|
Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Âm Nhạc Việt Nam
Chủ đề: Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tác giả: Nguyễn Quốc Đống, cựu SVSQ
Khóa 13/TVBQGVN
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Cựu
Đại tá-Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Đông vừa qua đời tại Sài Gòn, Việt Nam,
ngày 26-2-2018, hưởng thọ 86 tuổi. Ông là một sĩ quan cao cấp của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cũng là một nhạc sĩ tài hoa của Việt
Nam, ra đời tại Sài Gòn ngày 15-3-1932, nguyên quán ở Bến Cầu, tỉnh
Tây Ninh, miền Đông Nam phần. Tên tuổi của ông được gắn liền với
những bản tình ca thời chinh chiến tiêu biểu như “Chiều Mưa Biên
Giới”, “Mấy Dặm Sơn Khê”, “Phiên Gác Đêm Xuân”, “Khúc Tình Ca Hàng
Hàng Lớp Lớp”..., khi miền Nam VN tràn ngập khói lửa trong cuộc
chiến chống Bắc quân cộng sản xâm lược (1955-1975).
Nhạc của ông mang tính đại chúng, lời ca
chân tình, giản dị, mang nét đẹp của tâm tình người thanh niên mới
vào đời còn nhiều mộng mơ, nhưng vẫn không thiếu nét hào hùng của
người trai thời loạn. Vì thế, những lời nhạc này đã tự nhiên đi vào
lòng người nghe, được nhiều người yêu thích. Họ yêu dòng nhạc của
ông vì âm điệu, và lời ca chan chứa tình yêu: tình yêu gia đinh,
tình yêu lứa đôi, và trên hết là tình yêu quê hương. Trước 1975,
chẳng mấy ai không biết đến, và không một lần hát các bài nhạc lính
của ông. Có thể có người không biết tên tác giả của những lời ca
như:
Chiều
mưa biên giới anh đi về đâu?
Sao còn đứng
ngóng nơi giang đầu
...
Hoa phượng rơi đón mùa thu tới
Màu hoa thắm
thiết quá thu ơi
...
Đón giao thừa một phiên gác đêm
Chờ xuân
đến súng xa vang rền…
Nhưng họ vẫn nhớ đôi lời, và vẫn hát, vì
bài hát diễn tả cảm xúc dào dạt của chính họ, nói lên nỗi lòng của
họ thật tự nhiên... dù có khi hát trật nhịp, hay sai lời. Chẳng có
gì đáng ngạc nhiên khi chúng ta đọc được những lời “tri ân” của các
tác giả viết về ông, nhiều năm trước khi ông qua đời. Sau ngày ông
mất, chúng ta thấy được người dân miền Nam, cả trong nước lẫn tại
hải ngoại, vẫn dành cho ông tình cảm chan hòa, thắm thiết như ngày
xưa, nhiều cựu quân nhân VNCH đối với ông vẫn một lòng yêu kính,
đứng nghiêm trên đường phố Sài Gòn ngày 2-3-2018, chào tiễn ông ra
đi.
Đại tá Nguyễn
Văn Đông bắt đầu binh nghiệp rất sớm. Ông được gia đình gửi vào
trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu năm ông mới 14 tuổi, và ông ra
trường TSQ /VT năm ông 19 tuổi (1951). Sau đó ông gia nhập Quân đội
quốc gia Việt Nam, theo học khóa 4 trường Võ Bị Vũng Tàu, tốt nghiệp
thủ khoa năm 1952, mang cấp bậc thiếu úy. Sau ngày đất nước bị chia
đôi bởi hiệp định Geneve (20-7-1954), ông phục vụ trong Quân đội
Việt Nam Cộng Hòa, cho đến ngày 30-4-1975, khi miền Nam VN rơi vào
tay cộng sản, cấp bậc cuối cùng của ông là Đại tá, phục vụ tại Bộ
Tổng Tham Mưu.
Nguyễn Văn Đông là người lính tác chiến, nhưng ông “tay súng, tay
đàn”, và sự nghiệp của ông trong lãnh vực âm nhạc được nhiều người
thán phục, dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi 20 năm dưới chế độ Việt
Nam Cộng Hòa. Ông viết được gần 100 bài hát thuộc nhiều thể loại:
nhạc quê hương, nhạc tình, nhạc giáng sinh, nổi bật nhất là nhạc
lính. Trong thời gian theo học tại trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu,
ông được học nhạc với một nhạc trưởng tài ba người Pháp nên có kiến
thức vững vàng về nhạc lý, biết sử dụng nhiều nhạc cụ. Ông trở thành
nhạc sĩ trong Ban Nhạc của trường TSQ, gồm toàn các nhạc sĩ thiếu
niên. Tài năng thiên phú của ông về âm nhạc đã phát triển mạnh trong
môi trường sôi động tại trường TSQ, kết quả ông đã sáng tác được
những nhạc phẩm có giá trị được nhà trường công nhận như Thiếu Sinh
Quân Hành Khúc, Tạm Biệt Mùa Hè, khi tuổi đời còn rất trẻ (16 tuổi).
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông còn thể hiện tài
năng trong nhiều lãnh vực khác của âm nhạc. Ông có tài khám phá ra
các tài năng trẻ, giúp họ có cơ hội phát triển nghề nghiệp, và sớm
thành danh như các ca sĩ Giao Linh, Thanh Tuyền, Hà Thanh… Sau này,
ca sĩ Hà Thanh trở thành người hát nhạc của ông thành công nhất; tên
tuổi của người nhạc sĩ sáng tác Nguyễn Văn Đông của miền Nam đã gắn
liền với người ca sĩ mang tên Hà Thanh của đất Thần Kinh (Huế). Đúng
là một kết hợp nghệ thuật kỳ thú. Năm xưa, khi Hà Thanh mới vào Sài
Gòn trình diễn, nếu cô không được nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông chú ý đến
giọng ca thiên phú, và bỏ công khuyến khích cô tiếp tục việc ca hát
tại thủ đô Sài Gòn, hẳn cô đã không có cơ hội phát triển tài năng,
để trở thành một trong những danh ca được nhiều người mến mộ sau
này.
Vào thập
niên 60, quốc gia non trẻ Việt Nam Cộng Hòa mới được thành lập, đời
sống người dân còn nhiều khó khăn. Chính phủ VNCH đã sớm biết sử
dụng âm nhạc như một vũ khí “an dân”, dùng các hình thức nghệ thuật
như ca, vũ, nhạc, kịch để đem niềm vui đến cho người dân, giúp họ
từng bước ổn định đời sống, nhất là người dân miền Bắc phải rời bỏ
quê nhà chạy nạn cộng sản ở miền Nam xa lạ. Đoàn nghệ thuật Vì Dân
do nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông làm trưởng đoàn ra đời với mục đích này,
gồm nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như Lê Thương, Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài
Linh, Thu Hồ, Khánh Ngọc, Trần Văn Trạch, Kim Cương, Trang Thiên
Kim...
Hãng dĩa
Continental và Sơn Ca do ông làm giám đốc đã thực hiện các chương
trình nhạc đặc biệt (albums ca nhạc) riêng cho từng ca sĩ, giúp làm
nên tên tuổi của nhiều ca sĩ VNCH vào thập niên 60 và 70 như Khánh
Ly, Lệ Thu, Thái Thanh, Phương Dung, Giao Linh, Thanh Tuyền...
Chẳng những hoạt động trong lãnh vực tân
nhạc, ông còn là cha đẻ của một thể loại nhạc mới, tân cổ giao
duyên, được nhiều người ưa chuộng. Ông cũng là người soạn nhạc nền
cho nhiều vở tuồng cải lương nổi tiếng, dưới tên Đông Phương Tử.
Chính sách biết dùng người tài vào đúng lãnh vực của chính phủ VNCH
đã giúp ông phát triển tài năng tối đa. Tài sáng tác nhạc của ông
cống hiến cho đời nhiều nhạc phẩm giá tri, tài tổ chức và lãnh đạo
của ông trong hoạt động ca nhạc đã giúp chính phủ cộng hòa thực hiện
được những công trình ích quốc, lợi dân trong hoàn cảnh khó khăn của
đất nước sau hiệp định Geneve, vừa giữ nước, vừa dựng nước.
Suốt 20 năm khói lửa tại miền Nam Việt
Nam, biết bao nhiêu thanh niên phải “xếp bút nghiên theo nghiệp đao
binh”. Chàng tuổi trẻ Nguyễn Văn Đông cũng không ngoại lệ. Ông tự
nguyện chọn nghiệp lính, và dù thành công lớn trong lãnh vực âm
nhạc, ông khẳng định “âm nhạc chỉ là nghề tay trái, binh nghiệp mới
là nghề tay phải” của ông. Lý do khiến ông thành người lính chuyên
nghiệp chính là lòng yêu nước tha thiết. Ông yêu mảnh đất nơi ông
sinh ra và trưởng thành, muốn bảo vệ nó, để người dân được sống an
vui, hạnh phúc. Tình yêu quê hương lớn hơn tất cả mọi thứ tình cảm
khác, ông trân trọng đặt nó lên hàng đầu, không suy nghĩ thiệt hơn,
không vì danh, hay lợi cho cá nhân.
Đời tôi quân nhân, chút tình riêng gởi
núi sông… (Sắc
Hoa Màu Nhớ)
Người đi giúp núi sông...
Hàng hàng lớp lớp chưa về
Người người nối
tiếp câu thề giành lấy quê hương...
Đời dâng cho núi sông
Lòng này thách với tang bồng
Đừng sầu má
thắm phai hồng, buồn lắm em ơi…
Hỡi người anh thương, chưa trọn thề ước
Nhưng tình đất nước ôi lớn lao không đành lòng
Dệt mối thắm riêng tư…
Và xin em hiểu rằng, người đi giúp nước
nào màng danh chi
Cầu cho đất nước vượt
ngàn gian nguy... (Khúc
Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp)
Anh như ngàn gió, ham ngược xuôi, theo
đường mây,
Tóc tơi bời lộng gió bốn
phương...
Nước non còn đó một tấc lòng,
Không mờ xóa cùng năm tháng
Mấy ai ra đi
hẹn về... dệt nốt tơ duyên...
(Mấy Dặm Sơn Khê)
Những hình ảnh đẹp và hùng của người chiến
sĩ VNCH được mô tả giống như hình ảnh hào hùng của người tráng sĩ
trong văn học Việt Nam ngày xưa, đã trở thành hành trang cho nhiều
thanh niên miền Nam bước vào cuộc chiến; và rất nhiều người đã ra
đi, không trở về... Đời lính gian lao, khổ nhọc, nhưng người lính
chấp nhận hy sinh cho quê hương, cho dân tộc.
Những bản nhạc của Nguyễn Văn Đông còn nói
lên nỗi đau của người dân Việt Nam trong hoàn cảnh đất nước chia
cắt, và có thể tệ hơn nữa sẽ là ngày... mất nước như dân tộc Hời
ngày xưa:
Ôi
nước mắt dân Hời
Thành quách một thời tan
tành
Hệ bởi đâu?
Sao ta nỡ xa ta
Xẻ đôi sơn hà
Cho Bắc-Nam mình xa cách nhau...
(Anh)
Cộng sản miền Bắc thực hiện cuộc chiến xâm
lược miền Nam trong suốt 20 năm (1955-1975) đã khiến cả nước suy
kiệt, cả triệu quân dân hai miền mất mạng, tài nguyên đất nước bị
phá hủy, dẫn đến tình trạng Việt Nam phải rơi vào vòng nô lệ Tàu
cộng như ngày nay. Nhìn vào tình trạng “hèn với giặc, ác với dân”
của Đảng CS cầm quyền bây giờ thì ngày dân tộc Việt Nam mất nước như
dân tộc Hời ngày xưa có lẽ cũng không còn xa.
Tuy nhiên mộng ước “giành lấy quê hương”
của người lính Nguyễn Văn Đông, cũng như của bao chàng trai đất Việt
tại miền Nam VN đã không thành hiện thực. Ngày 30-4-1975, Việt Nam
Cộng Hòa sụp đổ, nước mất, nhà tan. Sau đó giặc cộng đã giáng những
đòn trả thù tàn độc lên quân, dân miền Nam. Là một sĩ quan cao cấp
của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, lại không chọn di tản khi đất nước
rơi vào tay giặc, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, cũng như bao quân, dân,
cán chính của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, bị Việt Cộng giam tù và đày
đọa nhiều năm trong các trại “tập trung cải tạo”.
Ông bị nhốt 10 năm, thời gian đầu tại trại
tù Suối Máu, và những năm sau này, ông bị tách khỏi trại tù “cải
tạo”, bị đưa về giam tại khám Chí Hòa, nơi giam giữ các tù nhân
chính trị đặc biệt. Thời gian dài trong tù, do chính sách đối xử
nghiệt ngã với các tù nhân “nặng tội” (theo quan điểm của CS, làm
nhạc tuyên truyền thúc đẩy quần chúng, lính tráng chống lại chúng là
mang tội rất nặng), do thiếu ăn, thiếu thuốc trị bệnh, ông mắc nhiều
bệnh trầm trọng, nên khi được thả về năm 1985, ông như một phế nhân,
không đi đứng được. VC chẳng nhân đạo gì khi thả ông “sớm” như vậy,
vì chúng nghĩ người nhà nhận ông về, chỉ để đem ông đi chôn mà thôi!
Tuy nhiên như một phép lạ, ông từ từ sống
trở lại, có lẽ nhờ ý chí vượt lên mạnh mẽ, và nhất là nhờ tình yêu
thương và sự chăm sóc tận tình của người vợ hiền. Bà chung thủy chờ
đợi ông 10 năm, và ngày ông trở về, trong hạnh phúc đoàn viên còn có
nỗi đau phải chiến đấu giành giựt mạng sống cho ông. Bài hát “Về Mái
Nhà Xưa” ông viết nhiều năm về trước, đã như một lời tiên tri cho
ngày về thê thảm của các tù nhân “cải tạo”:
Về đây ngơ ngác, chim bay tìm đàn
Về đây hoang vắng, lạnh buốt cung đàn…
Về đây mây nước đêm thâu lạnh lùng
Vườn dâu thưa lá ngại nỗi tương phùng…
Tuy được về với gia đình, nhưng ông đã
quyết định không xin đi định cư tại Hoa Kỳ theo chương trình “Ra Đi
Có Trật Tự” dành cho các cựu tù nhân “cải tạo” (còn được gọi là
chương trình H.O.).
Nhiều người thắc mắc tại sao ông không xin
đi Mỹ tỵ nạn, để thoát khỏi cái nhà tù lớn, xã hội VN thời cộng sản,
sau nhiều năm bị đày đọa trong nhà tù nhỏ (các trại tù), nơi ông
tưởng đã bỏ thây, và không có ngày về. Có người còn phán đoán đây là
một quyết định sai lầm, khiến bản thân ông và gia đình phải chịu
nhiều hệ lụy từ khi ra khỏi tù, cho đến ngày ông ra đi vĩnh viễn:
mất tự do, mất cơ hội sáng tác, bị công an theo dõi, hoạnh họe… Ông
không tìm được nguồn cảm hứng sáng tác, và không còn hoàn cảnh sáng
tác thuận lợi như ngày xưa, trước 1975. Điều đó cũng dễ hiểu, vì đất
nước đã đổi chủ, và ông như bao con dân của Việt Nam Cộng Hòa thuộc
“bên thua cuộc”! Ông đã phải thú nhận “Tôi chỉ tiếc đời người ngắn
ngủi mà tôi đã phí phạm quãng thời gian dài 30 năm. Thật lấy làm
tiếc!”
Nhưng lý
do nào khiến người nhạc sĩ tài hoa chọn sống thầm lặng, để tài năng
bị “thui chột” cùng năm tháng, để nhiều tác phẩm lừng danh, những
đứa con tinh thần mà ông coi là có giá trị nghệ thuật đã bị “vùi
dập”, bị “kỳ thị”, và thậm chí cho đến ngày ông nhắm mắt, cũng chưa
được phép phổ biến trên quê hương Việt Nam “thống nhất”? Lý do gần
là vấn đề sức khỏe suy sụp sau nhiều năm bị đày đọa trong trại tù
cộng sản. Ông mang rất nhiều bệnh trầm trọng, khiến ông và người vợ
hiền luôn phải tranh đấu khó nhọc từng ngày, để giành lấy mạng sống.
Một người đã không đủ sức khỏe, nghĩ mình không còn sống được bao
lâu nữa, thì còn hứng thú gì để xây lại cuộc sống mới, nơi xứ lạ quê
người? Ông cũng không có con cái, không có áp lực phải ra đi vì
tương lai của con, của cháu, nên đã chấp nhận sống phần đời còn lại
tại quê nhà trong thầm lặng, nhẫn nhục, bên người vợ hiền; giúp đỡ
những thương phế binh VNCH, chiến hữu ngày xưa của ông, trong phạm
vi có thể. Đây là một quyết định khó khăn, không phải ai cũng thực
hiện được. Lý do sâu xa có lẽ chính là lòng yêu quê hương: ông thực
sự muốn sống và chết nơi quê hương, một miền đất thân yêu mà ông đã
dành hết tuổi thanh xuân và cả cuộc đời mình để cống hiến và phục
vụ. Ca sĩ Thanh Tuyền cho biết “Chú nói với tôi rằng chú không muốn
bon chen, chỉ muốn sống tại quê nhà. Lẽ ra chú đã có thể đi Mỹ theo
diện H.O. nhưng chú đã chọn chết trên quê hương.”
Đọc lại lời trong một số bản nhạc của nhạc
sĩ Nguyễn Văn Đông, chúng ta thấy được tâm tình của ông, và phần nào
hiểu được quyết định ở lại Việt Nam, nơi chốn “hang hùm, miệng rắn”
đối với một sĩ quan cao cấp, và một nhạc sĩ có nhiều đóng góp cho
quốc gia Việt Nam Cộng Hòa như ông.
Đã từng có thời gian đi tu nghiệp ở nước
ngoài, (Hawaii, Hoa Kỳ, năm 1957) ông đã trải qua kinh nghiệm của
một người xa quê, và nhớ quê. Ông là người “lãng mạn”, thậm chí tự
nhận mình là người “yếu đuối”, ông cảm nhận được nỗi buồn da diết
của người xa quê hương. Trong bài ca “Tình Cố Hương”, ông tâm sự:
Khi anh rời xa cố hương
Tâm hồn anh vấn vương
Theo từng cây số
buồn…
Khi anh rời
xa cố hương
Nghe lòng mang vết thương
Quê người xa cội nguồn...
Xa cố hương miền thương bao dấu yêu…
Trông cánh chim về phương chân núi xa
Nhớ quê nhà nằm mơ đôi cánh bay
Nơi muôn
trùng xa nước non
Chân tình anh sắt son
Không ngại câu đá mòn
Thấy mai đào khoe sắc xuân
Cánh nhạn trong gió sương
Nghe lòng vang
khúc ca hoài hương.
Một người nặng lòng yêu quê hương như thế
thật khó mà chọn sống đời ly hương, biệt xứ suốt đời. Chúng ta cũng
thông cảm với nhạc sĩ, và đừng quá hẹp hòi phán đoán ông theo nhận
định chủ quan của mình. Mỗi người một hoàn cảnh, và chọn lựa được
sống theo cách riêng của mình, miễn sao vẫn giữ được tư cách “gần
bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Điều này nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đã
thể hiện được suốt quãng thời gian ông sống tại quê nhà sau ngày mất
nước. Người tài năng như ông có nhiều, nhưng người có nhân cách lớn
như ông không nhiều, phải nói là hiếm hoi, nhất là trong thời đất
nước điêu linh dưới chế độ “xã hội chủ nghĩa”.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đã xa rời chúng ta
mãi mãi. Thân xác ông nay chỉ còn là nắm tro, nhưng không có nghĩa
là tất cả đều mất hết. Ông để lại những bản nhạc bất hủ, chắc chắn
sẽ còn sống mãi trong lòng người yêu nhạc. Ông truyền lại cho thế hệ
mai sau tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng hy sinh vô bờ bến của
người trai thời loạn, ưu ái nhắc họ:
Anh nhớ gì không anh?
Những trai hùng đi giúp non sông
Trên bốn
ngàn năm qua
Dải sơn hà đôi phen thạch mã
Gỗ đá còn gian lao,
Tiếng anh hào muôn thuở
hơn nhau
Giữa cao trào thế giới dâng mau
Tựa ngàn sóng tuôn bờ đại dương…
Anh nhớ gì không anh?
Những anh tài phiêu lãng phương xa
Vui
sướng gì đâu anh
Chốn quê người vui riêng
hạnh phúc…
Anh nhớ gì không anh?
Giữa thanh bình hay lúc gian nguy
Xin hết
lòng chung lo
Bản dư đồ cha ông nhọc khó
Trên bước đường tương lai,
Kết tâm đồng một
dải non sông
Bắc-Nam cùng dòng giống tinh
anh
Trời Đông một cõi núi sông Việt Nam
Trời Nam một cõi minh châu trời Đông
(Anh)
Mong sao nước Việt đời đời
Anh dũng oai hùng chen chân thế giới
Mặc thời gian tóc phai đổi màu
Mặc đại dương sóng to gió gào
Đàn chim bé
trong làn chớp xanh
Yêu trời tự do Á đông
Thương về đồi núi xa xa.
(Hải Ngoại Thương Ca)
Việt Nam hiện nay đang trong tình trạng
dầu sôi lửa bỏng, phải đối phó với nạn diệt chủng, đang dần mất chủ
quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ vào tay ngoại bang là Tàu cộng, nên
các thế hệ hậu duệ người Việt phải nhớ những lời dặn dò chân tình
này, để “nghìn sau nối nghìn xưa”, tiếp tục bảo vệ và xây dựng quê
hương Việt Nam, do tiền nhân Việt bao đời khó nhọc dựng nên.
Hôm nay chúng ta cùng thắp nén hương lòng
tưởng nhớ ông, để tri ân một người Việt Nam yêu nước, một chiến sĩ
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa biết coi trọng Tổ Quốc-Danh Dự-Trách
Nhiệm. Gửi lời tri ân đến ông cũng chính là để tri ân chế độ Việt
Nam Cộng Hòa, với nền giáo dục dân tộc, nhân bản, và khai phóng, đã
đào tạo được những công dân yêu nước, những trí thức có nhân cách
cao đẹp; điều khiến chúng ta luôn cảm thấy tự hào.
Nguyễn Quốc Đống,
Cựu SVSQ Khóa 13/TVBQGVN
5-3-2018
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Nguyễn Quốc Đống chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, March 6, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang