Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
- Huỳnh Liên, Huỳnh Liên!
Hình như có tiếng ai gọi
loáng thoáng tên mình, tôi nghe không rõ? Bởi cái nơ nơi quai
nón cột bị sút ra đập vào chiếc nón lá nghe phành phạch, và xe
đạp chạy ngược chiều gió. Tôi tấp vào lề, rà chân chõi cho xe
khỏi ngã, rồi bỏ chân kia xuống đường. Nhìn qua nơi phát ra
tiếng gọi hồi nãy, thấy một người đàn ông mặc quân phục băng qua
lộ đi nhanh về phía tôi. Anh đến càng lúc càng gần chỗ tôi đứng
đợi. Tôi cười tươi reo lên, hỏi một lèo:
- Ồ, chào anh
Vịnh, anh về hồi nào đó? Lâu quá mới gặp lại, anh vẫn khỏe chớ?
Vẫn đôi mắt to ngời sáng, bờ mi cong buồn buồn, dáng người
dong dỏng cao, nước da xạm nắng. Áo trây-di còn vướng bụi đường
xa, nụ cười nửa miệng, anh chào:
- Vâng, lâu quá không
gặp! Từ ngày Nguyệt Thu ra đi đến giờ anh ít về thành phố này.
Nhưng Tây Đô vẫn là Tây Đô của thuở nào. Mỗi ngày Tây Đô càng
thêm tấp nập, phồn thịnh hơn. Huỳnh Liên vẫn khỏe, và đi học
thường chớ?
Tôi vui vẻ trả lời:
- Cảm ơn anh,
Huỳnh Liên khỏe lắm, vẫn đi học bình thường. Anh về phép thường
niên hay tạm dừng lại trên đường quân đi?
Anh Vịnh nhìn
tôi như dò xét, bảo:
- Anh nghỉ mấy ngày phép. Không làm
gì nên gặp dịp có xe ở hậu cứ đi lãnh thuốc men cho đơn vị, anh
quá giang về đây thăm thằng bạn bị thương đang nằm ở quân y
viện, và tiện dịp ngắm lại cảnh thành phố trong Ngày Quân Lực 19
tháng 6.
Tôi vỗ nhẹ vào trán, cười:
- Thiệt tình,
dạo này Huỳnh Liên bận học thi tối tăm mày mặt nên lẩm cẩm, và
hay quên quá anh ơi! Thì ra, mốt là ngày lễ rồi. Anh được thư
Nguyệt Thu thường chớ?
Anh Vịnh chớp chớp mắt, nhẹ giọng:
- Thỉnh thoảng, nhưng anh không hy vọng gì ở tương lai. Ờ,
bộ Huỳnh Liên không có đi dự lễ năm nay sao?
Tôi lắc đầu
cười:
- Dạ thưa anh không. Nhà trường chỉ cho lớp Đệ
thất, Đệ lục, Đệ ngũ và Đệ tam đi thôi. Còn lớp Đệ tứ, Đệ nhị,
và Đệ nhứt là năm thi, nên không được đi.
Anh Vịnh mời:
- Vậy à? Nè, Huỳnh Liên có ngại đến tiệm giải khát bên kia
đường, dùng với anh ly nước không?
Tôi nhìn theo hướng
tay của anh Vịnh chỉ. Liếc mắt vào cái đồng hồ của mình, thấy đã
trễ giờ của lớp học thêm. Tôi định từ chối, nhưng không nỡ, nên
gật đầu:
- Thưa, được anh.
Anh Vịnh vui nét mặt:
- Vậy, chúng ta đi.
Thuở đó, bọn chúng tôi còn là
học sinh trường nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ). Đồng phục
của chúng tôi là áo dài trắng quần đen hay quần trắng. Vào giờ
ra chơi, hay tan học chúng tôi từ các lớp túa ra rồi nhởn nhơ
như đàn bươm bướm trắng.
Buổi tan trường hôm nay mặt đứa
nào cũng tươi rói như hoa nở mùa xuân. Vì chiều thứ sáu, và sáng
ngày mai thứ bảy là ngày Quân Lực nữa. Lớp Đệ tam của chúng tôi
năm nay được đi dự lễ ở khán đài đặt trước cửa dinh tỉnh Trưởng
kế bên tổng hành dinh của Quân Đoàn IV.
Chúng tôi gồm có
4 đứa bạn rất thân (kể cả tôi). Và mỗi đứa rõ tánh tình của nhau
mồn một: Chị Trà Mi lớn nhứt trong bọn, hơn 3 đứa tôi một tuổi.
Nguyệt Thu lớn hơn tôi 6 tháng, còn Ái Chi thì nhỏ hơn tôi ba
tháng. Chúng tôi tự đặt cho bọn mình cái tên thật là kêu, thật
là gồ ghề “Tứ Nữ La Sát”. Cái biệt danh nghe oai phong lắm lắm
và nghe dữ dằn như cọp cái! Nhưng thật ra đứa nào đứa nấy nhát
còn hơn thỏ đế, và “rất dễ thương”.
Con nhỏ Ái Chi là em
út trong bọn, mà nó lại bự hơn cả chị Trà Mi. Bởi nó ăn hàng
thầy chạy! Cái miệng nó ăn xàm xạp tối ngày như heo ăn cám.
Trước cửa trường, các chủ xe bán nước mía, đậu đỏ, bánh lọt,
cốc, ổi, chùm ruột, xoài sống ghim đường, khô mực nướng... đều
biết mặt và biết cả tên nó nữa!
Cô ta có nước da trắng
hồng, thân hình tròn trịa, tánh tình cởi mở vui vẻ, dễ khóc, dễ
cười ít hay hờn giận ai, phá thầy chọc bạn cũng không ai hơn nó.
Con nhỏ học đâu nhớ đó, thông minh, sáng dạ chi lạ! Thường một
hai tuần trước ngày thi, cả bọn học bài muốn té thở, muốn ngất
ngư con tàu đi. Còn nó trước giờ thi, lấy sách lật qua lật lại
xem ngấu xem nghiến thôi. Ấy vậy mà lần nào kết quả điểm bài thi
của nó cũng trội hơn tôi.
Chị Trà Mi có tánh tình đoan
trang, điềm đạm. Dáng chị cao, gầy, nước da ngăm ngăm, đôi mắt
sáng ngời. Nụ cười cởi mở và mỗi khi miệng chị cười thì đôi mắt
cũng cười theo. Chị học giỏi nhưng khiêm nhường, chớ không phải
ba hoa chích chòe như con chim chèo bẻo Nguyệt Thu.
Nguyệt Thu và tôi hay chọc ghẹo bạn và đùa giỡn ngầm. Hai đứa
giận hờn nhau hoài, nhưng chừng đôi ngày không gặp thì lại tìm
kiếm nhau.
Tôi thường khen Nguyệt Thu có vẻ đẹp thướt
tha, ẻo lả như nàng Thúy Kiều trong truyện Kiều chúng tôi đang
học. Bởi nó có thân hình ốm yếu, cao, khuôn mặt trái soan, da
trắng xanh, hai hàng lông mi cong e ấp đôi tròng mắt đen lay
láy, to và ướt rượt. Có lần nhìn nó một hồi, con Ái Chi bảo:
- Trong số 4 đứa mình, tao thấy mầy đẹp nhứt đó Nguyệt Thu!
Nhưng cặp mắt mầy thiệt là đa tình, và ủy mị, lẳng lơ quá đi
thôi! Coi chừng sẽ làm hại chết đàn ông, thanh niên đó nghe mậy!
Đi gần bên bọn chúng, không nhịn được tôi cười ha hả, và giở
giọng thầy đời, cắt nghĩa:
- Thấy chưa Nguyệt Thu? Hôm
trước, tao chỉ nói mầy yểu điệu đẹp như Thúy Kiều thì mầy giận
tao cả tuần lễ. Nồi đất nồi đồng ơi, hôm nay con nhỏ Ái Chi khen
mầy đẹp theo kiểu của nó thì mầy làm ơn, làm phước đừng có mừng
húm, mà tưởng bở là nó khen thiệt nghen. Tao biết nó muốn nói
mầy có cái mặt đẹp nhưng cái lòng thì của bà phù thủy xấu xa
trong truyện “Bạch Tuyết 7 Chú Lùn” chuyên làm chuyện hại người
tốt không hà. Như vậy thì là nặng nề và độc địa lắm đó mầy à!
Thế là cả bọn chúng tôi cười vui như vỡ chợ, cười như tuôn
ánh sáng. Và bị nhỏ Nguyệt Thu rượt đánh, chạy tứ tung ngoài
đường, ngoài sá. Chúng tôi đã quên mình, đứa nào cũng tuổi mười
bảy, mười tám. Ở tuổi hồng Nguyên Đán! Cái tuổi thích nhìn sao,
ưa ngắm trăng! Cái tuổi ưa thơ và nhạc tình của lính! Cái tuổi
biết buồn và biết mộng mơ...
Ngày Quân Lực đến mỗi năm.
Đại diện các binh chủng đều có mặt trong ngày đại lễ này. Lễ
được tổ chức trên đài cao hơn mặt lộ ngoài cửa lớn của dinh tỉnh
trưởng. Nơi góc đường Phan Đình Phùng (kế công viên), Đại Lộ Hòa
Bình (trước văn phòng Bộ chỉ huy Quân Đoàn IV), đường Phan Thanh
Giản (hông trại gia binh).
Thành phố Tây Đô mấy bữa nay
rộn rịp khác thường. Mọi ngày thì chỉ ở các công sở, trường học
mới treo cờ vàng ba sọc đỏ. Hôm nay, công tư sở, tất cả mọi nơi,
nhà nhà, các cột đèn, công viên, các xe nhà, xe hành khách...
đều treo cờ. Lá cờ Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa bay phấp phới dưới
bầu trời xanh thẳm, gió mát lồng lộng chan hòa màu nắng thủy
tinh. Màu nắng đẹp của miền Nam ấp ủ dân tình hiền hòa đôn hậu.
Từ sáng sớm, bọn nữ sinh chúng tôi chỉnh tề từng nhóm, từng
nhóm đứng ngoài sân trường chờ Giám thị và cô hướng dẫn đi dự lễ
ngày Quân Lực.
Trước lễ đài, có đủ mặt đại diện các binh
chủng, dân, cán, chánh trong vùng IV về tham dự. Sau nghi thức
buổi lễ khai mạc được hoàn tất, thì đến phần diễn hành.
Trên không gian, những chiếc phi cơ biểu diễn: Từng chiếc máy
bay nhẹ nhàng bay vút lên cao, hạ xuống thấp, nghiêng cánh đại
bàng, chiếc này nối tiếp chiếc kia, nhào lộn... Rồi cả đoàn phi
cơ bay hàng ngang thả khói màu. Dệt cờ vàng ba sọc đỏ lồng lộng
trên cao có nền trời xanh biếc và tiếng nổ dòn của động cơ.
Các chiến sĩ Thiên Thần Mũ Đỏ với những chiếc dù lờ lững
trên không trung. Rồi những chiếc thiết giáp chạy rầm rập trên
đường. Pháo binh với những cây đại pháo bên cạnh những chàng
trai hùng hiên ngang sẵn sàng nghinh chiến chống địch quân xâm
lăng bờ cõi.
Đoàn người nhái với thân mình vạm vỡ rắn
chắc. Binh chủng Hải quân với quân phục đại lễ bên cạnh những
chiếc tàu chiến, những chiến hạm...
Kế tiếp đoàn Thiếu
Sinh Quân... Nữ Quân Nhân, Biệt Động Quân, Thám Báo, Địa Phương
Quân, Nhân Dân Tự Vệ, Sư Đoàn 7, Sư Đoàn 9, Sư Đoàn 21 (có biệt
danh là Sét Miền Tây), Xây Dựng Nông Thôn, Nghĩa quân... Sinh
viên, học sinh, công chức... Tiếp nối diễn hành qua các con
đường trong thành phố được hướng dẫn.
Một lực lượng quân
nhân tinh nhuệ, một guồng máy chánh quyền hùng hậu như vậy thì
từ Bến Hải đến Cà Mau người dân an cư lạc nghiệp. Nam nữ thanh
niên đã đem trí tài mình tô đậm cho dải giang san gấm vóc miền
Nam dưới chính thể Cộng Hòa. Thì dân miền Nam không ấm no hạnh
phúc tươi màu sao được.
Dân cư trong thành phố, ở các
vùng lân cận, lũ lượt kéo đến dự lễ, chiêm ngưỡng những chàng
trai anh dũng về từ các chiến trường. Dân, quân vui hưởng hạnh
phúc trong mấy ngày lễ lớn này đã làm cho Tây Đô nhộn nhịp, rộn
ràng, tươi trẻ hẳn lên.... Ông bà cha mẹ mừng cháu, con, người
thân của mình trở lại thăm nhà. Gia đình đoàn tựu, bạn bè họp
mặt, em gái hậu phương đón mừng anh trai từ các chiến trường xa
xôi ở địa đầu giới tuyến. Những nơi công cộng, công viên, những
rạp hát... Đâu đâu cũng rợp bóng dáng những chàng chiến binh oai
hùng.
Trong 4 đứa bạn thân, lúc nào
tôi bị ba con kia trêu ghẹo và đặt cho cái biệt danh là “Thị
Nở”. Khi nào vui thì bọn nó gọi tôi: “Đông Thi” (ngược lại Tây
Thi có quốc sắc thiên hương, là ái thiếp của một ông vua đời nhà
Đường). Tôi không giận chút nào mà khoái chí cười hí hí chấp
nhận, vì biết mình xấu xí. Tôi không đẹp nên không nói làm gì,
còn ba con kia tự cho mình có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thùng
mà chẳng có mống “bồ” nào là chàng trai hùng lính chiến để “Ngày
về phép anh hẹn mình dạo phố/Tay chinh nhân đan năm ngón tay
mềm...” Ôi, thiệt buồn ơi là buồn, và tội nghiệp thì thôi!
Chiều đến nhà tôi mượn cuốn sách “Hồn Bướm Mơ Tiên”, đem về
nhà đọc cho đỡ cảm thấy cô đơn, chị Trà Mi than vắn, thở dài:
- Ngày lễ, thấy mấy con nhỏ bạn đi chơi vui mà mắc ham. Bọn
mình, đứa nào cũng vậy, ăn no ngồi co một đống! Tao nhứt định sẽ
tìm một chàng lính chiến miền xa để làm đẹp phố phường cho mầy
coi...
Tôi cười mỉm chi cọp định chọc quê nàng ta. Nhưng
chưa kịp mở miêng thì bỗng ngoài hàng rào nhà tôi có người lính,
quân phục hẳn hoi gọi mở cửa. Tôi nhướng mắt nhìn kỹ, thì ra anh
Phúc, con nhà bác tôi. Anh là lính Sư đoàn 9/BB, thường đóng
quân ở vùng Sa Đéc, Thất Sơn, Châu Đốc về dự lễ ghé qua thăm.
Tôi nheo mắt cười tươi nhỏ giọng “khịa” chị Trà Mi trước khi đi
ra mở cửa:
- Khỏi cần tìm đâu cho mệt, anh chàng lính
chiến miền xa chị muốn tìm, đã lù lù tới rồi kia.
Ra mở
cửa, hai anh em tôi vừa đi vào vừa hỏi thăm nhau vui vẻ. Bỗng
anh bảo:
- Hồi nãy anh thấy hình như có ai ngồi đây với
em mà?
Tôi cười, lớn họng gọi:
- Bạn học của em.
Chị Trà Mi ơi. Chị đâu rồi?
Tôi bèn đi nhanh ra sân sau,
vào nhà tìm kiếm. Nhưng bóng hồng Sa Mạc của chị Trà Mi đâu mất
tiêu không thấy? A, thì ra nàng ta mắc cỡ, mở cửa sau trốn về
mất. Anh Phúc biết được cười nửa miệng không nói gì! Anh thăm
hỏi qua loa rồi từ giã. Và anh còn bảo trước ngày trở ra đơn vị
sẽ ghé qua thăm ba má tôi.
Họ đi rồi, tôi ngồi lơ đãng
nhìn bầu trời xanh bát ngát, điểm lác đác vài cụm mây hồng, mây
trắng xa xa. Ánh nắng hôm nay đẹp như trải lụa lên trần thế. Gió
mát rười rượi, lồng lộng tung bay những lá Quốc Kỳ màu vàng rực
rỡ. Đường phố dập dìu nam thanh, nữ tú, muôn hồng ngàn tía đã
tạo cho Tây Đô sắc thái thêm tươi trẻ, huy hoàng...
Ngoại
cảnh đã làm nội tâm con bé lọ lem và cù lần như tôi cũng bị giao
động! Tôi cảm thấy thương thương, buồn buồn trong nỗi nhớ nhẹ
nhàng lâng lâng. Nhưng không rõ nguyên nhân có từ đâu? Tôi thấy
e thẹn cười thầm “Tôi buồn không biết vì sao tôi buồn” đích thị
là đây! Rồi bỗng dưng tôi cảm thấy mắc cỡ với chính mình.
Lại tiếng gọi ơi ới của ai ngoài cửa nhà, làm con nhỏ này
trở về thực tế vậy cà? Hình như giọng eo éo của Ái Chi? Phải,
nhỏ Ái Chi đó. Nó thướt tha trong chiếc áo dài màu hoa cà, quần
sa-teng đen có rô-đê dưới lai, guốc sơn vẽ hoa, vẽ bướm, gót
cao. Ôi chao, con nhỏ hôm nay sao mà diện quá ta? Trên cổ đeo
xâu chuỗi, và đôi bông tai bằng ngọc trai màu ngà voi. Mèn ơi,
nhỏ còn xí xọn xách bóp tay, che dù hồng nữa!
Tôi mở to
mắt đôi mắt ốc bươu của mình định quở, nhưng dội ngược. Vì có
hai chàng chiến binh đang kè kè đi bên cạnh nó. Mở cửa ra, làm
tôi ngạc nhiên quá đỗi.
Người bên trái của Ái Chi là anh
Tân. Bọn “Tứ Nữ La Sát” chúng tôi đều biết anh qua đêm đốt lửa
trại liên trường, gồm có các: Phan Thanh Giản, Đoàn Thị Điểm
(Cần Thơ), Tống Phước Hiệp (Vĩnh Long), Thoại Ngọc Hầu (Long
xuyên), Nguyễn Trung Trực (Rạch Giá), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ
Tho)...
Thuở đó chúng tôi vừa thi xong Trung học Đệ nhất
cấp và anh Tân vừa thi Tú tài hai (chưa biết kết quả).
Rồi bẵng đi thời gian dài, hôm nay gặp lại! Anh oai phong trong
bộ quân phục màu cỏ úa, bên vai áo gắn huy hiệu vệt sét. Đó là
biệt danh Sét Miền Tây của binh chủng SĐ21BB trấn đóng ở vùng
rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ thuộc tỉnh Cà Mau. Hai chàng ta
cười chào tôi. Nhỏ Ái Chi hướng mắt về anh Tân, lanh miệng:
- Huỳnh Liên, còn nhớ ai đây không?
Tôi cười, khẽ gật
đầu chào anh Tân và một quân nhân khác đi bên cạnh anh:
-
Anh Tân phải không? Lâu quá không gặp. Mời hai anh và Ái Chi vào
nhà.
Hai chàng quân nhân và Ái Chi muốn ngồi nói chuyện ở
ghế đá ngoài sân dưới tàng cây lệ liễu cho mát. Tôi vào trong
rót nước bưng ra mời khách. Anh Tân giới thiệu, anh Hải ở cùng
binh chủng và là anh em bạn dì của anh. Họ ghé qua, rủ tôi đi ăn
chiều và sau đó đi xem phim “Mùa Thu Lá Bay” phỏng theo tiểu
thuyết của bà xẩm Quỳnh Dao đang chiếu ở rạp Tây Đô. Tôi hứa với
bọn họ đi xem phim thôi. Vì chiều nay tôi phải theo ba má qua ăn
cơm gia đình ở nhà bác ruột tôi trong ngày lễ lớn này.
Thời gian có chờ đợi ai? Nó
qua mau như cơn gió lốc. Mấy năm sau ngày Quân Lực đó. Chị Trà
Mi tròn mộng ước, có người yêu là anh Phúc con bác tôi. Khi biết
họ là bồ bịch với nhau tôi ngạc nhiên quá đỗi, tra hỏi. Chị cười
mỉm bẽn lẽn, nhưng mắt long lanh động chân tình, thố lộ:
- Có gì đâu, lúc anh Phúc vào nhà mầy, tao lẻn cửa sau đi về,
không ngờ lính quính thế nào mà ống quần vướng vào hàng rào kẽm
gai. Tao còn đang tháo gỡ thì anh Phúc hiện ra. Thế là chúng tao
quen nhau...
Tôi cười hí hí:
- Vậy là hai người
phải cảm ơn cái hàng rào nhà tui mới được!
Ái Chi sau khi
đậu Tú tài một, thi tuyển đậu vào trường Sư Phạm Vĩnh Long. Anh
Tân và nó sẽ đám cưới sau khi nó tốt nghiêp.
Con Nguyệt
Thu thì kín đáo làm sao! Không biết nó đi học khóa người nhái
hồi nào, mà sau buổi sáng cả bọn dự lễ ngày Quân Lực đó, thì nó
lặn mất tiêu! Nó lặn thật kỹ! Nó lặn thật sâu! Lặn cả tháng sau,
con nhỏ mới trồi lên và thì thầm kể lể, bởi sợ “Tứ Nữ La Sát” sẽ
mở phiên tòa bất thường, xử tội tên không thành thật khai báo
này! Nguyệt Thu cười ngỏn ngoẻn khi bị bọn tôi tra khảo hạch hỏi
lung tung. Nó nói:
- Lỗi đâu phải tại tao không khai báo.
Bây nghĩ coi: Ba đứa bây là cái thứ chằng ăn trăn quấn, sấu táp
ăn 7 ngày không hết còn lại cái đùi. Ai mà qua mặt tụi bây được?
Và nghe đây, tụi bây mỗi đứa còn có 2 con mắt, 3 đứa cộng lại là
6 con mắt, sáu lỗ tai. Bộ tụi bây điếc, tụi bây đui hết sao mà
không thấy tao ra choàng vòng hoa chiến thắng?
Tôi nổi nóng,
nguýt nó:
- Đồ con mắc toi! Nói vậy mà nghe được à? Người
đông như kiến cỏ. Đừng có xạo để chối quanh nghen mậy. Trước đó
mầy có nói với bọn tao là mầy đi choàng vòng hoa chiến thắng
đâu?
Chị Trà Mi trầm tĩnh hơn:
- Thôi hãy kể tại
sao, nguyên nhân nào mà mầy quen với anh Vịnh cho bọn tao nghe
đi? Không được ăn gian nói dối. Nếu lọt lỗ tai thì bọn tao sẽ
khoan hồng tha cho không xử tội...
Mắt Ái Chi sáng ngời,
nhưng cũng tru tréo hăm he:
- Phải thành thật khai báo
đừng có đía dóc, hoặc nói xạo thì bọn tao sẽ quết mầy nhừ như
mấy bà Bắc Kỳ quết giò sống để làm chả lụa đó nghen.
Cả
bọn ôm bụng cười bò lăn, bò lộn. Tôi nôn nóng, hối:
- Nói
đi mậy, nói nhanh đi, bọn tao đang chờ nghe chuyện tình đôi mươi
lâm ly bi đát, hết thuốc chữa của mầy đây.
Nhỏ Nguyệt Thu
háy tôi con mắt có đuôi. Rồi trề môi nói:
- Vô duyên, ai
cần chữa! Chuyện của tao chớ bộ chuyện của mầy sao mà mầy nóng
quá vậy?
Tôi bị nó mắng chưa kịp cự lại, thì con nhỏ Ái
Chi cười hí hí, xen vào:
- Ờ há, mầy nói đúng, thật sự
con Huỳnh Liên không có «viên» nào hết. Nhưng tụi tao muốn nghe
duyên của hai đứa bây kìa.
Mấy đứa nó lại phá lên cười.
Tôi ngu ngơ, định mở miệng nhưng chưa kịp hỏi tại sao chúng
cười? Thì tôi lại bị con Ái Chi mắng át:
- Mầy chậm tiêu
quá Huỳnh Liên! Thôi nín đi, hãy nghe con Nguyệt Thu kể.
Nguyệt Thu nhướng nhướng đôi mắt phượng, sáng ngời long lanh gợn
sóng tình, cười mím chi bảo:
- Số là sáng ngày lễ tao có
biết mô tê chi đâu. Tao cũng đi dự lễ như tụi bây thôi. Sắp vào
lễ, bà Giám thị bươn bả đi kiếm tao thế chỗ cho con nhỏ Thân Ngu
(Thu Ngân) lớp Đệ Tam 3, có tên trong danh sách choàng vòng hoa
chiến thắng hôm đó, mà nó bị bịnh không đi được. Ngộ thiệt,
người tao choàng lại là anh Vịnh. Tụi bây có đứa nào mà không
biết ảnh? Ảnh ở xóm nhà tao trong chợ Tham Tướng đó mà. Trước
kia mặc dù ở cùng đường, hàng ngày đi học gặp nhau, nhưng tao có
quen ảnh đâu? Sau khi đậu phần hai, ảnh tình nguyện vào trường
Võ Bị Đà Lạt. Tốt nghiệp, anh được bổ xung vào binh chủng SĐ21BB
đóng quân ở Cà Mau, Năm Căn... Sau ngày lễ tao được choàng vòng
hoa cho ảnh đó, chúng tao hẹn nhau đi ăn, đi dạo trong mấy ngày
anh nghỉ phép. Rồi thư đi, thư về để bây giờ thì tao trở thành
người yêu của lính. Ảnh là lính chiến rày đây mai đó. Sự sống
bấp bênh tội lắm. Nhưng «Làm người yêu lính chiến là chấp nhận
thương đau là chấp nhận xa nhau» mà lại...
Mắt tôi buồn buồn, tay xoay
xoay ly nước mía nghĩ ngợi xa xôi. Vì nay bọn «Tứ Nữ La Sát» của
chúng tôi đã tản lạc hết rồi. Trà Mi trở thành chị dâu sau khi
lấy anh Phúc con bác tôi. Ái Chi học trường Sư Phạm ở Vĩnh Long,
ít khi thư từ cho tôi vì nó đang lặn ngụp trong tình yêu bên anh
Tân, thì còn thì giờ đâu nhớ đến con bạn này nữa. Nhưng tôi
không buồn mà mừng và chúc phúc cho bọn nó. Nguyệt Thu sau khi
đậu Tú tài một, nó được hội Cha Mẹ Nuôi Quốc Tế bảo lãnh qua bên
Mỹ học 4 năm. Vì tương lai, nó từ giã người yêu ra đi cũng gần 2
năm rồi.
- Huỳnh Liên nghĩ gì mà có vẻ xuất thần quá vậy?
Tôi giựt mình nuốt vội ngụm nước mía, trả lời:
- Em
nghĩ chuyện ngày xưa.
Anh Vịnh hỏi xuôi:
- Vậy
sao? Huỳnh Liên không nghĩ đến chuyện tương lai?
Tôi
cười, tự nhiên:
- Dạ, có chớ anh.
- Liên nghĩ gì
về tương lai?
Tôi cười e thẹn:
- Năm rồi em trợt
vỏ chuối, năm nay hy vọng sẽ thi đậu phần hai.
- Chỉ vậy
thôi sao?
- Thưa anh, chỉ vậy thôi. Tham lam quá thì Trời
Phật không đáp lại sự yêu cầu của mình. Em nghe nói Nguyệt Thu
sắp dời qua tiểu bang khác? Nó học hành theo kịp người ta không?
Em mong được dự đám cưới của hai người...
Thời gian lặng lẽ qua mau!
Nay cũng gần 40 năm rồi. Mỗi cái tích tắc của kim đồng hồ thì
trên thế gian này có biết bao nhiêu vật đổi sao dời! Bây giờ tôi
đã hai màu tóc. Hàng ngày giữ hai đứa cháu ngoại kháu khỉnh dễ
thương. Sống an nhàn với tuổi già không còn háo thắng, tranh
đua, bươn chải như mấy mươi năm trước lúc gia đình bôn đào khỏi
quê hương lưu lạc đến xứ người.
Sau cuộc đổi đời đó, bạn
bè xưa kẻ còn người mất, mỗi đứa một nơi. Vợ chồng anh Phúc và
Trà Mi vẫn kẹt bên nhà. Họ đã là ông bà nội, ngoại rồi. Tội
nghiệp, Ái Chi sống nghèo khổ với 4 đứa con, từ khi giặc vào nó
bị nghỉ dạy và anh Tân chết trong tù cải tạo. Mà thỉnh thoảng
tôi cũng gởi quà về cho nó nhưng có nhằm nhò thấm tháp gì đâu!
Như cơn nắng hạ nhễu vài giọt mưa. Còn Nguyệt Thu thì tôi không
có tin tức gì của nó cả. Mặc dù sau này tôi có nhờ các đài, và
báo chì kiếm tìm nhưng bóng chim tăm cá.
Người ta tưởng ở Mỹ sung sướng lắm!
Nhứt là trong tâm tư của những họ hàng tôi còn kẹt lại ở quê
nhà. Sau những năm tháng dài làm việc vất vả để phụ chồng nuôi
con ăn học. Bây giờ mấy đứa nhỏ của chúng tôi ra trường đi làm
có tiền, chúng không còn nhờ vào hai bộ xương già này nữa. Thật
sự nếu có nhờ cũng hết xí-quách rồi, còn sức đâu đi cày như hồi
chân ướt, chân ráo mới đến xứ này.
Ở Mỹ sung sướng thật,
đó là tự do. Mùa hè năm nay, từ tiểu bang xa tôi đi qua miền Nam
California dự đám cưới đứa cháu con của người em cô cậu với phu
quân tôi. Trong dịp này chúng tôi lấy hai tuần nghỉ hè để viếng
vài thắng cảnh nổi tiếng của Thung Lũng Hoa Vàng và Vùng Vịnh
này cho mãn nhãn.
Hôm đó, vợ chồng cô em họ, rủ chúng tôi
đi dự ngày Quân Lực 19 tháng 6. Do cựu Tù Nhân Chánh Trị, và cựu
Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tổ chức tại một hội trường
lớn. Người người đến dự đại hội đông đảo, các hàng ghế dài người
ngồi chật hết. Còn một số quan khách khá đông đứng sau, và dọc
theo hai bên hông của hội trường.
Thú thật, trong đời tôi
từ đi học cho đến bây giờ, tôi mê và thích hát nhứt bài Quốc Ca
Việt Nam Cộng Hòa. Vì ngay từ còn đi học tôi được hát mỗi buổi
sáng trước khi vào lớp. Tôi được hát vào các buổi lễ đông người
lúc còn ở quê hương cũng như lúc bôn đào nơi hải ngoại. Tôi được
tự do hát. Tôi hát trong tâm hồn phơi phới, hát trong hiên
ngang, hát trong niềm phấn khởi, hát trong niềm hãnh diện, hát
trong niềm kiêu hãnh dâng lên. Tôi hát mà đắm hồn mình theo lời
ca điệu nhạc rền vọng nơi hội trường, và vang vang trong không
gian.
Trên 3 hàng ghế tôi ngồi, xéo bên tay phải có một
phụ nữ dáng người thư thả, nét mặt thanh tú dễ nhìn mà tôi cảm
thấy hình như đã gặp bà ta ở đâu? Suốt buổi lễ, mắt tôi cứ dán
vào người đàn bà ấy. Tôi cố moi trí mình để nhớ, và hồi tưởng...
Nhưng vô hiệu! Bỗng người đàn bà đó quay nhìn xuống. Mắt chúng
tôi chạm nhau. Rồi cả hai mỉm cười lịch sự cùng nhẹ gật đầu
chào.
Sau phần nói về ý nghĩa ngày Quân Lực của ban tổ
chức, thì đến phần văn nghệ bỏ túi, lính hát, lính nghe. Không
khí hội trường trở nên ồn ào, náo nhiệt, vui tươi. Những bộ quân
phục các anh mặc, và huy hiệu gắn trên áo các anh tượng trưng
cho từng binh chủng một, như: SĐ7BB, SĐ9BB, SĐ Dù, Chiến Tranh
Chánh Trị, Biệt Động Quân, Không Quân, Hải Quân... Ngày hôm nay,
gần như đủ mặt cựu quân nhân các binh chủng trong Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa. Kẻ ngồi người đứng hàn huyên tâm sự, ăn uống,
truyện trò thỏa thích.
Tôi cảm thấy lòng bồi hồi xúc động
nhớ đến thuở ngày xưa!
- Chị ơi, xin lỗi chị ở đâu đến,
sao trông mặt chị quen quá?
Tôi quay lại. Thì ra người
phụ nữ ngồi trên tôi lúc nãy. Tôi cười:
- Tôi ở tiểu bang
xa mới qua đây. Tôi cũng thấy chị quen mặt lắm. Xin lỗi chị tên
gì và đến Mỹ năm nào?
Tôi lại đường đột hỏi chị! Tôi đã
phạm vào một trong những điều kỵ về lịch sự xã giao mà người dân
bản xứ không bao giờ hỏi nhau như vậy. Nhưng tôi là người Á
Đông! Lại là người Việt và nhứt là ở miền Tây nữa!
Người
phụ nữ đối diện tôi, tuy đứng tuổi, nhưng vẫn còn nét trang nhã,
nhứt là miệng chị cười tươi như hoa nở. Chị vui vẻ trả lời:
- Tôi du học trước ngày Việt Cộng chiếm miền Nam, Thu là tên
của tôi. Còn chị đến đây năm nào? Việt Nam chị ở đâu, và chị tên
gì nhỉ?
Đó, thấy chưa? Tôi tự biện hộ cho mình như vậy,
có sai đâu? Chị ta cũng hỏi tôi thế mà! Tôi cởi mở, cười bảo:
- Tôi ở Cần Thơ, tên Liên. Việt Cộng vào, chạy bỏ xứ!
Không ai bảo. Bỗng dưng chúng tôi cùng một lúc chỉ mặt nhau,
và cùng một lúc nói như hét: «Huỳnh Liên! Nguyệt Thu!». Rồi
chúng tôi ôm chầm lấy nhau, nức nở, nghẹn ngào! Tôi vẫn nhớ rất
rõ, Nguyệt Thu sang Mỹ học. Chúng tôi thỉnh thoảng thư từ thăm
hỏi nhau. Sau ngày 30 tháng 4 năm 75, Việt Cộng chiếm miền Nam
thì chúng tôi hoàn toàn mất liên lạc cho đến nay.
Nỗi vui
mừng, cảm động, bùi ngùi quấn chặt hai đứa. Bỗng Nguyệt Thu
buông tôi ra, nước mắt còn ràn rụa, mà miệng cười tích toác,
bảo:
- Mầy đứng đây, đừng đi đâu hết, đợi tao một chút
nghen Huỳnh Liên.
Tôi chưa kịp phản ứng, nó lẻn vào đám
đông mất dạng. Vài phút sau, con nhỏ săng sái kéo lôi tay một
người đàn ông có dáng gầy, cao, đi về phía tôi:
- Huỳnh
Liên, mầy nhìn kỹ xem ai đây?
Tôi chớp mắt, ngỡ ngàng,
miệng lắp bắp như đang bị mắc nghẹn:
- Anh, Anh... Anh
Vịnh! Phải anh Vịnh không? Nồi đồng, nồi đất ơi, tui có nằm mơ
không cà?
Hơn 40 năm rồi, chúng tôi mới gặp lại! Vợ chồng
tôi đến nhà nó ngủ một đêm. Hai ông chồng chúng tôi khề khà bên
mấy lon bia kể chuyện vui buồn lúc còn trong đời quân ngũ. Những
thống khổ, đoạn trường lúc trong tù cải tạo. Còn tôi và nó tha
hồ kể cho nhau những chuyện ngày xưa. Tôi kể những chuyện xảy
ra, nhứt là lúc nó rời quê hương đi du học, và sau khi Việt cộng
chiếm miền Nam... Hai đứa chúng tôi có lúc cười như điên, có lúc
thì đầm đìa nước mắt.
Nó bảo:
- Mầy biết không
Huỳnh Liên? Trước ngày tao du học. Tao và anh Vịnh hẹn là sẽ đợi
chờ nhau. Khi tao đi học 4 năm trở về sẽ làm đám cưới. Như mầy
biết, tao đi chưa được 3 năm, thì miền Nam bị mất, và bọn tao
cũng mất liên lạc từ đó. Cho mãi cách đây 4 năm, ảnh và tao tình
cờ gặp lại. Thì ra ảnh đến Mỹ theo diện H.O từ 5 năm trước.
Chúng tao ở cùng thành phố, chỉ cách nhau mấy con đường thôi. Vợ
ảnh đã qua đời, để lại 3 đứa con. Đứa nhỏ nhứt cũng đã đi làm và
lập gia đình năm rồi.
Nói đến đây, nó nhìn tôi cười chúm
chím, tiếp:
- Mầy xem, cuộc đời như một giấc chiêm bao!
Giờ thì bọn tao sống chung với nhau. Từ trước cho đến gặp lại
ảnh tao vẫn chưa lập gia đình. Cũng có nhiều cơ hội để tao lấy
chồng chớ. Nhưng không biết sao tao không muốn. Có lẽ số tao mắc
nợ ông Vịnh này! Bọn tao đã hưu trí rồi, nên hay đi viếng chỗ
này chỗ kia trên nước Mỹ. Có khi đi qua các nước khác, nhưng
chưa về Việt Nam lần nào... Vì ba má tao đã qua đời, chị và anh
tao cũng chết mấy năm trước. Hai đứa em tao bảo lãnh qua, cũng ở
gần đây... Bây giờ thì bọn tao là đôi bạn già sớm tối có nhau,
vui vẻ lắm... Còn bọn mầy thì sao? Anh Hải còn tiếp tục ngành
luật như thuở ngày xưa ở quê nhà không?
Nheo mắt cười
buồn nhìn nó, tôi lí lắc:
- Qua bao nhiêu thăng trầm dâu
bể của cuộc đời! Qua chuyến vượt biên thừa chết thiếu sống, bọn
tao đến đây “lỡ chợ, lỡ quê” nên chẳng còn tâm trí đâu để mà
giùi mài kinh sử. Đến xứ tạm dung, vợ chồng tao làm “cu li” đi
cày mệt nghỉ để nuôi đám nhỏ học hành. Bây giờ chúng đã lớn, có
công ăn việc làm tự lo hết rồi. Ông chồng tao đã hưu trí, bây
giờ một tuần đôi ba lần ra dòm ngó giúp cho công việc của con
gái, và ngày ngày đưa rước hai đứa cháu ngoại đi học là niềm vui
của ổng. Còn tao vẫn là câu mầy hay bảo lúc xưa “Con Huỳnh Liên
đặng không mừng, mất không lo... lơ thơ tơ liễu buông mành...”
Để hoài niệm một thời đã qua, tao hay viết lách bày tỏ nỗi lòng
của mình và của tha nhân! Mầy nghĩ coi, có ai mà biết trước được
ngày sau sẽ ra sao?
Tệ xá Diễm Diễm Khánh An
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by dtdb chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, September 21, 2016
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang