuyến khích của nhiều người,
bạn bè Thầy cô trường cũ, thân hữu gần xa quý mến và sự động viên
chân tình của nhà tôi, anh Nguyễn văn Sâm người đã đưa tay cho
tôi nắm để tôi dũng cảm bước qua nỗi bất hạnh nửa đời người.
Xin gởi lời cám ơn đến tất cả bạn bè
quý mến, cám ơn anh – người bạn đời đến muộn đã giúp tôi nhận ra
chân giá trị của cuộc sống này.
9.
Phụ bản cuốn “Nhật Ký Mực
Tím”
Đây
là những suy nghĩ của cô học trò nhỏ nhìn miền Nam tả tơi sau
biến động 30/4/75. Xã hội chủ nghĩa đã biến đổi toàn bộ cuộc sống
của người dân và đẩy họ vào bước đường cùng của đói nghèo, áp
bức, bất công... Chân dung thật sự của bộ mặt giả trá cộng sản
trong thời gian cô có dịp “sống chung với lũ”, sự cảm nhận chua
xót phẫn uất mà cô không biết phải chia sẻ cùng ai trong nỗi cô
đơn thất vọng mà cô đã trải qua những năm tháng đáng nguyền rủa
ấy.
Cuốn nhật
ký được viết bằng mực tím của thời làm học trò lãng mạn mà văn
phong còn vụng về như viên sỏi thô thiển ném vào khoảng không tăm
tối, thật sự cô không hy vọng nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm
của địa đạo cộng sản hun hút phía trước, mà cuộc chiến đấu nếu có
cũng không chắc gì lật ngược tình thế khi dân quân miền Nam đang
sức cùng lực kiệt trong nhà tù rộng lớn của chế độ cộng sản.
“Nhật ký mực tím” được người thân
chuyển ra nước ngoài trước khi tác giả bị bắt và được in trong
Tạp chí việt Nam Hải Ngoại bắt đầu từ số 44 năm 1979 tại
SanDeigo, California.
Gần 30 năm sau, khi tôi đến Mỹ thì tạp
chí Việt Nam Hải Ngoại đã đóng cửa lâu rồi, trong lúc tôi không
biết tìm đâu ra nguyên bản “đứa con đầu tay” của mình thì anh Ba
Trí từ Paris bay sang gặp Ông Đinh Thạch Bích chủ biên của tạp
chí VNHN và lục tìm trong kho báo cũ của ông để copy lại tương
đối đầy đủ, đóng bìa màu tím và anh đã tặng tôi như món quà ý
nghĩa nhất trong ngày tôi đặt chân xuống vùng đất Tự Do. “Cây
thánh giá nặng nề trên vai em đã được gỡ xuống, hãy quên đi những
đau buồn đã qua để sống tự tin và hy vọng cho một tương lai tốt
đẹp hơn”.
Xin
cám ơn người anh đáng kính và Ông Đinh Thạch Bích chủ biên của
VNHN đã giúp tôi có được ấn phẩm.
Thêm một điều bất ngờ thú vị nữa là
cuốn nhật ký chép tay của tôi đã được một gia đình rất thân tình
cất giữ suốt 40 năm qua và nay đã trao lại cho tác giả.
Xin chuyển lời cám ơn với lòng trân
trọng quý mến đến gia đình Thầy tôi LVT đã giữ giùm quyển tập
mỏng đầy kỷ niệm này.
Tháng 6 năm 1975
“Người trưởng thành là người tự chọn
cho mình một lối đi – mà không phải do kẻ khác vạch sẵn” – Ta
chán nản buông cây bút xuống bàn, khi nguệch ngoạc dòng chữ ký
cuối cùng trong tờ khai sơ yếu lý lịch – do Ba ngồi cạnh bên đọc
cho viết – thế là hết. Đời ta sẽ gắn liền với mảnh giấy dễ ghét
đó. Không thoát được. Không thể chạy trốn đàng nào. Kẻ khác đã
vạch sẵn tương lai cho ta – và ta bất lực trong hành động độc
đoán đó. Điều này sẽ làm ta thất vọng ray rứt đến suốt cả đời. Có
thể vậy. Vì ta sẽ không bao giờ được trưởng thành. Vâng, mãi mãi
ta vẫn là một con bé yếu đuối trong “nỗi buồn nhược tiểu”. Chán
quá! Thấy mình chẳng quyết định được gì hết cho cuộc đời. Cứ lừng
khừng như rong rêu trôi dạt...
Ta chỉ khoái làm học trò ôm cặp vô tư.
Ta chả ham mần thư ký, thư cóp “sáng vác ô đi – tối vác ô về”
trong cái phòng giấy chật hẹp tù túng.
Thế mà “kẻ khác” vẫn cứ phom phom dí
vào mặt ta bản sơ yếu lý lịch:
– Con ghi vào đây những sự thật về tiểu
sử, về đời tư, về những quá trình hoạt động từ trước đến nay. Kê
khai họ hàng. Kê khai cha mẹ anh em. Đời sống gia đình giai cấp
xuất thân, v.v. và v.v.
Hai mươi phút ngồi lại để ghi chuyện
hai mươi năm. Ta nản muốn phát khóc với cái tên Lê Ngọc Ánh vô
duyên. (đến cái tên cũng do người khác áp đặt.) Biết nói cái gì
bây giờ?
Mọi
việc đều ngoài ý muốn, kẻ khác đã dành quyền định đoạt.
– Con phải học khóa kế toán tài chánh.
Con phải đi làm thư ký cho phường. Con phải dành nhiều thì giờ
cho công tác hơn là việc trau dồi văn hoá. Học thì cũng từ từ,
chầm chậm. Lo thực tế trước. Có tinh thần cách mạng trước vẫn
hơn, như bà Nguyễn thị Bình, nhà nghèo không có điều kiện đi học,
bà đi làm cách mạng trước, bây giờ bà đi khắp nơi trên thế giới,
nói hàng trăm thứ tiếng đó, có muộn màng gì đâu! Con nên làm theo
ý Ba, thế này... thế này...
Ta ngao ngán quá đỗi và cũng rầu rĩ quá
đỗi. Mấy ngày nay cứ lang thang đi chơi, chả biết người mình ra
làm sao nữa. nhu nhược thất vọng buồn bã... đủ thứ tâm trạng hững
hờ!
Trời ơi!
Giá biết thế, ta ở quách dưới quê cho rồi, dù gì ở đó cũng đỡ tẻ
nhạt hơn, cũng cảm thấy đời an ủi hơn. Bây giờ mới tiếc rẻ khi
rời xa thành phố nhỏ nhoi ấm cúng đó, tiếc mình đã dại dột khăn
gói trở lại Sài Gòn khó chịu này.
Mọi sự đã rồi, có vẫy vùng phản kháng
thế mấy cũng vô ích. Liệu mình có đủ can đảm thoát ly làm thân
ngựa hoang trên cánh đồng cỏ úa hôm nay không?
Nhớ tới hàng chữ ghi trong phần khuyết
điểm cá nhân “nhạy cảm và hay yếu đuối.” Vâng, ta phải tự thú như
vậy bởi vì ta biết khó mà ngoi đầu lên được trong dòng nước ngược
này!
Ngày... tháng...
Đi
học một khóa kế toán. Ngôi nhà rộng trên đường Trần Quý Cáp bị
tịch thu lại của chính quyền cũ. Nghĩ cũng tiếc của trời. Đúng là
số Vici đẻ bọc điều – tự dưng đầu hôm sớm mơi được mần chủ hàng
trăm ngàn ngôi nhà với đầy đủ tiện nghi, quả sướng thật!
Đồng chí Thầy là dân Nam bộ, tập kết
ngoài Bắc mới về, giọng nói bị pha trộn nghe deo dẻo như đôi dép
cao su của ông, câu chuyện cũng hể hả cởi mở. Một lớp có chừng
mươi cái bàn. Chừng năm sáu chục gương mặt đủ giới, sinh viên
Luật, Kinh tế, Văn khoa có, học sinh lớp 10, 11, 12 cũng có. Đàn
ông, đàn bà sồn sồn đủ dạng, mấy nàng thơ ký mặc áo bà ba, đi dép
bộ đội cũng ngồi rải rác trong phòng. Mỗi bàn là một tổ. Mỗi tổ
gồm 8 người. Bàn ta là tổ một, kê dưới cái quạt gió lạnh thấu
xương, tổ có hai thằng nhóc, ba đàn bà, ba con gái, ngồi kế bên
trái là chị uỷ viên kinh tài từ rừng cao su miền Đông chường mặt
ra, bên phải một nàng sinh viên Văn khoa năm thứ ba, nàng khoe là
cán bộ nòng cốt của đảng, bí thơ bí thở gì đó hoạt động nằm vùng
Sài Gòn – Gia định tỉnh bơ trong thời kỳ “Mỹ Thiệu”. Nàng xinh
xắn khả ái như thế mà đâu có ai ngờ, mấy hôm đầu thấy nàng tưởng
như muốn mê, vậy mà khi nghe nàng tiết lộ lý lịch trích ngang, tự
dưng nổi da gà. Ôi trời! Người đẹp ghê thật! Mỗi tháng vào bưng
học tập cứ như đi chợ.
Nhìn tới nhìn lui trong lớp thấy mình
chả giống ai hết. Việt cộng dày đặc. Việt cộng lền khên như bánh
canh, đông như bèo, như kiến. Lòng chán ơi là chán, ta phải làm
thế nào đây để tự cô lập ta?
Ngày... tháng...
Nghe thương bạn bè quá đỗi là thương
khi biết lúc này mình chợt mất mát nhiều quá. Nhìn mà không biết
phải lôi kéo thế nào để đỡ hư hao, để bớt vuột mất. Buổi sáng đi
uống cà phê với Sơn trong công viên “con rùa”, hai đứa kể về bạn
bè một thời còn rong chơi, rộn rã. Đọc thư nhỏ Hương viết từ Sóc
Trăng kỷ niệm, lòng bồi hồi nhung nhớ khôn cùng. Những lời trách
móc trẻ con, thứ ngôn ngữ đay nghiến nồng nàn đã khiến ta buồn
muốn khóc. Không, ta không quên cái thị xã êm đềm một thời tuổi
nhỏ, Sài Gòn chẳng làm nguôi ngoai chút xíu nào. Sở dĩ ta thích
đi chơi với tên Sơn vì ở hắn ta còn thấy được chút hồn quê trong
tình nghĩa bạn bè thân mật.
“Thời cuộc càng lúc càng dầu sôi lửa
bỏng. Đẩy mạnh tớ vào trách nhiệm không thể thoái thác. Chấp nhận
gánh vác là chấp nhận cái chết đeo đuổi – cầm bằng. Bây giờ còn
ngồi đây nói chuyện với cậu – Biết đâu là lần cuối cùng. Chúa
nhật tuần sau cậu chẳng còn nhìn thấy tớ nữa. Mạng sống tớ giờ
mong manh. Tương lai tớ thí vào ván bài định mệnh. Chuyện thế nào
cũng kết thúc. Tớ biết mình đang liều lĩnh. Nhưng ít ra khi nằm
xuống, tớ còn có cái hãnh diện của kẻ làm người – dù kẻ đó vô
danh. Bạn bè sẽ không còn dịp để chọc Sơn quắn, Sơn cận... Sơn
nào thì cũng đã mất rồi!...”
Điếu thuốc ngậm hờ trên miệng, cái môi
dưới trề ra khinh bạc. Cặp kính cận kéo xuống sóng mũi. Trông tên
bạn tôi già cỗi đến tội nghiệp. Thương ngươi quá Sơn ơi! Nhưng tớ
cũng ghét nghe cái giọng điệu như trăn trối đó. Nói bậy vừa thôi
chứ. Sao bi quan lắm thế. Tớ ích kỷ lắm, tớ không muốn mất đi một
người bạn nào của tớ, Thành đi Mỹ rồi, hắn là bạn trai mà dạo còn
đi học, tớ khoái cái tính khùng khùng của hắn. Trông hắn dễ chịu
với bạn bè hơn cả Sơn. Vậy mà hắn bỏ đi im lìm. Tớ cảm thấy tiêng
tiếc nao nao. Khi nghe hắn đã rời bỏ quê hương, Sơn mừng cho hắn
trong khi tớ tự hỏi bao giờ hắn mới được trở về với bạn bè ngày
cũ. Ôi, tên Tí quạu đáng yêu của nhóm Du ca Hoàng Diệu. Tết này
ai sẽ chạy Vespa chở tớ đi chơi. Ai sẽ là đầu tàu bao cả bọn đi
ăn uống tưng bừng? Ôi tên Thành tưng tửng đáng yêu của bạn bè!
Chuyện Sơn làm sẽ đưa đến con đường nào
không máu và đổ vỡ điêu tàn. Liệu có thành công không Sơn? Tớ chỉ
sợ nay mai mình sẽ mất đi một người bạn nữa. Đó là điều tớ không
muốn một chút xíu nào. Sơn, cẩn thận nghe Sơn!
Buổi sáng Sài Gòn trời âm u như sắp có
mưa to. Không khí thành phố chợt ngột ngạt đến kỳ dị. Sơn chở tôi
về con hẻm nhỏ, nghe tiếng thở dài mình yếu đuối, buồn hiu.
Ngày... tháng...
Lá thư của nhỏ Hai vừa gởi lên chiều
hôm qua, lá thư cầu cứu của con bò lạc bầy đang chán cánh đồng cỏ
úa, lời thư kể lể, thở than. Tự dưng nghe thương bạn bè vô cùng.
An ủi nhỏ như an ủi chính mình. Cố lên đi Hai. Tao đang gắng hết
sức để lôi kéo bạn bè. Hãy suy nghĩ kỹ trước khi lên đây với tao.
Tao đi làm rồi, lương có thể sống lây lất qua ngày. Bạn bè cứ rủ
nhau về hết Sài Gòn, khổ sở có nhau, tao không muốn đứa nào còn
nhọc nhằn lao đao trong cái tỉnh nhỏ đó. Sóc Trăng không còn là
của tụi mình. Quê hương đã giải phóng nên tụi mình phải đi chỗ
khác dung thân. Đừng buồn nghe nhỏ. Cố can đảm mà chịu đựng, mà
sống cho qua thời buổi khốn khổ này. Tao hiểu hoàn cảnh mày, Ba
mày đi tù nên mày cảm thấy chới với, hụt hẫng, mẹ mày nay đau mai
yếu và bầy em nheo nhóc bơ vơ... Tuổi trẻ chúng ta không thể ngồi
đó, khoanh tay than thở. Tuổi trẻ chúng ta cần phải làm một cái
gì cho hôm nay. Dù thế nào đi nữa thì mọi việc cũng cố đến ván
cuối cùng. Mày hiểu ra sao rồi chứ?
Im lặng bây giờ là một điều tốt, nếu
mày thích mày có thể bắt tay với bạn bè. Chúng ta sẽ đi làm cơn
gió nhỏ, hoặc thành trận mưa giông hay chỉ là làn khói mỏng. Thế
nào thì cũng phải có một lần. Suy nghĩ chín chắn đi để sau này
không trách mình lỡ lầm, dại dột.
Tao mong gặp mày cũng như mong thấy lại
nhỏ Hạnh, nhỏ Hương, tên Sùng, tên Kiệt... hàng chục khuôn mặt
bạn bè ngày cũ – hãy kéo hết tuổi trẻ đang loay hoay buồn nản ở
Sóc Trăng lên Sài Gòn kết bè kết lũ, một ngày mà bọn mình đều vui
hát, hoan ca.
Ngày... tháng...
Chị Tư biết thế nào rồi cũng có ngày
chị Tư sẽ mất Hùng. Mất từ trong trí tuởng ước vọng. Mỗi ngày
nhìn Hùng đi qua đôi mắt chị tin yêu – những bước chân hăng hái,
thần tượng, tuổi trẻ Hùng hăm hở tiên phong. Nâng dần những nấc
thang cao vọng tự mãn, trong khi niềm tin yêu trong chị đang đổ
dốc buồn rầu.
Chị biết Hùng đang cố tình xóa dần một lời hứa mà đêm nào “hòa
bình” hai chị em ngồi trên sân thượng trông xuống Sài Gòn rực rỡ
hoa đăng. Chị không trách Hùng vì chị đã tiên liệu được điều đó.
Viên kẹo ngọt đang ngấm dần trong lòng em sôi nổi. Làm thế nào để
bỏ nó ra khi miệng em ngậm lại đồng ý. Chị buồn nhưng chị phải
chịu đựng. Cố mà chấp nhận thử thách. Sự mất mát gây trong lòng
chị nỗi đố kỵ, nhỏ nhen, dù đôi lúc chị cũng muốn tỏ ra mình cao
thượng, khách quan nhưng thái độ cũng không tránh được vẻ hậm hực
vô lý. Chị biết bây giờ mọi chúng ta đều tự chọn cho mình một lý
tưởng riêng rẽ để đuổi đeo, tiếc là hai lý tưởng đó như mâu
thuẫn, như đối chọi lẫn nhau. Làm sao bây giờ hở Hùng? Chị Tư
muốn khóc khi gương mặt Hùng quay đi thản nhiên.
– “Biết đâu về sau Việt Nam lại chẳng
có hai lãnh tụ đã từng ăn chung mâm, đã từng ngủ chung gối”.
Ừ, đau đớn trớ trêu là thế đó, thú thật
chị cũng không thích như vậy một chút xíu nào, nhưng có lẽ chị em
ta đang bị đặt trước một hoàn cảnh khó mà thối thoát được phải
không em? Ừ, biết đâu về sau Việt Nam lại chẳng có hai lãnh tụ.
Chị cũng cố mà nghĩ như vậy nhưng sao buồn quá nhóc ơi!
Ngày... tháng...
Đi học tập, tại sao chị lại bắt buộc em
đi học tập? Tư tưởng em đâu cần ai cải tạo, đời sống em đâu cần
ai thay đổi. Đó là một lớp ai thích thì vào, không thích thì ra.
Thế thì tại sao chị lại nằng nặc gọi em chui vào cái lớp ngột
ngạt, cứng ngắt đó như những người của chế độ cũ bị bắt buộc đi
cải tạo tư tưởng. Hay là cách nói giáo điều sắt thép hơn “sự tẩy
não”. Học tập chính trị chỉ thích hợp với người cộng sản. Em là
học trò, không phải ngụy quân ngụy quyền theo kiểu nói phân biệt
đối xử, em không phải là cộng sản nên em không nhất thiết phải
học tập chính trị. Đầu óc em ra sao bấy lâu nay thì giờ vẫn dính
cứng như vậy. Mười Bác Hồ của chị sống dậy cũng không thể tẩy não
được em.
Chưa
ý thức đường lối cách mạng ư? Ừ, chị cứ kiểm thảo em như vậy đi.
Em nào sợ gì đâu. Đi làm về, suốt ngày đã mệt, chưa tắm rửa, chưa
ăn cơm, tối phải bắt đi học tập. Cách mạng con khỉ gì mà lợi dụng
sức lao động lắm thế. Em nói không đi là không đi. Chị sẽ đánh em
à! Em đã lầm lỡ để đất nước này vào tay Bác và Đảng, em đã dại
dột khi về ở với chị, với ba. Nỗi ân hận chưa nguôi thì làm sao
em có thể tỉnh bơ mà chịu đựng, mà thích nghi. Đời sống mới đầy
thành kiến khắt khe này khiến em luôn dè dặt, nghi kỵ, em không
thể tin Bác, tin Đảng, tin cái gọi là chế độ cộng sản thiên đường
hoang tưởng, mơ hồ của chị được. Chị giận thì em chịu. Ba có đuổi
thì em đi. Nhà này chứa toàn Vici, em không chấp nhận đời sống Xã
hội chủ nghĩa này. Em phản động. Em ngoan cố. Mặc em!
Ngày... tháng...
BẢN TỰ THÚ GỞI CHO BA
Thưa ba,
Khi con từ giã cô dượng Sáu lên Sài Gòn
thì tự lòng con đã có một quyết định dứt khoát: sống nhờ vả vào
gia đình trên này để tiếp tục học và vươn lên trong tương lai.
Hai tháng nay con đã cố hòa mình trong
đời sống mới này. Gia đình mà gần hai mươi năm không sống chung
đụng, gần gũi, tâm tính con khó mà biết được ra sao. Con không
quen cái tính hay cằn nhằn của má, cái vẻ soi mói thành kiến của
chị Hai, cái tính hời hợt tình cảm của chị Ba, sự thân mật không
tìm thấy của lũ em nhỏ.
Cách mạng của ba thành công, từ lâu nay
con không có tinh thần “xã hội chủ nghĩa” như chị Hai nên con
không yêu bác và đảng. Con không quen gia nhập vào đoàn thể này
hay phong trào kia. Có lẽ đầu óc con bấy lâu nay chỉ quen sống
ích kỷ một mình, cách sống đó con gọi là Tự Do và ba thì gọi là
vô kỷ luật. Bây giờ con đã về với ba, coi như con đã tạm chấp
nhận. Cái gì cũng từ từ, Ba muốn con làm quen với cách mạng thì
ba phải cho con thấy rằng cái gia đình này là nền tảng cách mạng
thể hiện tất cả những tình cảm thân mật, gần gũi. Má không phải
là “con yêu con ghét”, chị Hai không phải xem như là con “phản
động”, con “ngoan cố”, để khi sống trong gia đình này con không
mang mặc cảm con là tên “ngụy” mới về quy hàng.
Con đi học tập chính trị không phải vì
chị Hai rầy, vì Ba la mà vì anh bí thư chi bộ nói với con những
lời nhỏ nhẹ, dụ cho con thấy “bổn phận” khi con muốn làm cán bộ
của phường, điều nhỏ nhoi này đủ chứng tỏ với ba, con chỉ quen
ngọt chứ không quen cay, chị Hai đã bắt buộc con đi học tập nên
con không đi.
Khi về ở với ba, con không đòi hỏi gia đình chiều đãi con như hồi
con ở với cô dượng Sáu, con chỉ mong được tiếp tục đi học và nếu
có phục vụ cho guồng máy cách mạng của ba thì cũng không phải vì
lòng yêu nước mà chỉ để kiếm tiền tự nuôi thân, không phải làm
phiền nhiều đến gia đình. Con đi học và đi làm, hạn chế hết mọi
bè bạn vui chơi thuở trước. Con thực tâm muốn sửa đổi đời sống
thì ba cũng nên thông cảm cho con. Cách mạng hay hay dở là ở cách
hành động cư xử đúng đắn tử tế, con đi làm hay đi học vẫn giữ
đúng tư thế của con. Ba má đừng thành kiến nhiều quá. Dù sao con
cũng đã lớn rồi. Con đã ý thức được tất cả.
Con nói thật hết tâm trạng kỳ cục của
con để ba hiểu. Đó là những nguyên nhân đã khiến con có những
hành động ngang bướng với gia đình. Tùy ba suy xét cho con. Nếu
ba không đồng ý, con sẽ thu xếp về lại Sóc Trăng. Con muốn nói
thẳng mọi việc cùng ba như vậy, con xin lỗi Ba!
Ngày... tháng...
Ta đã ngủ một giấc ngọt ngào trong ngôi
nhà đó, bình yên và không mộng mị cho đến suốt đêm. Buổi sáng, ta
đi ăn với ba má Sáu, đi thăm lại trường lớp, bạn bè dù mọi sự đã
đổi thay. Buổi chiều, họp mặt dung dăng với lũ bạn thân yêu ngày
cũ, nói cười, tâm sự lao xao. Một ngày, ta đã sống trọn vẹn trong
thành phố thân yêu một thuở đó. Vui cũng nhiều mà buồn cũng lắm.
Dù hồn nhiên vẫn rộn rã, vui chơi vẫn đầy tay, thế mà tại sao ta
nghe như có cái gì vướng đục, tối tăm. Phải chăng trong thành phố
này, những con người đang trằn trọc băn khoăn về một tương lai mơ
hồ nào đó. Bạn bè ta, người thân ta như đang xoay trở mệt nhoài
trong thứ xích xiềng tù túng. Cảm tưởng như mình đã ích kỷ khi bỏ
đi, để lại đằng sau nỗi hụt hẫng tuyệt vọng của mọi người.
Những khuôn mặt nhăn nhó. Những lời kể
than vãn. Ta đã buồn đến ứa nước mắt khi nghe nói về thứ hách
dịch thô kệch quê mùa của “người anh em” trong vùng mới giải
phóng, bằng một thứ ngôn ngữ mai mỉa, châm biếm: “trình độ ngu
dốt còn cao” của các cán bộ du kích.
Bạn bè ta bất mãn, người thân ta chê
chán cho ta thấy rằng thời thế đã tạo nên những chú vua con ngớ
ngẩn lố bịch ngay trong thành phố của mình.
Tôi an ủi tụi nó như an ủi chính mình:
“Cố lên chúng mày, cố học và cố thi tháng 9 về hết Sài Gòn, bọn
mình sống dựa với nhau, ở đây ngột ngạt quá chừng rồi. Tớ hiểu và
tớ thương bạn bè. Dù tớ có nhiều thiện chí nhưng ở đây, cách tốt
nhất là mình nên im lặng và cố chịu đựng.
Gần 3 tháng rồi. Vậy mà thành phố vẫn
không tiến bộ nổi. Thật tệ! Vẫn có những tên du kích lạc hậu,
thành kiến, mở miệng ra là kiểm thảo, là phê bình. Vẫn có những
tên nhân viên nhà nước soi mói và tò mò vào cái tự do tối thiểu
của dân chúng. Vẫn có những quan lớn quan bé hách dịch với đám
người bị khép tội ngụy quân, ngụy quyền.
Tôi thấy thấm thía khi nghe tin mấy ông
thầy bị bắt vô trung tâm cải huấn cơ cực và đầy bịnh tật. Không
được đi thăm nuôi. Không được đi tiếp tế. Mặc mỗi cái quần đùi,
làm công tác giữa trời nắng chang chang. Những tên cán bộ chính
trị xỉa xói vào mặt:
– Các anh đáng tội hơn những tên ngụy
quân, ngụy quyền. Các anh đã đầu độc cả một thế hệ trẻ.
Người thầy giáo cúi mặt chịu đựng. Bạn
bè tôi uất ức phẫn nộ. Bố khỉ! Những thằng dốt lên mặt dạy đời.
Các anh ganh tỵ với giai cấp trí thức vì trình độ ngu dốt của các
anh gấp trăm ngàn lần họ, phải không?
Ta về Sài Gòn kể chuyện lại với ông
thầy cũ – ông thầy mà đầu óc từ ngày “giải phóng” đến nay chỉ xem
toàn truyện bằng tranh, với ý hướng xây dựng lý tưởng tốt đẹp huy
hoàng. “Bây giờ thì thầy đã hiểu tại sao em lại có thái độ phản
kháng hung hăng đó. Lỗi không phải ở em mà chính là ở những thằng
đầu sỏ ngu xuẩn và dốt nát đang nắm đầu nắm cổ dân chúng mà không
biết cách cai trị, không biết cách chỉ huy. Ở đây, tại thành phố
này người ta dạy em về chính nghĩa cách mạng, em đồng ý những xây
dựng tốt đẹp của họ đối với nhân dân, đất nước. (nếu quả thật họ
có chính nghĩa) Nhưng em tức là tại sao trong hàng ngũ lại có quá
nhiều những con sâu ngu ngốc làm mất lòng dân, gây chia rẽ giữa
quần chúng và chính quyền vì thái độ vụng về thô lỗ của họ, mà
biết đâu chính cái bộ máy thống trị cũng muốn lập lờ đánh lận con
đen trong chính sách chia để trị?
Em không phải là kẻ thích đi châm chọc
và phá rối đời sống của cả một đất nước, mà em muốn đi xây dựng
hòa vào dân để thấu đáo tâm tư nguyện vọng của họ, mơ ước của
đồng bào miền Nam nhỏ nhoi tầm thường như miếng cơm manh áo, họ
chân thật và khao khát sự tự do độc lập đúng nghĩa của một con
người.
Miền
Nam tôi đâu có đòi hỏi các anh phải dời sông lấp bể, gọi nắng kêu
mưa. Các anh đến đây, tưởng như mình là bà tiên, cầm chiếc đũa
thần gõ côm cốp trên bàn thờ Dân Tộc mở mắt ra, mọi sự đều đã xa
lạ, đổi thay. Và người ta phải ngạc nhiên tự hỏi ‘bộ tôi không
phải là tôi nữa hay sao?’ Người ta hoang mang hốt hoảng trước
những xung đột, mâu thuẫn giữa hai thời thế. Ai là ngụy? Mà ai
không là ngụy? Lúc này, em thèm được tỉnh – hoặc được điên. Đừng
dở dở ương ương như bây giờ. Khổ lắm thầy ơi!”
Ngày... tháng...
Đại biểu hai miền Nam Bắc mở hiệp
thương thống nhất đất nước. Nên mừng hay nên khóc đây? Thấy chưa?
Trung lập chỉ là một hình thức trấn an dư luận trong giai đoạn
đầu, một thứ lừa phỉnh chua cay nhứt, thành phần thứ ba chỉ là
con cờ chính trị, thậm chí họ không có danh vị để được đứng trong
hàng ngũ chóp bu của cái gọi là Trung Ương Đảng, mấy ông tập kết
về chắc đau cái vụ này khi những cái ghế ngon lành dành cho chức
vụ quan trọng hầu hết đều do miền Bắc chễm chệ lên ngôi.
Đồng ý nước Việt Nam là một, dân tộc
Việt Nam là một. Thống nhất Nam Bắc một nhà là điều hết sức đương
nhiên nhưng có thật là những người “đại biểu dân tộc” đó có nhiệt
tình yêu dân, yêu nước không? Hay chỉ là cái cớ để xâm chiếm miền
Nam theo chính sách độc tài đảng trị?
Ngày... tháng...
Tại sao ta lại có tên trong danh sách
kết nạp đoàn viên? Tại sao người ta cố ý chọn như vậy? Ta có thật
tình hoàn hảo với tiêu chuẩn “trung với Đảng, hiếu với dân, chấp
hành nghiêm túc mọi chủ trương của Bác và chính quyền cách mạng”
không? Hay ta đã từng ăn cơm quốc gia mà nhất định không thờ ma
cộng sản? Ta thấy bị vướng víu nhiều quá, những thói lề nội qui,
những tác phong nghiêm túc, sự “chỉnh chu” hoàn hảo đến khó chịu,
có cái gì đó ngứa ngáy lắm!
Nga bên phường ủy đã than thở “vào đoàn
tí là bị hạch thế này, tí là bị kiểm thảo thế kia. Lúc nào cũng
chực chờ bằng một giọng điệu gay gắt: ‘Đoàn viên mà thế này à!’.
Chán ghê!” Tôi cười khẩy “Ai biểu?”
Tôi bình thản nói với ba tôi về quyết
định không thích vào đoàn. Chị Hai tôi dẫy nảy gào lên:
– Bộ mày điên à? Được vào đoàn, bộ
tưởng dễ lắm hả? Phải phấn đấu bằng xương máu mới được kết nạp
chứ bộ ai muốn thì được sao?
Tôi lạnh lùng:
Vì em không tốn một giọt mồ hôi nào cho
công cuộc kháng chiến thần thánh vĩ đại của Ba và chị, nên em
không xứng đáng được làm đoàn viên.
Ba tôi giận dữ quát tháo:
Tư tưởng con vẫn còn ngoan cố con sợ
vào tập thể, con sợ sống với đám đông. Con thoái thác đủ chuyện
nếu con không muốn kết nạp thì con hãy xin nghỉ làm đi, Ba không
giải quyết được gì cho con hết. Con cứng đầu lắm.
Tôi nghĩ tới anh Tùng đang sống chui
rúc ở đâu đó để trốn cải tạo bởi vì anh khó mà thoát mạng với bọn
Việt cộng ác ôn này khi chúng biết trước kia anh đã từng làm tình
báo trong quân đội cũ, tôi cũng nghĩ tới cô dượng Sáu ở dưới quê
ngày đêm vất vả mưu sinh để lén lút tiếp tế cho con trai đang
chui nhủi như con trùn con dế dưới ánh sáng chói chang của mặt
trời đỏ quạch màu cờ cộng sản...
Con phải làm sao đây hở Má? Em phải làm
sao đây hở anh?
Tâm trạng xao động bối rối, cuộc sống
vây kín như thế này. Liệu mình có cố thủ được không? Tôi cảm thấy
mình cô đơn yếu đuối và muốn khóc quá!
Ngày... tháng...
Cái phường này càng ngày càng xuống
dốc. Tai tiếng từ trong nội bộ ban ngành mà ra. Phường đoàn kết
nạp bừa bãi, thiên vị phê bình theo chủ quan khe khắt. Danh sách
đề nghị kết nạp từ Ủy ban đưa qua, bị bác bỏ với những lý do mơ
hồ. Trời ơi! Cách mạng gì mà tệ quá, bè phái cá nhân nhỏ mọn, xấu
xí đủ thứ.
Không cần! Ta vái trời cho nó xóa tên ta trong danh sách kết nạp
đoàn quái gở đó, ta đâu thiết tha được vào cái tập thể hỗn độn
này đâu? Vậy mà tại sao bọn họ thích cổ võ quá vậy? Được vào đoàn
là danh dự, là niềm tự hào của tuổi trẻ... Nổ như kho đạn, có
quái gì trong đó đâu mà tự hào vẻ vang, không có ta trong vụ này
nhe, màu mè hợm hĩnh, ta chúa ghét thùng rỗng kêu oang oang, như
chiều nay khi đi chơi, lúc mặc chiếc quần xì–gà khá mode vào
người, con nhỏ Việt cộng chung phòng vội phê bình:
– Cán bộ cách mạng mà ăn mặc như vậy,
nhân dân sẽ đánh giá thế nào?
Ta cáu sườn ngắt lời Vi–Xi:
– Xin các đồng chí! Cán bộ cần phục vụ
tốt quần chúng. Cần hoàn thành tốt công tác. Cần có tác phong
đứng đắn khi làm việc, thế là quá đủ, còn ngoài ra đời sống riêng
tư, thì cũng phải cho người ta được thoải mái tí chứ! Đi chơi, ăn
mặc thế nào tùy thích miễn đi làm giản dị, khiêm tốn, không
chướng mắt mọi người là được.
Ta đi tơn tơn ra cửa để khỏi tay đôi
với nó, vậy mà con quỷ nhỏ vẫn cong cớn vói theo “chị đừng có tư
tưởng chủ quan thế không tốt.”
Cãi với nhỏ này tốn sức lao động quá,
giá mà được nện cho nó một trận thì đã tay, ta không thiết tha
được kết nạp vào đoàn nên ta không cần giữ ý với nó, mày tức thì
cứ đi báo cáo bí thư kiểm điểm, ta cứ mặc quần xì–gà và cứ tà tà
ra chợ chơi. Làm gì nhau nào!
Ngày... tháng...
Vấn đề kết nạp vào đoàn vẫn là một điều
khổ tâm, khó nghĩ. Làm sao bây giờ? Ta không có một lối thoát
nào, thật khó chịu với những “đồng chóe” mà ta đang phải sống
chung đụng, không thể chịu đựng được mấy con nhỏ bí thơ, bí thở
gì đó đã khiến ta ngột ngạt vì những hạch sách vớ vẩn, tí là dòm
ngó, tí là phê bình kiểm điểm, cái tập thể đáng ghét và chán
phèo! Vào đó để nhập bọn làm giặc à?
Tên Bảo kêu chuẩn bị tư tưởng để kiểm
điểm trước khi kết nạp, bị mụ Tuyết quay sơ ít câu để thăm dò
kiến thức chính trị. “Tư tưởng em chưa chuẩn bị gì hết. Chị đừng
hỏi em vô ích. Việc vào đoàn, theo em nghĩ, là một việc ắt phải
như vậy. Thú thật, em không hề lo sợ hay ngại ngùng khi biết mình
sẽ được vào đoàn. Chỉ giải thích rằng trước ngày giải phóng, em
không phải là đặc công nằm vùng hay giao liên thành phố hoặc ít
ra cũng là sinh viên đấu tranh, v.v. và v.v. chỉ vì em là con của
ba em nên việc vào đoàn, em biết chắc rằng trước sau gì cũng phải
vào đó. Rồi chị sẽ thấy. Em thật tỉnh táo, thật bình thản khi
tuyên thệ. Em chắc rằng mình sẽ không mảy may xúc động. Vì, thật
lâu rồi, em đang ở tư thế sẵn sàng và chờ đợi ‘Thanh niên kiên
quyết. Anh dũng tiến lên. Nhất định không sợ... Chó’”.
Mụ Tuyết cau mày khó chịu khi nghe ta
nói nhại lời thề thiêng liêng của Đảng “Em đừng có bôi bác như
vậy!”
Bây giờ
người ta hay dùng chữ bôi bác để thay thế cho từ thóa mạ, lăng
nhục thật buồn cười với ngôn ngữ cách mạng hổng giống ai! Ừ, có
lẽ ta nên dứt khoát tư tưởng là hơn, mà trông ta cũng giống cách
mạng đấy chứ, các “đồng chí” cũng thích dùng từ dứt khoát để
chứng tỏ mình giữ vững lập trường chính trị. Ôi trời, chắc ta
phải dứt khoát để dứt khoát cái vụ lằng nhằng này.
Ngày... tháng...
BẢN TỰ THÚ CON GỞI CHO BA LẦN THỨ HAI
Con biết. Con ích kỷ, con khó tánh. Cái
tôi cá nhân trong con bấy lâu nay đã đeo nặng trong người, khó
lòng dứt bỏ trong một sớm một chiều mà được. Con thấy mình khó
khăn, khổ sở khi bắt buộc sống trong một môi trường tập thể với
những khuôn phép tù túng mà con không tài nào dung hòa nổi. Trong
thời đại này, nếu con vẫn còn khư khư ôm lấy sự riêng tư vặt vãnh
của mình, con biết mình sẽ bị thiệt thòi, thua kém trong cái đại
đồng tập thể mà đời sống xã hội mỗi ngày một thay đổi. Nhưng con
không thể làm gì khác hơn được, ngoài nỗi thụ động, bởi vì không
có ai chịu khó hiểu con. Đối với gia đình này, con lại còn thụ
động hơn nữa.
Những biến cố lớn về chính trị. Những thay đổi trầm trọng của bộ
mặt xã hội đương thời, mọi việc xảy ra dồn dập, bất ngờ. Con chưa
kịp chuẩn bị gì hết. Đầu óc con hoang mang, dè dặt. Và con chỉ
muốn được yên.
Đừng ai bắt con phải thay đổi (nhưng
con không thể làm gì khác hơn được) dù chỉ là một thay đổi nhỏ
nhặt nhất trong đời sống hàng ngày. Con biết mình đã vô lý trong
thái độ gần như hậm hực ngoan cố đó.
Cách mạng xảy ra khi mà con đang sống
bình yên – trong sách vở, bạn bè. Biến cố “giải phóng” của Ba đột
ngột như tiếng nổ lớn làm chấn động đời con, như đã nói, bất ngờ
đến độ con chưa kịp chuẩn bị đối phó, tư tưởng con đang vương đầy
hình ảnh của một thời cũ, sự liên hệ mật thiết đã khiến con phải
xúc động bùi ngùi.
Theo ba lên Sài Gòn, đầu óc con như một
sự tính toán thực tế trút bớt gánh nặng cho cô dượng Sáu trong
thời buổi cơm áo khó khăn này, lên Sài Gòn để tìm cách tự nuôi
thân, để con có cơ hội theo đuổi cái mộng học lên cao của mình,
bước vào giảng đường đại học, tham gia công tác cách mạng như một
phương tiện nhằm thực hiện những tính toán đó. Con không hề nghĩ
là con đang làm một thanh niên có lý tưởng cách mạng để phục vụ
quần chúng, này nọ, mà thật lòng con chỉ nghĩ đến vấn đề thực tế
nhất, con đi để có cơm ăn. Vậy thôi!
Lúc mới bắt tay vào việc, con vẫn chưa
ý thức được trách nhiệm của mình. Ba làm cách mạng – ba sống
ngoài cá nhân con. Chị Hai sống ngoài cá nhân con. Chỉ có con
sống với chính con. Nên con không muốn suy nghĩ gì dài dòng hết.
Nhưng sau mấy tháng sống và thở trong
cái không khí tập thể đầu tiên đó, con có cảm thấy dễ chịu, thoải
mái. Dễ chịu, vì biết mọi người cũng như mình, cũng có một lối
làm việc hăng hái, tích cực và đầy thiện chí phục vụ quần chúng,
cũng có một cái nhìn nhận xét khách quan mà không hề ngụ ý tuyên
truyền hay chỉ trích. Con thoải mái vì nhận ra mình đang làm một
điều tốt và đúng, xã hội con đang sống tự dưng bị đói nghèo, cách
mạng đến lấy cơm gạo của họ và phân phát lại cho họ như kẻ ban
ơn. Ba có thấy kỳ cục không? Tự dưng con “được” đi làm cách mạng
để giúp họ, con có cơ hội tiếp xúc với mọi người để nghe và hiểu
họ như thế nào, con được trực tiếp bắt tay vào việc phục vụ cho
lợi ích nhân dân(?) dù chỉ là hình thức.
Làm việc ở Sài Gòn thấy hăng hái, thấy
phấn khởi bao nhiêu thì khi về Sóc Trăng con lại chán nản và bực
dọc bấy nhiêu. Mọi việc xảy ra trong tỉnh nhỏ với nhiều người làm
cách mạng mà không ra cái gì hết, là một chuyện không thể chấp
nhận được. Con đã thấy những cái sự thật đáng buồn trong thành
phố của con. Con đã nghe những lời than vãn xót xa đó của dân
chúng. Con bực dọc tự hỏi tại sao họ lại húng hiếp người dân quê
nghèo khổ?
Với
ý nghĩ đó, con chỉ muốn mình đứng hẳn vào tập thể, sẵn sàng đóng
góp để xây dựng lại cho tốt đẹp hơn. Điều này có nghĩa là con đã
ý thức được trách nhiệm cùng bổn phận phải làm của mình trong
buổi giao thời như bây giờ.
Có thích thì mới làm được. Có thích
cách mạng thì con mới dám tin mình làm cách mạng được. Còn ba,
thì ba không đặt niềm tin vào thiện chí đóng góp của con. Ba nghi
ngờ con nhiều quá, vì đàng sau bộ mặt quá khứ của con đã có sẵn
một lô thành tích mà ba không thể chịu được bất cứ điểm nào.
Ba nói đúng, con còn tự ái ích kỷ, con
sai lầm mù quáng, con phóng túng riêng tư thì con không thể làm
cách mạng được. Ba thay mặt cách mạng. Ba không chấp nhận cái đời
sống cá nhân vô lý của con. Và con chỉ thích làm việc với người
nào chịu đặt niềm tin nơi con. Bởi vì khi biết chắc có người sẵn
sàng tin mình thì con mới làm việc được.
Con là người rất thích tâm sự và thích
được cảm thông. Con không muốn mình phải giấu giếm gì hết. Chuyện
gì con cũng muốn nói thật. Bởi vì khi nói thật con sẽ thấy nhẹ
nhõm trong lòng. Bạn bè, thầy giáo, là những người con nói thật
nhiều nhất. Còn đối với gia đình, con ngại nói thật, là vì con sợ
những ý nghĩ, những hành động của mình sẽ không phù hợp nổi với
cha mẹ, với những bậc họ hàng lớn tuổi.
Những điều mà con nghĩ về cách mạng
trong suốt mấy tháng qua, con nhìn nhận là mình có thay đổi lập
trường, có thay đổi một chút xíu đời sống cá nhân, có thay đổi
một chút xíu cảm nghĩ về tư tưởng mới. Chính những cái chút xíu
đó đã chứng tỏ con đang cố gắng nhích từng bước để đi đến chỗ hòa
hợp với gia đình, với xã hội. Nhưng, lạ một điều, là tại sao mỗi
lần nghe ba nói là con lại mang cảm tưởng không đẹp với cách
mạng? Có thật cách mạng cũng gò bó và khe khắt như ba nói không?
Bao nhiêu cái hăng hái mà con đã tạo dựng trong mấy tháng nay
chợt biến mất.
Ấn tượng về đời sống tập thể sắp tới đã
khiến con chùn chân. Bao nhiêu là khuôn khổ bao nhiêu là kỷ luật
cứng ngắt mà ba đã thẳng thắn đưa con nhìn vào thực tế! Thú thật,
con ngại quá! Liệu mình có chịu đựng nổi hay không? Hay nửa chừng
lại giở thói thụ động, buông tay? Con nghĩ giá như ba đừng nói gì
hết, ba cứ dẫn con đi, chừng gặp trở ngại gian nan nào thì mặc
con thấm thía cái khó khăn đó, tự con khắc phục lấy lâu ngày rồi
cũng quen đi. Tình cảm tập thể sẽ tạo cho con môi trường sinh
hoạt thuận tiện nhất.
Lần kiểm điểm đầu tiên như một lời tự
thú, con ngại ngùng khi phải sống trong tâm trạng của kẻ có tội
đối với xã hội (mà thật lòng con đã làm gì nên tội khi con không
phải là ngụy quân ngụy quyền nợ máu với nhân dân như cách mạng
của Ba đã khép tội họ và ba đã khép tội con?) con chưa lần nào
gặp phải trường hợp lạ lùng này. Thái độ và sinh hoạt của gia
đình nói riêng, cũng như của xã hội bây giờ nói chung, vô tình đã
làm cho con có sự so sánh. Và thú thật, giờ chót của buổi kiểm
điểm, con chỉ muốn sống lại khoảng đời bình thường cũ. Bởi vì, từ
khi ba vạch rõ sự thật mà con đang tưởng tượng sẽ dấn thân vào,
con cảm thấy mình không đủ khả năng. Con yếu đuối khi phải sống
một mình một ngựa đối phó với bao nhiêu điều mâu thuẫn trong
lòng. Con phải dứt bỏ không còn manh giáp cái đầu óc cũ kỹ của
con. Con phải sửa đổi lại tư tưởng, phải làm lại cuộc đời mà
trước đây mình đã lầm lẫn, lạc lối. Thú thật, con ngại quá! Con
không thích sự thay đổi, không thích sự xóa bỏ, dù một xóa bỏ nhỏ
nhặt nhất.
Con
vẫn muốn là chính mình chứ không phải là ai khác, ba đừng đóng
con trong cái khung Xã hội chủ nghĩa của ba như trái cây vú ép,
chín sượng chín sần hay như trái bầu trái bí bỏ vô cái gọng để
rồi nó chỉ được lớn nhỏ rập khuôn cố định cho ba sản xuất đại
trà, có thể trái nó lạ, nó đẹp theo kiểu mẫu nào đó nhưng nó vẫn
là bầu bí đúng như bản chất nguyên thủy của nó.
Ngày... tháng...
Chuyến xe hàng lắc lư. Câu chuyện gật
gù với hành khách ngồi bên cạnh để ngăn cơn buồn nôn mệt mỏi, đứa
con gái chỉ nghĩ nhiều đến buổi gặp gỡ sắp tới với gia đình bè
bạn. Trời chạng vạng tối chiếc xe ném tôi xuống với đống hành lý
ngổn ngang trên ngã ba đường vào chợ. Ngoắc chiếc xe lôi đang
chạy tới.
–
Vào hẻm 3 đường Bố Thảo bao nhiêu đó chú?
– Trăm rưởi.
– Trăm đi.
Gã xe lôi nhăn mặt:
– Trả giá chi cô ơi! Nói hổng phải tả
oán, chứ giờ này nhà tôi còn chưa có hột gạo nữa kìa.
Con đường đá gập ghềnh. Mặt đứa con gái
bắt đầu tươi tỉnh:
– Sao, chạy xe khá hông chú? Hòa bình
rồi mà. Đói sao? Tình hình dưới này dễ thở lắm không? Tết nhứt
thế nào?
Giọng
gã xe lôi vẫn não nuột:
– Khá gì được mà khá cô ơi! Lo chạy gạo
từng bữa muốn hụt hơi, gạo phải đăng ký mua từng lít có bữa không
mua được ăn, đói dài dài mà Tết nhứt cái nỗi gì? Có nghẹt thở
cũng hổng dám hé môi than thở với ai. Làm dân bây giờ kẹt đủ thứ.
Có miệng mà nói hổng được mới tức chớ cô!
Chiếc xe lao đi như nỗi lòng hậm hực
của chủ nó. Đứa con gái vẫn giữ nụ cười cởi mở trên môi, giọng
thân thiện:
–
Trong khung cảnh lờ mờ tối thì rán chịu đựng chớ biết sao bây
giờ? Thời buổi này chỉ biết thông cảm nhau mà sống. Mà hình như ở
địa phương đầu óc người ta đâm ra hẹp hòi thiển cận, cứ thành
kiến kín bưng phải không chú? Nghe nói ở địa phương, mỗi cán bộ
là một ông trời con mà. Thảo nào dân chúng họ “phản ánh” quá
chừng thấy sốt ruột!
– Vậy mà hổng ai dám hó hé hết cô ơi!
Bắt đi học tập cải tạo là có nước bỏ vợ bỏ con, giải phóng gì mà
dân khổ quá trời.
Xe lôi ngừng trước hẻm nhà, nắm tay gã
xe lôi thân mật:
– Thôi, đừng buồn. Rán sống cho qua
ngày nhe chú! Mình đang ở thế kẹt mà. Lấy hai trăm mua gạo cho
con. Dù gì cũng ăn Tết với người ta.
Nụ cười gã héo hắt như mếu:
– Cám ơn cô.
Ngày... tháng...
Buổi tối phải đi thăm lại bạn bè, thăm
lại phố xá Sóc Trăng. Thay đồ, chải tóc trong nỗi nôn nao như
ngày còn trẻ (mà mình đâu đã già nua, mới tròn hai mươi mà, có lẽ
cách mạng đã khiến mình thấy như còm cõi...)
Con đường giữa chiều hăm chín Tết mà
sao vắng vẻ đìu hiu, “giải phóng” hơn nửa năm rồi, dân chúng đói
muốn chết mà lòng dạ nào ăn tết, mà rộn ràng lân pháo đón Xuân
sang.
Ta gặp
lại vài khuôn mặt bạn bè cũ, Sùng vẫn ngồi ở góc đường nhà Võ,
đăm chiêu nhả khói ngóng trông nhỏ Hương vẫn chưa về. Tí Cồ vẫn
còn cồ trong nụ cười có khóe răng vàng hớn hở “bạn bè hôm qua
ngồi nhắc về cậu, mình biết thế nào cậu cũng về mà, làm sao cậu
bỏ Sóc Trăng cho đành.”
Ừ sao quên cho đành, nhớ tiếng đàn
Guitar của Sùng trong nhóm du ca “xin chọn nơi này làm quê hương
dẫu cho khó thương”. Tụi mình còn có lựa chọn nào khác được đâu?
Quê hương bây giờ khó thương thiệt rồi khi thấy cái nón cối xanh,
đôi dép râu nhan nhản trên khắp nẻo đường Việt Nam.
Ngày... tháng...
Ngủ một giấc no nê, sảng khoái. Sáng Má
vào giường vỗ đầu con gái “Dậy đi con. Dậy uống cà phê sữa”.
Nằm mê cũng thú mà thức dậy cũng thú.
Ước gì thời gian cứ dậm chân tại chỗ mãi nơi đây, cho ta sống
hoài trong cái hương vị của mùa xuân ấm áp bên gia đình như thuở
nào.
Nắng quá
nhưng vẫn thích đi thăm lại bạn bè. Đến rủ Võ lại nhà Kiệt. Tội
nghiệp cậu Út, trưa đổ mồ hôi phải cong lưng đạp xe chở ta lên
tận nhà máy nước, đứng thập thò trước cổng thấy Kiệt mặc xà lỏn
đang cầm chổi quét nhà lia lịa, khi Võ dựng xe thì hắn ngẩng đầu
lên reo vui “Ủa! chị mới về.”
Ta với Võ nhìn hắn cười khúc khích
“Thưa thầy, em đi chơi ạ!” Trông giáo Kiệt khỏe ra, nghe Quan nói
Kiệt ở trỏng mần lớn lắm hả? Vừa hiệu trưởng, vừa giám thị, vừa
thầy giáo, thầu hết phải không? Sao, học trò dễ dạy không?
Cũng được, giáo viên vùng sâu vùng xa
mà chị, học trò có thằng đứng gần bằng tôi, công việc thì khỏe
lắm, muốn cho học trò về giờ nào thì về. Lúc đầu bà con cho ở
trong nhà hổng tốn tiền, về sau thì đều đều mỗi tháng không thiếu
một đồng, quê quá! Ơ, mà chị ở Sài Gòn về hồi nào? Sao thằng Quan
biết tôi ở trỏng cà? Lâu quá, tôi cũng chưa gặp nó. Hổng biết bây
giờ nó ra sao nữa? Ờ, mà chị ở Sài Gòn có nghe cái vụ lộn xộn
đánh nhau bên cầu chữ Y không?
– Không. Tớ ở bên Chợ Lớn xa thấy mồ.
Chuyện gì xảy ra ở đâu cũng như điếc, nghe gì!
– Quên, xin lỗi nhe. Tôi lẩm cẩm như
ông già quê trong chỗ tôi dạy học. “Cháu biết thằng Minh không?
Thằng Minh cũng đi học nữa. Cháu biết Tư Mập không? Tư Mập quen
với bác, buôn bán ở Sóc Trăng đó! ‘Trời ơi! Ổng tưởng chợ Sóc
Trăng nhỏ bằng cái xóm quê của ổng. Chút nữa tôi cũng quên chợ
Sài Gòn của chị bằng cái thị xã của tôi... Chưa gì mà lấn đất
giành dân rồi, thị xã cũng của tớ nữa chớ.’”
Tiếng cười giòn giã, hồn nhiên. Câu
chuyện mỗi lúc một “líu lo như con cò gáy” đủ thứ chuyện trên
đời, từ vụ nhỏ Chuôn, nhỏ Thắm ra trường đổi tuốt về vùng sâu
vùng xa vì cô thân cô thế, con gái lần đầu xa nhà sợ gần chết,
lội ruộng thì sợ đỉa đeo, leo cầu khỉ thì sợ té mương, ngồi cầu
cá vồ thì mắc cỡ... Đám con gái tan tác mỗi nơi bon chen kiếm
sống, Phượng thì lên Sài Gòn bán cơm, Nhung thì hồi nào làm tiểu
thư con nhà quan bây giờ nghe đâu buôn vải lậu, quấn mấy thước
katé quanh bụng, len lỏi trong chợ huyện bán kiếm lời.... Thương
bạn bè ta cực trần thân, gian khổ!
Kiệt kể về nghề giáo bất đắc dĩ của
mình giữa chốn đồng không mông quạnh, mỗi lần đi họp kiểm điểm,
cười lắm kìa! Nhà cất ở giữa khu đất trống, chung quanh là sông
nước mênh mông. Họp 2 giờ, chèo ghe tới cũng 4 giờ, chờ tụ lại
đông đủ bà con xa gần cũng tới 6 giờ để nghe ông xã trưởng báo
cáo: “Các cháu biết hôn, Bác Hồ dạy rằng, vì lợi ích 10 năm trồng
người, vì lợi ích 100 năm trồng cây...”. Chời ơi! Nản muốn chết!
Ha ha! Cũng như Thông tấn xã Sóc Trăng sáng chiều ra rả trên loa
phóng thanh um sùm: “Chúng ta phải tiêu diệt tận gốc tệ đoan xã
hội, xì ke ma túy, ma cô ma cậu, chúng ta phải ‘cải chánh quy tà’
chúng, như chúng ta đã bài trừ bọn ‘tư bản mại sản’, do bọn ‘xê
xê a’ và bè lũ phản động kết cấu với thế lực đen tối âm mưu gây
‘gối’ cho chúng ta...”
Những tràng cười rú lên sau mỗi câu
nói, đúng là ngôn ngữ chói tai của thời giải phóng, họ nói như
vẹt mà không hiểu gì hết, cứ khoái dùng đao to búa lớn cho người
ta hết hồn!
–
Vui quá. Bạn bè họp lại vui quá. Tớ về đây lòng mừng khấp khởi, à
quên phải nói là “hồ hởi” chứ, những ngày ở Sài Gòn lông bông lêu
bêu nhớ bạn bè, mơ ước được trở lại, được gặp mặt ít ra cũng có
một lần đông đủ cả bọn, từng gương mặt học trò ngày trước, những
hình ảnh thân thương kỷ niệm của năm tháng đến trường. Tớ về đây,
lòng như mở hội. Vui ơi là vui...
Định tổ chức chiều nay họp bạn, nhưng
không kịp chuẩn bị, sợ bạn bè tụ lại chưa đủ hết, thôi thì để
mùng một mùng hai gì đó cũng được. Miễn có họp vì mùng ba tớ đã
đi rồi. Về trong vội vã hấp tấp, đi làm thấy bó buộc đủ thứ, tớ
chỉ muốn ở đây hoài, bạn bè làm tớ suốt đời bịn rịn mãi thôi.
Câu chuyện đang vui, chợt như có cái gì
đó nao nao. Kiệt chặt lưỡi, lắc đầu:
– Sao càng ngày tôi càng thấy buồn chán
thêm hơn. Chị xem: hồi xưa, hồi tám tháng về trước mỗi lần gặp
chị, gặp tụi nó, tôi đều chạy vào nhà mặc quần dài, áo rộng đàng
hoàng, còn bây giờ, chị thấy không? Tôi mặc cha nó cái quần ngắn
tiếp chị, tại vì... buồn quá!
Câu nói thiệt tình tự nhiên của Kiệt
làm tôi bật cười, cười đến ứa nước mắt được.
– Ừ, hồi xưa, hồi tám tháng về trước,
hồi còn đi học, hồi đó đó... Trời ơi! ngôn ngữ của bạn bè tôi sao
mà sầu thảm vậy! tưởng như thời gian nào đã xa lắc xa lơ trôi qua
đời sống chúng tôi rồi bỗng chốc ngập ngừng lắng đọng.
“Mỗi ngày nhìn đời mình chết đi”. Nghe
thương bạn bè quá đỗi là thương, mới thuở nào làm học trò xôn xao
rộn rã, những khuôn mặt ngơ ngác hồn nhiên tung tăng đùa phá ngất
trời, vậy mà bây giờ mỗi đứa một nơi tứ tán tha phương, sống đời
du mục. Tuổi trẻ chúng tôi sớm chiều như dòng sông phân nhánh,
trôi dạt đó đây mang theo những rác rưởi u buồn, chợt thấy như
mình già hơn, cô độc hơn trong nỗi nhung nhớ ngậm ngùi.
Cúc đi dạy. Kiệt đi dạy. Chuôn, Thắm đi
dạy. Phương đi làm. Hà đi làm. Chính, Nhan đi làm, trong cái tỉnh
nhỏ chật hẹp này tương lai chỉ được định đoạt đến thế, giáo viên
cấp 1 trường ấp trường làng, thư ký ngành thương nghiệp, hay tệ
hơn nữa, về cuốc đất trồng khoai như Sơn, như Võ, ngày qua ngày
rời rã lặng câm.
Võ quay đầu xe ở trước cổng bệnh viện.
Buổi trưa, khu bệnh viện im lìm. Tôi bước đến bậc thềm bằng tiếng
guốc lao xao, gõ cửa nhè nhẹ, thấy Thầy Thiếp khuất đằng sau lưng
cô “A em đó hả, vào đây.” Tôi xúc động ngồi xuống cạnh giường.
– Thầy, em có nghe tin thầy mới ra...
– Ừ, cũng hơi lâu rồi. Còn em, về từ
bao giờ?
– Dạ
chiều 28. Ở trong ấy thế nào thầy? Mấy tháng trước em có về Sóc
Trăng một lần, chạy xe với Lộc lên khu nghĩa trang liệt sĩ để
mong tìm mấy thầy làm cỏ mà không thấy. Lộc nói có vào thăm thầy
và thầy bảo thầy đang ở tù. Em hỏi ra sao. Lộc bảo em chờ thầy
về, thầy sẽ nói “ra sao” cho em nghe. Bây giờ thầy nói cho em
nghe đi thầy!
Giọng thầy Thiếp cười lớn như khỏa lấp một ám ảnh nào đó:
– Ở tù thì có gì để nói đâu em.
Cô Thiếp đỡ lời chồng:
– Người ta gọi nhà tôi là tù, chứ nhà
tôi có xưng mình là “tù” đâu! Chính họ gọi thế mà “danh sách tù
binh, bọn tù, đi thăm tù”, thế chẳng tù là gì?
– Nghĩa trang liệt sĩ trên quốc lộ 4 đó
hả? Tôi cũng “được” lên đó 2 lần. Mừng lắm chứ! Được ra ngoài
trời, được nhìn thấy con đường liên tỉnh. Được có dịp gặp vợ con
lên thăm. Vui lắm chứ! Ở trong ấy, tôi với thầy Tráng nhắc em
hoài, có thầy Thừa là trông thê thảm, nhiều khi yếu đến độ cầm
cây cuốc bổ xuống đất không nổi, run run muốn chúi đầu, mồ hôi vã
ra phải ngồi phệt xuống đất trông thật tội. Tôi phải làm giúp để
ổng thở. Thầy Thắng ra muộn là kể như liệt luôn, chân ổng đang
khập khễnh đó!
– Có ghẻ không thầy?
– Làm sao mà tránh khỏi! Tôi cũng bị sơ
sơ, bây giờ hết rồi. Ông Thừa, ông Thạnh vẫn còn trong ấy...
– Trong ấy sống thế nào Thầy?
– Cũng ăn cũng ngủ bình thường nhưng
mới vô phải học thuộc bản nội qui trước đã, trong điều thứ 6 của
bản nội qui, có chỗ tức cười lắm. Thầy nào đọc qua một lần cũng
nhớ rất rõ “Khi gặp cán bộ, bộ đội, nhân viên nhà nước đi qua,
hãy lột nón ra, đang cầm gì trên tay phải bỏ xuống đất đứng im
cho đến khi người đó đi qua hẳn mới được cầm lên”.
– Chắc họ sợ bị đập vào đầu chứ gì?
Ông Thiếp cười ha hả trong khi tôi nhăn
mặt:
– Em nghe
nhiều câu chuyện như vậy sao mà bực mình quá, càng thấy giận điên
lên được với chế độ thù hằn ác độc này. Họ muốn người ta chết dần
chết mòn trong tù đày.
– Có gì mà bực mình em, theo tôi thì
thoải mái lắm, phải thay đổi không khí chứ, cứ tưởng tượng ngày
qua ngày hai buổi đều đặn đi dạy năm này qua năm khác, không có
gì xảy ra cũng chán. Tôi bây giờ khỏe lắm được nghỉ dạy ở nhà nấu
cơm, giặt quần áo cho vợ con, thảnh thơi nằm suy nghĩ chuyện đời,
bảy hôm đi trình diện một lần không được xuất tỉnh, không được
vắng nhà ban đêm, tối tối xuống ông Thừa nói chuyện chơi rồi về,
cũng vui...
“Vui lắm”. “Khỏe lắm”, “Thoải mái lắm”. Tự dưng tôi nghe có cái
gì chua chát, mỉa mai trong tiếng cười ha hả, khỏa lấp đó.
– Về lần nào em cũng nghe thấy những
điều trái tai gai mắt. Em không hiểu tại sao họ lại có thể làm
như thế được, họ căm thù miền Nam của mình đến như vậy à?
– Tôi thấy có gì đâu em. Tại em suy
nghĩ nhiều quá đó thôi.
– Có lẽ vậy em biết thầy cần được yên,
thầy cần được nhắm mắt ngủ quên cái đời sống thay đổi này, còn
em, em không thể chịu được, em cần phải làm một cái gì đó như ý
nghĩ ray rứt không nguôi của bạn bè em. Tuổi trẻ chúng em không
muốn ngồi yên, khoanh tay thụ động để nhìn thời gian đi qua giết
chết lần mòn cuộc đời mình. Thầy ơi! Chúng em chỉ mới mười tám
đôi mươi.
Ngày... tháng...
Bữa cơm nào ở Sóc Trăng cũng đều ngon
hết, thịt cá ngon, bạn bè thân mật, không khí gia đình ấm cúng
thoải mái, nên ăn mãi mà chẳng thấy no.
Tối nay là Giao Thừa, tôi mở tủ ra ôm
hết sách vở báo chí, tranh ảnh thư từ vào phòng, bật đèn lên xem
xét nâng niu từng kỷ vật, đọc lại vài trang nhật ký ghi vội trong
sổ tay, xem mấy cuốn báo Xuân cũ của trường Hoàng Diệu, tờ đặc
san Giao Cảm học trò. Lật lại từng trang Album những hình ảnh nhí
nhố xao động.
Kìa! Tí khùng đang nhai bánh mì ngồm ngoàm trong cuộc họp ban làm
tờ Giao Cảm đầu tiên trên Hoàng Thị, hình Sùng cười thật tươi với
mái tóc bờm xờm “như anh híp–pi trẻ, mặc áo rách đứng bên nhà
thờ”, nhỏ Hương trong cặp kiếng cận nổi nhất đám đang ngồi cắn
hột dưa với Chuôn, Rảnh. Tí cồ bị một lũ con gái xoắn lấy hành
hung trên lan can nhà nhỏ Nhan, này hình nhỏ Hai nhỏ Tú hồi còn
đi học ngây ngô, hình Trí Hiền ngày em chưa hoàn tục với áo dài
lam và cái chỏm tóc vắt bên tai, hình Quan, Hiền hai tên đứng
cứng đơ như tờ khai gia đình, hình của Võ ốm yếu xì–ke, Sơn mặc
quần sọc như Charlot, Kiệt nhăn nhăn như Vương Vũ...
Đặc san “Sỏi đá trổ bông” của nhóm Du
Ca với bài của Nhã Thụy Quan “chưa đầy hai mươi”, thơ tình lãng
mạn của “Sóng Bạc Trùng Dương” trong “còn một chút gì”. Bài “tự
thú” của N.H. Tâm, bài “Đừng bán văn chương” của Kali Kiển, bài
của Hương áo trắng Nguyên Anh.
Ôi, một thuở huy hoàng vàng son được
làm học trò áo trắng. Nhớ quá, thương quá, kỷ niệm sống dậy mãnh
liệt lúc này. Như một nhân vật trong tác phẩm của văn hào quốc tế
nào đó, khi về già, chống gậy leo lên sườn núi, nhìn xuống thung
lũng xanh thẳm dưới chân, bàng hoàng mơ về một thời trai trẻ dũng
mãnh ngồi trên lưng ngựa phóng vun vút xuống đèo, qua suối, mạnh
mẽ kiêu hùng.
Quá khứ bao giờ cũng làm người ta ngậm ngùi vì mớ kỷ niệm dằng
dặc trong đó, kỷ niệm của ta quá đẹp nên cứ khiến lòng ta ray rứt
không nguôi khi nó bị mất đi.
Một vài tiếng pháo nổ khởi đầu, rồi
từng loạt ngắn, rồi hàng loạt dài, thi nhau ầm ĩ, thị xã như chợt
bừng lên trong đêm tối. Giao thừa rồi đó ư? Tôi cứ tưởng thời
gian đã chết cứng ở đây, lắng đọng thành kính như không khí ngát
mùi hương tưởng nhớ đang im lặng vây quanh căn phòng bé nhỏ này,
vây quanh lấy tôi quấn quít âu yếm. Cô bạn nhỏ vừa đi trở lại khu
vườn đầy hoa năm cũ. Gió vẫn dịu dàng cây vẫn xanh màu lá, hoa
bướm vẫn nhởn nhơ, và trái tim tôi rộn ràng như thời mới lớn.
Giao thừa rồi đó sao! Ba má đang đốt
nhang đèn trên bàn thờ ông bà, tôi thay chiếc áo dài trắng, cảm
xúc lây trước ngọn nến lung linh, mắt Ba ngầu đỏ, không biết vì
khói hương hay vì thương nhớ xót xa cho thằng con biệt xứ, ngoài
sân, tiếng nức nở của Má thật thấm thía chạnh lòng. Trời ơi! Sao
hòa bình rồi mà tôi vẫn phải xa con? Tại sao người ta cười vui
sum họp mà gia đình tôi lại phải khóc chia lìa? Trời ơi! Bao
nhiêu người còn ngồi trong những trại giam đón giao thừa nhớ cha
nhớ mẹ, nhớ vợ nhớ con mà có kẻ vui sướng sao đành? Trời ơi!!!
Tiếng súng lẫn với tiếng pháo ầm ĩ, hỗn
loạn. Không gian như muốn vỡ tung ra. Lửa đạn vùn vụt trên không.
Hỏa châu sáng rực, lững lờ rồi tắt ngấm.
Tôi ngồi đong đưa võng ngoài sân dưới
cây anh đào bông trắng xóa, muốn hát một bài ca nào đó để nguôi
ngoai, mà sao không nhớ nổi. “Đêm nay hòa bình sao mắt mẹ chưa
vui, Mẹ hãy ra xem đường phố ngập người...” Đầu óc cứ tắt ngấm
như pháo bông. Tai tôi đã điếc rồi sao?
Vào giường cứ thao thức, trăn trở trong
giấc ngủ muộn màng, tiếng pháo thưa thớt rồi cũng lặng im.
Giao thừa đã qua đi, đêm vẫn còn dài để
tôi chờ đợi một điều gì đó xảy ra, một điều gì đó thật khác
thường như tiếng depart của đại bác 105ly, hay tiếng súng M16,
một tiếng nổi dậy ùa vỡ. Tôi chờ đợi, cũng như bạn bè tôi đang
chờ đợi.
Qua
đêm. Trời vẫn câm nín vô tình.
Ngày... tháng...
Phố xá mùa Xuân tưng bừng, tâm lý người
nghèo mà, một năm có 3 ngày Tết, phải tươm tất một chút dù nợ nần
vây bủa lung tung, con nít thì khoái áo mới và tiền lì xì, còn
người lớn thì cần xả hơi cho suốt một năm áo cơm túi bụi. Đám trẻ
trong quê kéo nhau ra chợ xôn xao hồn nhiên, trong khi lớp già
thì vẫn còn đau âm ỉ trong lòng nỗi buồn đất nước, loa phát thanh
ngoài thị xã ra rả bài ca giải phóng “Mùa xuân này về trên quê
ta, khắp đất trời biển rộng bao la... vui sao nước mắt lại
trào...” Khóc hận hay vui thì mỗi người thấm thía theo một
cách...
Vài ba
khuôn mặt lâu ngày gặp nhau. Long, Võ, Văn, Thu, Kiệt, Sơn, Hạnh,
Ánh... Cả bọn chở nhau ra quốc lộ 4 uống cà phê, cười nói lao xao
rồi về. Nhỏ Hạnh hỏi:
– Mày thấy sao?
– Không vui. Không buồn. Chỉ có gặp bạn
bè mới thấy thoải mái, dễ chịu hơn.
Chiều tối, ra phố với Kiệt, Hương, Hà,
Nhan, Tường, Loan, Định, Sơn, Sùng, cả bọn nhắc nhở đến một người
bạn đã mất hút Thành và ngày vui năm cũ “Hoa đào năm ngoái còn
cười gió đông”. Tí quạu của bạn bè giờ ra sao? Cả bọn nhớ ngón
tay cụt ngo ngoe đón Tết của hắn năm nào...
Sơn hằn học về chuyện phụ thu lúa mùa,
thu hoạch được bao nhiêu gom hết vào cái gọi là Hợp tác xã rồi
chia theo chế độ “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Bà mẹ
nó, mình làm ra mà nó chia, tức hông. Đồng bào đang chết dần
trong sức lao động của họ, trên miếng đất cầy vỡ, đẻ ra cơm áo xã
hội. Người dân đã quen chịu đựng và sẽ còn chịu đựng dài dài
trong nỗi nhẫn nhục bất lực, họ đổi nhọc nhằn, đổi giọt mồ hôi
lấy thành quả bồi đắp cho quê hương sau chiến tranh đổ nát... Lao
động là vinh quang mà, nếu quả thật lý tưởng Xã hội chủ nghĩa là
thiên đàng thì cũng rán bò lên, đằng này mỗi ngày qua đi mọi
người như thấy mình bị đọa đày lún sâu trong địa ngục.
Ta thấy tuổi trẻ mình bất tài, yếu đuối
hay tại ta mặc cảm thua thiệt?
Tối mồng một, họp mặt nhà Cúc, tiếng
đàn Sùng dìu dặt, giọng hát Nhan nghẹn ngào, “Đêm nay hòa bình
sao mắt mẹ chưa vui? Hãy bước ra xem đường phố ngập người... Đêm
nay hòa bình mắt mẹ buồn như Kinh... Lời kinh đêm trong căn nhà
nhỏ... đèn thắp thì mờ...”
Nhạc Trịnh Công Sơn chắc chỉ đúng trong
tâm trạng của chúng tôi lúc này, khi nhìn mắt bạn bè tôi đỏ hoe,
cả bọn ngồi im như mặc niệm những tháng ngày tuyệt vời đã qua,
ngoài kia bóng tối phủ đầy...
Đêm về nằm trăn trở giấc ngủ muộn màng,
có cái gì đó trong tôi thao thức, rưng rưng. Ngày qua nhanh và
chúng ta sẽ còn lại gì?
Bò qua giường Má ôm chặt bà để cố dỗ
giấc ngủ như trẻ thơ, mà sao nước mắt chảy dài thầm lặng, xót xa.
Trong đêm, con tắc kè kêu não nuột, từng tiếng rã rời buồn hiu.
Ngày... tháng...
Ghé thăm Cô Tráng để nghe những tiếng
nấc nghẹn đầu năm. Ta chợt tức giận, cay đắng ngập lòng. “Người
ta mắng chúng tôi như mắng chó: ‘– Đồ lì như bò, đã không cho
thăm mà cũng thăm, mấy người không quấn khăn tang là may rồi, một
lũ ngoan cố tránh ra ngay’. Nhẫn nhục thương chồng thương con
nhịn ăn nhịn uống, gởi tiền cho anh ấy được ba nghìn. vậy mà anh
không nhận được. Tức không?”
“Em yêu, anh vẫn mạnh khỏe, anh vẫn
bình thường. Lao động làm anh thoải mái hơn. Ở nhà, rán giữ gìn
sức khỏe của em và các con. Nhớ đóng cửa kín lại mỗi tối; tháng
này lạnh lắm, kẻo cảm. Đừng gởi gì cho anh cả. Anh đủ dùng
rồi...”
–
Thầy! Em biết bức thư này là những lời nói dối, em biết thầy
thiếu đường của đời sống, thiếu đèn cầy của đêm tăm tối, tù đày.
Thầy, cơn giận nghẹn cứng, lòng em sôi sục căm hờn, em phải làm
gì đây Thầy ơi.
Ngày... tháng...
Ba bốn thằng xúm nhau vây lấy ông già
đánh đấm, chung quanh gánh rau tung tóe, rơi vãi. Tụi nó có súng
dài, súng ngắn, ông nông dân tay không, thấy cảnh trái tai gay
mắt mà nóng mặt, sôi máu, tôi vỗ mạnh lên vai thằng du kích xã:
– Chuyện gì?
– Ổng đòi chạy xe qua cầu. Không cho
ổng cự.
Ông
già xin được dắt chiếc xe đạp chở mấy bó rau qua chợ bán, thằng
du kích đuổi không cho với lý do gì đó, nó xô ngã xe rau chổng
gọng, ông già tức tối cự lại. Nhà nước chửi lộn với nhân dân. Và
sự việc xảy ra...
Sự phẫn nộ bất bình khiến tôi xông tới
chỉ mặt bọn họ mà nói như thể tôi là Chủ tịch xã uy quyền.
– Các anh có thừa lời để giải thích nhã
nhặn với dân, các anh không thể có hành động thiếu tác phong như
vậy, nhìn mọi người đang bu quanh xem hành động của các anh kìa,
thật tệ! Các anh làm như vậy không có lợi cho chế độ cách mạng
của các anh đâu.
Mấy tên du kích nhìn ta ngờ ngợ, trong
cảnh tranh tối tranh sáng này vàng thau lẫn lộn cũng dễ thị uy,
dù ta là ai đi nữa thì làm được gì nhau? Quan vội vã kéo tay cô
bạn đi, hai đứa lặng thinh trên suốt con đường làng.
– Ánh! Quên chuyện hồi nãy đi.
Đứa con gái bực bội:
– Cái quân chỉ giỏi tài húng hiếp dân
lành.
Về tới
nhà hãy còn ấm ức, tội nghiệp Quan hắn đã kéo ta đi, không biết
chuyện gì sẽ xảy ra nếu ta còn đứng đó với bọn du kích xấc xược
và khẩu súng AK trên tay lăm le.
Tại sao chúng ta lại có thể im lặng
trước những cảnh chướng ta gai mắt diễn ra hàng ngày trên quê
hương “giải phóng” như vậy, mọi nhu cầu hàng hoá thiết yếu đều do
nhà nước quản lý, ai mua bán đều bị hạch sách phạt vạ, buôn lậu
gì với vài cân thịt heo, năm ba gói thuốc lá, mươi ký gạo... Cái
vốn liếng nghèo nàn chắt chiu không chắc đủ để mưu sinh cơm áo
gia đình trong một ngày tần tảo, vậy mà có lúc bị “hốt” trắng
tay! Đau lòng ta muốn khóc!
Ngày... tháng...
Họp bạn trước sân nhà, trăng non thanh
bình trong không gian yên tĩnh, nhưng sao ta vẫn thấy trong lòng
bất an, mơ hồ như mình sắp đi xa lắm, cái cảm giác bị đánh mất
một góc trời hồn nhiên chim sáo của ngày hôm qua làm ta chợt
hoảng hốt vu vơ... Biết sao giờ khi ta nhỏ nhoi giữa cuộc đời dâu
bể.
Gặp nhau
lần này chỉ có Kiệt, Võ, Quan, Nhan, Chuôn, Hạnh, Dung, Lộc, Sơn,
Minh. Cũng còn thiếu vài khuôn mặt bạn bè, có đứa chắc đã đi xa.
Vài cái mứt, cái kẹo bên tách trà Blao nóng hổi, câu chuyện từ
đầu đến cuối vẫn giòn giã tiếng cười. Thời buổi này vô tư thoải
mái được lúc nào hay lúc đó, chắc gì tụi mình còn có cơ hội nhí
nhố bên nhau như hôm nay.
Cả bọn nắm chặt tay thân tình bịn rịn.
– Thôi giã từ, mai tớ đi rồi các bạn
ơi!
Vòng xuống
phố một lần chót. Đưa Nhan, Dung, Chuôn về. Đưa Hạnh về. Kiệt,
Võ, Quan rẽ ngõ nhà Lộc. Còn bốn đứa lang thang trong đêm, không
khí Tết nhuốm hơi nhạt nhẽo. Nhưng ánh đèn trong quán Kinh Đô vẫn
ấm cúng với những khúc hòa tấu dịu dàng. Kỷ niệm như ngưng đọng
lại. Sơn bật quẹt mồi điếu thuốc, đóm sáng lập lòe soi mặt hắn
già nua, còm cõi, tiếng kèn Trumpet não nùng trong bài “Biển nhớ”
của TCS càng làm ta thêm héo hắt, tay bắt tay vui vậy cũng gọi là
“thôi thì thôi, cũng đành thì thôi” giã từ mùa Xuân qua vội, ngày
mai ta đi không biết thị xã có rưng buồn...
Ngày... tháng...
Lên Sài Gòn nhớ bạn bè trường lớp bây
giờ tan tác như chim lạc bầy, tôi lại có một đống thơ kể lể
chuyện xóm làng của mấy đứa, thơ của Sơn than trời than đất “ta
và anh Toán vẫn mong nhỏ về lại đây để bạn bè đấu hót cho vui,
này cô bé rán thi đậu vào Đại Học, nếu nhắm không xong thì xin đi
Kinh Tế Mới may ra có chỗ vẫy vùng, ha ha”, còn Thu Hương thì tả
cảnh buồn muốn chết khi còn quanh quẩn ở lại Sóc Trăng “thèm được
gặp vài đứa bạn để tìm chút tin yêu của hồi đó...”
Cuối thơ nó còn thoòng thêm câu “mày
phải về đăng ký học sinh nếu còn muốn tiếp tục học, qua ngày qui
định mà không đăng ký là coi như tự ý nghỉ học, nghỉ thiệt đó
nghe, chớ hổng phải dọa dẫm như...”. Cái giọng tưng tửng của nó
làm tôi mắc cười. Ừ, nghỉ thì nghỉ. Vài tháng sau đã thấy nó lên
Sài Gòn rủ tôi đi ăn bò bía ở hồ con Rùa. Vậy đó bạn bè tôi đã bỏ
lớp bỏ trường từ dạo ấy, còn vài đứa gồng mình ở lại học cho hết
năm hết tháng để ra trường với mảnh bằng “giáo viên cấp một” bị
đổi về xã ấp vùng sâu vùng xa nào đó dạy học quên đời.
Nhắc chuyện này mới nhớ nhỏ bạn chung
lớp tên Thắm xinh xắn mặn mà, bị đì về hóc bò tó xa tít tè dạy
lớp Ba, gặp đứa học trò quậy như quỷ, Cô đét cho một phát, nó
chạy về méc má, và trời ạ, má nó là vợ chủ tịch xã hầm hầm vác
cây dao phay đang bằm rau đi xăm xăm tới lớp cắm cái phụp xuống
bàn hỏi “Tại sao dám uýnh nó?”. Dĩ nhiên là cô giáo nhỏ sợ chết
khiếp phải bỏ nhiệm sở mà khăn gói trở về nhà chờ ngày vượt biển.
Ngày... tháng...
Tưởng như mùa hạ cũ đã xa lắc xa lơ qua
đi từ dạo cả bọn chia tay nhau trong buổi tiệc thân mật ở nhà nhỏ
Nhan, tớ nhận được thư Lộc chiều nay, thấy phượng chợt đỏ rực
trong lòng. Ừ! Một năm rồi hở Lộc! Thành phố tớ đang trú ngụ thật
vô duyên và tẻ ngắt, quanh đây không có một cành phượng, không có
tiếng ve râm ran, cái nóng hừng hực và không gian khô cháy màu cỏ
úa. Có những bận tớ đạp xe ngang trường học, mong tìm một tà áo
trắng để thanh thản cõi lòng, vậy mà chỉ thấy lố nhố những áo
ngắn quần đen trông chẳng giống ai, nữ sinh thời Xã hội chủ nghĩa
là vậy, lòng tớ vừa buồn mà vừa cười, thấy tội nghiệp cho lớp đàn
em của mình, chúng nó sẽ học những gì bên trong cửa lớp? Chắc
chắn không có thơ Quang Dũng “Đôi mắt người Sơn Tây”, không có
Nguyễn Công Trứ, Tản Đà.
Tuổi nhỏ thì có “Năm điều bác Hồ dạy”,
lớn chút nữa thì có Marx Lenine, vào Đại học thì có Lịch sử Đảng
và Thuyết Duy vật Biện chứng.
Và cái điều đáng ghét nhất hôm nay là
chế độ này đã thô lỗ tạo nên những dấu ấn đau nhói vào trái tim
ngây thơ, thui chột niềm tin của các em khi nhìn về phía trước,
rào cản mọi mơ ước chắp cánh vào tương lai. Đó là chủ nghĩa lý
lịch, sự kỳ thị đầy thù hằn ác độc của phe thắng đối với kẻ chiến
bại, là gông cùm đè lên thân phận con em của những gia đình “ngụy
quân, ngụy quyền” miền Nam sau ngày giải phóng.
Tớ có đứa em gái học lớp 5, nó thường
phàn nàn với tớ là bây giờ nó không còn bạn. Đầu năm học, khi vào
lớp cô giáo hỏi “Ai là gia đình cách mạng?” chỉ có mình nó đứng
lên, cả lớp nhìn nó chăm chăm như giận dỗi, khiến nó buồn phát
khóc, bởi vì cách mạng làm gia đình bạn nó trở nên nghèo xác xơ,
Ba của bạn phải đi tù, Mẹ của bạn phải bán buôn tần tảo để nuôi
cả nhà... Giọng con bé vùng vằng trẻ con... “Ba nói cách mạng
tốt, cách mạng đem cơm no áo ấm cho mọi người, nhưng sao em thấy
còn khổ hơn hồi đó, ai mua gạo cũng phải sắp hàng, cực muốn chết,
gia đình tụi bạn em bị bắt đi Kinh tế mới, mà ở đó đâu có trường
học đâu, vậy là tụi nó dốt luôn hả chị? Em thương tụi nó và em
ghét cách mạng của Ba.”
Vậy đó, tuổi thơ của em gái tớ không
còn thấy hồn nhiên nữa, nó đã biết lo cho cái lo của người khác,
nó đã biết băn khoăn khi nhìn thời cuộc đổi thay, tớ chỉ có thể
an ủi nó đừng buồn, có thể ngày mai sẽ tốt hơn ngày hôm nay.
Tớ đem chuyện này kể cho chú Mười (em
của ba) nghe, ông nghiêm mặt cảnh cáo “đừng có dại dột phát biểu
linh tinh, ổng mà biết được ổng bắt tụi con làm kiểm điểm đấy!”
Lá thư của cậu làm tớ vừa vui vừa buồn,
tớ đi lang thang trên những con đường chợt mưa chợt nắng giữa Sài
gòn mà nhớ về phố cũ. Tớ đã đánh mất thuở học trò, nên tớ cũng
quên mất mùa phượng nồng nàn ngày trước. Cám ơn Lộc đã nhắc cho
tớ nhớ. Vâng, phượng đang đỏ rực trong lòng, tớ thấy xôn xao khi
sống lại với kỷ niệm.
Một năm qua đi rồi. Khoảng thời gian
này năm ngoái...
Ngày... tháng...
Bầu cử Quốc Hội đầu tiên sau ngày đất
nước hoàn toàn giải phóng, sạch bóng quân thù... Đúng như Sơn
nói, đây là một trò chơi bầu cử. Đêm nào nhà nước cũng tổ chức
bầu thử 95%, 96%, 98%, tỉ lệ tiêu chuẩn loại bỏ ba nhân vật mang
số 1, 3, 13. Đảng đã “nhất trí” như vậy, sự bịp bợm trắng trợn
không cần che đậy khi thằng an ninh phường ghé sát tai ta thì
thầm:
– Nên
nhớ là viết giùm cho những người không biết chữ, chị nên “ý tứ”
một chút.
–
Tiên sư anh, dân chủ ở cái chỗ người ta chỉ một đằng anh “nhất
trí” gạch một nẻo đấy hả? Ta lầm bầm tức muốn điên lên mà chẳng
biết phải làm sao, phải công nhận họ chơi trò lưu manh trong bầu
cử, bởi vì họ chắc rằng dân đâu ai ủng hộ họ đâu, không gian lận
sao thắng?
–
Sẽ có 90 nước trên thế giới đến tham quan cuộc bầu cử của chúng
ta, trong đó bao gồm cả các anh em Xã hội chủ nghĩa và ký giả tư
bản, nếu có được hỏi về chính trị, xã hội tình hình trong nước
sau ngày giải phóng tới giờ, yêu cầu các đồng chí hãy trả lời
“không biết”, những người học tập cải tạo đang nằm trong tay
chúng ta, nếu có những thế lực phản động âm mưu gây rối bạo động,
lộn xộn ở bên ngoài thì chúng ta sẽ giữ họ lại lâu dài, hoặc thủ
tiêu...
Cái
thế đàn áp như vậy có giận chết được không chứ! Mẹ kiếp! Chế độ
độc tài, đả đảo cộng sản!
Câu chuyện bầu cử vẫn không “hồ hởi
phấn khởi” một chút xíu nào. Qua cuộc bỏ phiếu thử ở Ủy Ban Khóm
7, người ta cứ lẻn về từ từ, khi kiểm phiếu chả có là bao, một số
phiếu trắng, có phiếu gạch chéo tên của mấy tay đầu sỏ, có phiếu
chẳng thèm bầu ai. Chán không! Cái điệu này nhà nước chẳng khá
nổi, dân chúng cứ phản ảnh rầm rầm, người ta không tin tưởng vào
nền dân chủ trong chế độ này thì ai mà bỏ phiếu.
Ta được chỉ định trong bàn viết giùm,
được rồi ta sẽ thể hiện đúng quyền dân chủ của đồng bào, ta thề
rằng ta sẽ tôn trọng và bảo vệ hết sức quyền tự do bỏ phiếu của
cử tri. Nhớ mấy hôm đi xuống tổ vận động bầu cử, cứ thao thao:
– Bà con hãy thể hiện đúng mức cái
quyền dân chủ trọng đại của mình. Không ai có thể bảo mình làm
thế này hay thế kia được, mặc dù họ là “đảng lãnh đạo”, là “nhà
nước quản lý” đi nữa, bà con đang sống trong xã hội độc lập tự do
mà. Đi bỏ phiếu, không nhất thiết phải là đủ 10, nếu không thích
thì mình bỏ 3, bỏ 5 cũng được, cũng chả chết thằng tây đen nào...
Ê, nhân viên nhà nước mà phản tuyên
truyền thế hả? Coi chừng nhe con, tụi an ninh không hưỡn đứng gác
để trong này con ba que xỏ lá như thế. Ta cười hóm hỉnh với chính
mình. Ít ra thì lòng cũng đỡ ấm ức!
Ngày... tháng...
Mít tinh rầm rộ từ khóm tới phường, tới
quận. Bích chương, biểu ngữ, cờ xí rợp trời. Tự dưng ta nghe lòng
dâng lên niềm chua xót. Chào mừng cái gì đây? Khi cái mặt trái
của thời cuộc đã phơi bày ra một cách chán chường?! Ta ứa nước
mắt khi nhắc nhở với chị Ngọ về những người thân của mình đang ở
trong một tình huống khác với những cờ xí kia, họ là ngụy hay
chính những kẻ bịp bợm kia là ngụy? Thấy tâm trạng mình não nề
làm sao, những hoan ca trong lòng ta đổ nát, nghe buồn tiếc và
nhung nhớ xa xăm.
Hỡi những người lính đã chết và đang
chết! Người ta đang reo vui thắng lợi trong nỗi ê chề của các
anh, hỡi những người đang tập trung trong nhà tù cải tạo, các anh
có biết vợ con, thân nhân các anh đang điêu đứng khốn khổ trong
cái nhà tù lớn gọi là Xã hội chủ nghĩa hôm nay.
Buổi chiều, tự dưng trời đổ một cơn mưa
đầu mùa tầm tã khiến nỗi buồn thêm tê tái, tự dưng ta bỗng lo
ngại một điều gì bâng quơ, cuộc bầu cử đã lộ rõ bộ mặt lừa dối
trơ trẽn của chế độ cộng sản khiến ta càng thêm chán ngán.
Cuộc kiểm phiếu kết thúc lúc 9 giờ tối,
ra khỏi Ủy ban thì đêm đã khuya, đường về bỗng như dài hơn trong
chua xót não nề, dân ta học chính sách thuộc lòng như cháo, đạt
đúng “chỉ tiêu” yêu cầu. Chính phủ ta nhắc tuồng khéo không chê
vào đâu được, đạt đúng tỉ số hoạch định mà họ đã tính toán hàng
tháng trước khi bầu cử “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ”. Đại bịp! “Dân chủ, tự do sử dụng lá phiếu như một viên
gạch xây dựng đất nước”.
Xạo Hết Chỗ Nói!
Sao càng nghĩ ta càng giận thêm. “Đảng
lãnh đạo” đã nắm chắc kết quả trước khi bầu cử, như thế còn gì để
nói nữa! Tổ chức bầu cử cho quốc tế thấy họ Dân chủ, Công bằng
trong một quốc gia vừa được thống nhất, độc lập. Sự thật chỉ là
gian trá, lừa mỵ. Sư khỉ nhà chúng nó!
Ngày... tháng...
Một năm sắp tròn. Những con số đánh dấu
bước ngoặt lịch sử chua xót mỉa mai. Ta đứng ngoảnh đầu nhìn lại
quá trình ồn ào cách mạng, lòng bâng khuâng tự hỏi một năm rồi ta
được gì, anh được gì? Hay chúng ta đã đánh mất tất cả trong bối
cảnh xã hội lạ mặt hôm nay, tên nước bỗng trở nên kỳ quặc ngớ
ngẩn “Cộng Hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, tên con đường thân
quen bỗng trở thành Đồng Khởi, tên thành phố ta yêu bỗng một ngày
không còn nữa, mà thay vào đó cái tên lạ hoắc Hồ Chí Minh thật vô
duyên kỳ cục!
Những giọt nước mắt nhỏ xuống thương tiếc ngậm ngùi. Một năm đánh
dấu hằn sâu như vết chém tàn bạo. Ta nhớ về 30 tháng Tư như một
ngày Quốc hận, không thể nguôi ngoai.
Tháng 3 mở màn chiến trận cao nguyên
tàn khốc. Bao nhiêu là máu và những xác người, bao nhiêu là hoảng
loạn của đoàn người di tản dọc đường số 9 và đường 14, chết từ
trên cao, chết từ quốc lộ 13 kinh hoàng, từ bờ biển Nha Trang, Đà
Nẵng, Vũng Tàu, chết dập vùi tan tác như bèo, như sóng...
Từng địa danh miền Trung bị mất dần vào
tay Việt cộng và trận đánh tàn khốc đã kết thúc khi cánh cổng sắt
của Dinh Độc lập bị xe tăng T54 ủi sập vào trưa ngày 30 tháng
4/1975. Cộng sản miền Bắc đã cưỡng chiếm thành công miền Nam.
Những chiếc phi cơ bay vòng vòng trên bầu trời Sài Gòn với cột
khói đen sau đuôi vì hết nhiên liệu mà không có bãi đáp, những
chiếc tàu chìm vì không chở nổi hàng trăm ngàn người cố đeo bám
lên đó để chạy ra khơi trốn tránh cộng sản, những xe cộ vất lăn
lóc trên đường phố, thây người ngổn ngang trong đợt pháo kích
quyết liệt cuối cùng để đập tan sào huyệt của Đế quốc Mỹ và bè lũ
tay sai.
Hình
ảnh tang thương của những người lính tan hàng rã ngũ, chạy bơ phờ
qua từng ngõ ngách đô thị, những lá cờ bị xé rách, bị bôi xóa vội
vàng, ta nhớ cái nghiến răng của ai đó khi nhìn thấy lá cờ vàng
bị một tên đeo băng đỏ ném vào thùng rác, để thay vào đó lá cờ
máu trước một công sở trên đường Nguyễn Tri Phương, thế mà là
vinh quang, là thắng lợi, là giải phóng miền Nam? Ai cần mấy
người giải phóng, ngụy ngữ lếu láo!
Một năm qua đi mà sao ta vẫn nặng mang
nỗi sầu quá khứ. Hờn oán ai đây, giải phóng vô đã làm đảo lộn tất
cả.
Nhỏ Minh
nói đúng “bài học đầu tiên mà những người cha cách mạng đã dạy
tụi mình là bài học phản bội”. Sở dĩ hai đứa thân nhau vì cùng
hoàn cảnh, Ba nhỏ Minh đi tập kết từ hồi nó mới 3 tuổi, Mẹ nó
không thể chờ đợi được nên bước thêm bước nữa, cha dượng và một
bầy em khiến Minh phải lên Sài Gòn sống bên Dì, tuổi thơ nặng nề
với quá khứ đáng buồn...
Sau 75, Ba nó trở về với quân hàm cấp
tướng trong Uỷ ban quân quản của Thành phố, dượng nó đi tù vì là
sĩ quan chế độ cũ, gia đình Dì nó tan nát trong khi Ba nó được
Nhà nước cấp một căn lầu mặt tiền trên đường Nhật Tảo và ông mong
muốn nó trở về ở với ông, đứa con mà ông đã tha thiết nhớ thương
trong suốt những năm dài đi kháng chiến “hy sinh đời bố để củng
cố đời con...” nhỏ kể lại ấn tượng của ngày đầu tiên khi nó gặp
mặt Ba sau gần 20 năm xa cách, ông ôm nó vào lòng tràn ngập
thương yêu.
Nhưng ông cũng răn đe nó không nên dính líu tới gia đình ngụy của
Dì, bởi vì đó là thành phần phản quốc, ông buộc nó phải đổi theo
họ của ông để tương lai tươi sáng hơn, dĩ nhiên là nó phản đối
tới cùng, nó không thể trở mặt với quá khứ, gia đình Dì đã cưu
mang nó bấy lâu nay, đổi lại họ có nghĩa là chối bỏ cái lý lịch
ngụy đã nuôi nó lớn lên, là phản bội lại những tình cảm gắn bó
của Dì nó dành cho đứa trẻ bơ vơ như nó suốt mười mấy năm ròng.
Ta nghe lòng quặn thắt mỗi khi nhớ tới
giọt nước mắt của Ba Sáu rớt xuống cánh tay khi ta ôm ông giã từ
để theo Ba Năm lên Sài gòn đi làm cách mạng, cái giọng hách dịch
của kẻ chiến thắng đã khiến ta khó chịu “Nhà cô dượng bây giờ là
sĩ quan ngụy, con Ánh nó không thể có tương lai được, bây giờ tôi
bắt nó về Sài Gòn để cho nó tiến thân trong xã hội mới, nhưng nói
trước là Cô dượng đừng có thơ từ kêu réo nó trở lại đây nhe, bây
giờ nó là con tôi, tôi sẽ làm khai sanh đổi nó lại họ của tôi...”
giọng Má Sáu nghẹn ngào “thì con anh, anh muốn làm gì thì làm, ăn
thua là tấm lòng của nó...”
Vài bộ đồ cũ, mấy cuốn sách, ít món
linh tinh, má Sáu gói trong cái mền dù túm bốn góc như tay nải
của mấy ông sư. Hành trang vào đời của ta chỉ có thế, nghe nhẹ
tênh mà sao lòng trĩu nặng, cái tình nghĩa cưu mang hai mươi năm
dưỡng dục, ta nhớ như in con đường đất trơn trợt trong hẻm mà hai
ông bà đã thay nhau cõng ta đến trường đầu tiên, rồi những lần ta
ốm đau quặt quẹo thuốc Bắc thuốc Nam, mái tóc ta chỉ có mỗi Ba
Sáu cắt, áo quần ta mặc chỉ có mỗi Má Sáu may, Ba Sáu hớt tóc, Má
Sáu bán hàng rong, chắt chiu nuôi ta khôn lớn, cơm rau hiu hẩm cả
nhà cùng chia sẻ ngọt bùi bấy nhiêu năm, vậy mà bây giờ dứt áo ra
đi đành đoạn, công ơn Cô Sáu nuôi dạy con mình khôn lớn, Ba phủi
tay hết.
Lên
xe đi Sài gòn ta đã khóc suốt trên đoạn đường dài, ngồi bên cạnh
gương mặt Ba trầm ngâm, ta thấy ấm ức giống như mình là tù binh
đang bị “áp tải”. Tên tù binh phản bội! Ừ nhỏ Minh nói đúng, “bài
học đầu tiên của những người cha Cách mạng dạy mình là bài học
phản bội.”
Sang nhà nhỏ Minh ngủ, tự dưng hai đứa nổi hứng đạp xe đi chơi
vòng Sài Gòn xem thiên hạ hồ hởi phấn khởi ra sao. Thành phố mới
hơn 9 giờ mà hoang vắng lạ lùng, lưa thưa vài cặp tình nhân vòng
tay hối hả, hai chiếc xe đạp cót két trong đêm như nỗi hậm hực
không nói thành lời.
Những đèn màu giăng mắc, cờ xí rợp trên
các cơ quan, công trường. Những gã công an mặc áo vàng, ôm súng
đứng thẳng người như trụ điện ở các ngã tư, cái không khí lặng
câm trơ trẽn, thấy trong lòng mình cũng chán ngắt như thế. Hai
đứa tấp lại xe bò bía cuối cùng ở nhà thờ Đức Bà, vừa ăn vừa nghe
ông cụ phẫn uất nghiến ngầm:
“30 năm mới có một ngày... đau khổ,
biết bao là nước mắt, biết bao là tiếng than, hòa bình với hàng
triệu người chết. Cuộc chiến tranh quá thảm khốc mà hòa bình thì
chắc gì không có bạo tàn? Các cô còn quá trẻ để nhận ra cái giá
của tự do, chúng tôi từ Bắc chạy trốn gông cùm của cộng sản vào
Nam, tưởng đã yên thân, nào ngờ bọn họ đuổi theo đến cuối đường
hầm, rồi các cô sẽ thấy thôi...”
Nhìn những hàng đèn giăng mắc trước Bưu
Điện, ta xót xa ngậm ngùi, nghe nỗi buồn đau gặm nhấm. Đêm khuya,
đường dài, đời sống mình cũng hun hút tận cùng như thế, Minh ơi!
Đi đâu cũng thấy những tâm sự bi thiết,
họ không cần biết mình là ai, họ cứ nói như để vơi bớt nỗi ấm ức
căng cứng trong lòng, nói để nguôi ngoai.
Sự thật ngày càng não nề, chán ngấy mà
sao người ta vẫn cố tình như không biết. Chính nghĩa là phải biết
lắng nghe, chỉ có độc tài mới mắt ngơ tai điếc. Về tới nhà đã 12
giờ đêm. Hai chiếc xe phóng vun vút qua những con đường vắng, cây
lá ngủ quên, 30 năm mới có một ngày. Ôi thê thảm!
Ngày... tháng...
Có một điều rất đau đớn mà ta không
biết phải nói với ai. Chiều nay, khi ta tình cờ về nhà, lục tìm
cặp hồ sơ của ba với ý định viết những tên tuổi liên hệ với gia
đình để điền vào sơ yếu lý lịch, nhưng ta đã tìm thấy một tờ cáo
trạng chi chít chữ.
Vâng, một tờ cáo trạng đã làm trái tim
ta tan nát.
Đúng hơn nó là một bản án dài dặc báo cáo lên Thành Ủy về tên
Trần Văn Tùng, thằng con trai duy nhất của Má Sáu:
“... Tên Tùng quá nguy hiểm cho cách
mạng. Khi tôi thấy không thể tuyên truyền được nó, tôi có đề nghị
với các đồng chí cho Ban Công Tác Thành bắn nó, nhưng các đồng
chí vẫn còn do dự. Tôi nghĩ rằng nó là một thằng nguy hiểm, việc
làm của nó phương hại đến cách mạng không nhỏ. Cần phải dứt khoát
hạ nó...”
Bản
cáo trạng làm ta hoa cả mắt, điếc cả tai. Sự thật làm ta hỡi ơi,
thất vọng. Cộng sản là thế đó ư? Cậu ruột có thể tìm mọi cách để
giết thằng con trai duy nhất của em mình, cháu của mình. Trời ơi!
Ta đau đớn có thể chết được.
Những năm Ba đi làm cách mạng, hình ảnh
mẹ Tùng là hình ảnh của Ba, nhưng vì “Đảng” Ba lại nghĩ khác, Ba
“trung với đảng, hiếu với dân và chuyên chính với kẻ thù” lẽ nào
con cháu mình là kẻ thù chỉ vì nó không cùng chiến tuyến với
mình? Ba đã giết chết niềm tin ở ta. Con xin lỗi ba, con không
thể ích kỷ như ba; con càng muốn xa rời ba hơn sau khi phát giác
chuyện này, thà con tìm việc khác mà tự lập, con từ chối ân huệ
“gia đình cách mạng” của ba, con phủ nhận mọi ưu tiên từ chế độ
đưa tới.
Con
không bao giờ chấp nhận cộng sản dưới bất kỳ hình thức nào. Một
chế độ mị dân, một chính quyền chuyên chế lừa dối, chỉ dùng vũ
lực đàn áp khắc nghiệt, thà con đi học lại, thà con sống lây lất
ở một chỗ nào đó, không có Ba. Giữa chúng ta tình cha con riêng
rẽ “bất hợp tác, bất đồng quan điểm.”
Thôi thì con cố không làm hại đến Ba và
Ba cũng nên tỏ thiện chí với con một chút may ra cha con ta còn
có chuyện để nói với nhau lâu dài. Bằng ngược lại, thì con cũng
rất tiếc, con xin lỗi ba, con không thể phản bội, con không thể
phụ lòng người đã nuôi con 20 năm nay.
Ta đau lòng không biết thố lộ với ai,
cả ngày đạp xe lang thang ngoài đường với tâm trạng bi thảm thất
vọng cùng cực, liệu ta phải làm gì với lá thư đó, những dòng chữ
do chính tay Ba đã viết như con rắn độc cắn nát tim ta tê điếng,
ta lẳng lặng rút nó ra khỏi tập hồ sơ của Ba và cất kỹ vào cái
hộp, dấu kín không cho Ba Má Sáu biết chuyện nồi da xáo thịt đáng
ghê tởm này, có lẽ ta sẽ đem nó về quê, chôn dưới gốc cây xoài
trong vườn, đợi một ngày yên bình sẽ mang ra hỏi Ba, chắc chắn
như vậy!
Ta
tin mình đã có quyết định đúng mặc dù phải nuốt nước mắt vào
lòng. Lần đầu tiên trong đời ta phải đối diện với một sự thật
kinh khiếp, ta ước gì mình chưa từng thấy lá thư đó trong cặp của
ba...
Ngày...
tháng...
Giấc
ngủ đầy, buổi sáng thức dậy khoan khoái, con đã về bình thường
như một nhân viên nhà nước được nghỉ phép 7 ngày thong dong, con
đã về với ba má, và nếu cần con sẽ ở lâu hơn nữa, những ngày lêu
bêu trên Sài Gòn, con đã thật sự thấm mệt!
Trời mờ mờ sương lạnh thấy nhớ buổi
sáng nào sửa soạn vào trường, tóc dài áo trắng guốc gỗ khua vang,
dẫy hành lang lớp học vắng hoe, thuở còn đi học, ta luôn luôn là
nhỏ học trò đi sớm nhất, đi sớm chẳng để làm gì nhưng thấy thú vị
trong cái vắng lặng của buổi sáng tinh khiết.
Thay đồ đi ăn sáng với Ba Sáu, phố xá
cũng bình thường, buồn hiu, đi thăm nhỏ Hạnh, thăm cô Tráng, thăm
trường. Thấy tụi nhỏ lao xao liên hoan cuối năm, lòng mình chợt
bàng hoàng thế nào ấy thôi. Nhớ quá bạn bè ơi, lớp này ngày xưa
ta học, bàn này ngày xưa ta ngồi, trên bục giảng những người thầy
học cũ đứng đó. Bây giờ chỉ có những tầng lớp tiên tiến lạ mặt,
ta ngại ngùng trong cái gật đầu chào, đó là điều ray rứt không
nguôi trong ta. Ta hay thầy mặc cảm?
Đi uống cà phê với Võ, Long, nghe vài
ba câu chuyện não lòng. Cũng thế thôi, ước gì ta ngủ được một
giấc dài 5 năm hay 10 năm, mở mắt ra mọi chuyện đã xong rồi, có
lẽ mình thấy thoải mái hơn phải không Võ? Ước gì tai ta điếc, mắt
ta mù, để đừng nghe thấy gì hết, vì sự thật quá thê thảm. Tuổi
trẻ vốn ồn ào, mà lúc này ta ồn ào thì chết!
Trưa lại thăm thầy Hiếu, kể lể hết tâm
sự của ta, từ gia đình, đời sống bản thân đến xã hội, kinh tế, lu
bu trăm thứ chuyện. Thầy trầm ngâm đốt thuốc:
– Tội nghiệp học trò tôi, bánh xe xã
hội sẽ nghiến nát em. Em đang đánh bạc, trước khi em muốn rút lui
khỏi sòng bạc với một đống tiền, hãy khôn khéo một chút, những
tên cháy túi không để yên cho em đâu, đừng để bánh xe thời cuộc
nghiến nhẹ một ngón chân em, một ngón chân thôi cũng đủ đau điếng
cả đời rồi.
–
Dạ, cám ơn thầy đã cho em một lời khuyên, em đã hiểu ý thầy và em
sẽ cố gắng hết sức, nhưng Thầy ơi, em nhỏ bé và tuyệt vọng quá.
Ngày... tháng...
Thành phố thật lạ. Cúp điện mới có hai
đêm không có cà phê sinh tố, không có nước, chỉ có mặt trời là
nguồn sống. 4 giờ chiều ăn cơm hối hả, chun vào mùng tránh muỗi
cắn, mở mắt nằm chờ trời sáng, thấy đêm thật dài.
Đó là lời thầy Thiếp lúc trưa ghé thăm,
quanh quẩn ở nhà nấu cơm, giặt quần áo cho vợ con, ông thầy Việt
văn hách xì xằng dạo nào của tôi giờ đã bệ rạc, xuống dốc. Ôi,
thương! Ra về, lòng ngậm ngùi quá đỗi.
Chế độ càng ngày càng khắc nghiệt,
người dân kêu rêu than thở mãi cũng thế thôi, ta thấy mình bất
tài vô tướng. Ghé quán café Thanh Bạch với Lộc, Bảo, Minh, tuổi
trẻ họp lại nhau có chuyện gì để nói ngoài chuyện chửi chế độ và
chửi tất cả những gì đã và đang xảy ra sau cái ngày 30/4 đáng
chửi ấy, mọi danh từ nay đã trở thành trừu tượng, như cái gì đó
mơ hồ xa xăm: Dân Chủ, Giàu Mạnh, Xã Hội Chủ Nghĩa Độc lập – Tự
do – Hạnh Phúc... tất cả chỉ là ngụy ngữ, mỵ dân!
Một ông thầy vừa đi học tập về, chợt dở
dở ương ương, vào trường khóc khóc, cười cười với lũ học trò, có
những giáo sư phải chạy vào phòng vệ sinh để giấu nước mắt, chỉ
sợ bị chú ý kiểm điểm, lũ học trò xúc động, thương tâm. Nghe kể
mà lòng ta xót xa, ngao ngán. Thương cho Thầy tôi làm người mất
trí, mà cũng mừng cho Thầy tôi từ nay sẽ quên mất trần gian, quên
mất chuyện thế sự thăng trầm... “Chồng tao có tội tình gì mà nó
bắt đi học tập, đày đọa chồng tao? Giải phóng gì mà nhà tao tan
nát, con tao ốm đau, gia đình nghèo túng, đồ đạc bán đổ bán tháo,
thậm chí đến cái quần cái áo cũng bán. Hết nay đến mai, nó cứ hăm
he đi vùng kinh tế mới. Lấy cái gì mà sống? Lấy cái gì mà ăn? Đi
thăm chồng một lần đứt ruột đứt gan. Mong mỏi được nó sai khiến
làm tôi mọi, đặng ra ngoài gánh nước, chẻ củi, hầu thấy mặt vợ
con đứng lấp ló ngoài rào như thằng ăn cắp, chực chờ thảy vô một
ống thuốc, một hộp kem đánh răng. Mồ tổ cha nó! Khốn nạn gì dữ
vậy!”
Lời chửi
rủa bằng một thứ ngôn ngữ đay nghiến nỉ non, ta nghe mà ứa nước
mắt, giọng kể lể uất nghẹn của những bà vợ có chồng đang “học
tập” trong tù, mà học tập cái gì trong đó, có chăng là đòn thù
của những tên say máu chiến thắng dành cho kẻ bại trận, đói khổ
bệnh tật, đày ải nhục hình giữa rừng thiêng nước độc cũng đủ cho
người ta chết dần mòn, độc kế của cộng sản là vậy, ta căm giận
chính sách ác ôn này vô cùng, vô tận.
Ngày... tháng...
Tình cờ xem lại cuốn “Người tình ngoài
mặt trận” của Nhã Ca. Não lòng và thương lính quá đỗi...
Hỡi những người lính đang nằm trong
trại tù, các anh thật dũng cảm và đáng yêu. Suốt đời, bọn con gái
chúng tôi chỉ nên yêu những người lính như các anh thôi, nhớ quá
thời vàng son cũ, ta muốn điên lên khi biết được sự thật mất mát
hôm nay. Chúng ta không thua! Chúng ta chỉ bại trận, trong chiến
đấu, bại trận là lẽ thường, chỉ khi nào chúng ta chịu đầu hàng,
ấy mới gọi là thua, phải không?
Cũng con đường này, cách đây hơn năm,
ta đã đi qua. Nhà cháy và những xác người chết ngổn ngang. Trước
ngày “giải phóng”, con đường Bùi Thị Xuân đầy lính Không Quân và
thịt cầy Bắc Cờ...
Ta tìm Quan với tay nắm ngại ngùng. Ta
tìm Quan với tiếng khóc nức nở chiều ngày 30/4/75 trên vai hắn,
mới nhập ngũ trong đợt quân sự học đường, tuổi đời tuổi lính chưa
bao lâu thì mọi thứ sụp đổ, khi mọi người đổ xô vào phi trường để
tháo chạy ra nước ngoài thì hắn lại hối hả cởi bỏ bộ đồ ka ki dầy
cộm để trở về làm anh học trò ngơ ngác giữa dòng người di tản.
Hai đứa gặp nhau khi Sài gòn hỗn độn với tâm trạng hụt hẫng bàng
hoàng. Thấy hắn cầm hoài một bao nilon nhỏ trên tay tần ngần, có
cái gì trong đó? Không biết, tự nhiên lượm được, hai đứa đang
buồn mà cũng bật cười khi mở gói giấy ra, chỉ là cái máy đánh
trứng gà, một dụng cụ nhà bếp còn rất mới! Thiệt ngớ ngẩn hết
biết, dù sao cũng là một kỷ niệm nhớ đời của Quan trong những
ngày chới với này.
Hai đứa ra bến xe miền Tây đông nghẹt
người, hình như chỉ có duy nhất một chuyến về Sóc Trăng, không
phải xe đò mà xe hàng, mọi người chui rúc trong thùng xe chật
cứng hết chỗ, hai đứa phải leo lên cabin. Lần đầu tiên đi xe đêm
mà không sợ Việt cộng đắp mô gài mìn, cảm nhận được ý nghĩa “Hoà
Bình” có lẽ chỉ thấy trong đêm hôm ấy, không gian yên tĩnh, gió
thổi lành lạnh, trăng mờ lẩn khuất. Có hai người lang bạt nắm
chặt tay nhau về lại quê nhà.
Buổi sáng nay, tình cờ đi ngang qua khu
Lăng Cha Cả, con hẻm vắng hoe, những gã con trai biến mất. Những
chàng lính “hào hoa” biến mất, chỉ có bàn ghế, tủ giường, ti–vi,
tủ lạnh xuống đường, chờ người đến mua. Dân chúng bây giờ ai cũng
thạo nghề buôn bán, bán nhà, bán xe, bán quần, bán áo, bán tình
bán nghĩa... Ôi... Cám ơn cách mạng đã cho dân tôi một cái nghề
mới.
Ngày...
tháng...
Nhờ
ba chứng giùm Sơ Yếu Lý Lịch nộp thi đại học. Ông chỉ chịu ký với
điều kiện ghi thêm sơ sơ vài hàng “thành thật” có thằng anh sĩ
quan ngụy, lý do khai tên đổi họ...
“Vì hoàn cảnh khổ đau của chiến tranh,
cha con ly tán. Tôi là nạn nhân của thời cuộc do Mỹ Ngụy gây ra.
Nay nhờ cách mạng cứu sống lại đời tôi nói riêng, thế hệ trẻ nói
chung. Nay tôi nguyện trọn đời hy sinh cho cách mạng, v.v. và
v.v.”
Trời ạ! Chèn ép nhân dân phải
không, đã thế không thèm đề gì hết, cùng lắm bỏ thi, tội gì phải
đặt sự tiến thân của cá nhân mình vào dăm câu lếu láo nịnh bợ đó.
Ta nguyện trọn đời dâng con tim chai đá “không bao giờ biết đến
nói dối” cho bồ ta thôi, ta hổng hưỡn hy sinh “phi lý, vô lý” cho
cách mạng à nhe! Nản quá, rút sơ yếu lý lịch về để nghĩ lại xem,
cái lối dồn người ta vào chân tường của “đồng chí Ba” này coi bộ
không khá, hổng lẽ đời ta từ nay chỉ còn biết quỳ lụy và dựa hơi
thôi sao? Ông già vẫn không ngớt cằn nhằn:
“Ba đã giới thiệu được nhiều người có
việc làm, tại sao ba lại ngần ngừ khi bảo đảm cho con? Ba và Đảng
đã đánh giá tư tưởng con như thế nào? Con không thật tâm phục vụ
cách mạng, con còn nặng về chủ nghĩa cá nhân ích kỷ tư hữu, con
phải nhìn nhận sự thật như vậy, nếu Ba bảo đảm cho con, nhưng con
có bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng 30 năm của ba không? Nếu một
lúc nào đó con phản Đảng, con phản Ba thì Ba vẫn phải trừng phạt
con như đối với kẻ thù...”
Ta nhìn gương mặt nghiêm khắc của một
người hết lòng vì Chủ nghĩa Xã Hội, cái cảm giác xa lạ khi đối
diện với người cha ruột thịt của mình, hình như chỉ có Ba Sáu
thân thương gắn bó trong cuộc đời ta, còn người đàn ông này là
một Đảng viên cộng sản!
Ngày... tháng...
Những con số báo cáo từ bàn giấy thì
không bao giờ chính xác cả. Ta hơi quê khi bị thằng nhỏ chỉ mặt –
Xạo!
– Ừ, có
lẽ vậy. Lỗi không phải tại ta...
Chỉ tiêu định mỗi tháng phải có 200
người (tối thiểu) trong phường, giãn dân hồi hương hoặc đi kinh
tế mới.
Tiên
sư anh! Bắt buộc thế, nhưng người ta không đi, chả lẽ lấy cần
trục mà xúc à? Vô lý! Từ đây đến tháng 6–1977 Sài Gòn phải đi
trên một triệu rưỡi dân, thiên hạ dùng danh từ nghe kêu to quá
“Ra tiền tuyến hăng hái đi vào mặt trận sản xuất thể hiện lòng
yêu nước, thiết tha với sự nghiệp cách mạng, với nhiệt tình xây
dựng chủ nghĩa xã hội! v.v. và v.v.”
Chán mớ đời! Rồi bao giờ các đồng chí
sẽ đi? Hay “vành đai xanh” sẽ bảo vệ an toàn cho quý vị, để từ
bên trong quý vị cứ xỉa tay năm ngón và hưởng thụ dài dài?
Những căn biệt thự mặt tiền, những nhà
lầu xe hơi, những nguy nga tráng lệ của thành phố Mỹ Ngụy lần
lượt bị các đồng chí tiếp thu và chia nhau quản lý, để đuổi gia
đình thân nhân của tay sai Đế quốc vào rừng bỏ chết vì đói nghèo
bệnh tật, chưa thấy hột gạo nào từ Bắc chuyển vào Nam “cứu đói
đồng bào” mà ngược lại những hàng xa xỉ “phồn vinh giả tạo” của
miền Nam thì theo đoàn xe tải chở ra Bắc không biết bao nhiêu mà
kể. Hòa bình thống nhất đất nước là như vậy ư?
Ngày... tháng...
Lúc này không phải là lúc ngồi mơ mộng
bên trong cửa sổ. Lúc này là lúc xông xáo đi vào một trò chơi lắm
nguy hiểm, đe dọa, ta cân nhắc suy tính liệu sức mình, tuổi trẻ
ta sẵn sàng dâng hết cho lý tưởng, nếu thật đó là một lý tưởng
hợp lý.
Ta
đang có niềm tin vào công cuộc trọng đại sắp tới, ta sẽ không ân
hận khi bắt tay vào việc, đời sống chẳng còn vô nghĩa, ta cười
cợt như một trò chơi lớn, không ngại ngùng và chùn bước.
Một tháng qua đi, một ngày thấm thoát,
ta nghĩ nhiều về thời cuộc, về những xao động lung tung trong cái
gọi là nhà nước cách mạng, liệu mọi việc có bình yên, huy hoàng
rực rỡ như mọi cuộc họp báo cáo tình hình công tác không? Một cán
bộ ngoài Bắc vào đã phải buột miệng:
– Chúng tôi đã bị lừa. Chúng tôi đã lầm
lỡ dại dột khi chấp nhận Chủ nghĩa xã hội, lúc còn ở ngoài Bắc
nghe tuyên truyền trong Nam là một lũ Mỹ Ngụy khát máu, dân chúng
trong Nam sống trong nghèo đói lầm than, thương đồng bào ruột
thịt của mình nên tình nguyện vào Nam đánh Mỹ, mang theo mấy cái
chén gốm Bát Tràng, vài ký gạo ngon tưởng là món quà quí báu tặng
họ hàng. Vào Nam thấy dân chúng sống nhởn nhơ, dư ăn dư để gấp
vạn lần ngoài nớ, mấy ký gạo mốc meo ném vào thùng rác ngượng
ngùng.
Thế
đấy! Cả bè cả lũ bị lừa thế đấy, còn gì để phải phủ nhận nữa
không? Còn sự thật nào chua chát hơn thế không? Những lý thuyết
của họ bao giờ cũng đầy “chính nghĩa”, lập luận vững vàng và sắc
bén, ta làm thế nào để có thể đánh đổ một chủ nghĩa được nuôi lớn
từ hơn nửa thế kỷ trước, đánh đổ một cách hợp lý và vững vàng hơn
thế...
Ngày...
tháng...
“Cho
đồng bào tôi ngồi nghếch mắt trông chờ... Nghe những ủy ban, hội
đồng nói vu vơ...” Ta nản đến phát khóc khi phải ngồi nghe thiên
hạ bàn ra tán vào câu chuyện vận động kinh tế mới và thanh niên
xung phong thủy lợi.
– Tôi chắc cũng dễ thôi. Mỗi tổ chọn
một người đi công tác 15 ngày, thay phiên nhau tự túc ăn công, cứ
đào một mét sẽ được 200 đồng, đào nhiều ăn nhiều, đào ít ăn ít,
tôi nghĩ cũng giải quyết nhanh được, buôn bán lần lượt vào tay
mình quản lý, tư thương bán hàng bơ mỏ, ế ẩm, rồi cũng phải dỡ
nhà mà đi kinh tế mới...
Ta ngồi nghe mà buồn, làm theo năng lực
hưởng theo nhu cầu. Xạo! Làm gì có mà hưởng, nhà nước cứ bắt chẹt
bắt lỏng thì dân còn cục cựa đàng nào. Không đi công tác thì
không có giấy chứng nhận lao động mà không có giấy chứng nhận lao
động thì không được cung cấp gạo, thì thiệt thòi việc này, việc
kia... Khốn nạn, dân còn gì nữa mà dồn vào đường cùng đến thế!
Công tác thủy lợi, một hình thức lợi
dụng sức lao động, bóc lột sức người, sức của. Ăn cơm nhà, tự túc
mọi phương tiện để lên kinh tế mới đào kinh, một ngày, một tuần,
một tháng, ba tháng, lấy danh nghĩa phục vụ ích lợi chung. Nhưng,
cứ nghĩ bỏ ra một ngày công như thế, liệu người ta có đủ một
nguồn lợi để nuôi gia đình đang nheo nhóc?
Tội nghiệp mấy người đi học tập về, bị
dính không chạy đâu được. Giọng thằng cha tổ trưởng nghe mà phát
ghét:
– Anh
phải sốt sắng tham gia công tác, càng nhiều chừng nào, sự phục
hồi quyền công dân của anh càng nhanh chừng đó...
Thiệt muốn chửi thề hết sức! Anh là
người Việt Nam từ hồi nào đến giờ, chẳng là công dân thì là gì?
Hổng lẽ trước đây những người bại trận kia là người ngoại quốc?
Chẳng qua vì bại trận mà trở thành “phó thường dân”, bị tước đoạt
hết, bị ruồng bỏ, rẻ khinh, đày đọa. Học tập cái quái gì ở đó,
nhốt trong mấy cái thùng sắt, ngày nóng như lò nướng, đêm lạnh
cắt da, ra ngoài lao động làm như trâu cày, ăn uống thiếu thốn,
bệnh tật chết dần mòn, lâu lâu cao hứng quăng lựu đạn vào giết tù
rồi đổ thừa bọn phản động phá hoại hay chĩa súng vào mùng bắn
chơi, chết ai nấy chịu như trường hợp anh của thằng bạn học chung
trường. Má nó xỉu lên xỉu xuống khi nhận xác con, so với “tắm
máu” trong chế độ phát xít thì cách đối xử với người bại trận
theo kiểu của chế độ này còn dã man hơn nhiều, ác có bài bản mà,
càng nói càng thấy nóng gan!
Ngày... tháng...
Cái món hành chánh bao giờ cũng lằng
nhằng, nó luôn khệnh khạng như lão ký già. Quanh quẩn cứ báo cáo
sổ sách linh tinh. Báo cáo tuần, báo cáo tháng, báo cáo định kỳ,
chẳng công tác gì nhiều hơn những loại báo cáo ấy, cứ giấy tờ
chất đống mà không giải quyết được gì. Đúng như một “đồng chí” đã
tự phê: “Văn thư đầy túi áo, báo cáo đầy túi quần!”
Ta ngồi loay hoay như kẻ mắc ị mà táo
bón cả tuần, thủ tục hành chánh luôn khắc nghiệt dù rêu rao là đã
giản dị đến tối đa. Có một ông lão cyclo già, đổ xăng công đoàn,
chạy tới đâu phải trình phường đóng dấu tới đó, từ Chợ Lớn qua
Phú Nhuận, đóng một dấu ở Phú Nhuận, từ Sài gòn sang cư xá Thanh
Đa, đóng một cái dấu ở Thanh Đa. Nội chạy vòng vòng tìm cho ra
cái trụ sở phường để đóng dấu cũng mất cha nó biết bao nhiêu xăng
của nhà nước và sức lao động của nạn nhân, chưa kể gặp lúc đồng
chí chủ tịch đi vắng, ngồi chờ cả buổi, cũng hụt mất mấy cuốc xe.
Nâng đỡ lao động mà như thế à? Ông lão hằn học “Mồ tổ cha nó.”
Tội nghiệp đồng bào tôi, nheo nhóc khổ
sở trong chuyến đi kinh tế mới tội tình. Mấy ai trong số hàng
nghìn người rời thành phố hôm nay, đã ý thức được “lao động là
vinh quang” là “hăng say sản xuất”? Hay chỉ vì không sống được ở
đây nên phải đi thôi, dù tình nguyện hay cưỡng bức cũng đồng
nghĩa như nhau, suốt ngày chạy đôn chạy đáo lo cho đồng bào, ta
thấm thía hơn cái tình nghĩa con người: “Vì ta thương nhau là
thương hết đám dân khổ đau...”.
Hàng hàng lớp lớp người chen chúc nhau
trong khuôn viên Viện Hóa Đao. Ướt loi ngoi như chuột khi cơn mưa
quái ác đổ xuống, tụi thanh niên cởi trần ngồi phát gạo cho đồng
bào. Mấy tên to đầu biến mất hết. Chỉ còn ta với ta, thương đồng
bào nhót cả ruột. Cố lên! Chịu khó, chịu khó một chút rồi cũng
một chuyến đi mà, thế nào rồi cũng có ngày ta lại gặp nhau...
Khúc đường đầu là những ngôi nhà ngói
đỏ, lẫn giữa vườn lá xanh um trên quốc lộ 13. Thủ Dầu Một, đoạn
đường kế đó là ruộng đồng ngút mắt, tăm tắp xa ở Phú Giáo và cuối
cùng là một con đường đất đỏ bụi mù với những giao thông hào đầy
kẽm gai xơ xác. Nước trũng hố bom, đồi chập chùng cỏ lau, và
thung lũng xám xịt, xuống xe giữa vùng kinh tế mới Bàu Ké hoang
vu heo hút này đồng bào chúng ta nghĩ gì?
Đoàn người vừa rời bỏ thành phố, rời bỏ
tiện nghi vật chất đô thị để ngơ ngác đặt chân đến đây, bao nhiêu
là hoang mang ngại ngùng. Những ngôi nhà tranh thấp thoáng trong
cỏ rậm. Đời sống sẽ bắt đầu từ con số không ở đây. Dính líu và
không thể quay về, ta ứa nước mắt khi vẫy tay từ giã, có lẽ ta sẽ
đến đây sớm hơn dự tính...
Ngày... tháng...
Ta đang bị ViCi khủng bố và kềm kẹp,
ngày nào không khí trong nhà cũng nặng nề, ngột ngạt, tối đứng đó
với má và lũ nhỏ, sáng cãi nhau với ba và chị hai, quanh quẩn
trong một con hẻm chán phèo.
Ta không thể để đời sống bị lệ thuộc và
chi phối nhiều đến thế. Ba hăm dọa đủ điều. Ba bảo rằng, nếu rời
khỏi ông ra, đời sống chính trị của ta sẽ vô cùng đen đúa. Họ sợ
con của cách mạng có tương lai tối tăm ư?
Ta sẵn sàng chấp nhận tất cả, lao tù
nhà giam vốn đã phi lý từ bản chất đàn áp của nó, ta chỉ sợ tư
tưởng bị đày đọa, nhốt kín thôi, ta là ngựa rừng chứ không phải
là ngựa phố. Tại sao cứ thích bịt mắt để ta kéo chiếc xe cách
mạng kệch cỡm của ba?
Ngày... tháng...
– Chị có mặt trong ngôi nhà này để làm
xáo trộn tư tưởng lũ nhỏ, quấy rối đời sống đang đi lên của gia
đình.
Nhóc
Hùng hung hăng “đấu tố” ta giống như cách mạng đấu tố địa chủ
trong cải cách ruộng đất. Mà có gì đâu khi nhỏ My cứ đi theo chị
tư than thở “Em chán quá, ba nói giải phóng là ai cũng no cơm ấm
áo, mà có thấy gì đâu, tụi bạn em bỏ học vì nhà nó nghèo túng, vì
ba nó đi cải tạo, má nó bán hết đồ đạc trong nhà để chạy gạo từng
bữa mà không biết cầm cự được bao lâu?”
Ta ngạc nhiên khi thấy Hùng thay đổi
nhanh chóng từ khi theo học lớp đối tượng đoàn, nó tưởng thế giới
trong tay nó chắc, ta nghe cái từ “tẩy nảo” của cộng sản bây giờ
mới biết, thật kinh khủng quá, xã hội đã biến thằng nhóc dễ
thương của ta thành một tên kiêu căng phách lối, nó còn cao giọng
phê bình ta là không có lập trường chính trị vững vàng, tối ngày
cứ nghêu ngao nhạc vàng và đọc văn hóa phẩm đồi trụy... Trời đất!
Mấy cuốn Tuổi Hoa mà hồi đi học ta nhịn ăn hàng để mua đem lên
Sài Gòn cho nó đọc, vậy mà bây giờ nó “kiểm điểm” ta, tức chết đi
được cái đảng cộng sản đã làm hư thằng nhóc, thiệt thất vọng quá
“đau lòng ta muốn khóc!” Để rồi xem mi phất tới cỡ nào, vô đoàn
rồi lên đảng, vấn đề không phải mi là ai mà mi làm được cái gì
lợi ích cho đồng bào cho xã hội? Điều đó mới quan trọng nhóc à!
Ngày... tháng...
Ra khỏi phòng thi, buồn ngơ ngẩn. Một
chút ân hận bâng khuâng, lỗi tại tớ hoàn toàn, tớ không thích đi
thi, tớ không thích đậu, không thích làm học trò nữa! Tớ chỉ tắm
được một lần trong một dòng sông, tuổi trẻ hồn nhiên của tớ trôi
qua đi, mất hút. Tiếc thì có tiếc, buồn thì có buồn nhưng chấp
nhận. “Dứt khoát” thế thôi!
Đề thi có câu hỏi mắc cười “cho biết sự
khác nhau giữa người và khỉ,” cậu biết tớ trả lời sao không? Tớ
nhìn lên tường thấy hình ông Hồ chí Minh và tớ ghi ngay “người có
râu và khỉ không có râu”. Nộp bài mà tớ cứ tủm tỉm cười hoài.
Tớ không hy vọng hay ao ước gì nữa, vì
đời sống mình còn có gì để ao ước nữa đâu! Tí Cồ sẽ mất đi cái
dịp nôn nao chờ nghe kết quả của tớ như tâm trạng gã bộ đội trong
thơ “kách mệnh”.
Nghe tin em vào đại học,
Nửa tin nửa ngờ tên lại trùng tên.
Tớ thấy mình tàn nhẫn hết sức khi bình
thản bước ra khỏi cổng trường thi mà lòng trống rỗng, tớ muốn phì
cười khi có người hỏi tớ “Đậu không?”. Chắc đậu.
Ừ! Nhờ 30 năm đời ba ta có Đảng!
Quê quá, phải không Tí Cồ? Tệ lắm thì
tớ cũng được “bế” vào Đại học Dự Bị, nhưng mệt quá. Tớ sợ sách vở
lạ lùng. “Thôi thì thôi, chẳng đành thì thôi, thôi thì thôi
nhé...”
Giờ
thì tớ tiếp tục đi làm, bình thường nhưng chẳng có vẻ gì là bình
thường hết, vẫn ngành Vận Động Xây Dựng Kinh Tế Mới, mỗi tháng đi
công tác hai lần, điều xe và đổ dân xuống vùng kinh tế mới Đồng
Xoài, Sông Bé.
Chen chúc đứng ngồi giữa đoàn người gói
khăn lũ lượt hỗn độn và bần cùng. Những buổi trưa nắng cháy và
chiều xuống mưa dầm. Những ngôi nhà tranh thấp tè (công trình của
Thanh Niên Xung Phong), lô nhô giữa rừng lau sậy, ngay ngắn, kiểu
mẫu.
Đồng bào
xuống xe với gương mặt ngơ ngác, bàng hoàng khi được gọi tên nhận
nhà mới, thuộc quyền làm chủ của mình từ đây, với nước ngập đầy
sân, cỏ tranh leo tận cửa. Chưa có vách che nên gió thổi luồn
lạnh buốt.
Những tiếng thở dài, những lời phàn nàn trách móc, hay tệ hơn
nữa, sự gay gắt sẵn sàng chụp lên đầu các cán bộ điều xe, đổ dân
như tát nước vào mặt.
– Vùng “đất hứa” của các người đó à?
Ở năm ba tháng, gặp bao nhiêu sự thật
phũ phàng, gạo nước dầu lửa, nhu yếu phẩm, thuốc men bệnh tật.
Hàng trăm thứ khó khăn thiết yếu, đành trốn về Sài Gòn chửi rủa
vung vít. Những tiếng “phản ảnh” làm tớ đau lòng.
Có thật tớ cũng đang đồng lõa tiếp tay
với những tên đao phủ cố tình giết chết đồng bào mình không? Mỗi
chuyến đưa dân về, tớ buồn và nản lòng không tả được. Nảy ra ý
định “được” thi rớt, “được” dẹp bỏ dứt khoát mọi bận bịu ở Sài
Gòn. Tớ sẽ đi kinh tế mới! Tớ sẽ sống với đồng bào của tớ!
Có thấy những gương mặt thảng thốt của
người dân khi vừa đến vùng Kinh Tế Mới, mới thấy thương dân chúng
mình. Người vợ trẻ với năm bảy đứa con nheo nhóc đi kinh tế mới
làm gì? Phải chăng để mong mỏi chồng mình sớm được học tập trở
về? Anh sinh viên đen đúa kia tại sao có mặt ở đây trong khi bạn
bè anh đang ở giảng đường đại học? Vì điều đơn giản, anh là con
em của ngụy quân ngụy quyền, không đủ tiêu chuẩn đi học, gia đình
không thể cưu mang mãi đời sống bình yên cho anh. Rồi cũng phải
đi thôi! Dứt khoát là như thế, không Thanh Niên Xung Phong thì
cũng nghĩa vụ quân sự. “Tầng lớp tiên tiến” mà!
Tớ yêu đồng bào và yêu tuổi trẻ của
mình, bây giờ thì Tí Cồ đã hiểu tại sao tớ thi hỏng đại học, lý
do này có gì đáng trách không Lộc? Tại tớ muốn thế mà.
Ngày xưa, đọc thơ bạn bè, thấy không có
gì hết. Nhưng bây giờ, lật lại trang báo học trò cũ, đọc thơ Huy
Giao, thấy thấm thía lạ lùng:
Còn gì vui bằng niềm vui hôm nay,
Lấp kín đi anh, những hố bom cày.
Mùa
sau xới đất trồng khoai sắn,
Khi lá xanh
rồi, buồn cũng nguôi ngoai...
Mùa sau đã hơn năm rồi mà sao lá chẳng
xanh để lòng tớ nguôi ngoai? Lý tưởng tuyệt vời quá đỗi với tuổi
trẻ bọn mình. Hát đồng dao hòa bình và ngợi ca tự do hạnh phúc,
bình đẳng và yêu thương. Nỗi ao ước như một cái gì đó gắn bó
không rời “ở một nơi nào mà ai cũng yêu nhau”, có thật bây giờ
chúng ta đang sống trong một vùng đất mà “ai cũng yêu nhau”? thật
là chuyện hoang tưởng khi sống trong chế độ này, vì người nào
thương ta cho bằng ta đâu.
Ngày... tháng...
Triển khai công tác trong tháng, tiếng
quạt máy quay đều đều, mệt mỏi, một vài tiếng ho húng hắng những
cái ngáp được che đậy vội vàng. Mới 9 giờ sáng mà sao buồn ngủ lạ
lùng. Mọi người đều uể oải trước câu “hạ quyết tâm” sôi nổi của
đồng chí trưởng ban, một chị trong đội tuyên truyền xung kích của
Quận đã trề môi lắc đầu:
– Trời ơi! Bộ tưởng dễ lắm hả? Nói gần
gãy lưỡi ngày này qua ngày kia mà có ma nào thèm nghe đâu! Người
ta còn chửi cho là đằng khác, nói suông thì dễ lắm, tới chừng
xuống dân mới biết bị phản ánh tơi bời. Họ nói “nhà nước đem con
bỏ chợ, chưa đi thì nói ngon lành lắm nào là có gạo có nước, có
thuốc, có trường đầy đủ, bà con chỉ đi lao động thôi, còn mọi thứ
đều có nhà nước cung cấp, lo lắng chu toàn, nào là khỏi lo chạy
cơm từng bữa, sống chui rúc khổ sở ở Sài Gòn. Tưởng sao tới chừng
lên đó, chẳng có cái cóc khô gì hết. Lúc đầu, gạo phát cầm chừng,
rồi từ từ xuống bột mì ăn cầm hơi, nước nôi chẳng có, sanh ghẻ
chóc, bệnh hoạn, chẳng thấy một viên thuốc nào làm phước. Mấy cô
mấy cậu xuống phường khóm họp dân lại nói những chuyện phong
thần, nhà nước thương dân, lo cho dân theo cái điệu vẽ bánh bắt
phải ăn no, thì dân cũng ngất ngư mà xá dài...”
Tôi cười cười sự thật đã không thể bẻ
quanh bẻ quẹo được thì cũng đành thôi!
Đến phần kiểm điểm công tác hầu hết các
phường đều đứng lên nêu các khó khăn của ban mình trong khi đi
vận động.
–
Chúng tôi đến nhà bà A, thì bà B bên cạnh trông thấy đã vội đóng
cửa...
– Mặc
dầu chúng tôi đã có kiên trì giải thích chính sách cũng như chế
độ cấp phát dành cho Kinh Tế Mới, nhưng nhiều đồng bào vẫn thắc
mắc về những tin đồn còn sai sót, thiếu thốn trên vùng Kinh Tế
Mới...
– Đối
với diện gia đình sĩ quan học tập thì đa số đều ngoan cố, viện cớ
chờ chồng về mới đi, chứ không chịu đi trước, vì họ không tin là
chồng, cha họ sẽ được về ngay. Còn giới tiểu thương buôn bán thì
cho rằng còn làm ăn được nên không chú ý lắm về kinh tế mới, v.v.
và v.v.
Buổi
họp kéo lằng nhằng đến 11:30g vẫn chẳng đi tới đâu hết, không
biết đây là lần họp thứ mấy mươi của Ban Kinh Tế Mới, vẫn cái
không khí tẻ ngắt chán chường, vẫn cái giọng làm ra vẻ hăng hái
sôi nổi của thằng cha trưởng ban Quận, đòi phải “đạt chỉ tiêu”,
điệu não nề của các phường khi báo cáo về con số thành tích, biểu
đồ tụt xuống dần dần như mạch của con bệnh đang hấp hối. Câu kết
luận bao giờ cũng “dứt khoát” Khó khăn nào cũng vượt qua! Chúng
ta phải nỗ lực để đạt chỉ tiêu cho bằng được, vì đó là yêu cầu
cấp bách khẩn trương mà Đảng đã giao phó cho chúng ta phải hoàn
thành...
Tan
họp mọi người ra về mệt mỏi. Nắng buổi trưa nhức đầu, hay tại
ngồi nghe thiên hạ nói nhiều quá đâm ra váng vất? Họp với hành
sao mà chán thế không biết! Tôi sẽ phải nói gì với đồng bào của
tôi, cái máy nói quay quá nhiều vòng, đến nỗi người ta có thể
thuộc cả từng dấu chấm, dấu phẩy trong bản văn kiện “trọng tâm
hàng đầu của đảng” về Kinh Tế Mới. Và người ta cũng đã biết hết
cái sự thật bên trong của danh từ đó. Sự nói dối được truyền đi
từ trên xuống dưới rõ ràng và rập khuôn, làm sao bây giờ?
Ngày... tháng...
Dứt khoát là phải thu xếp đi thôi. Nhà
cất bất hợp pháp. Không giải quyết được vấn đề mua bán phải dời
ngay để trả lại sự nề nếp khang trang cho thành phố, khi phải
sống chui rúc khổ sở trong những căn nhà ổ chuột, bà con càng nên
căm thù chế độ Mỹ Ngụy đã bạc đãi đời sống đồng bào nghèo khó. Mỹ
Ngụy là thủ phạm gây nên tệ trạng hôm nay! Nhà nước cách mạng chủ
trương vì hạnh phúc của nhân dân, vì đời sống nheo nhóc của đồng
bào.
Đi kinh
tế mới không phải là đẩy ai, là muốn tống khứ bà con rời khỏi
thành phố, như một số bà con đã hiểu sai lệch về chính sách tốt
đẹp này. Đi kinh tế mới là tạo cơ sở cho bà con đều có công ăn
việc làm, giải quyết được tình trạng thất nghiệp hiện nay, cân
bằng về sự cung cầu kinh tế, phân bố sức lao động trên các vùng
đất tươi tốt còn bị bỏ hoang vì chiến tranh trước đây, tạo ra của
cải và vật chất để xây dựng lại đất nước sau bao nhiêu năm bị tàn
phá trong bàn tay của Mỹ Ngụy đế quốc. Đưa đồng bào đi kinh tế
mới là một bổn phận tất yếu của nhà nước cách mạng, được xem là
một chính sách hàng đầu trong việc chăm lo cho đời sống nhân dân
tận tình, chu đáo.
Mỗi lần đưa đồng bào đi kinh tế mới,
phường khóm chúng tôi đã lo từng cây kim sợi chỉ, từ manh quần
tấm áo, từ nồi niêu mùng chiếu đến tiền bạc thuốc men. Và khi đưa
lên đến nơi đến chốn, thì ở đó đồng bào đã có sẵn nhà ở, có sẵn
gạo ăn, có sẵn một phần nào tiện nghi tương đối mà nhà nước đã
chuẩn bị đầy đủ để tiếp đón đồng bào định cư trên vùng kinh tế
mới mầu mỡ, trù phú... Giọng bà chủ tịch dẻo quẹo trơn tru, tôi
chán ngán khi phải ngồi câm miệng nghe thiên hạ lếu láo “lo cho
từng cây kim sợi chỉ”. Trời ơi! Hành động đâu phản ánh được bản
chất! Tôi biết chuyện này đã xảy ra đối với một gia đình chị lao
công quét chợ và 4 đứa con nhỏ. Tối ngủ ngoài sạp cá, bị công an
đuổi, không có chỗ ở phải đăng ký đi kinh tế mới. Mà “cây kim sợi
chỉ” đó là do bà chủ tịch “tiếp thu” của một gia đình khác, lấy
danh nghĩa “cách mạng” tặng lại.
Tôi xấu hổ khi nhớ những lần tổ chức lễ
tiễn đưa đồng bào đi kinh tế mới trong phường. Bà chủ tịch đã nhờ
tôi gói thật kỹ, thật đẹp, những bộ quần áo cũ có cái đã rách, đã
mục không biết lôi ở đâu ra, để lên micro hô hào quà tặng đồng
bào nghĩa cử cao đẹp của Ủy Ban dành cho “những người đã ý thức
được nghĩa vụ và quyền lợi của gia đình mình cũng như của đất
nước” mà tình nguyện ra đi.
Không có gì chua xót mỉa mai hơn khi về
nhà, người ta mở những gói quà nham nhở đó ra, sự mị dân đã đến
tột cùng!
Ra
về, trời mưa lất phất, nghe đồng bào bàn tán sau lưng:
Họp với hành! Chán quá! Giờ còn bán
gạo, mai mốt cúp gạo, bán bột, bán khoai. Từ từ cúp hết lương
thực, nhu yếu phẩm. Không ký giấy bán nhà. Dọn dẹp chợ búa. Không
cho mua bán lặt vặt để hàng hóa phải vô quốc doanh, vô hợp tác xã
nhà nước. Họ làm tới cùng để mình sống hổng nổi nữa thì phải dỡ
nhà đi. Tôi biết quá mà! Chính sách cách mạng là vậy đó chị ơi!
– “Thương dân, lo cho dân”! Tôi hổng
cần họ thương theo cái kiểu bắt đi kinh tế mới đó. Nói nghe mà
ham! Thiệt tình trên kinh tế mới “ngon lành” vậy đó hả? Tôi hỏi
chị mình còn ở Sài gòn này làm cái giống gì, đi phứt cho nó khỏe,
khỏi mất công nay kêu đi họp, mai kêu đi họp để nghe họ nói này
nói kia nhức đầu. Kẹt nỗi kinh tế mới bà chủ tịch nói hổng giống
như kinh tế mới của thằng em tôi. Lúc đầu, hai vợ chồng nó nghe
nói cũng hăng, đăng ký đi, tôi cũng lên trển mới té ngửa! Cái
“nhà” có chút xíu mà dột lên dột xuống, gạo thì lãnh được hai ba
ký gì đó, rồi nín luôn, cứ ăn khoai lang, khoai mì riết thôi. Nói
có giếng, mà có thấy cái giếng nào đâu, nước không có một giọt mà
rửa ráy, chứ đừng nói tưới rẫy, tưới nương. Thêm cái thứ sốt rét
giết người nữa, mấy miệt kinh tế mới toàn là chỗ rừng bụi không
hà! Nó mới bỏ đứa con hồi tháng trước, tôi mới nói cho chị nghe
đó, còn mấy đứa dẫn về Sài Gòn, đứa nào cũng ghẻ đầy mình, mà
người thì ốm nhom, xanh le xanh lét thấy đứt ruột hết sức! Nói
thiệt với chị thấy vậy rồi thì thà ở đây ăn đất tôi cũng ở nữa,
chứ chẳng đời nào mà đi. Nghe nói mai kêu mấy đứa học sinh ra
đuổi chợ, dọn dẹp không cho mua bán nữa. “Chợ phải đâu ra đó,
không có gióng gánh bừa bãi, người ra kẻ vô ồn ào mất trật tự,
không kiểm soát được hàng hóa chợ đen chợ đỏ”. Nghe nói mà mắc
cười, cái chợ mà không ồn ào thì làm sao gọi là cái chợ được!
Tưởng gì họ sai con sai cháu mình ra đuổi mình. Tôi hỏi chị không
cho mua bán thì lấy gì sống? Không có bán gạo thì lấy gì ăn? Thì
phải đi kinh tế mới theo ý của họ.
– Xí! Nói nghe dễ dữ! Bộ tưởng người ta
khùng hết chắc? Còn lâu!
– Nhưng biết đâu được chị! Nhà nước
cách mạng có nhiều chánh sách lắm. Chị không nghe nói là phải
“dứt khoát” thu xếp mà đi hay sao? Sớm muộn gì cũng vậy, mình là
cá nằm trên thớt chị ơi! Mình chết chứ họ đâu có chết!
Tiếng guốc dép kéo lê trên những con
hẻm tối. Tôi lặng lẽ nép mình vào một hàng hiên, chờ mọi người đi
khuất.
Nỗi
buồn không gọi được tên, cá nhân tôi không giúp được gì cho mọi
người. Chỉ có Đảng và Nhà Nước “lãnh đạo”! Đành vậy sao?
Kinh tế mới như một viễn tưởng hãi hùng
của người dân thành phố từ sau ngày giải phóng. Ở đâu cũng nghe
nói về kinh tế mới, đi đâu cũng nghe bàn về kinh tế mới. Người ta
nói với nhau về danh từ này ở khắp nơi trong miền Nam. Thậm chí
đến những đứa trẻ nhỏ lớp 1, lớp 2 cũng có thể hiểu mang máng về
kinh tế mới do cha mẹ chúng nó kể lại.
Người ta xem như đó là một vùng đất đày
ải, nghèo đói và chết chóc. Tôi nhớ đến gương mặt hợm hĩnh của
Thạch khi kể cho tôi nghe một câu chuyện khôi hài lúc người ta
nhắc tới kinh tế mới.
Có ba người đi trên một con tàu: một
người Nga, một người Mỹ, một người Việt Nam. Tàu ra đến giữa biển
thì có một con khủng long dữ tợn nổi lên, người Nga quát:
– Nếu mày không lặn xuống thì tao sẽ
lấy hỏa tiễn Sam bắn mày.
Con vật cười. Người Mỹ nói:
– Nếu mày không lặn xuống thì tao đem
B52 dội mày.
Con khủng long vẫn trơ trơ, nhưng khi người Việt Nam chỉ tay nhẹ
nhàng nói “Tao sẽ dắt mày đi kinh tế mới”, lập tức con vật hoảng
hồn lặn mất.
Tiếng cười Thạch kết thúc ở đó làm tôi se lòng, ái ngại. Người ta
đã khẳng định một điều gì, qua câu chuyện đùa mỉa mai đó? Kinh tế
mới đã được đánh giá ghê rợn hơn cả hỏa tiễn Sam lẫn B52, sống
trong chế độ cộng sản còn bị đày ải, nghèo khổ hơn cả thời kỳ bị
đế quốc thống trị! Nên cười hay nên khóc trong cái vai trò của
mình bây giờ?!
Ngày... tháng...
Ngày mai có chuyến đưa dân.
Suốt một ngày lăng xăng chạy tới chạy
lui, khiêng từng cái bàn gỗ mục, cái ghế gãy chân. Xách từng
chiếc chiếu rách bươm, cái thúng móp méo ra xe tải để ngày mai
lên đường.
Chị
đàn bà bồng đứa con nhỏ xíu đang ngó mấy người hàng xóm khiêng
phụ cái thùng nhựa đen xỉn, cáu bẩn, từ trong bếp ra.
– Hết chỗ rồi! Gã tài xế lắc đầu từ
chối.
Chị đàn
bà quay sang tôi van nài:
– Cô làm ơn nói với mấy ổng cho lên
giùm đi. Kệ! Có cái thùng, lên trển đựng nước mà xài. Nước giếng
chắc mát lắm hả cô?
Tôi nhìn vào thùng
xe chật ních, đồ đạc của tất cả 7 gia đình gom lại chỉ có một xe
hàng. Tôi chưa thấy người nhà giàu nào đi kinh tế mới. Cũng may,
đỡ phải tốn xăng nhà nước vận chuyển. Tôi nói với người tài xế:
– Anh chịu khó thu lại cho gọn, để nhét
thêm giùm chị này cái thùng đi lên trển chị có mà đựng nước. Tội
nghiệp, tài sản của một gia đình nghèo...
– Nước giếng mát lắm hả cô?
– Vâng. Tôi cũng hy vọng là nó rất mát,
để cho lòng chị khỏi buồn.
Ngày... tháng...
Tôi thấm thía hơn cái tình nghĩa con
người, khi mặc áo mưa xuống thăm những gian nhà chờ đợi tối om,
nhìn đồng bào nằm ngồi nheo nhóc trong ánh sáng leo lét của những
ngọn nến được thắp lên, rải rác, thỉnh thoảng một vài đầu thuốc
lóe đỏ, tiếng đập muỗi chan chát vang lên giữa tiếng khóc la của
trẻ con. Sự náo động rời rạc, buồn thảm. Những bóng người chập
chờn, lố nhố trong mỗi lần tia chớp lóe lên như những bóng ma
đang chờ đợi giờ đền tội dưới hỏa ngục. Tôi đến ngồi bên cạnh một
gia đình đang dùng cơm dưới ngọn đèn dầu nhỏ. Họ ăn lặng lẽ như
cái chép lưỡi của con thằn lằn trong khung cảnh tranh tối tranh
sáng. Món ăn duy nhất là chai nước tương dằn trên cái bọc nylon
có vài lát dưa lèo tèo.
– Gia đình bác đã lãnh gạo chưa bác?
– Mới xong đó cô.
– Đi mà gặp trời mưa như vậy, cực quá
hả bác? Gia đình bác đông không?
Người đàn ông ngước mắt nhìn tôi như có
vẻ dò xét nghi kỵ rồi lại cúi xuống và nốt chén cơm, trong khi
người đàn bà thở dài, kể lể:
– Mưa nắng gì thì cũng phải đi chứ biết
sao cô? Hai vợ chồng tôi với tám đứa con, ổng chạy xe ba gác chở
than ngoài Ngã Bảy. Còn tôi thì bán rau ở chợ An Đông. Hai thằng
lớn thì vá xe đạp. Họ nói đó là mấy nghề tạm bợ, sống bấp bênh,
nhà đông người mà có sức lao động thì phải đi kinh tế mới, chứ ở
thành phố, ai bán gạo hoài cho mà ăn. Đã nghèo lại con đông nữa,
khổ lắm cô ơi! Đêm nào thằng cha tổ trưởng cũng bắt đi họp, rồi
hết người này tới người kia lại nhà kêu đi kinh tế mới, riết rồi
ổng giận quá, bán luôn cái xe ba gác. Đi thì đi. Cái số nghèo, số
khổ, thì ở đâu cũng vậy. Nhà nước thương thì mình nhờ, ghét thì
mình chịu...
–
Cái bà này! Gã đàn ông gắt lên buông đũa ra ngồi ngoài hàng hiên
vấn thuốc hút, cái dáng khắc khồ trầm ngâm như tượng đá.
Ngoài trời, mưa lâm râm. Tôi xót xa
nhìn qua gian nhà gió lùa trống trước trống sau, bao nhiêu người
đang tạm trú ở đây để chờ đợi một chuyến đi, đêm sẽ dài hay ngắn,
và có mấy ai sẽ ngủ được một giấc ngon lành? Hay tất cả đều trằn
trọc, băn khoăn, suy nghĩ về cuộc sống ngày mai trên một vùng đất
xa lạ mà mình sắp đến?
Gom hết mớ tài sản èo uột nhỏ nhoi, vợ
chồng con cái bồng bế nhau rời bỏ thành phố. Có những nụ cười tin
tưởng, hy vọng, có những ánh mắt ái ngại, lo âu. Ngày mai sẽ có
một đoàn xe ra đi với cờ xí rợp trời, sẽ có bà chủ tịch Quận, ông
Bí Thư huyện ủy ra đứng trước ống kính thu hình ngồi khen tinh
thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tích cực tham gia đi vào lao
động sản xuất của nhân dân và thân ái gởi tặng đồng bào một ít
hột giống cùng vài cái cuốc, cái liềm tượng trưng. Rồi thôi.
Đoàn xe sẽ lần lượt rời bỏ thành phố.
Bà con hàng xóm từ giã nhau bùi ngùi.
– Con Ba, mầy đi mạnh giỏi nhé!
– Bà Bảy ở lại mạnh giỏi. Mai mốt cháu
trồng được trái bầu, trái bí, mang về làm quà cho bà mừng.
– Chú Năm lên trển có bắt được con nai
con thỏ nhậu nhớ tui nhe.
– Ôi, nhậu nhẹt gì mày ơi! Tao sợ hổng
có gạo mà ăn kia. Bộ mày tưởng lên trển rảnh rang như thời trước
ngồi uống la–de trong Sở Thú chắc?
Suốt đêm tôi đã không ngủ được. Cái mền
quá ẩm nên làm tôi cảm thấy ray rứt, khó chịu thế nào... Tôi nhớ
gian nhà chờ đợi trống trải trong Viện Hóa Đạo, có hàng trăm
người nằm ngồi chen chúc nhau. Trời mưa lạnh, và họ cũng không
ngủ được, vì mãi nghĩ đến ngày mai và cuộc hành trình quái gở
trong đời.
Ngày... tháng...
Tiếng nấc nghẹn tuyệt vọng làm tôi bồi
hồi.
Tôi có
nên kể cho cô nghe một sự thật nữa của chế độ không? Khi buổi
sáng nay, tôi đã gặp một người quen vừa từ kinh tế mới trở về
thành phố, kể cho tôi nghe những chuyện não lòng. Gia đình sĩ
quan, tưởng khi học tập về, đi kinh tế mới sẽ yên thân cùng gia
đình lao động sản xuất. Chẳng ngờ đời sống bị kềm kẹp tù túng
thêm hơn, nói chuyện với ai năm ba người cũng bị dòm ngó, đi đâu
cũng phải xin phép, trình diện chầu chực, hàng tháng phải vào
rừng làm công tác lao động phá rừng, trồng lúa cho bộ đội ăn. Mỗi
lần đi là làm cả mười hôm hay nửa tháng. Vậy mà mỗi lần có cháy
rừng hay nổ đạn ở đâu, là mấy người sĩ quan thất thế ấy lại bị
chửi bới vung vít, hăm dọa đủ điều. Nào là “bản chất ngụy”, nào
là “thành phần phá hoại phản động”. Muốn được yên thân thì đừng
ngo ngoe, liệu hồn! Tưởng đi kinh tế mới là khỏi nghĩa vụ quân
sự, vậy mà những thằng con trai trụ cột trong nhà vẫn bị gọi đi
đợt đầu, bỏ lại vợ đang mang thai, bà già đang đau nặng. Nhà nước
tận dụng sức lao động, không chừa một người, lấy ai đâu mà canh
tác?! Nước vẫn không có. Bệnh tật vẫn ám ảnh. Sợ hãi, học tập và
lao động mút mùa. Mỗi lần họp hành, những tên cán bộ vẫn không
ngớt ba hoa nào là tăng năng suất lao động để vượt qua chỉ tiêu,
hoàn thành kế hoạch, nào là thi đua lập thành tích để chào mừng
đại hội này, đại hội kia... Thử hỏi cô đàn bà con nít mà làm được
cái gì? Càng nói càng chán, có sống ở đó mới biết, gặp bao nhiêu
chuyện bực mình. Đi kinh tế mới là chui đầu vào rọ, mặc thiên hạ
làm tình làm tội mình...
Tôi đã ngồi ngơ ngẩn cả buổi trời để
nghe cho xong câu chuyện, có thật tôi cũng đang tiếp tay cho họ
để đày ải đồng bào tôi không? Nản hết muốn làm gì nữa! Tôi mong
mình được sống ở đó, chứng kiến mọi sự thật. Để chi vậy? Tôi bất
lực nhìn chế độ đã dồn dân đến bước đường cùng!
Ngày... tháng...
Đi xem triển lãm về kinh tế mới trên
quận. Những hạt lúa trĩu nặng. những khoai sắn to tướng, những
trái bầu, trái bí ngon lành, những tranh ảnh sôi động, phô bày
một mùa thu hoạch đạt kết quả 100% trên vùng kinh tế mới. Tôi
ngao ngán nhìn công lao được tưới bằng mồ hôi và nước mắt của
đồng bào suốt một năm nay, đang được nằm trong bàn tay khép lại
của nhà nước. Hàng biểu ngữ giăng mắc khắp nơi:
– Tất cả cho sản xuất!
– Tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội!
– Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý và
nhân dân làm chủ...
Quản lý có nghĩa là giữ giùm, một đồng
chí đã giải thích như vậy. Có ai tin được điều đó không, tất cả
những hoa màu này tôi đã nhìn thấy trên kinh tế mới, do chính bàn
tay lao động của những người dân đang sống khổ sở ở đó trồng nên.
Nhưng điều chua chát là họ không bao giờ được hưởng trọn vẹn
những sản phẩm tốt tươi này. Đó là một sự thật. Mọi thứ thu hoạch
được, đã có nhà nước “quản lý”, tức là giữ giùm. Cùng lắm là họ
sẽ được tiếng có đạt chỉ tiêu, có tăng năng suất. Biểu dương một
vài cá nhân hay tập thể đã tỏ ra xuất sắc trong thành tích thi
đua lao động. Rồi thì vẫn tay cuốc tay cầy, vẫn ăn khoai sắn thay
cơm gạo, vẫn đói kém khổ sở và túng thiếu mọi thứ nhu cầu cần
thiết trong đời sống người dân trên vùng kinh tế mới. Chế độ mang
danh nghĩa “đấu tranh cho giai cấp lao động nghèo khó”, nhưng
thật ra chính những giai cấp đó bị bóc lột nhiều nhất. Họ bị lợi
dụng để đưa ra “mặt trận lao động” như những công cụ phục vụ cho
chế độ, cho chủ nghĩa riêng tư của một thiểu số người lãnh đạo.
Bằng những chiêu bài mị dân sáng bóng, trò tiểu xảo mà ai cũng có
thể đoán biết được.
Theo chân đoàn đại biểu các phường,
nghe một đồng chí thuyết minh về sơ đồ xây dựng kinh tế mới đang
sắp sửa tiến hành. Chỗ này là trường học, chỗ này là bệnh xá, chỗ
này là trụ sở Ủy Ban Hành Chánh xã, chỗ này là chợ và khu giải
trí tập thể. Đây là phần đất sản xuất tập thể. Đây là phần đất
thổ cư của mỗi hộ gia đình để canh tác hoa màu phụ. Và đây là
nghĩa địa, một khoảng đất nhỏ xíu ở góc sơ đồ đã khiến tôi suýt
buột miệng “Ủa! Sao ít vậy?” nhưng kịp dằn lại cái óc khôi hài
nhiều khi không đúng chỗ của mình. Quả thật, nhà nước chu đáo vô
cùng! Đúng là một vùng kinh tế mới kiểu mẫu chỉ có trên sơ đồ,
trên những cửa miệng ba hoa bóng bảy của tụi tuyên truyền.
Kế đó là đến phần chiếu phim. Những
hình ảnh “sinh động khí thế” của một vài gia đình. Bà Năm, Bà Tám
điển hình, đã tự động dỡ bỏ những căn nhà ổ chuột của mình ở
thành phố để hồ hởi phấn khởi đi xây dựng vùng kinh tế mới. Những
nụ cười toe toét đứng quanh mái tranh, bên cạnh các luống khoai
xanh um, chạy dài, cái bắt tay thân mật của đồng chí trưởng ban
kinh tế mới Quận lên thăm viếng đồng bào.
Hình ảnh các cán bộ đang hì hục khiêng
đồ đạc từ trên xe tải xuống, phụ giúp đồng bào, tôi bắt gặp hình
ảnh cô bạn đồng nghiệp đang xách chiếc ghế mây xộc xệch nhìn về
phía khán giả cười thật tươi, và tôi cũng thấy cái mặt mình đang
cúi xuống cho một gia đình hai ổ bánh mì mang theo để ăn trong
chuyến đưa dân. Bộ bà ba đen không thể biến tôi thành một cán bộ
cốt cán của nhà nước và hành động của tôi trên khung vải không
phải là một nghĩa cử cao đẹp của chính quyền đối với nhân dân.
Trong vấn đề tuyên truyền để gây ưu thế cho cách mạng, người ta
đã không bỏ sót một chi tiết nhỏ nhoi nào để khai thác nó thành
một lợi điểm cho chế độ, cho chính sách. Tôi không ngờ hành động
vô tình của mình, xuất phát từ mặc cảm tội lỗi đối với đồng bào,
lại trở thành một đề tài tuyên truyền của nhà nước và càng thấy
mình “ăn ảnh” trên khung vải bao nhiêu, tôi lại càng xấu hổ bấy
nhiêu. Buồn thay!!!
Ngoài số đại biểu, quan khách đến tham
dự, phòng triển lãm chỉ lưa thưa vài đồng bào tò mò vào xem kinh
tế mới ra làm sao. Một chị cán bộ dẫn hai ba bà có lẽ là đối
tượng vận động đến bàn chưng bày sản phẩm hoa màu kinh tế mới chỉ
trỏ:
– Mấy bác
thấy không? Đất trên kinh tế mới tốt lắm mới trồng được mấy thứ
cây như vầy, tha hồ mà ăn. Chứ đâu như ở Sài Gòn, mỗi chút mỗi
mua, đắt đỏ.
Một bà lão vụt nói:
– Thiệt sao cô? Tui nghe nói làm bao
nhiêu phải bán hết bấy nhiêu cho chính phủ mà! Bán hết rồi lấy gì
mà ăn?
– Đâu
có bác. Chừng nào mình ăn không hết mới bán chứ, chẳng hạn như
đậu phộng, đậu xanh. Hổng lẽ bác ăn hết mấy chục, mấy trăm kí
sao? Thì phải bán bớt...
Một bác khác cúi xuống vốc nắm đậu, nói
trống:
– Bán
cho nhà nước rẻ rề thì cũng như cho không.
Tôi đứng nghe mà cười thầm, nhớ tới
buổi họp dân tối hôm qua, khi mời đồng bào đi xem triển lãm về
kinh tế mới một người đã nói với tôi:
– Khỏi xem cũng biết hết rồi cô ơi! Dân
bây giờ họ sáng mắt, sáng dạ lắm. Nghe nói là biết liền hà!
– Vâng. Tôi cũng mong mọi người hiểu rõ
như vậy.
Một
chế độ mỵ dân và bóc lột trong cái gọi là “Nhà Nước cộng sản” mà
bây giờ ai cũng biết.
Ngày... tháng...
Quận vừa ra chỉ tiêu thi đua tới cuối
tháng phải vận động cho được 80 hộ dân đi kinh tế mới, con số
tưởng dễ dàng như đếm hay sao ấy! Mặt ông Phó Ban của tôi chảy
dài rầu rĩ.
–
Làm sao bây giờ hả cháu?
Tôi cười trừ:
– Có lẽ phải tính cả gia đình bà Chủ
Tịch, ông Bí Thư Chi Bộ, ông Ủy Viên Thư Ký, bà Kinh Tài, gia
đình mấy cô cậu bên Công Đoàn Phụ Nữ... thì may ra mới đủ chỉ
tiêu đã định.
– Đừng giỡn cháu! Họ đâu phải là đối tượng để mình đưa đi kinh tế
mới.
– Thảo
nào mà đồng bào chẳng phân bì sao được, họ nói không thấy ai
trong nhà nước tình nguyện đưa cả gia đình đi kinh tế mới, sao cứ
bắt họ đi, chú nghĩ sao?
Ông Phó Ban bèn chống cằm lặng thinh,
sự thật đã không thể chối cãi được, chính ông Chi Bộ hôm qua
trong buổi họp kiểm điểm cũng phải thú nhận:
– Chúng ta ngồi đây, chưa chắc ai cũng
hăng hái đi kinh tế mới, bởi vì chúng ta đã quen hưởng thụ (!).
Nên việc vận động đồng bào đi kinh tế mới, chắc chắn phải gặp
nhiều trở ngại khó khăn, nhưng, dứt khoát họ vẫn phải đi kinh tế
mới. Vì đời sống họ ở trong thành phố bấp bênh, tạm bợ.
Tôi ngồi nghe, vừa buồn mà vừa buồn
cười. Bác dạy “Khó khăn nào cũng phải vượt qua”, nên các ông các
bà cố mà vượt qua bằng mọi cách kể cả biện pháp hành chánh và
quân sự, để đẩy cho được từ một triệu rưỡi đến 2 triệu dân dời
khỏi thành phố trong cuối năm nay, một cuộc vận động cách mạng
lớn mà, các đồng chí nhiệt liệt tán thành chủ trương của đảng
chứ? Gã thanh niên đề nghị phát động liên tiếp nhiều đợt thanh
niên xung phong, chị phụ nữ hứa sẽ vận động các chị em phụ nữ
đăng ký vào tổ hợp trên kinh tế mới, ông công đoàn tuyên bố sẽ
không giải quyết những đơn xin mở tổ hợp, cơ xưởng của số người
có ý muốn nấn ná, viện cớ ở lại thành phố, phía công an sẽ dứt
khoát không chịu chứng nhận lý lịch để bổ túc hồ sơ xin việc làm
và gia hạn thêm thời gian cho những người tạm trú quá lâu, bà thư
ký thì chiếu theo văn thư mới nhất của Sở Nhà Đất thành phố, sẽ
không ký giấy chấp thuận cho mua bán nhà, nếu đằng bán không chịu
hồi hương hoặc đi kinh tế mới.
Một lô biện pháp hành chánh được nêu
ra, để chấp hành cho được cái chỉ thị hàng đầu của Đảng “Tất cả
cho sản xuất” mà dân là công cụ chính yếu nhất để họ thực hiện âm
mưu này.
Ngày... tháng...
Tôi khó chịu khi nhận một hàng danh
sách do tên Bí Thư Chi Đoàn đưa qua với lời dặn dò:
– Chị hãy cố gắng bằng mọi cách để bắt
buộc họ phải chấp nhận một trong hai điều: hoặc là chính họ phải
đi thanh niên xung phong, hoặc là cả gia đình họ phải hồi hương,
hay đi kinh tế mới, nếu phần chị xong, thì số người còn lại không
chịu cam kết, chị lập lại một danh sách gởi qua tôi. Tôi sẽ cho
giấy triệu tập đến tận nhà họ.
Tôi nhìn cặp kiếng cận xệ đến mũi của
tên nhãi mà phát ứa gan, đằng nào thì cũng thế, thà cứ bảo cha nó
là cưỡng bức lao động đi còn hơn dùng hoài cái điệp ngữ kệch cỡm
“thi hành nghĩa vụ lao động”.
– Chúng tôi xin trân trọng báo tin cho
anh... đã đến tuổi thi hành nghĩa vụ lao động. Vậy mời anh đúng
ngày... giờ... đến đăng ký đợt Thanh Niên Xung Phong... xuất quân
vào ngày... Đề nghị anh chấp hành tốt đợt xuất quân trên...
Tôi hậm hực muốn xé bỏ những tờ thông
báo đáng ghét đó, cả một tương lai tuổi trẻ đều nằm gọn trong
hàng chữ cay nghiệt của chế độ.
– Đâu cần thanh niên có, đâu khó có
thanh niên!
–
Bằng tay ta làm nên tất cả! Với sức người sỏi đá cũng thành cơm!
– Người thanh niên phải có lý tưởng
cộng sản! Phải dâng tuổi trẻ, dâng nhiệt tình cách mạng cho lý
tưởng, cho lá cờ vẻ vang của Đảng, của Đoàn!
– Phải làm cây tùng cây bách xanh tươi
cho thế hệ, xứng đáng là thanh niên trong thế hệ Hồ Chí Minh
quang vinh!
–
Mình vì mọi người thì mọi người sẽ vì mình...
– Hăng hái thi hành nghĩa vụ quân sự,
nghĩa vụ lao động, chứng tỏ mình là thanh niên sớm ý thức được
vai trò rường cột của nước nhà, biết yêu chủ nghĩa xã hội, yêu
quê hương, yêu tổ quốc... Các em thiếu nhi có 5 điều Bác Hồ dạy;
các anh chị thanh niên có 3 xung phong, có 4 sẵn sàng...
Nói riết rồi như con két lập đi lập lại
những lời vô nghĩa bấy nhiêu bài học đã thuộc nằm lòng, tôi sẽ
chỉ việc tuôn ra như một cái máy hát. Công việc tưởng như dễ dàng
nhưng thật khó biết bao, những nạn nhân đang ngồi sắp hàng chờ
đợi. Những gương mặt trẻ thẫn thờ đang bị nhồi nhét mớ lý tưởng
buồn nôn – Sống chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ
vĩ đại, lợi dụng tuổi trẻ để làm những nấc thang xây dựng cái chủ
nghĩa cộng sản đầy tham vọng, súc sinh và phi lý...
Im lặng để chấp nhận việc người ta đẩy
dần tuổi trẻ của tôi, của bạn bè tôi vào cái lò sát sinh quái gở
của cộng sản đã là một cái tội lớn. Tôi nghẹn cứng trong cái vai
trò của mình.
Ngày... tháng...
... Trên bước đường đi tìm sự thật, anh
vừa sống qua những ngày trên vùng đất kinh tế mới của em. Mùa mưa
vừa về anh đã thấy gì trên một vùng đất phì nhiêu của đất nước,
mà tất cả mọi người đều hy vọng sẽ một ngày nào đó trở thành một
nguồn sống, một sinh lực mới, thật mạnh mẽ để đưa mọi người, mọi
gia đình và cả một quốc gia vươn lên sau bao nhiêu năm chiến
tranh.
Anh đã
thấy sức sống vươn lên từng đọt cây ngọn cỏ. Những luống khoai
mì, khoai lang. Những cánh đồng đậu xanh, đậu phọng. Tất cả đều
xanh mướt, báo hiệu cho một mùa gặt đầy kết quả. Và kế đó, trên
khía cạnh con người đã đổ mồ hôi và tài sản của mình trên những
mảnh đất này thì lại là hình ảnh cũa những nét ưu tư, thất vọng
và chán chường. Em thử tưởng tượng, có những nét chấm phá nào
linh động, mỉa mai hơn hình ảnh của từng dãy nhà xiêu vẹo, tróc
nóc, bỏ hoang trên cánh đồng hoa màu thật tươi tốt.
Mầm sống của thiên nhiên đã vươn lên từ
đó, nhưng con người đã lần lượt dứt áo ra đi, bỏ lại tất cả mồ
hôi và nước mắt của họ, để trở về sống chui rúc trong những khu ổ
chuột hay những vỉa hè của thành phố. Từ những người thợ, những
người nông dân, họ trở thành những hành khất. Không có ai đuổi họ
đi hết, nhưng họ vẫn đi mà không tiếc nuối sức lao động của mình!
Tại sao họ lại bỏ miền đất hứa? Có phải họ đi tìm thiên đường
chăng?
Trong
khi đó thì cũng có một số gia đình ở lại. Họ đã tử thủ trên miền
đất hứa đó và hình ảnh tiêu biểu để anh có thể nhận dạng ra họ là
một người đàn bà mặc cái quần đen mốc, chiếc áo cánh vá víu tả
tơi, đang bổ củi để bán cho khách qua đường.
Con người, khi đến tột cùng của khổ đau
hay hạnh phúc, đều có óc khôi hài rất tế nhị, anh ghé lại mua củi
(rất rẻ, chở về đến cầu Sông Bé, anh bị công an tịch thu với lý
do thật buồn cười, phải có biện pháp như thế, để họ (những người
dân kinh tế mới) phải chịu lao động sản xuất, họ tin như vậy à.
Hỏi thăm về đời sống về kết quả thu
hoạch của vùng kinh tế mới, nhất là khi anh khen mùa màng có vẻ
tươi tốt, thì chị mỉm cười, đượm vẻ mỉa mai:
Lần này là lần thứ ba rồi đấy cậu. Ở
đây khỏe lắm khỏi ăn độn như dân thành phố, chỉ ăn rặt một thứ
khoai mì thôi à! Lâu lâu bữa nào vui thì ăn độn một bữa, như đám
giỗ chẳng hạn. Cậu hỏi kết quả thu hoạch của tôi hả? (Chị chỉ đứa
bé gái khoảng 6 tháng, ốm èo uột đang nằm trên tấm đệm rách). Đó!
Kết quả đó!
Tại sao trong khi có những người bỏ đi thì vẫn có những người ở
lại? Họ ra đi để tìm cái gì? Họ ở lại để làm gì? Hy vọng của họ ở
đâu? Hình ảnh sau cùng đã làm cho anh bất nhẫn phẫn uất nhất, là
hình ảnh của những người Thanh Niên Xung Phong. Trong một buổi
sáng thật sớm, thật lạnh khi thức dậy từ trên xe bước xuống, anh
thấy họ ngồi dọc theo hàng hiên của dãy nhà tranh, trong đám đông
mình không thể nào nhận diện được một sắc thái cá biệt nào, nhưng
hình ảnh chung của họ không phải là một đoàn thể thanh niên khỏe
mạnh rường cột của nước nhà, mà lại là hình ảnh của sự tiều tụy
chán chường và bệnh hoạn, đồng phục của họ là bộ đồ xanh rách
nhuộm đất đỏ, nón tai bèo lụp xụp bên tai. Cái nhìn của họ không
còn là cái nhìn trong sáng đầy tin tưởng ngạo mạn của tuổi trẻ,
mà lại là những ánh mắt lạc lõng, ngây dại. Sắc da của họ không
phải là màu hung xạm nắng phong sương mà là một màu bệt vàng với
vành môi tái mét của sốt rét rừng. Họ lên đường thật mệt mỏi, kẻ
rìu người cuốc tiến quân vào rừng để đốn lồ–ô, chặt tre, khẩn đất
xây dựng lại quê hương?!
Cuộc tiến quân của họ thật lặng lẽ, hy
sinh của họ thật vô bờ. Anh theo họ vào khu vực khai thác. Anh
thấy họ không còn là những con người nữa, giữa hình ảnh của các
cán bộ điều hành, phì phà điếu thuốc trên môi, tay cầm gậy tre
chỉ trỏ chửi thề, họ chỉ là hình ảnh của những tên nô lệ, mình
trần đầy ghẻ thẹo, đang làm việc theo lệnh của các cai ngục.
Cũng trong dịp đó, anh có làm quen với
một cô bé tên Yến, mới vào thanh niên xung phong được một tháng,
làm toán cứu thương. Cô bé có óc lãng mạn, thích thú với cuộc
sống giữa thiên nhiên, nhưng đồng thời lại có những nhận xét rất
chua cay về lý tưởng, cô bé đã ý thức được mang máng về sự lợi
dụng các danh từ, anh với cô bé đã nói chuyện cả một buổi sáng
trên công trường, trước cặp mắt soi mói của mấy tên cán bộ. Rồi
dần dần có một hai cậu mon men lại gần, hết gọi anh bằng “ông
thầy”, lại gọi là “đại ca”, để cuối cùng xin một điếu thuốc!
Thật anh xót xa cho họ quá! Mới hôm qua
đây, họ là những chàng trai trẻ ngổ ngáo, ngang tàng, hôm nay đã
trở nên xác xơ thảm hại...
Tối đến, từ trong những dãy nhà tranh
của đoàn thanh niên xung phong, dưới ánh đèn dầu leo lét, vang
lên những bản nhạc của Trịnh Công Sơn. Tiếng đàn, giọng hát hòa
lẫn tiếng mưa lâm râm của núi rừng. Thật không có gì tả đúng tình
cảm của anh lúc đó, anh muốn sống chung với họ, chia sẻ những khổ
nhục với họ và đồng thời, anh giận họ, bực tức sự khổ nhục mà họ
đang chịu đựng. Suốt đêm anh không ngủ, đốt biết bao nhiêu điếu
thuốc trằn trọc, rồi những người thanh niên xung phong còn phải
chịu đựng bao lâu nữa?
Người dân đốn một cây lồ–ô được 10 xu.
Người thanh niên xung phong được tiếng “Anh hùng lao động”. Nhiệt
tình và lý tưởng cách mạng thật vô giá! Thiên đàng thật gần mà
cũng thật xa, chỉ cần nằm xuống là đến. Và còn bao nhiêu cô Yến
nữa để đủ số xây dựng thiên đường cộng sản?!
Trong lúc đó, anh cũng vừa đọc được một
bài trên báo Tin Sáng nói về kinh tế mới, báo ngày thứ bảy hay
chúa nhựt gì đó. Thật là hai hình ảnh đối chọi, mâu thuẫn nhau.
Một, anh là thằng nói dóc, nếu không,
thì thằng nói dóc chính là tên “ký giả” trên báo Tin Sáng.
Ngày... tháng...
Tí Cồ ạ,
Sao tớ mệt mỏi và lười biếng lạ lùng.
Sự chờ đợi làm tớ chán nản. Những ngày còn lại ở đây để chờ đợi
một đổi thay, chôn chân trong thành phố tẻ nhạt này, mỗi sáng đi
làm băng ngang khu chợ ồn ào, hít ngập hai lá phổi những bụi bẩn
từ bồn rác trong chợ bốc lên giữa tiếng động cơ ầm ĩ của xe vệ
sinh, vào phường gặp mặt ông trưởng ban đỏ gay, nồng rượu khai vị
trong ngày. Mặt ông phó ban chảy dài chống cằm rầu rĩ, vì tới kỳ
báo cáo mà không một ma nào đăng ký đi hồi hương hoặc kinh tế
mới.
Trời ơi!
Tí Cồ thử tưởng tượng ra khung cảnh đều đặn mà ngày nào tớ cũng
phải chịu đựng, chán phèo! Tớ thèm thay đổi không khí, thay đổi
nghề nghiệp, đời sống, vì nếu tình trạng này kéo dài lâu quá tớ e
mình sẽ phát điên mất.
Nhớ Sóc Trăng mà không về được, Sài Gòn
có ai đâu. Nhỏ Minh chán học, cúp cua hoài và đòi đi Thanh Niên
Xung Phong để cho sáng mắt ông già cách mạng của nhỏ, tên Hương
thì lu bù chuyện áo cơm, nhà cửa, Kiệt cũng bận học thi, tớ chẳng
có chỗ nào đi rong cuối tuần. Vả lại, tớ cũng đang bị ông bố giới
nghiêm trầm trọng, lý do là đã nghỉ làm ba ngày liên tiếp không
báo cáo với thủ trưởng, để theo anh Bảy và bạn bè lên Long Khánh
đi săn (?), xe lửa đỗ lại sân ga lúc nửa khuya giữa rừng núi âm
u, cả bọn đạp xe cọc cạch ra tới đường nhựa để về rẫy. Sáng hôm
sau, anh bạn thổ địa trong làng dẫn lên núi thăm mấy chiến khu cũ
của cách mạng, mệt ơi là mệt, nhưng cũng khuây khỏa được phần nào
nỗi buồn chất chứa bấy lâu.
Suối reo róc rách và lòng tớ hết muốn
quay trở về thành phố. Thèm cả bọn mình đều có mặt ở đây, quay
con nai vàng ngậy mỡ trong ánh lửa bập bùng, tưởng mình vừa trở
lại thời đại nào hoang sơ, như chàng Robinson với râu tóc bờm xờm
của anh hippie cũ.
Đi xa, thấy mình sống thật với mình
hơn, Ngọc Ánh của thuở nào mơ mộng chuyện hoang đường “Aladin với
cây đèn thần” cổ tích, giữa núi giữa rừng mông mênh, thấy mình
nhỏ nhoi nhưng thật ngang tàng.
Thời đại nào, tớ cũng ghét làm kẻ bon
chen. Tại sao ta phải lao đầu vào cuộc sống hì hục, khổ sở ở
thành phố ồn ào, mà không nghĩ là nên lên núi vào rừng, yên tịnh
bát ngát như thế này cho thoải mái, đất đó suối đó sao không được
tự do phá rừng làm rẫy và muốn sống ra sao thì ra theo ý mình
muốn? Sao lại cứ phải để cho nhà nước lãnh đạo quản lý?
Kinh tế Mới của tớ cũng vào rừng, cũng
làm rẫy nhưng có điều nó tù túng khó chịu quá khi bị áp đặt cưỡng
bức những điều người ta không muốn, dân chúng thì phát điên với
hàng mớ danh từ nổ như pháo – Thi đua lập thành tích dâng Đảng!
Dâng Bác! – Đạt chỉ tiêu! Tăng năng suất! Hội thảo. Kiểm điểm.
Chấm công...
Cơm gạo mỗi ngày một giảm bớt, cuộc sống ở đâu cũng chật vật khó
khăn làm mệt không được nghỉ, mặc dù có câu cửa miệng “làm theo
năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Nhu cầu gì cân gạo ký đường cũng
tính theo tem phiếu. Xạo ke, dóc tổ! Lao động chưa thấy vinh
quang mà đã thấy người càng gầy nhom bệnh tật do lao lực quá
sức...
Mỗi lần
đi họp cháu ngoan bác Hồ, nghe mấy tên đoàn viên ba hoa với đàn
em nhỏ rằng Đất nước ta giàu đẹp, nhân dân ta anh hùng, đã có quá
trình cách mạng lâu đời, chống đế quốc xâm lược, chống thực dân
phong kiến. Thế giới có Marx–Lenin và Việt Nam ta có Hồ Chí Minh
vĩ đại, có Đảng cộng sản quang vinh, có lá cờ đỏ bách chiến bách
thắng... và có trăm thứ, v.v.
Mấy đứa nhỏ ngồi nghe cười khúc khích,
không phải tụi nó hiểu hết những danh từ đao to búa lớn kia mà
thấy anh Đoàn múa tay chân như con khỉ.
Cứ nói hoài giọng điệu cũ rích “đất
nước còn nghèo, đang ở thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai
đoạn khôi phục kinh tế do hậu quả chiến tranh xâm lược của đế
quốc để lại. Cố gắng khắc phục mọi gian khổ, khó khăn, để chừng
bảy tám cái kế hoạch ngũ niên nữa thì lo gì mà chẳng bằng các
nước xã hội chủ nghĩa anh em tiên tiến trên thế giới?”
Ừ, hãy đợi đấy, không có gì chán bằng
phải ngồi im nghe người ta nói dóc, mỵ dân bằng những lời hoa mỹ,
khôi hài nhất là họ cứ tưởng người dân luôn tin vào những điều
giả trá bịp bợm đó.
Coi chừng! Sự chịu đựng đến lúc nào đó
sẽ vỡ òa phẫn nộ.
Nhưng dù có thế nào thì tớ cũng muốn
nói với đằng ấy một điều, chúng ta là những người tuổi trẻ mà
tuổi trẻ thì có lý tưởng có nhiệt tình, hãy đặt lý tưởng nhiệt
tình đó vào một mục đích CÓ THẬT, cái gì CÓ THẬT thì chúng ta đeo
đuổi hăng say để xây đắp, vun bồi.
Thiên đường không phải là điều có thật
và thiên đường Xã hội chủ nghĩa mà cộng sản thường rêu rao bằng
mớ lý thuyết mơ hồ giả trá như những điều chúng ta đọc được ở
trong sách vở, từ chương của giảng đường cách mạng thì lại càng
không có thật, bộ mặt xã hội hiện nay là một minh chứng hùng hồn
nhất mà ai cũng thấy, hễ nói tới Đảng là người ta nghĩ ngay đến
sự tham lam độc tài của chính quyền và sự bần cùng hoá của nhân
dân Việt Nam dưới chế độ cộng sản.
Trò chơi đã bắt đầu và tớ đang nhập
cuộc.
Còn đằng
ấy thì sao?
Sách
in lần đầu 200 cuốn chỉ dành tặng riêng cho Thầy Cô và bạn bè
trong trường
Trung Học Hoàng Diệu đang sống ở hải ngoại, với mong muốn trải
lòng để nguôi ngoai nỗi buồn riêng tư đã cố nén oặn đau từ bao
tháng năm uất nghẹn, nhưng tôi không ngờ cuốn sách của mình lại
nhận được quá nhiều sự đồng cảm của thân hữu từ khắp nơi gởi về,
cả những tiếng nấc nghẹn trong phone khiến tác giả lặng người. Ừ,
câu chuyện buồn quá, đoạn trường này đâu hẳn của riêng ai trong
giai đoạn tang thương bởi thảm hoạ cộng sản. Dấn thân chỉ là
chuyện nhỏ thôi mà, thành công mới là chuyện lớn, làm “cách mạng
không – Cộng sản” ai cũng có thể làm được nếu có tấm lòng yêu Quê
Hương bằng trái tim rực lửa, thiết tha với tiền đồ Tổ Quốc để
chống mọi áp bức bất công của độc tài Đảng trị, không thờ ơ vô
cảm trước thảm họa đã và đang xảy ra từng ngày trên Đất Nước
mình, thì chắc chắn ngày tàn của Chủ nghĩa cộng sản sẽ không còn
lâu nữa.
Xin
được trích dẫn vài tâm tình mà người đọc đã chia sẻ về tác phẩm
buồn này với lòng biết ơn của tác giả.
“Một
tinh thần cương quyết, một quyết định chọn lựa đau thương để bước
sang một lằn ranh giới dù phải hy sinh mười một năm tuổi thanh
xuân sống trong nhà tù cùng với con trai mới qua tuổi thôi nôi,
nữ tác giả Ngọc Ánh bằng lối viết văn giản dị trang trải trong
trang nhật ký Ngày Tháng Buồn Hiu:
– Nội tâm xâu xé giữa tình phụ tử, tình
chị em khi không cùng chung lý tưởng. Thà bế con đi tù hơn là bị
áp đặt một lý tưởng để sống an nhàn trong sự bao bọc của Cha và
Chị.
– Sức
chịu đựng phi thường của một người vợ bị từ chối lời yêu cầu được
tiễn chồng lần cuối, cho con được gặp cha, trước khi đồng loại
đem hành quyết người bạn đời đang sống trong cùng trại lao tù.
– Tấm lòng hy sinh cao cả của bà mẹ trẻ
quyết định cho con rời trại giam để nhờ bàn tay những nhà từ
thiện phương Tây mang con thoát khói cảnh tù, thoát khỏi những
bữa ăn thiếu dinh dưỡng của mẹ nhịn cho con. Gạt lệ tiễn con với
lòng nguyện cầu mong con được bình phục dù không mong còn gặp
nhau.
Chiến
tranh Việt Nam đã khiến bao nhiêu gia đình ly tán bằng nhiều
cách, tình thân trong gia đình bị nát tan. Chân thành cám ơn nữ
tác giả Ngọc Ánh, một nạn nhân của xã hội chủ nghĩa, đã chia sẻ
những NGÀY THÁNG BUỒN HIU của mười một năm tù đày trong thiên
đường cộng sản và chấp nhận sống xa con đến nay cũng hơn ba mươi
năm.” –(Cô Võ
Kim Sơn, Ph.D)
– “Cuốn sách thật độc đáo, nếu chỉ in
bằng tiếng Việt sẽ chìm vào quên lãng với thời gian, đề nghị dịch
ra tiếng Anh và phát hành cho thế hệ trẻ ở hải ngoại đọc để biết
thêm về giai đoạn gian nan của đất nước mình.” –(Phan Tấn Hải, Việt Báo, California)
– “Tôi thật bất ngờ khi đọc thiên Hồi
Ký đầy tâm huyết máu lệ này. Chỉ biết nói lời khâm phục và thật
lòng khâm phục. Từ lâu tôi đã biết văn tài Ngọc Ánh nhưng bây giờ
mới hiểu rõ tại sao Ngọc Ánh lại viết hay tới như vậy. Cái năng
lực kiên cường, lòng quả cảm, trái tim đầy nhiệt huyết và ý chí
đấu tranh không lay chuyển, cộng với vốn sống đầy đặn phong phú
đã khiến ngòi bút Ngọc Ánh sáng long lanh. Người bạn Ngọc Ánh nên
mừng vì mình được gần gũi với một người có cõi lòng cao quí...” –(Võ Kỳ Điền–Canada)
– “Tôi đã nhận được sách chị gởi và đã
đọc một mạch đến gần 4 giờ sáng không để xuống được. Chị viết
thật chuyên nghiệp có thua gì một nhà văn đã thành danh đâu. Đọc
câu chuyện của chị, tôi mới thực sự cảm nhận được tâm trạng và
tình cảnh của chị trong thời gian đó. Chị xứng đáng được liệt vào
hàng liệt nữ. Tôi thấy điều quý nhứt là cuối cùng chị trút bỏ
được nỗi đau để tìm thấy sự an lạc mà không còn để lòng hận thù
dày xéo mình, điều này nói thì dễ nhưng không phải ai cũng làm
được, kể cả những nhà tu hành, vậy mà chị làm được điều đó, thật
đáng mừng cho chị.” –(Khâm Bùi, California)
– “Càng đọc càng đau buồn, Cô không thể
tưởng tượng nổi Ngọc Ánh trải qua những tai họa kinh hoàng như
vậy mà còn sống sót để trở về, Cô rất cảm phục em đã can đảm dấn
thân cho lý tưởng ‘chống kháng – chiến – chống – Mỹ’ bất chấp
tuổi trẻ tươi đẹp của mình có thể bị ngã gục trong lao tù cộng
sản.” –(Cô Lê
Đình Điểu)
–
“Tôi rất cẩn thận khi gọi ai đó là anh hùng hay anh thư, bởi vì
điều này rất quan trọng nếu khen ngợi một ai đó lên quá tầm mà họ
có để gây những ảo tưởng. Thật sự tôi chưa biết anh Trần Thắng
Tài là ai, nhưng chỉ cần một điều: sau 30/4 khi chúng ta bỏ nước
ra đi bằng nhiều cách khác nhau để mong tìm cuộc sống tự do và an
bình cho bản thân và gia đình mình, thì anh Tài đã ở lại, một
mình chống chọi với chế độ cộng sản vừa chiến thắng, thì với tôi
chỉ một điều đó thôi, anh ấy rất xứng đáng được gọi là Anh Hùng.
Một họa sĩ có thể vẽ nhiều bức tranh, một nhà văn có thể viết
nhiều tác phẩm nhưng chỉ cần một bức tranh hay một tác phẩm đi
vào lòng người và ở lại với thời gian mới là điều đáng kể, cuốn
sách của chị Ngọc Ánh đã làm được điều đó, vì chị đã viết bằng
nước mắt đong đầy nỗi tủi nhục đắng cay và sự trung thực xé
lòng.” –(Tường
An, đài RFA Paris)
– “Đọc sách ‘Ngày Tháng Buồn Hiu’ để
thấy rõ thêm sự gian trá, lươn lẹo, tàn ác của CS; để thấy bao
nhiêu cảnh đời đã bị tan tác bởi sự kỳ thị ‘giai cấp’ của những
kẻ trí trá đang cầm quyền, rúng rẻ lương dân. Đọc để thấy tình
yêu thương sâu sắc, thuỷ chung của cô với người chồng khí khái,
anh hùng, và sẵn lòng hiến thân cho lý tưởng quốc gia; để thấy sự
đau đớn khổ sở vì bất lực của một người Mẹ bị tù đày vì chống sự
tham tàn vô luân của CS, và đã không còn cách nào để bảo bọc được
đứa con bé nhỏ, bị đau nặng đến thành người tàn phế, ngay trong
tù... Và đọc để còn chút hy vọng là tinh thần đấu tranh với tình
yêu dân tộc, tình người chân chất, cao vời của con dân nước Việt,
như cá nhân Cô Ngọc Ánh và một số người nữa, vẫn còn đó đây...” –(Minh Phượng–học trò QGNT)
“Ngày Tháng Buồn Hiu” được viết với một
nhiệt tình hiếm có nên suốt cuốn hồi ký là những trang sách hừng
hực sự kiện. Có những lúc quá bực tức khi phải sống trong một nơi
chốn mà sự dối trá, bịp bợm lên ngôi, đã khiến tác giả không cầm
lòng được phải lên tiếng... chửi thề. Tác giả đã “tiên sư anh”
hoặc “sư khỉ” hoặc “mồ tổ cha nó” khi chứng kiến trò hề gọi là
bầu cử dưới chế độ cộng sản. Rất nhiều chỗ trong sách, tác giả
phải chạy theo những sôi nổi do uất ức tràn đầy nên dùng những
câu viết dài với rất nhiều dấu phết. Câu văn không dừng lại được
bằng những dấu chấm cách đoạn. Điều này chứng tỏ cây viết của tác
giả chấm hơi sâu vào bình mực, một thói quen của những người mới
viết hoặc chưa quen viết. Nhưng khi kể lại một đoạn đời nhiều
truân chuyên, người ta có cần phải trau chuốt câu văn không, tôi
nghĩ là không. Chính cái thô nhám của những dòng chữ đã chứng tỏ
sự trung thực của tác giả. Sự trung thực đã phả hồn vào chữ nghĩa
khiến người đọc không rời được cuốn sách một khi đã đọc những
dòng đầu. Chất văn học nằm trong cái tinh ròng của một mảnh quý
kim chưa mài dũa. Nhìn khuôn mặt không hề có lửa của Ngọc Ánh,
tôi không hiểu do đâu mà chị có đủ nghị lực và cương quyết để dấn
thân vào một cuộc sống ít người có can đảm làm được. Mặt nước
phẳng lặng không phải là không có những chuyển động cuồn cuộn bên
dưới. Tôi khâm phục con người thức thời và quả cảm này. –Nhà văn SONG THAO (Canada)
– Cuộc chiến Việt Nam được chấm dứt
tháng tư năm 1975 sau 20 năm người Việt tàn sát lẫn nhau. Kể từ
tháng tư năm đó, người dân Miền Nam đã bị đày đọa, cầm tù hàng
triệu người, kỳ thị và ngược đãi đến nỗi họ phải liều chết ra đi
để rồi hàng triệu người bỏ mạng tại Biển Đông, gia đình ly tán,
và khổ nạn đó kéo dài đến ngày hôm nay, khác với Dân Do Thái chỉ
bị nạn Quốc Xã có 6 năm, từ 1939 đến 1945.
Tôi vẫn tự hỏi có ngày nào được đọc
những trang nhật ký của một người thiếu nữ Miền Nam, nạn nhân vô
tội của chiến tranh, trong trắng, vô tư và trạc tuổi của Anne
Frank, khi bạo lực đã không cho họ có được một cuộc đời an lành
như họ ước mơ. Sở dĩ tôi mong mỏi như thế, vì tôi đã sống trong
trại cải tạo, đã đọc những hồi ký viết về thời gian đó, nhưng
chúng tôi là những người lính, đã tham dự chiến tranh, đã trưởng
thành khi Sài Gòn thất thủ. Đối với tôi, mọi sự rất giản dị, thua
trận thì bị cầm tù và hành hạ, dẫu sự thua trận đó có nhiều lý do
chứ không vì thiếu can trường. Cái mà tôi thắc mắc là những thanh
thiếu niên Miền Nam, chưa tới tuổi 20, họ tiếp nhận sư thua trận
của chúng tôi ra sao? Cuốn nhật ký của Ngọc Ánh, đã giải tỏa cho
tôi phần nào những thắc mắc đó, nhưng lời giải đáp không vui chút
nào, đúng như tôi suy nghĩ, vì tựa đề của cuốn nhật ký là Ngày
Tháng Buồn Hiu. –Bs Trần Mộng Lâm(Monreal)
Xin chân thành cám ơn Thầy Cô và các
anh chị đã giúp Ngọc Ánh hoàn thành cuốn sách này, sự sai sót
chắc không tránh khỏi khi nó được in ra, mong mọi người thông cảm
và góp ý.
Mọi
liên lạc xin gởi cho Ngọc Ánh
email:
ngocanh30475@gmail.com
Mục lục
– Ngược Dòng
–
Ngày tháng buồn hiu
– Chặng đường đã qua
– Cát bụi
– Ông già Noel là Mẹ
– Nỗi xót xa riêng
– Cảm ơn
– Phụ bản cuốn “Nhật Ký Mực Tím”
Vẽ bìa: Trường Ân
Tranh và hình phụ bản: Lê Phổ, Nguyễn Tư, Soan Phi
Sửa bản in: Thanh Huyền, Trương Vĩnh
Đọc
lại bản thảo: S. Nguyễn
In lần đầu vào
tháng 5/2016
In lần thứ 2 vào tháng
7/2016
In lần
thứ 3 vào tháng 7/2017 (dưới sự tài trợ của Thầy NVT cựu giáo sư
trường Quốc Gia Nghĩa Tử Sài Gòn)
In lần thứ 4 vào tháng 7/2019
Tôi
đi mình ên trong chuyến xe lửa từ Paris sang Thụy Sĩ với tâm
trạng nôn nao và thoáng lo âu ngần ngại, mặc dù đây không phải là
lần đầu thân gái dặm trường xuyên quốc gia như thế này, cách đây
2 năm tôi cũng từng liều mạng mang ba lô dong ruổi đi Tây mà chữ
nghĩa tiếng Tây không rành nửa câu, không cellphone wifi để liên
lạc trong trường hợp khẩn cấp, không có quá 200€ trong túi, chỉ
theo lời mời thân tình của một gia đình Tây quen biết sơ giao mà
hăm hở đi đại với mục đích duy nhất là thăm thằng con tật nguyền
đang sống lưu lạc xứ người. Cái đất nước Thụy Sĩ giàu có bậc nhất
thế giới này đã cưu mang nuôi dưỡng đứa con trai èo uột tội
nghiệp của tôi từ hơn 30 năm nay. Thật lòng tôi nợ những con
người ở đây một lời cám ơn vô hạn.
Xe chạy băng qua những đồi thông, những
cánh đồng, những thành phố nhỏ bình yên với nóc nhà thờ thấp
thoáng trong sương mù, tự dưng thấy nhớ Đà Lạt mấy mươi năm
trước, nơi mà tôi đã đến rón rén với cái ba lô mang ngược, bởi
cái giọng con nhỏ em họ rù rì “chị mà không đi phá thai để bác
Năm biết được ổng cạo đầu khô cho coi”. Tại sao phải bỏ đứa nhỏ?
Có thể ba tôi không chấp nhận “tên lính ngụy” trong gia đình cách
mạng của ông nhưng tôi yêu anh ấy biết bao nhiêu. Chúng tôi có
quá nhiều chuyện để làm phía trước, có thai lúc này là “ngoài kế
hoạch”, nhưng tôi cương quyết giữ lại tình yêu và lý tưởng của
mình. Vậy là tôi chạy trốn Sài Gòn lên thành phố sương mù, tạm
trú trong nhà người quen chờ ngày sinh nở, anh có mặt bên cạnh
tôi trong khoảng thời gian khó khăn đó, khi cả nước ăn bo bo thì
anh lén lút mang gạo trắng từ miền Tây lên cho tôi, vượt qua
không biết bao nhiêu trạm kiểm soát trong cái áo giả dạng bộ đội
mà anh phải đổi nhiều quần áo đẹp của anh mới có được nó. Tôi
sanh sớm hơn 2 tuần nên thằng bé phải nằm lồng kính, tháng 7 mưa
dầm, quần áo không khô kịp, tôi không có đủ sữa cho con, anh tất
tả đi bán máu mua về mấy hộp sữa bò, khăn áo cho hai mẹ con, nấu
cho tôi một nồi súp đầy rau mà ít thịt, giặt giùm tôi mấy cái
quần lót dính đầy máu vì thiếu băng vệ sinh. Tôi đã bật khóc
trong niềm hạnh phúc vỡ òa. Đối với tôi, nếu có phải hy sinh cuộc
đời mình cho người đàn ông đáng yêu này thì tôi luôn sẵn sàng. Và
tôi đã sẵn sàng như vậy suốt hơn 40 năm qua, mặc dù anh ấy nằm
xuống lâu lắm rồi.
`
VyDan là kỷ niệm đẹp nhất trong chuyện tình của chúng tôi. Đẹp mà
buồn đến xót xa.
Yverdon là một thành phố nhỏ của Thụy
Sĩ, nói theo bài hát là đi dăm phút trở về chốn cũ, lúc đầu còn
bỡ ngỡ lạ lẫm với những con đường quanh co mà từng viên gạch lót
trên quảng trường, những lâu đài nóc nhọn phủ mái ngói rêu xanh
nằm bên góc chợ đã có tuổi đời hơn trăm năm trước, xen lẫn giữa
những tòa nhà cao tầng hiện đại thì xem ra mấy cái Chateau vẫn
còn phảng phất vẻ kiêu sa của một thời quý tộc.
Hệ thống xe lửa ở các nước Châu Âu đều
có chung một quy tắc tuyệt đối, đó là sự đúng giờ, tôi thực sự
thoải mái khi sử dụng phương tiện công cộng này. Bước xuống sân
ga lúc nào cũng 4 giờ 15 chiều, tôi chỉ báo cho Luctine và VyDan
biết thời gian để yên tâm là tôi có đến và sẽ tự đi bộ về, nhưng
lần nào thì 2 người đó cũng đều có mặt để đón tôi, Luctine đẩy xe
lăn và VyDan cười vui biểu lộ ra gương mặt muốn hét lên như bất
cứ đứa trẻ sung sướng nào được đón Mẹ đi xa về. Tôi hạnh phúc khi
cúi xuống ôm VyDan, xoa cái lưng gầy gò nhô xương của nó mà rưng
rưng cảm xúc. Thương quá con dế mèn còi cọc của tôi. Luctine giúp
tôi mang cái ba lô nặng trĩu đầy quà của thằng bé để tôi hăm hở
đẩy xe cho VyDan, chúng tôi đi bộ về nhà khoảng 2 miles với bao
nhiêu câu thăm hỏi dồn dập. (vốn liếng tiếng Anh của tôi chỉ có
thể ở mức xã giao và anh bạn trẻ gốc Pháp này đối thoại sinh ngữ
phụ khá hơn tôi, nên khi gặp câu khó tôi cười trừ, hoặc nói bâng
quơ vậy mà nó cũng hiểu tuốt)
Tôi quen biết Luctine cách đây cũng gần
20 năm, khi hắn còn là sinh viên làm thiện nguyện cho tổ chức
Terre des Hommes (The leading Swiss child relief agency), hắn
chăm sóc cho VyDan và quen Martin cũng trong công việc này, hai
đứa yêu nhau rồi ra trường, hôm đám cưới có cả VyDan tham dự. Năm
2002 hắn đẩy VyDan về Việt Nam thăm Mẹ sau 15 năm xa cách, trong
khi ở Thụy Sĩ Martin sắp tới ngày sanh đứa con đầu lòng. Luctine
lớn hơn VyDan chắc vài tuổi, điều đáng nói là sự chân tình của
hắn dành cho chúng tôi, những con người xa lạ khác màu da, khác
ngôn ngữ nhưng có duyên phận gắn bó tình nghĩa với nhau. Lần đầu
tiên khi chúng tôi qua Thụy Sĩ ở nhờ nhà đứa cháu họ bên
Lausanne, mỗi ngày đi xe lửa đến thăm VyDan, tiền vé đi về của
hai vợ chồng hơn 70€, cầm cự mấy tuần chịu không thấu, thì gặp
Luctine, hắn nói nhà hắn có dư một phòng, đi bộ đến Chỗ VyDan
chừng 5 phút, hắn “welcome see you next time.”
Lại một lần nữa tôi chịu ơn người dưng
nước lã đầy hào hiệp này. Hắn hiện ra trong đời sống của mẹ con
tôi giống như ông Bụt, cầu được ước thấy. Tôi đã ở nhà hắn đây là
lần thứ ba, gia đình Luctine đúng là kiểu mẫu của người Tây
phương, nề nếp nghiêm chỉnh, 3 đứa con đều xinh đẹp ngoan ngoãn,
học hành giờ giấc đâu ra đó, không ôm iPhone iPad nấu cháo như
kiểu nhà mình, cuối tuần cha mẹ dẫn đi học khiêu vũ, học võ hay
đánh banh, đứa nào cũng nói được 2–3 thứ tiếng. Nhà khá giả nhưng
ăn uống hết sức đạm bạc (!), buổi trưa cả nhà ăn ở ngoài, buổi
tối là về đủ mặt cho bữa dinner, có khi chỉ vài đũa spaghetti hay
bánh mì chấm chút xíu nước sốt, lâu lâu có miếng cá salmon khiêm
tốn cỡ 2 ngón tay. Lúc đầu tôi không quen ăn quá ít như vậy nên
tối ngủ nghe bụng cồn cào. Hỏi ra mới biết họ không thích ăn thịt
các loại hay hải sản, và ăn ít như vậy cũng thành quen nên dáng
người ai cũng thon thả... Ở bên Mỹ ăn uống thoải mái như hổ,qua
đây ăn rón rén như mèo nên ngày nào tôi cũng mua bánh mì phô mai
ra công viên ngồi nhai như dân homeless...
Chỗ ở của VyDan cách nhà Luctine chừng
1 mile, đó là khu dân cư nhưng cơ quan thuê hay mua gì đó 2 căn
có 4 phòng chung một hành lang riêng biệt để nuôi những đứa trẻ
bệnh tật như VyDan, có nhân viên chăm sóc 24/7 từ ăn uống thuốc
men thay tã tắm rửa, hình như họ chia ca trực, ban ngày có 3–4
người lăng xăng nấu ăn giặt giũ dọn dẹp không ngơi tay nhưng
gương mặt họ lúc nào [cũng] tươi cười vui vẻ, cử chỉ nhẹ nhàng,
nói chuyện với tụi nhỏ thân mật như chị em trong gia đình, lạ một
điều không đứa nào biết nói nhưng hiểu những lời họ nói và mỗi
đứa đều có lối biểu cảm riêng để giao tiếp với họ dễ dàng.
Bốn đứa trẻ đó tôi nghĩ là người của
các quốc gia khác chớ không hẳn là dân Thụy Sĩ, nói trẻ vì hình
dạng mặt mũi ngây ngô như con nít nhưng đứa nào cũng hơn 35–45
tuổi, chung một khuyết tật như nhau, tay chân khều khào, không đi
đứng được, không nói được nhưng nghe hiểu, biết cười và đôi khi
la hét vu vơ, ăn phải có người đút và mọi chuyện cá nhân phải có
người giúp đỡ tất tần tật như đánh răng tắm rửa thay tã mặc quần
áo... Cuộc sống ở đó thân thiện cho các cháu mang cảm giác thoải
mái giống như trong gia đình, phòng khách có sofa tivi trang trí
vài chậu hoa, cây xanh trong ánh sáng dịu mát, phòng ăn nhà bếp
tươm tất, tới giờ ăn họ trải khăn ăn muỗng nĩa như nhà hàng, thức
ăn mang lên thơm lừng, có đủ thịt bò thịt heo rau củ nhưng tất cả
đều được bỏ vào máy cắt nhỏ hay xay mịn tùy theo cách ăn của từng
đứa, thật tình tôi không biết tụi nó cảm nhận món ăn ngon dở ra
sao trong cái món sền sệt trộn chung hầm bà lằng này, mỗi đứa
ngồi một góc có nhân viên bên cạnh, Daniel và Jessica thì tay
chân quờ quạng nhưng vẫn thích tự cầm muỗng ăn, dù thức ăn đổ
vương vãi. Có chứng kiến một buổi ăn trưa với bọn trẻ mới thấy
cái tâm và sự chịu đựng của người phục vụ, họ nói huyên thuyên
điều gì đó khiến mấy đứa nhỏ cười, họ lấy muỗng gõ xuống bàn chọc
ghẹo nhau và ăn ngon lành thức ăn trong dĩa, dù trước mặt họ mấy
đứa ăn uống đổ tháo ho khạc đàm nhớt lòng thòng vào chiếc khăn
quấn trên ngực. Thú thật tôi nuốt không nổi khi ngồi đối diện với
Daniel lúc nào cũng ho sù sụ khạc đờm rơi rớt trên cái dĩa của
nó. Mới biết họ chấp nhận công việc ở đây ngoài chuyện lương bổng
là bình thường nhưng cái tâm họ tịnh hơn, tấm lòng của họ bao
dung độ lượng hơn nhiều người khác, họ được giáo dục để biết yêu
thương và tử tế với những đứa trẻ bất hạnh. Bà trưởng phòng ở đây
đã từng ôm tôi an ủi “mày đừng lo lắng, bọn tao đã sống với tụi
nhỏ lâu rồi, tao coi mấy đứa như con của tao, nên mày tin rằng
tụi nó rất hạnh phúc.”
Tôi lại khâm phục những con người vác
thánh giá này, không có lời cám ơn nào đủ giá trị để dành cho họ.
Tôi thấy mình nợ nần một đất nước xa lạ, nợ nần những con người
xa lạ nhưng trái tim của họ thật gần gũi ấm áp biết bao nhiêu,
nếu không có vòng tay dang rộng của chính phủ Thụy Sĩ và tổ chức
nhân đạo này, chắc gì con trai tôi sống sót được đến hôm nay. Có
người hỏi tôi sao không mang nó về bên Mỹ cho tiện chăm sóc mà mẹ
con cũng được gần nhau, tôi đã thẳng thắn nói không vì tôi biết
nơi nào là quê hương của nó, nơi nào nó sống yên vui mỗi ngày thì
đó là thiên đường. Định mệnh đã sắp đặt cho nó sống ở đây và có
chết thì cũng ở đây. Tôi biết cái cây đã èo uột sẵn mà bứng trồng
chỗ khác không chắc gì sống nổi. Trong phòng ăn treo 4 bức ảnh
của 4 đứa, năm ngoái tôi qua thì thấy gỡ mất 1 tấm, hỏi thăm mới
biết con bé đã về trời, tôi buồn ngẩn ngơ khi nghĩ đến VyDan, nếu
lúc nào đó tấm ảnh của nó không còn treo trên tường nữa! Chỉ nghĩ
như vậy thôi mà nghe tim mình như nghẹn thở.
Những ngày ngắn ngủi ở bên cạnh con,
tôi kể lể cho nó nghe những chuyện này kia về cuộc sống bên Mỹ,
về bà con dòng họ ở quê nhà mà hình ảnh và độ thân thiết đã mờ
nhạt trong ký ức của thằng bé rời Sài Gòn hơn 30 năm trước.
Thật tình VyDan không có kỷ niệm gắn bó
về quê hương Việt Nam với những địa danh xa lạ, thậm chí nó còn
không biết là nó cắt rún ở Đà Lạt và chôn nhau ở Sóc Trăng, một
điều lạ lùng chưa từng xảy ra với bất cứ đứa trẻ nào, tôi đã làm
điều ấy vì ý tưởng nghịch ngợm của một bà mẹ trẻ lúc đó, đem nhau
thai ngâm rượu rồi mang bình rượu đó về quê chôn dưới gốc cây
trong vườn nhà ngoại, không có mục đích ý đồ gì khác thường, chỉ
muốn là làm vậy thôi, sau này có người biết chuyện lại trách
“ngâm rượu hèn gì thằng nhỏ nóng nảy trong người nên còi cọc”.
Tôi làm thinh không phân trần, 7–8 năm
trong tù đủ để giết chết tuổi thơ của nó rồi, VyDan còn sống sót
tới bây giờ là điều kỳ diệu của Thượng Đế. Nó tuổi Tỵ, tôi hay
gọi đùa “con rắn không chân mà đi năm rừng bảy rú”. Nghe nói mỗi
mùa hè là cơ quan đưa những đứa như nó được đi chơi khắp các nước
Châu Âu. Ơn Trời, sự bất hạnh của nó đã được đền bù.
Ở đây VyDan được dạy và nghe tiếng
Pháp, lần gặp lại nó ở Sài Gòn sau bao nhiêu năm xa cách, tôi
phải nhờ cô bạn làm phiên dịch giữa tôi và nhân viên đi cùng, rồi
nhân viên nhìn nó nói “điều gì đó, họ truyền đạt lại cho cô bạn”.
Trời ơi hai mẹ con lúng túng mất mấy ngày, nhưng sau đó tôi nói
tiếng Việt thẳng với nó và hỏi có hiểu không? Nó le cái lưỡi
nghĩa là Yes, và ngậm miệng lại là No, từ đó chúng tôi bắt đầu
nói chuyện với nhau cả ngày như chơi trò trắc nghiệm đố vui.
Trong ngôi nhà này VyDan là thằng bé
“thông thái” nhất so với 3 đứa còn lại, nó biết đọc sách, xem TV,
lên mạng email, Facebook với bạn bè. Người ta gắn cho nó một màn
hình nhỏ đặt trên tường hay trên xe lăn, với một bàn phím được
thiết kế bằng các ký tự đặc biệt và kỳ diệu hơn khi nó sử dụng 2
ngón chân để click chuột. Chỉ một dòng chữ “Je t’aime maman” mà
nó cặm cụi cả nửa tiếng mới xong. Tôi đã bật khóc khi nhìn thấy
sự cố gắng để diễn đạt ngôn ngữ yêu thương của thằng bé tật
nguyền. Thỉnh thoảng tôi thấy nó lên Facebook, cũng viết vài chữ
thăm hỏi gởi cho mẹ, nhưng tôi không hình dung được sự khó khăn
của nó khi lần mò từng chữ bằng 2 ngón chân run rẩy. Tôi nói
nickname để VyDan add tên em gái nó vào Facebook, nó hào hứng với
điều này, trong cuộc sống lặng lẽ buồn hiu của nó thì tình yêu
thương gia đình gắn bó và ấm áp biết bao nhiêu. Cám ơn những
thành tựu công nghệ của thế giới ảo nhưng rất thật này, nó kết
nối những con người xa xôi gần lại với nhau, mỗi lần tôi thấy
hình VyDan trên mạng, tôi yên tâm là thằng bé còn mạnh khỏe bình
an.
Có những
buổi chiều trời nắng ấm, tôi đẩy VyDan đi vòng vòng ngoài phố,
ngồi trước quảng trường ngập hoa cúc mùa thu, uống cà phê và nhìn
người qua lại. Nó thích thú lộ ra mặt, tôi thầm cám ơn những ánh
mắt thân thiện của mọi người ở đây dành cho nó, ít ra nó không bị
mặc cảm vì hình dạng khuyết tật của mình, đó là yếu tố cần thiết
để nó tồn tại và thấy đời đáng sống hơn.
Có lúc hai mẹ con ngồi bên nhau lặng im
nhìn ra khung cửa sổ lất phất mưa, tôi hát cho nó nghe những bản
nhạc quê hương xưa cũ và thằng bé dựa vào vai tôi thiu thiu ngủ
như hồi còn nhỏ, tôi nắm bàn tay bàn chân lạnh ngắt cong queo của
nó cố vuốt cho thẳng mà lòng cứ ao ước phép lạ xảy ra cho VyDan,
nếu không thể vươn vai như Phù Đổng thì cũng gọi được tiếng Mẹ
cho hạnh phúc ngập tràn, nhưng bà Tiên ban phép lạ thì chỉ có
trong cổ tích thôi con trai à.
Khi mang nó ra khỏi nhà tù cộng sản thì
thằng bé đã kiệt sức, tay chân co quắp, cột sống vẹo vọ và các cơ
bắp đã teo lại không đủ sức nâng đỡ thân hình xương xẩu. Thụy Sĩ
là đất nước có ngành y tế tốt nhất thế giới mà cũng không thể cứu
chữa được cho thằng bé trong tình trạng muộn màng.
Sự thăm viếng VyDan cũng theo quy định
của cơ quan, tôi chỉ đến buổi sáng sau 10 giờ và buổi chiều sau 3
giờ, khoảng thời gian còn lại thì tôi lang thang khám phá những
ngõ ngách của thành phố yên tĩnh này, tôi thường chọn mùa thu để
qua thăm con, không hẳn vì Châu Âu thơ mộng bởi rừng cây đổi sắc
đỏ vàng, nước Mỹ cũng có nhiều thành phố lung linh màu thu rạng
rỡ vậy, đi chi xa, nhưng thật tình khoảng tháng 9–10 giá rẻ nên
đi thôi, sống bằng lương hưu thì chỉ có vậy, nhưng ai không biết
hoàn cảnh thì trầm trồ “đi du lịch sướng he”. Ờ thì tiền bạc gởi
bên ngân hàng Thụy Sĩ nên lâu lâu qua coi còn được bi nhiêu, ha
ha chảnh bắt ớn!
Yverdon không có nhiều người Việt như
thủ đô tị nạn Bolsa California hay Houston Texas hoặc nếu có chắc
sống rải rác đâu đó không biết, duy nhất có một tiệm phở mà nghe
giọng là biết Bắc Kỳ 75, một gian hàng tạp hóa Asian bán đủ thứ
từ cọng rau muống, gói mì Hảo Hảo đến cái nón lá và tượng ông Địa
China, tất cả đều nhập trực tiếp từ Việt Nam qua bằng đường hàng
không mỗi tuần, dĩ nhiên chủ nhân là người Việt nói tiếng Pháp
như gió, tôi quen với một chị bạn cũng từ cửa tiệm này, chị mua
rau răm về nấu cháo lòng (!) nhưng rủ tôi về nhà để mời món mắm
chưng cá mặn. Biết là bên Mỹ mấy món này không phải hiếm hoi
nhưng được ăn bên trời Tây mà nghe tiếng Huế líu ríu thì quả là
thú vị. Tôi nhận ra rằng người Việt dù sống tha hương ở chân trời
góc biển nào cũng có chung một nỗi nhớ nhà, “nhớ canh rau muống
nhớ cà dầm tương”. Quê hương cứ lẩn quẩn trong từng cái chén đôi
đũa, từng cọng ngò tép xả, tô mắm chưng dù được đặt trên bàn ăn
có nhiều dao nĩa vẫn không thấy khuất cái đặc thù dân dã Việt
Nam.
Thụy Sĩ
là quốc gia đắt đỏ cũng nhất thế giới nên tô phở 18€–20€ là
chuyện bình thường, tôi thà nhịn thèm để mai mốt về Mỹ ăn “tô xe
lửa” ngon lành mà giá có phân nửa. California nơi tôi ở nói về
món ăn Việt Nam thì không thiếu thứ gì.
Trời thu, mưa lất phất lạnh, con đường
vắng ngập lá vàng cho tôi cảm giác mình đang đếm bước cô đơn dù
mỗi ngày vẫn gọi phone ríu rít với chồng đủ thứ chuyện, hình như
có điều gì đó buồn buồn trong tôi, mỗi lần gặp thằng bé là gợi
lại ký ức đau thương đã qua, tôi vẫn thấy ray rứt như mình có lỗi
trong sự bất hạnh của nó.
Tuổi đời càng ngày càng lớn, tôi không
biết mình có còn đủ sức để làm một chuyến đi dài qua thăm nó mỗi
năm? Thôi thì một ngày được ở bên nhau là hạnh phúc hiện tại của
hai mẹ con, câu chuyện buồn đã thuộc về quá khứ xa lắc xa lơ mà
tôi cố gắng để quên nhưng sao vẫn thấy chạnh lòng hoài. VyDan là
một kỷ niệm khó phai.
Thời gian thăm nó cũng qua, trước buổi
chia tay, nó tặng tôi một món quà lưu niệm, nghe nói mua đâu bên
Ý trong một chuyến đi chơi nào đó, tôi giả bộ háo hức tháo gói
giấy ra cho thằng bé vui, một con bướm bằng sứ sơn men xanh đã bị
gãy một góc cánh, có lẽ không được gói kỹ khi vận chuyển, nhìn
gương mặt thất vọng của VyDan thấy thương quá, tôi vội trấn an
“không sao, Mẹ sẽ lấy keo dán nó lại dễ dàng mà, con bướm thật
đẹp, Mẹ cám ơn VyDan đã tặng” tôi hôn lên vầng trán nhăn nhúm của
nó nghe lòng dâng lên nỗi xúc động nghẹn ngào.
Buổi sáng đầy sương, tôi lên tàu về lại
Paris để chuẩn bị bay về Mỹ, quê hương thân thiết của tôi cũng
như Thụy Sĩ là chốn quê nhà của VyDan nếu một mai nó nằm xuống
nơi này.
Tôi
nói với nó là trời mưa lạnh đừng ra sân ga, nhưng thật lòng tôi
sợ cảnh tiễn đưa bịn rịn, tôi sợ nhìn ánh mắt đỏ hoe của nó sẽ ám
ảnh tôi trên suốt đoạn đường dài. Thương quá con dế mèn còi cọc
của tôi.
Thành
phố cuối tuần vẫn còn đang ngái ngủ, những hàng cây trút lá ngập
lối đi, cái ba lô nhẹ bổng trên lưng mà sao tôi cứ canh cánh nỗi
buồn nặng trĩu. “Au Revoir mon fils,” Tôi tập viết câu này gởi
trong tin nhắn trên Facebook của nó lúc nửa đêm. Tạm biệt con
yêu.
Ngọc Ánh
HẾT
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Tạp Chí Dân Văn chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, June 26, 2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang