|
Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Âm Nhạc Việt Nam
Chủ đề: Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tác giả: Vương Trùng Dương
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời giới thiệu:
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông - Một tên tuổi lớn của nền văn nghệ ở
miền Nam Việt Nam và là tác giả của Chiều Mưa Biên Giới, Khúc
Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Mấy Dặm Sơn Khê, Nhớ Một Chiều Xuân...
và còn rất nhiều tác phẩm bất hủ khác được biết bao thế hệ khán
thính giả yêu mến từ trước 1975 đến tận bây giờ. Ông đã trút hơi
thở cuối cùng lúc 19 giờ 30 ngày 26/2/18 (nhằm 11 tháng Giêng)
năm Mậu Tuất tại bệnh viện Chợ Rẫy-Sài Gòn.
Vương
Trùng Dương
Trong
hai thập niên (1954-1975) nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông phục vụ trong
QLVNCH đã nổi tiếng [với]
nhiều ca khúc trữ tình, đặc biệt với ảnh người lính giữa thời chinh
chiến. Trải qua nhiều thập niên, những tình khúc của ông từ lúc sáng
tác cho đến nay ở hải ngoại vẫn làm rung động trái tim khi thưởng
thức.
Nguyễn Văn
Đông là một nhạc sĩ thành danh của dòng nhạc tình ở Sài Gòn trước
1975, tác giả của nhiều ca khúc nổi tiếng. Ông còn một vài bút danh
khác như Phượng Linh, Phương Hà, Đông Phương Tử, Vì Dân, Hoàng Long
Nguyên...
Trong
bài viết của Trường Kỳ
“Nguyễn Văn Đông: Giữa Binh Nghiệp & Âm Nhạc” đề
cập đến cuộc đời binh nghiệp:
“Nhạc sĩ
Nguyễn Văn Đông sinh ngày 15 tháng 3 năm 1932 tại quận Nhất, Sài
Gòn. Nguyên quán ông bà, cha mẹ ông ở huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh.
Thuở nhỏ ông theo học trường Huỳnh Khương Ninh ở Đa Kao. Khi đất
nước gặp phải những biến động lớn lao vào năm 1945, gia đình ông bị
liệt vào thành phần địa chủ, cường hào nên lâm vào cảnh khuynh gia
bại sản, gia đình ly tán. Do đó, tuổi thơ của ông là người con duy
nhất trong gia đình cũng bị vùi dập để cuốn theo thời cuộc lúc bấy
giờ.
Sau khi
trường trung học Huỳnh Khương Ninh đóng cửa, ông tự ý xin gia nhập
trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Đó cũng là nơi đào tạo nhiều vị
tướng lãnh tài ba của Quân Đội VNCH. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đã trải
qua 5 năm theo học ở ngôi trường này. Và chính tại đó ông đã được
học nhạc và văn hóa với những giáo sư người Pháp có thực tài. Đó là
những giảng viên của Viện Âm Nhạc Quốc Gia Pháp được cử về trường
Thiếu Sinh Quân giảng dạy. Trong thời gian ông theo học tại trường
Thiếu Sinh Quân Việt Nam, Nguyễn Văn Đông là một thành viên của Ban
Quân Nhạc Thiếu Niên, khi mới lên 15 tuổi: ‘Trường Thiếu Sinh Quân
có riêng một đoàn quân nhạc trên 40 người có tầm vóc của người lớn,
nhưng lại do chính những em Thiếu Sinh Qưân chưa quá 16 tuổi đời cử
hành nhạc và do một giáo sư nhạc trưởng người Pháp chỉ huy. Đoàn
quân nhạc của chúng tôi có những nhạc sĩ tí hon có mặt trong những
buổi lễ duyệt binh, diễn hành quan trọng một cách đường hoàng như
các đoàn quân nhạc chuyên nghiệp người lớn’. Với đoàn quân nhạc tí
hon này, ông sử dụng nhiều nhạc khí như: trompette, clairon, trống,
chập chả, v.v. Nhưng một cách chuyên nghiệp hơn là ông sử dụng đàn
mandolin và guitare hawaienne trong ban nhạc nhẹ của trường.
Nhờ sống trong một môi trường âm nhạc sôi
động như vậy trong trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam, Nguyễn Văn Đông
đã có dịp học sáng tác từ những giáo sư người Pháp. Kết quả là ông
đã viết được những ca khúc đầu tiên ở tuổi 16 như Thiếu Sinh Quân
Hành Khúc, Tạm Biệt Mùa Hè...
Những nhạc phẩm này đã đuợc nhà trường
chấp thuận cho phổ biến và được rất nhiều bạn bè ưa thích. Ông cho
biết cho đến nay tuy đã gần 60 năm sau, nhưng khi ông gặp lại một số
bạn bè, những người này vẫn còn thuộc nằm lòng những ca khúc này và
hát lại cho nhau nghe như những kỷ niệm khó quên của thời niên
thiếu.
Trong suốt
5 năm theo học ở trường Thiếu Sinh Quân, ông luôn luôn đoạt giải
giọng ca hay nhất toàn trường...”
(TK).
Ghi chú thêm:
Cuối năm 1951, sau khi ra trường Thiếu Sinh Quân, Nguyễn Văn Đông
nhập ngũ vào Quân Đội Quốc Gia, mang số quân: 52/120117, theo học
khóa 4 trường Võ Bị Địa Phương Nam Việt Vũng Tàu (còn gọi là Trường
Võ Bị Cap Saint Jacques). Tháng 10 năm 1952, mãn khóa tốt nghiệp thủ
khoa với cấp bậc Thiếu úy. Qua năm 1953, được cử đi học khóa huấn
luyện Đại Đội Trưởng tại trường Võ Bị Đà Lạt. Cũng năm này, ông có
chân trong ban giám khảo chấm thi khóa Võ Bị Đà Lạt 1953 do Quốc
Trưởng Bảo Đại chủ tọa lễ bế giảng khóa.
Năm 1954, ông được gửi ra Hà Nội theo học
khóa Tiểu Đoàn Trưởng tại Trung Tâm Chiến Thuật Hà Nội. Ra trường,
ông được giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng TĐ Trọng pháo 553 và là Tiểu
Đoàn Trưởng trẻ nhất của Quân Đội Quốc Gia khi mới 22 tuổi. Sau Hiệp
định Genève 1954, di chuyển vào Nam, được thăng cấp Trung úy, phục
vụ tại Phân Khu Đồng Tháp Mười với chức vụ Trưởng Phòng Hành Quân,
dưới quyền Đại tá Nguyễn Văn Là...
Đầu tháng 11 năm 1955, ông được thuyên
chuyển sang Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, được cử chức vụ Trưởng Phòng
3 của Phân Khu Đồng Tháp Mười. Năm 1956 ông tham gia Chiến Dịch
Thoại Ngọc Hầu, hình ảnh ông được đăng trên bìa báo Chiến Sĩ Cộng
Hòa. Cuối năm 1957, ông được cử đi du học khóa Chỉ Huy Tham Mưu tại
tiểu bang Hawaii, Hoa Kỳ. Ngày Quốc khánh Đệ Nhất Cộng Hòa 26 tháng
10 năm 1959, ông được thăng cấp Đại úy.
Sau ngày 1/11/1963, ông được thăng cấp
Thiếu tá và được chuyển về Bộ Tổng Tham Mưu phục vụ ở Khối Lãnh Thổ.
Ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Trung tá phục
vụ trong Khối Lãnh Thổ. Ngày Quốc Khánh Đệ Nhị Cộng Hòa 1 tháng 11
năm 1972, ông được thăng cấp Đại tá làm Chánh Văn Phòng cho Tổng
Tham Mưu Phó. Ông đã ở chức vụ này cho đến cuối tháng 4 năm 1975.
(Trung tướng Nguyễn Văn Là, Tổng Tham Mưu phó đặc trách Bình Định &
Phát Triển kiêm Tư Lệnh Địa Phương Quân & Nghĩa Quân. Vì vậy Đại tá
NVĐ coi như người thân tín). Ông từng được nhận huy chương cao quý
nhất của Việt Nam Cộng Hòa là Bảo Quốc Huân Chương vào giữa thập
niên 60...
Trong
sinh hoạt văn nghệ, từ năm 1958, Nguyễn Văn Đông là trưởng ban ca
nhạc Tiếng Thời Gian của Đài Phát Thanh Sài Gòn... Năm 1959, Nguyễn
Văn Đông là trưởng ban tổ chức đại hội thi đua Văn Nghệ Toàn Quốc,
đã quy tụ trên 40 đoàn văn nghệ đại diện cho cả miền Nam cùng tranh
giải suốt 15 ngày đêm tại Sài Gòn. Ông cũng từng nhận giải âm nhạc
quốc gia vào cuối thập niên 50.
Tuy phục vụ trong quân ngũ, Nguyễn Văn
Đông còn là giám đốc hãng băng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca nổi
tiếng, cộng tác với những nhạc sĩ tên tuổi như Lê Văn Thiện, Văn
Phụng, Nghiêm Phú Phi, Y Vân... cho ra đời nhiều chương trình ca
nhạc, các vở tuồng, cải lương. Chính Nguyễn Văn Đông là người đã
tiên phong thực hiện album riêng cho từng ca sĩ mà trước đó chưa
từng ai làm. Ông đã thực hiện loạt băng nhạc Sơn Ca nổi tiếng...
Là sĩ quan cao cấp trong Quân Lực Việt Nam
Công Hòa với cấp bậc Đại tá. Ông đã viết nhiều nhạc phẩm về người
lính miền Nam khi đó, như Chiều Mưa Biên Giới, Phiên Gác Đêm Xuân,
Mấy Dặm Sơn Khê, Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Lá Thư Người
Lính...
Theo lời
tác giả: “Bản nhạc Chiều Mưa
Biên Giới được viết vào năm 1956. Khi ấy tôi là
Trung úy trưởng phòng hành quân của chiến khu Đồng Tháp Mười là
người có trách nhiệm đề ra những phương án tác chiến. Lần đó tôi dẫn
đầu một nhóm biệt kích bí mật đi điều nghiên chiến trường dọc theo
biên giới Miên-Việt và Đồng Tháp Mười. Trên đường về, anh em chúng
tôi lâm vào cảnh trời chiều gió lộng, mưa gào như vuốt mặt. Giữa
cánh đồng hoang vắng tiêu sơ, lối vào tiền đồn thì xa xôi, thoáng ẩn
hiện những nóc tháp canh mờ nhạt ở cuối chân trời. Và từng chập gió
buốt kéo về như muối xát vào thịt da. Từ trong cảnh ấy, tận đáy lòng
mình đã nghe nảy lên những cung bậc rung cảm, những trường canh đầu
tiên buồn bã cho bài Chiều Mưa Biên Giới anh đi về đâu...”
Sau tháng Tư năm 1975, Nguyễn Văn Đông
trải qua 10 năm lao tù và được trả về ngày 01 tháng Giêng, 1985 với
lý do: “Đương sự bị bệnh sắp chết, nên cho phép gia đình đem về nhà
chôn cất!”
Sau
khi ra tù Nguyễn Văn Đông chia sẻ “Khi trở về nhà, tôi mang theo
nhiều chứng bệnh trầm trọng, tinh thần và thể xác bị suy sụp...”. Và
niềm an ủi khi lập gia đình với người bạn đời - chị Thu trước năm
1975 nhân viên của hãng đĩa Continental do ông làm giám đốc - có một
cửa hàng bán bánh mì, thịt nguội với nhiều loại kẹo bánh dưới tên
Nhiên Hương ở Phú Nhuận, nguồn thu nhập của hai vợ chồng người nhạc
sĩ suốt mấy thập niên qua. Năm 1990, diện HO cho cựu Tù Nhân Chính
Trị định cư tại Hoa Kỳ, Nguyễn Văn Đông không đi với suy nghĩ của
ông “Do những căn bệnh ngặt nghèo tưởng như ‘hết thuốc chữa’ và do
tinh thần suy sụp đến tột cùng, có lúc tôi đã nghĩ rằng mình không
còn sống được bao lâu nữa nên chẳng còn thiết tha bất cứ chuyện gì,
chỉ muốn từ bỏ tất cả để được thảnh thơi yên nghỉ ở cuối đời”. Vẫn
theo lời nhạc sĩ “Không hiểu do đâu, mà Trời Phật đã nhìn lại ông
và, cho ông sống, dù là một đời sống ‘rất lê lết’ cho đến ngày hôm
nay”.
*
Ca Khúc Mùa Xuân
* Phiên Gác Đêm Xuân
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông ghi lại hồi ký
thời điểm sáng tác ca khúc này:
“Vào năm 1956, đơn vị tôi đóng quân ở
Chiến khu Đồng Tháp Mười, được xem là mặt trận tiền tiêu nóng bỏng
vào thời bấy giờ. Khi ấy, tôi mang cấp bực Trung úy, mới 24 tuổi
đời, còn bạch diện thư sinh. Tuy hồn vẫn còn xanh nhưng tâm tình đã
nung trong lửa chín ở quân trường. Chính tại Đồng Tháp Mười, vùng
đất địa linh nhân kiệt, đã gợi hứng cho tôi sáng tác những bản hùng
ca như Súng Đàn, Vui Ra Đi, một thuở được hát vang trong chiến dịch
Thoại Ngọc Hầu. Rồi tiếp sau đó là các bản nhạc Phiên Gác Đêm Xuân,
Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ được ra đời cũng tại vùng đất
thiêng này. Khi đi vào vùng hỏa tuyến, là chàng trai trẻ độc thân,
với một mối tình nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi
bước nhẹ tênh vào cuộc chiến đầu đời.
Ngày đó Đồng Tháp Mười còn là đồng không
mông quạnh, lau sậy ngút ngàn, dân cư thưa thớt, sống co cụm trên
những gò đất cao giữa vùng đồng lầy nước nổi quanh năm. Người ở hậu
phương lúc bấy giờ nhìn về Đồng Tháp Mười như là vùng đất bí hiểm
với những huyền thoại Lúa Ma nuôi quân đánh giặc, về Tổng Đốc Binh
Kiều, Thiên Hộ Vương thời chống Pháp qua những trận đánh lẫy lừng ở
Gãy Cờ Đen, Gò Tháp mà chiến tích được tạc vào bia đá ở Tháp Mười
Tầng còn lưu lại đến ngày nay.
Mùa Xuân năm đó, đơn vị tôi đóng trên
Gò Bắc Chiêng, có tên là Mộc Hóa, nằm sát biên giới Việt
Nam-Campuchia, sau này là tỉnh lỵ Kiến Tường. Đơn vị của tôi đã
có những cuộc giao tranh đẫm máu vào những ngày giáp tết trên
những địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông Bình, Cái Cái,
Tân Thành. Dù vậy, mùa xuân vẫn có cánh én bay về trên trận địa
và hoa sen Tháp Mười vẫn đua nở trong đầm dù bị quần thảo bởi
những trận đánh ác liệt. Cứ mỗi độ xuân về, sông Vàm Cỏ lại mang
về từng đàn tôm cá từ biển hồ Tông-Lê-Sáp, vượt vũ môn theo đám
lục bình trôi về vùng Tam Giác Sắt, như nhắc nhở Bộ Tư Lệnh Tiền
Phương Đồng Tháp Mười lập danh sách cho những người được về quê
ăn Tết.
Vì còn
độc thân nên tên tôi được ưu tiên ghi vào Sổ Nhật Ký Hành Quân và
ở lại đơn vị trong những ngày Tết. Dù không ai nghĩ có đánh nhau
ngày đầu năm nhưng quân lệnh phải được tuân hành nghiêm chỉnh.
Trước ba ngày Tết, tôi được lệnh lên chốt tiền tiêu, tăng cường
cho cứ điểm, mang theo chiếc ba-lô với chút hành trang lương khô,
cùng tấm ảnh của người em gái hậu phương, cũng là cơ duyên sau đó
để tôi viết nên bài tình ca Sắc Hoa Màu Nhớ. Tiền đồn cuối năm,
đêm 30 Tết, trời tối đen như mực, phút giao thừa lạnh lẽo hắt
hiu, không bánh chưng xanh, không hương khói gia đình. Tôi ngồi
trên tháp canh quan sát qua đêm tối, chỉ thấy những bóng tháp
canh mờ nhạt bao quanh khu yếu điểm như những mái nhà tranh, chập
chờn dưới đóm sáng hỏa châu mà mơ màng về mái ấm gia đình đoàn tụ
lúc xuân sang. Thay cho lời chúc Tết là tiếng kẻng đánh cầm canh
và tiếng hô mật khẩu lên phiên gác.
Vào đúng thời điểm giao thừa, ngọn đèn
bão dưới chiến hào thắp sáng lên như đón chào năm mới thì cũng là
lúc những tràng súng liên thanh nổ rền từ chốt tiền tiêu. Khi ấy
vào buổi tinh mơ của trời đất giao hòa, vạn vật như hòa quyện vào
trong tôi, có hồn thiêng của sông núi, có khí phách của tiền
nhân.
Tôi nghe
tâm hồn nghệ sĩ của mình rộn lên những xúc cảm lạ thường, làm nảy
lên những cung bậc đầu tiên của bài Phiên Gác Đêm Xuân:
‘Đón
giao thừa một phiên gác đêm
Chào Xuân
đến súng xa vang rền.
Xác hoa tàn rơi
trên báng súng
Ngỡ rằng pháo tung bay
Ngờ đâu hoa lá rơi...
Rồi mơ ước rất đời thường:
PK: Ngồi ngắm mấy nóc chòi canh
Mơ rằng đây mái nhà tranh
Mà ước chiếc
bánh ngày xuân
Cùng hương khói vương
niềm thương...
ĐK: Chốn biên thùy này
xuân tới chi?
Tình lính chiến khác chi
bao người
Nếu Xuân về tang thương khắp
lối
Thương này khó cho vơi, thì đừng đến
Xuân ơi!’
Lúc đó Bộ Thông Tin cấm phát hành vì
cho rằng lời ca mang tính tiêu cực như những dòng thơ của Chế Lan
Viên thời tiền chiến trong bài thơ Chiều Xuân:
‘Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?
Với tôi,
tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài
nghĩa khổ đau!’
Bài Phiên Gác Đêm Xuân được ra đời
trong hoàn cảnh như thế... đánh dấu một chuỗi sáng tác của tôi về
đời lính như Chiều Mưa Biên Giới, Mấy Dặm Sơn Khê, Sắc Hoa Màu
Nhớ, Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Xin Đừng Trách Anh, Lá Thư
Người Lính Chiến, Anh Trước Tôi Sau, Lời Giã Biệt....
Sau ngày 30 tháng Tư năm 75, các bản
nhạc này cùng chung số phận tan tác như cuộc đời chìm nổi của
tôi....”
*Nhớ Một Chiều Xuân
Ca khúc Nhớ Một Chiều Xuân, sáng tác để
kỷ niệm chuyện tình lãng mạn với một thiếu nữ bản xứ khi đi tu
nghiệp Khóa Chỉ Huy & Tham Mưu ở Hawaii năm 1957.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông viết ca khúc
này để nhớ một người con gái mang quốc tịch Áo. Họ đã gặp và yêu
nhau tại quần đảo Hawaii. Ngày chia tay để trở về Việt Nam, ông
đã thề ước là sẽ trở lại và không phụ tình cô gái. Nhưng rồi
chiến tranh liên miên, ngày càng thêm ác liệt, ông đã không thể
thực hiện lời thề hẹn của mình. Cuộc tình ấy đã ly tan, với nỗi
niềm:
“Chiều
nay thấy hoa cười chợt nhớ một người
Chạnh lòng tôi khơi... bao niềm nhớ
Người nơi xa xăm phương trời ấy
Người
còn buồn còn thương còn nhớ
Nắng phai
rồi... em ơi!
Chiều Xuân có một người ngơ ngác đi tìm
Một tình thương nơi... phương trời cũ
Chiều nay hoa Xuân bay nhiều quá
Chiều
tàn dần phai trên ngàn lá
Tìm đâu
bóng... hình ai?
ĐK: Người về còn
nhớ... khúc hát
Người yêu dấu bên bờ
thành Vienne
Lòng này còn quyến... luyến
mãi
Đêm Xuân dài mà đâu có hay
PK: Chiều nay có một
loài hoa vỡ bên trời
Đợi mùa Xuân sang
tô... màu nhớ
Dừng chân trông hoa Xuân
hồng thắm
Buồn tìm về tình ai đằm thắm
Giờ vun vút trời mây!”
Trong ca khúc Mấy Dặm Sơn Khê mang
hình ảnh nơi núi rừng Tây Nguyên với nỗi buồn:
“Bao
ước mơ giữa khung trời phiêu lãng
Chờ
mùa Xuân tươi sáng, nhưng mùa thắm chưa sang
Anh đến đây rồi anh như bóng mây
Chốn
phương trời ấm lạnh, hòa chung mái nhà tranh.”
Cũng như ca khúc Chiều Mưa Biên Giới,
Lá Thư Người Lính Chiến, ca khúc này mang hình ảnh nơi núi rừng
cao nguyên với nỗi buồn nên một thời bị Bộ Thông Tin cấm vì quá
ủy mị, có vẻ “phản chiến” làm nhụt nhuệ khí của tinh thần chiến
sĩ.
“Bao
ước mơ giữa khung trời phiêu lãng
Chờ
mùa Xuân tươi sáng, nhưng mùa thắm chưa sang
Anh đến đây rồi anh như bóng mây
Chốn
phương trời ấm lạnh, hòa chung mái nhà tranh”
Nguyễn Văn Đông tâm sự: “Ông có những
mùa Xuân buồn trong quãng đời thơ ấu, nhiều bất hạnh! Như gia
đình lâm cảnh tang thương. Người thân yêu ly tán trong chiến
tranh, ông mất mùa Xuân tuổi thơ khi cha mẹ bị tù đày. Lớn lên đi
lính, ông lại thường bị ứng trực vào mùa Xuân ở các đơn vị hẻo
lánh...”. Hầu hết các ca khúc về Xuân với niềm vui nhưng dĩ vãng
đau buồn vẫn ám ảnh trong lòng tác giả nên trang trải qua từng ca
khúc.
Gia tộc
Nguyễn Văn Đông là điền chủ ở huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Nơi
đó có mối thân tình xóm giềng với gia đình ông hương Cả. Năm 1945
“cách mạng mùa Thu” bùng nổ, ông Hương Cả bị đưa ra trước tòa án
nhân dân; lãnh bản án “cường hào ác bá” rồi bị xử bắn. Xác thả
trôi sông. Thuở bé Nguyễn Văn Đông học trường Huỳnh Khương Ninh,
phường Đa-kao, Tân Định, Sài Gòn. Năm 1945, 1946 loạn lạc, trường
Huỳnh Khương Ninh đóng cửa. Cha mẹ nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông từ Sài
Gòn tản cư về cố hương, bị liệt vào hàng “địa chủ ác ôn”. Ông bà
bị bắt làm tù lao công khổ sai. Tịch biên tài sản, sung vào quỹ
kháng chiến. Gia đình ly tán. Cửa nhà tan nát. Ông Hương Cả có
một cô con gái xinh đẹp. Hai bên gia đình cùng giao ước kết thông
gia khi hai trẻ lớn lên. Khi ấy Nguyễn Văn Đông và cô bé kia còn
vị thành niên nên tình cảm trai gái của “thuở ban đầu” ngây
thơ... Đôi trẻ trôi giạt, mỗi người một phương. Họ bặt tin
nhau!... (Trong ca khúc Về Mái Nhà Xưa, Nguyễn Văn Đông nói lên
niềm đau khi trở lại chốn xưa). Nhờ Trường Thiếu Sinh Quân được
coi như mái nhà nuôi dưỡng “đứa con lạc loài” để tạo dựng cuộc
đời trong quân ngũ và sinh hoạt văn nghệ.
Trong bài viết của Lê Hữu thì: “Hình
tượng người lính chiến, khắc họa qua dòng nhạc Nguyễn Văn Đông,
như được ‘nâng’ lên ở tầm mức cao hơn và đẹp hơn. Lý tưởng của
những người trai anh dũng hiến thân vì tổ quốc như được tô đậm
hơn, chính nghĩa của cuộc chiến đấu gian khổ của quân dân miền
Nam như được soi sáng hơn. Người đời, qua đó, thấy yêu mến và gần
gũi hơn những người lính, thấy cảm kích và ngưỡng phục những hy
sinh cao cả và thầm lặng của người chiến binh vì nước quên mình.
Vậy thì không thể nào không cám ơn ông, cám ơn người nhạc sĩ đã
gieo vào lòng người những mối cảm xúc sâu đậm, những ấn tượng đẹp
và sắc nét về người lính và đời lính.
Chiến tranh đã đi qua, những bài nhạc
lính như thế ngày nay ít còn được nghe hát, thế nhưng dư âm lời
ca tiếng nhạc của một mùa chinh chiến ấy và hình tượng hào hùng
của người lính chiến Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đọng lại
mãi trong tâm tưởng biết bao người, như câu nói bất hủ của một
danh tướng Hoa Kỳ, Douglas MacArthur: ‘Những
người lính già không bao giờ chết, họ chỉ nhạt mờ đi thôi’ (Old
soldiers never die, they just fade away).
Sau bao mùa tang thương dâu bể, sau
bao nhiêu giông tố dập vùi, ‘người lính già Nguyễn Văn Đông’, vẫn
một niềm tin sắt son vào hồn thiêng sông núi, vẫn chưa mất niềm
tin vào vận mệnh đất nước, vẫn còn nguyên vẹn trái tim chàng lính
trẻ Nguyễn Văn Đông nặng trĩu tình quê tình nước của những ngày
đầu bước chân vào đời quân ngũ.
Non
nước ơi, hồn thiêng của núi sông
Kết
trong lòng thế hệ
Nghìn sau nối nghìn
xưa...”
* Khúc Xuân Ca
Khác với các ca khúc đề cập ở trên,
Khúc Xuân Ca như lời tình tự với người yêu. Là nhạc sĩ tài hoa,
sĩ quan cao cấp trong QLVNCH, không thể nào thiếu bóng hồng “đi
qua đời ông” nhưng Nguyễn Văn Đông rất kín tiếng chuyện tình yêu.
Nhiều nhạc sĩ khi sáng tác ca khúc trữ tình thường nói lên hình
bóng nào đó làm nguồn cảm hứng nhưng Nguyễn Văn Đông thì ngược
lại.
“PK:
Em mùa Xuân hồng, gieo trên phím tơ đồng.
Cho đời mơ mộng, thả ý thơ chờ mong.
Em
mùa trăng rằm, cho vương áng mây hồng.
Xin đừng thay lòng, nhạt màu ái ân.
ĐK: Mùa xuân thay áo,
hồng trên má hoa đào.
Vườn xuân xôn xao,
câu ái ân thầm trao.
Kìa trong ánh xuân
tươi, nhịp chân bước đôi mươi.
Nàng Xuân
hé môi cười, nhạc lòng nghe chơi vơi.
Em
có hay chăng lòng anh, trọn đời yêu em mãi thôi.
PK: Em mùa Xuân hồng,
cho anh vương tơ lòng.
Xin bờ môi hồng,
ý thắm chuyện trăm năm.
Xuân mùa tâm
đồng, cho đôi lứa yêu thầm.
Tay cầm tay
mừng, mùa Xuân ái ân...
Nào dìu nhau đi,
mùa xuân như ý”.
Khi nhạc sĩ “vương tơ lòng” để “trọn
đời yêu em mãi mãi” cho đến bây giờ vẫn là hình ảnh bí ẩn.
Ca khúc Dáng Xuân Xưa cũng mang niềm
tâm sự mối tình dang dở như bóng dáng mùa Xuân đã đi qua cuộc đời
tác giả:
“ĐK:
Xuân sang lả lơi chợt thấy hoa cười
Nối
duyên chạnh nhớ một người
Từ mùa Xuân
trước tới bây giờ còn mơ
Xuân nào sánh
vai cùng ngắm hoa đào
Ái ân nào chẳng
lúc tàn
Vườn em thơm ngát chờ anh bước
sang
PK: Xuân nay mang về kỷ niệm ngày xưa thênh thang
Bâng khuâng thấy hoa mỉm cười chạnh nhớ tới người
Đầu cành oanh ăn nói hình dáng Xuân xưa
ĐK: Em ơi ước mơ thì
cũng lỡ rồi
Trách nhau thì cũng xa rồi
Lòng ta lơ đãng mà Xuân vẫn sang...”
***
Tuy phục vụ trong quân đội, Nguyễn
Văn Đông sáng tác một số ca khúc về người lính nhưng không mang
màu sắc tuyên truyền như lối “phanh thây uống máu quân thù” mà
chỉ tỏ bày niềm đau, nỗi buồn của người lính nơi tiền đồn, núi
rừng... nhưng khi đổi đời “đứa con tinh thần” đó cũng bị hẩm hiu
như cuộc đời tác giả. Nguyễn Văn Đông chia sẻ: “Rất
tiếc một số bài hát tâm đắc không được nhà nước cho phép. Tôi hy
vọng rồi đây theo thời gian mọi việc sẽ tốt đẹp hơn. Đặc biệt
trong lãnh vực văn hóa, văn nghệ, tôi nghiệm rằng những gì có giá
trị nghệ thuật, dù bị vùi dập vì sự ganh tỵ hay hiểu lầm, sẽ có
ngày được mang trả lại vị trí đích thực của nó. Tôi chỉ tiếc đời
người ngắn ngủi mà tôi đã phí phạm quãng thời gian dài 30 năm.
Thật lấy làm tiếc!”.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, qua các bút
hiệu khác đã sáng tác khoảng một trăm ca khúc từ tân nhạc đến tân
cổ giao duyên. Trong phạm vi bài này chỉ đề cập vài ca khúc của
ông liên quan đến hình ảnh mùa Xuân đã đi vào lòng người trải qua
nhiều thập niên..
Vương Trùng Dương
Quận
Cam 1, 2018
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by ddcb chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, February 27, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang