Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề:
Xuân và Mai…
Tác giả: Huy Văn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Chiếc
xe Lam rề rà chạy ngang Hòa Mỹ rồi rời quốc lộ 1, rẽ qua ngã ba Huế
để vào phố Đà Nẵng. Nhìn đoạn đường – bây giờ đã trở nên quá quen
thuộc – tôi thấy nhớ ngày chân ướt chân ráo theo các đàn anh đến nhà
Đại úy Trần Văn Vương chúc Tết đúng một năm về trước, rồi lại nhớ
Thiếu úy Vũ Văn Giáp và những đêm cùng anh ghé thăm gia đình người
bà con vai em, có chồng là một trung tá ngành Quân Sản Tạo Tác trong
cư xá Đoàn Kết. “Khi nào về dưỡng quân thì bác Giáp và chú Huy cứ tự
nhiên ra đây. Người nhà cả mà!” Lời ân cần chào đón của bà mẹ đã xóa
ngay sự bỡ ngỡ của lần đầu diện kiến cả nhà. Nhờ vậy, không khí gia
đình trở nên thân mật hơn, nụ cười cũng tự nhiên hơn và những câu
chuyện thăm hỏi bỗng dưng thân tình chi lạ! Tiếng dương cầm và bài
hát Mộng Chiều Xuân của ngày mùng 4 Tết vẫn còn vang vọng đâu đây,
nhưng đôi bàn tay ngà và tà áo dài mang huy hiệu trường Nữ bây giờ
đang du học phương nào bên vùng trời Âu Mỹ? Có ai còn nhớ buổi tối
lắc bầu cua rồi xì dách và bài cào do anh chàng chuẩn úy chỉ cười
nhiều hơn nói làm cái không nhỉ?
Phố chiều ngày cận Tết thì nơi nào cũng
như nhau: rộn ràng, tất bật. Đà Nẵng cũng không ngoại lệ. Kẹt xe tại
ngã ba Cây Lan là chuyện đương nhiên. Chiếc xe Lam nối theo đủ loại
phương tiện giao thông để nhích từng thước đường nhựa. Xe không chạy
được trên lề nhưng người thì len, lách giữa mấy “con rùa hai bánh,
ba bánh, bốn bánh...” một cách thoải mái. Cũng không còn bao xa là
tới bến Chợ Cồn nên tôi xuống xe, thả theo dòng người trên đường
Hùng Vương để vào phố chính. Tôi chợt thấy mình trở về thời mới lớn,
thời của lứa dậy thì, của những mơ mộng trên trời dưới đất thật viễn
vông mà cũng thật hồn nhiên, nhớ cả lúc lạng xe, ngồi quán cà-phê
hay bát phố, nhứt là những lần dạo phố xuân với một màu mắt nhung
của võ đường Hoa Lư, nơi có Hội Quán Cây Tre nổi tiếng trên đường
Đinh Tiên Hoàng. Lãng mạn làm sao khi mấy mùa dạo phố đều không có
đến một lần đan tay, dù tình cảm đã quá đủ để nói lên tiếng lòng...
“trong như đã”! Đường hoa, phố tết, chợ khuya, phút giao thừa trên
đường Nguyễn Huệ sau thánh lễ nửa đêm. Ngần ấy cơ hội để “đầu tư”
một mái tóc dài, hay một đôi mắt biếc, đều đến rồi đi suốt mấy năm
liền. Cho đến hôm qua, khi từ giã Sài Gòn để trở ra đây, thì trong
tôi mơ ước vẫn còn là ước mơ.
Nhưng cảm giác cô đơn vì thiếu bàn tay đan
dần dà nhường chỗ cho thoáng chạnh lòng khi nghĩ đến những đồng đội
còn đang miệt mài trong vùng lửa đạn. Họ không có mùa xuân đích
thực. Nàng xuân chỉ đến qua làn sóng phát thanh với những bài hát
quen thuộc đến nằm lòng. Mùa xuân của Lính là những gói quà nho nhỏ
và những cánh thư từ hậu phương gởi ra tiền tuyến. Những nét chữ học
trò, dù mang cùng một nội dung, đã là hạnh phúc thật ấm lòng cho
những người “lăn lóc gió sương”. May mắn lắm Lính mới nhận được vài
chữ không nằm trong “bản sao” đã được ai đó viết sẵn. Tuy đó chỉ là
vài dòng mộc mạc với lời chúc an lành trong mùa xuân mới, nhưng cũng
đủ để Lính khoan khoái đem khoe rầm trời với đồng đội của mình. Ngày
mai, họ sẽ nhận được những niềm vui nho nhỏ ấy để càng thêm nhớ nhà,
nhớ phố, nhớ bạn hữu gần, xa. Đồng đội của tôi đang ở tuyến đầu, còn
tôi may mắn hưởng xuân nơi phố thị và đang miên man nhớ họ: những
người chỉ mới một năm trước đây đã cùng tôi lòng vòng phố lính này.
Bây giờ thì họ, hoặc đã về với cát bụi, hoặc đã an phận đời thường
sau khi đã bỏ lại một phần thân thể nơi chiến địa. Lúc tôi bàn giao
trung đội cho một trung sĩ I để về Sài Gòn học khóa 5/74 Tiếp Liệu
Binh Đoàn hồi tháng 10 năm ngoái, thì số anh em kỳ cựu còn lại sau
gần một năm cùng tôi chiến đấu chỉ đếm được trên đầu một bàn tay.
Buồn thay!
Bước
chân vô định đưa tôi đến chợ Cồn, qua Ông Ích Khiêm, Nguyễn Hoàng,
Duy Tân rồi vòng lại rạp xi-nê Trưng Vương trên đường Hùng Vương.
Những con đường và góc phố quen thuộc gợi nhớ ngày đầu cùng các
“quai chảo” ra trình diện Bộ Chỉ Huy BĐQ vùng I để nhận đơn vị.
Khách sạn OK ở gần góc Yên Bái – Hùng Vương, nhà sách Lan Dung khiêm
nhường trong chợ Hàn, quán cơm bình dân mà tôi đặt tên là quán
“Lính” trên đường Phan Chu Trinh, là những nơi đã từng chứng kiến
cảnh các “quan nhí” kiêm đồng đội quân trường xả láng mấy ngày thân
mật sau cùng, trước khi mỗi người đi về một hướng. Trong số những
chuẩn úy của hơn một năm trước, có người đã nằm xuống để “làm phân
xanh cây lá”, có người phải “giã từ cuộc chơi” sau khi để lại một
phần thân thể của mình tại chiến trường, những người còn lại thì
đang đón xuân ngoài chiến hào, tại một tuyến đầu heo hút nào đó. Họ
đang làm gì, nghĩ gì? Có ai nhớ Đà Nẵng và những ngày vui đã qua
không nhỉ?!
Tôi
đang thả bước chân tư lự qua khách sạn Trung Nam trên đường Nguyễn
Thái Học thì có người đến kề bên, reo lên một cách mừng rỡ:
– Thì ra anh ở ngay đây!
Tôi vừa nhận ra Hoài An thì nàng đã níu
tay áo, vừa bước đi vừa nói:
– Tìm anh gần cả năm rồi, bây giờ mới gặp!
– Anh cũng đến tìm em và cả nhà. Nhưng...
– Anh ghé qua lúc nào?
– Mới cách đây chừng một tiếng đồng hồ
thôi! Nhà em mới xây cất thêm gì đó phải không?
Hoài An chợt dừng chân, mặt đượm nét buồn.
– Nhà bán rồi anh! Người chủ mới đã dời
cửa và tường ra ngoài hàng ba cho căn nhà được rộng thêm.
– Vậy... Mẹ em, Nhơn và em Sơn đang ở đâu?
Hoài An lay nhẹ cánh tay tôi:
– Chuyện dài lắm! Mình tìm một nơi nghỉ
chân đi anh!
Tôi
gật đầu, đỡ lấy giỏ đi chợ và một túi nylon từ tay Hoài An rồi chỉ
qua bên kia đường Hùng Vương:
– Có một quán quen trong dãy này. Nhạc
nghe được lắm!...
Chiếc bàn nằm gọn trong góc, cạnh quầy
thâu ngân. Đây là vị trí lý tưởng để nhìn toàn cảnh trong quán và cả
ngoài đường lộ. Quán quen, người cũng không xa lạ nên cô tiếp viên
kiêm thâu ngân chỉ đến hỏi một mình Hoài An rồi quay vào trong ngay.
– Sao chị ấy không hỏi anh dùng gì?! Hoài
An tròn mắt hỏi tôi.
– Quán quen mà!
Tôi đáp gọn và cũng vừa đúng lúc cô gái
mang ly cà-phê đến.
– Cam vắt của chị sẽ có trong giây lát.
Còn cà-phê thì hy vọng sẽ không quá ngọt như lần trước.
Cô gái nói xong là quay lưng đi ngay. Tôi
nâng cái “phin” lên, khuấy vài muỗng, không nhìn nhưng cũng biết đôi
mắt của Hoài An đang tròn xoe nhìn tôi thay cho câu hỏi.
– Thì đã nói là quen mà!
Đôi mắt vẫn nhìn tôi, chưa hài lòng với
câu trả lời nên tôi giải thích thêm.
– Mỗi khi về dưỡng quân thì nếu đi uống
cà-phê là anh chỉ tới Lộng Ngọc, hay quán Kim, hoặc nơi này. Riết
rồi họ biết thói quen của anh.
– Vì thích nghe nhạc, ghiền cà-phê họ pha,
hay vì mái tóc dài như chị này?
– Có lẽ là cả ba!
Tôi cười sau câu trả lời. Bên kia bàn, đôi
mắt bỗng trở nên đăm chiêu. Tôi biết là đã đến lúc mình cần nghe hơn
nói.
“Em có ý chờ
anh hồi âm lá thư em gửi ngay lúc anh cùng đơn vị vào Quảng Ngãi hồi
tháng 4 năm ngoái. Nhưng bặt vô âm tín. Em biết anh bận hành quân,
nhưng không lẽ vài chữ cũng chẳng có thì giờ!? Cả nhà đều biết em lo
lắng. Anh Nhơn cứ trấn an em hoài. Tháng 5, nghe nói tiểu đoàn anh
đụng nặng. Vừa xong trận Mộ Đức là vào ngay Quảng Tín. Trận Tiên
Phước ở Quảng Tín làm cho Đà Nẵng xôn xao không ít vì đánh lớn quá!
Út Sơn và em vào ngay hậu cứ của Tiểu Đoàn anh để hỏi thăm tin tức.
Hôm đó, thân nhân và gia đình binh sĩ cũng dồn dập ra, vào. Hai chị
em hỏi tin anh, thì ông trung úy Chỉ Huy hậu cứ nói là chưa biết rõ
và còn đang chờ tin từ đơn vị ngoài hành quân và từ Tổng Y Viện Duy
Tân. Nghe nói vậy là hai chị em lật đật chạy trở ra Đà Nẵng, nhưng
dò hỏi khắp các Phòng, Ban mà cũng không nơi nào có tên anh trong
danh sách nhập viện. Hai chị em định hỏi mấy người thương binh,
nhưng nhìn thấy họ băng bó đầy mình nên không dám. Lúc ra cổng thì
chúng em gặp vợ chồng một anh thiếu úy cùng đơn vị với anh cũng đang
ra về. Hai ông bà cũng vào Duy Tân tìm anh. Họ nói có một người lính
cho biết là anh bị thương và đã được đưa về Đà Nẵng. Anh chị ấy cũng
đã dò hỏi khắp nơi trong bệnh viện, kể cả Nhà Xác, mà cũng không tìm
thấy anh. Khi chia tay, em có cho họ địa chỉ và dặn là nếu có tin
của anh thì báo cho cả nhà em biết. Phải đến đầu tháng 8 em mới nhận
được vài chữ của chị vợ anh Thiếu úy Công. Chị cho biết anh đang
hành quân trong quận Đức Dục và vùng Nông Sơn. Anh Nhơn và em có gửi
chung một lá thư thăm anh, nhưng rồi cũng bặt tin như lá thư trước.
Không ai hiểu vì sao nhưng cũng mừng là vì biết anh an lành. Sau đó
thì hàng loạt biến chuyển trọng đại xảy ra trong gia đình nên em
cũng không còn tâm trí đâu mà chờ tin của anh...”
Hoài An chợt dừng, dán mắt vào hai bàn tay
đang khoanh tròn ly nước, không giấu diếm sự xúc động trên nét mặt
và trong ánh mắt. Đến lúc này tôi mới để ý thấy chiếc nhẫn cưới trên
bàn tay trái của nàng. Biến chuyển trọng đại mà Hoài An vừa nói tới
có lẽ là chuyện liên quan tới chiếc nhẫn này không chừng. Nhưng tôi
không hỏi, mà chỉ kể sơ chuyện đơn vị hành quân liên tục suốt từ
tháng 4 cho đến cuối tháng 10/1974 là lúc tôi về Huấn Khu Thủ Đức
học khóa Sĩ Quan Tiếp Liệu Binh Đoàn. Trong suốt khoảng thời gian
này, Tiểu Đoàn 37BĐQ chỉ về hậu cứ đúng một ngày vào cuối tháng 7 để
bổ sung quân số và quân trang, đạn dược rồi trở ra vùng hành quân
ngay lập tức để kịp thời giải tỏa áp lực địch tại quận Đức Dục và
chuẩn bị tái chiếm Nông Sơn. Tháng 8, khi Hoài An nhận tin của tôi
từ chị Hương, vợ anh Công, thì cả Liên Đoàn 12BĐQ đang cự địch trong
vùng Nông Sơn và sau đó thì làm nhiệm vụ bảo vệ Chi Khu và quận lỵ
Đức Dục, đồng thời giữ an ninh cạnh sườn tại vùng đồng bằng Hà Nha
thuộc quận Đại Lộc cho hai đại đơn vị Nhảy Dù rồi Thủy Quân Lục
Chiến để họ rảnh tay quần thảo với bắc quân ở mặt trận Thường Đức,
tại cao điểm 1062. Tôi nhận lá thư đầu tiên của Hoài An khi đang
cùng trung đội dò dẫm theo từng bước chân rà mìn ròng rã trong suốt
một tháng tại xã Đức Lương của quận Mộ Đức–Quảng Ngãi. Căng thẳng
cùng cực khi mỗi ngày phải hồi hộp đối diện với tử thần nên lá thư
nằm im trong túi áo rồi chìm vào quên lãng vì những trận đánh dồn
dập suốt mùa hè và cuối năm 1974 của cả Liên Đoàn 12 BĐQ: Thạch Trụ,
Mộ Đức, Suối Đá–Tam Kỳ, Nông Sơn, Điện Bàn, Đại Lộc rồi trở lại Nông
Sơn để cầm chân địch tại cửa ngõ Đức Dục. Ngần ấy gian nguy đã làm
tôi cảm thấy không còn hứng thú trong việc trao đổi thư tín với
những hồng nhan lẽ ra đã trở thành tri kỷ. Với gia đình cũng vậy,
nhiều lắm là ghi mấy hàng cho cả nhà biết mình còn mạnh khỏe rồi
thôi. Những vấn vương đây đó khi còn an lành chốn hậu phương chuyển
ngay thành căng thẳng nơi chiến trường nên thư tín cứ thế mà rề rà
rồi đâm ra lười biếng lúc nào không biết. Một khi thời gian tính đã
không còn thì cảm nhận trong lời lẽ yêu đương chỉ có tính cách máy
móc. Do đó không phải chỉ một mình Hoài An, mà những tri âm, tri kỷ
và thân chủ thư tín của tôi đều dài cổ chờ đợi hồi âm. Nụ cười trong
rừng mai Duy Xuyên, tà áo trắng trên đường làng Thạch Trụ, mái tóc
dài trong đêm trăng Phú Lộc đều nằm trong đáy ba lô hoặc “ngự” trên
túi áo để “... Thỉnh thoảng ngắm nhìn khi tư lự cho vơi thầm nhung
nhớ lúc dừng quân...” Thật là không công bằng khi nhận thư mà không
một lời hồi đáp, nhưng biết làm sao bây giờ?! Lính mà... Em!
“Lúc em nhận tin anh từ chị Hương thì em
đã quen chồng em được gần 2 tháng. Chỉ là tình cờ thôi! Bất ngờ và
gần giống như khi em gặp anh ở nhà sách Lan Dung vậy đó! Nhưng có lẽ
là duyên nợ nên sau đó thì cơ hội cho chúng em gặp nhau xảy ra
thường xuyên hơn. Đó cũng là lúc anh Nhơn được Hội Đồng Giám Định Y
Khoa phân loại Thương Binh rồi cho giải ngũ và sau đó không lâu thì
em Sơn thi đậu vào trường Sư Phạm Qui Nhơn. Út Sơn không chọn học ở
Huế mà vào Qui Nhơn là vì bác Hai em ra thăm cả nhà rồi ngỏ ý đưa Mẹ
về Ghềnh Ráng là nơi có đất hương hỏa của dòng họ nội tại xã Qui
Hòa. Phần em thì vì công việc không thể bỏ ngang, mặt khác, em quen
với việc làm hiện tại rồi. Đi đâu cũng khó lòng tìm được một chỗ vừa
nhàn lại vừa có lương hậu hỷ như vậy lắm! Riêng về chuyện liên quan
tới ‘anh ấy’ thì... cũng tại anh thôi! Anh đến bất ngờ. Ra đi cũng
biền biệt. Nói cách khác, anh biến khỏi đời em sau một tháng ào ạt
‘thả lưới’ để rồi buông bỏ tình cảm ngay khi trở ra mặt trận. Anh
thật khó hiểu và là dấu hỏi cả đời em không thể tìm được câu trả
lời. Anh chưa lần nào nói tiếng yêu em, nhưng ngần ấy kỷ niệm, ngần
ấy thân tình – với em và với cả gia đình – cũng đủ thay lời bày tỏ.
Mọi người đều bênh vực và bào chữa cho anh mỗi lần em nói tới cái
chất nghệ sĩ trong màu áo lính của anh. Em không dùng hai chữ lãng
mạn. Nghệ sĩ mới đúng! Vì nghệ sĩ là hình tượng của một đời sống
muôn màu, muôn vẻ, cũng có nghĩa là lãng đãng và... không có thật!
Anh Nhơn ngạo em hoài cũng vì cái chất ‘nghệ sĩ’ mà em kết luận về
anh. Anh Nhơn cho là em khéo tưởng tượng thì thôi! Đã là Lính thì
làm gì có thì giờ ‘đầu tư’ tình cảm để mà thay đổi! Mẹ cũng đồng
tình với anh Hai. Mẹ nói ‘... Con nghĩ ngợi nhiều quá! Nó là Lính.
Rày đây mai đó. Con nên kiên nhẫn mới đúng!’ Kiên nhẫn?! Thì giờ đâu
nữa mà kiên nhẫn!? Mọi thứ đều dồn dập đến một lượt. Trước hết,
tương lai của cả nhà sẽ khá ổn định nếu dọn về trong Ghềnh Ráng. Mẹ
không còn phụ em ‘chạy gạo’ mà chỉ cần chung sức với bác gái chăm
sóc vườn tược và nhà cửa trong Qui Hòa. Em Sơn thì không cần phải
tốn tiền mướn chỗ trọ vì từ Ghềnh Ráng vào Qui Nhơn chỉ có vài ba
cây số thôi, còn anh Nhơn thì làm cho bác Hai rồi tương lai sẽ cai
quản cái tiệm sửa xe gắn máy ngay cạnh Trường Tiểu Học Ghềnh Ráng.
Kế đến là tình cảm của ‘anh ấy’ dành cho em càng ngày càng thêm...
cường độ mà anh thì cứ biệt tăm. Cho nên...”
Cho nên nàng chọn con đường hôn nhân để
khỏi trở thành một gánh nặng cho gia đình và cũng để cho mẹ mình yên
lòng trở về sống nơi quê chồng. Yêu một chinh nhân cũng có nghĩa là
đặt cuộc đời mình vào một canh bạc. Người mẹ đã trải qua kinh nghiệm
đau buồn khi trở thành quả phụ lúc hãy còn son nên đã rất an tâm khi
rời Đà Nẵng ngay sau đám cưới của cô con gái. Thiệp cưới kèm theo
một lá thư thật ngắn được chính người bạn thân gởi về địa chỉ gia
đình tôi tại Sài Gòn. Bạn cũng là Lính nên biết là thư ra chiến
trường thường hay bị thất lạc, do đó gởi thẳng về nhà để ít ra cũng
còn có người thân trong gia đình lưu giữ. Tôi nhận tin vui của Hoài
An ngay sau khi hàn huyên với gia đình trong ngày đầu tiên về tới
Sài Gòn. Trong thư, bạn tôi chỉ ghi vỏn vẹn một câu “Có DUYÊN nhưng
không NỢ. Biết sao bây giờ!”. Có thoáng hụt hẫng, có phút chạnh
lòng, nhưng rồi phiền muộn cũng tan dần vào nhịp độ của sinh hoạt
thường ngày tại hậu phương lớn, trong đó việc theo học khóa Tiếp
Liệu Binh Đoàn là mối bận tâm lớn nhứt. Có lẽ vì vậy mà trong 3
tháng nhàn hạ ở Sài Gòn, nỗi nhớ về Đà Nẵng đã không có dịp gặm nhấm
trong lòng tôi. Nhưng vừa xuống phi cơ rồi khi nhìn lại con đường
vào hậu cứ là tôi đã thấy bồi hồi, rưng rức. Nỗi niềm cứ thế trải
dần theo cảm xúc. Những hồng nhan của mùa xuân trước tưởng đã ngàn
trùng xa, không ngờ vẫn còn có mái tóc quá vai đang đối diện với tôi
trong góc quán. Năm ngoái là xuân tươi với những đóa hoa lòng nở
vội. Ngày vào xuân hôm nay lại là một cuộc hạnh ngộ đáng lẽ không
nên có, bởi lẽ tiếng lòng chỉ còn lại dư âm và tôi không biết phải
giải thích như thế nào để Hoài An hiểu là nàng không cần phải ray
rứt khi cứ nghĩ mình có lỗi vì đã quyết định lấy chồng chỉ sau vài
tháng quen biết.
– Em mong là anh không trách em quá vội vàng!
Hoài An lên tiếng sau khi chúng tôi cùng
im lặng hồi lâu.
– Anh chưa hề có ý trách em! Mỗi người đều có một hoàn cảnh để suy
nghĩ rồi quyết định. Anh nghĩ là em đã chọn cách vẹn toàn nhứt.
– Nhưng...
– Em không nên tự trách mình.
– Ý em muốn nói là còn có một giải pháp
khác nhưng em đã chọn ở lại đây với “anh ấy”...
– Anh hiểu em muốn nói gì. Nhưng nếu em
theo cả nhà vào Qui Nhơn thì tình cảm của mình lại càng bấp bênh
hơn.
– Tại sao?
– Tại vì anh đã bặt tin khá lâu, mà sự mỏi
mòn nào cũng có giới hạn thời gian của nó. Sẽ rất bất công nếu như
em cứ chờ đợi mà anh thì... biệt tăm dài dài. Mặc khác, tình yêu
phải đi đến hôn nhân mà anh thì không muốn em thành góa phụ quá sớm.
– Nhưng em muốn biết là anh có trách em
hay không?
–
Không bao giờ! Thôi đừng thắc mắc gì về chuyện này nữa. Theo anh
thấy thì em đang hạnh phúc. Đúng không?
Hoài An gật đầu, không nói gì thêm. Như
vậy cũng đủ để tôi hiểu là nàng đã gặp may mắn trong cuộc sống hiện
tại và không thấy quá hiu quạnh mặc dù không có người thân nào bên
cạnh. Câu chuyện hàn huyên sau đó chỉ là những tin tức về sinh hoạt
hiện tại của gia đình nàng và của bạn tôi tại Qui Nhơn. Khi chúng
tôi rời quán thì phố xá cũng vừa lên đèn. Đường về bến xe Lam ở Chợ
Cồn tấp nập người qua lại hơn cả lúc ban chiều. Cảnh sinh hoạt làm
tôi nhớ những bước chân rộn rã và một hạnh phúc thật ấm lòng khi rời
nhà Hoài An sau lần gặp lại Hoài Nhơn, anh của nàng. Mới đó mà đã
một năm qua rồi! Thời gian trôi, hoàn cảnh và con người đều thay
đổi. Chuyện đời không phải như trong tiểu thuyết và phim ảnh. Những
lần gặp gỡ trong mấy tuần dưỡng quân hồi tháng 3 năm ngoái chỉ mới
là bước khởi đầu nên chưa đủ để gọi là đã mang lại tình yêu đích
thực. “Không phải tại anh. Cũng không phải tại em...” Hai vị nhạc sĩ
(Lê Dinh và Minh Kỳ) quả đã khéo lên tiếng giùm những ai đi “chưa
trọn cuộc tình” của họ...
– Anh có đi chung để về Phú Lộc không?
Hoài An hỏi khi chúng tôi vừa tới bến xe
Lam ở Chợ Cồn.
–
Không!
Tôi đáp
gọn rồi trao cho nàng giỏ xách và chiếc túi nylon khi nàng đã lên xe
ngồi ngay ngoài cùng.
– Mai mốt khi nào ra Đà Nẵng uống cà-phê
thì mời anh ghé nhà em nha.
Nói xong, Hoài An đọc cho tôi địa chỉ rồi
thở phào:
– Cám
ơn anh đã xách giỏ dùm em nãy giờ. Vừa “mang” lại vừa xách thật là
mau mệt quá chừng.
Thấy nàng nhìn xuống bụng thì tôi chợt
hiểu.
– Chúc mừng
em!
– Được hơn 3
tháng rồi! Bà và hai cậu không có ở đây. Coi như anh là người thân
duy nhất của hai mẹ con rồi đó!
Hoài An vừa nói xong thì xe lăn bánh. Nàng
nhắc lại lời mời, rồi đưa tay vẫy. Trong cảnh nhá nhem của đèn đường
vừa bật sáng và sau màn khói đang lan tỏa, dường như đôi mắt trên xe
không muốn rời chiếc bóng bên đường. Tôi đứng tần ngần nhìn theo,
lòng thầm nghĩ đến câu nói sau cùng của Hoài An rồi đến lá thư của
cô giáo có nụ cười “đẹp như đóa mãn khai” còn nằm trong túi áo. “Một
người quen đã đi lấy chồng. Một người thương thôi đã sang sông...”
Đã có trải qua kinh nghiệm này hay chưa mà sao lời của nhạc sĩ Xuân
Vinh viết cho Cuộc Tình Đã Mất lại trùng hợp với hoàn cảnh của tôi
trong ngày hôm nay đến như vậy!? Tôi lại thấy mình lạc lõng trong sự
huyên náo của Đà Nẵng lúc vào xuân. Vẫn là những bước chân không
định hướng như những lần dạo phố Tết trước đây. Đến khi nhìn lại mới
hay là mình đang thả chân bước trở về phía Chợ Hàn. Con đường Hùng
Vương vẫn đều một nhịp rộn ràng với rừng xe và người không ngớt
ngược xuôi. Trong ánh sáng lóa mắt của ánh đèn xe và giữa những
tiếng máy nổ đủ loại, là tiếng nói cười, là bàn tay đan trên vỉa hè
cùng vòng tay ôm trên những chiếc xe gắn máy đang di chuyển rất nhàn
nhã dưới lòng đường. Vừa gặp Hoài An khi nãy, bây giờ đã thấy mình
lại về ngang dãy quán cà-phê Diên Hồng ở góc đường Hùng Vương – Yên
Bái từ lúc nào không biết. Mới đó mà đã qua một buổi chiều xuân! Đà
Nẵng khi vào tối càng thêm khởi sắc nhưng lòng tôi thì không biết
phải hướng về đâu. Gia đình và người thân thì ở quá xa. Bạn bè và
đồng đội đang chuẩn bị đón xuân nơi tuyến đầu còn gia đình của họ
trong trại gia binh cũng đã về quê đón Tết từ mấy ngày trước. Nhìn
đồng hồ thì thấy đã trễ chuyến xe Lam cuối cùng để về Hòa Khánh. Qua
đêm trong khách sạn thì tôi không thấy hứng thú.
Còn đang lưỡng lự chưa biết phải làm gì
thì có tiếng xe dừng lại ngay bên cạnh.
– Đang đứng làm thơ hay sao đây?
Tôi chưa kịp trả lời Tuấn thì người yêu
của bạn đã tiếp lời:
– Nếu không có hẹn với ai thì mời anh ghé
về nhà Vy ăn tối với gia đình. Bố mẹ sẽ rất vui khi gặp lại anh đấy!
Câu nói của Tường Vy làm tôi nhớ tới người
công chức có biệt tài gõ máy đánh chữ nhanh như... tiếng mưa rơi
trên mái nhà! Ông có thói quen ăn cơm tối xong là phải nhâm nhi hết
một ấm trà, uống một mình, hoặc đối ẩm với khách đến ăn tối với gia
đình, còn mẹ của nàng là một nội trợ có tài nấu nướng và cũng là
hình ảnh của một nội tướng đúng nghĩa nhứt. Đón xuân trong không khí
gia đình của cả nhà Tường Vy quả rất thú vị. Tôi vừa gật đầu thì
Tuấn đã rồ máy xe vọt ngay.
– Tụi này vọt trước nghe! Từ đây qua Tòa
Thị Chính không xa. Tí nữa gặp lại!
Tôi nhìn theo mà thấy vui lây với hạnh
phúc của người bạn đồng môn quân trường. Nếu nói mùa Xuân là mùa của
Tình Yêu thì quả là bạn đang tận hưởng những giờ phút nồng nàn nhứt
của “mùa hoa tình ái”. Nghĩ đến lúc bạn thoải mái nói đến chuyện bàn
giao hậu cứ cho tôi để trở lại đơn vị ngoài hành quân, tiếp tục
nhiệm vụ chiến đấu trong khi chờ đợi đi học một khóa chuyên môn, mà
tôi thấy ngưỡng mộ thần thái ung dung thật hiếm có. Người yêu của
bạn cũng can đảm không kém! Chấp nhận làm người yêu rồi trở thành vợ
của một chiến binh là cả một quyết định sâu sắc của con tim lẫn khối
óc. Tường Vy chắc chắn đã nhiều lần theo Đỗ Anh Tuấn đến nghiêng
mình lần cuối trước “hòm gỗ cài hoa” của những tử sĩ và cũng là bạn
bè của cả hai khi còn học chung một mái trường. Nhưng Vy vẫn chấp
nhận và bố mẹ nàng cũng không phản đối dù họ biết rất rõ là “Lính đồ
bông thường sống hùng, sống mạnh nên... sống không lâu!”... Bước
chân giờ có chủ đích đã không còn tư lự, rề rà như lúc trước. Đường
Bạch Đằng muôn thuở nằm nghe sông Hàn khua sóng vỗ. Ánh sáng chói
chang và âm thanh hỗn tạp của phố phường đang vào xuân đã nhường chỗ
cho sự trầm lắng cố hữu của con đường đẹp nhứt vào ban ngày và thơ
mộng nhứt vào ban đêm của Đà Nẵng. Hơi lạnh từ Trường Sơn ập xuống,
từ hướng biển tỏa lên tạo thành một màn sương ẻo lả quấn quýt bên
ánh sáng của những ngọn đèn đường tạo thêm cảm giác mờ ảo của đêm
xuân. Trời trở lạnh nhưng lòng người đang ấm áp! Vì bóng Xuân đang
từng bước về với thế trần hay vì lòng tôi đang thoáng lâng lâng khi
nhìn thấy vòm sáng từ trong ngôi nhà của cư xá công chức trải lan ra
ngoài thềm? Hạnh phúc không ở đâu xa! Hạnh phúc đang ở quanh ta! Ai
đã nói câu này nhỉ?!
Huy Văn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by hv chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, February 17, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang