Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Sưu Tầm
Chủ đề:
Tôn giáo - Đạo Hồi
Tác giả: Charlie Nguyễn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Vị giáo chủ sáng lập
đạo Hồi là Muhammad, sinh năm 570 tại thành phố Mecca, thủ đô của
xứ Saudi Arabia ngày nay. Sau 23 năm viết sách Thánh Kinh Koran
và thuyết giảng về đạo Islam, ông qua đời tại thành phố Medina,
cách Mecca khoảng 40 miles về phía Bắc, hưởng thọ 62 tuổi.
Cuộc đời của Muhammad đã bắt đầu từ 30 năm cuối thế kỷ 6 và
bắt cầu 32 năm sau qua thế kỷ 7. Tất cả những gì ảnh hưởng đến
cuộc đời của Muhammad đều in dấu ấn trong thế giới đạo Hồi ngày
nay. Vì vậy chúng ta cần phải tìm hiểu bối cảnh lịch sử của xã
hội Ả Rập trong cả hai thế kỷ 6 và 7.
Khác với Kinh Thánh
Cựu Ước Do Thái là một tập truyện, Kinh Thánh Koran gần như một
cuốn nhật ký. Đọc Kinh Koran, người ta sẽ thấy rất nhiều nét đặc
thù của đời sống du mục Ả Rập, các sinh hoạt thương mại của dân
Mecca, các phong tục tập quán và tín ngưỡng cổ truyền của người Ả
Rập, các cuộc chiến tranh của đế quốc Ky-tô Giáo Byzantine, đế
quốc Hỏa Giáo Ba Tư, v.v.
Tất cả đều được Muhammad phản
ảnh trong kinh Koran. Do đó, khi đọc kinh Koran, chúng ta rất dễ
dàng kiểm chứng các sự kiện bằng cách đối chiếu với lịch sử.
Ngược lại, sự nghiên cứu lịch sử về bối cảnh bán đảo Ả Rập trong
thế kỷ 6 và 7 sẽ giúp chúng ta hiểu biết rõ ràng hơn về Muhammad
cũng như về đạo Islam.
1. Về địa dư:
Bán đảo Ả Rập là một hình chữ nhật chiều dài 1200 miles, rộng
900 miles. Diện tích trên một triệu dặm vuông, lớn bằng 1/3 Hoa
Kỳ hoặc bằng 8 lần diện tích Việt Nam. Sở dĩ vùng này được gọi là
bán đảo vì nó được bao bọc ba phía bởi biển hoặc đại dương: Đông
giáp Vịnh Ba Tư, Nam giáp Ấn Độ Dương và phía Tây giáp Hồng Hải
(Biển Đỏ). Phía Bắc của bán đảo này là vùng sa mạc hoang vu chạy
dài tới biên giới Syria và Palestine. Người ta gọi nó là sa mạc
Syro-Arabia vì nó ở giữa hai nước Ả Rập và Syria. Đi băng qua sa
mạc này bằng đường bộ là một điều nguy hiểm nếu không dự trữ đủ
nước uống. Khách lữ hành phải đi những quãng đường rất xa mới gặp
được một ốc đảo (oasis). Các ốc đảo trong sa mạc được tạo thành
do những hồ nước ngầm ở dưới mặt đất (underground pools). Khí hậu
sa mạc rất khô, thường chỉ có mưa vào mùa xuân. Vùng có mưa nhiều
nhất là miền cực nam bán đảo Ả Rập, tức nước Yemen ngày nay.
2. Dân cư:
Bán đảo Ả Rập ngày nay
được chia thành nhiều quốc gia: Nước lớn nhất là Saudi Arabia 757
ngàn dặm vuông, 23 triệu dân. Yemen 203 ngàn dặm vuông, 10 triệu
dân. Oman 2.5 triệu dân, Cộng Hòa Ả Rập Emirates 2.3 triệu dân và
Quatar 1 triệu dân. Đa số dân Ả Rập là con cháu xa xưa của giống
người ở Địa Trung Hải và miền núi Alpes ở Âu Châu. Về phương diện
chủng tộc, người Ả Rập được xếp vào chủng tộc da trắng (Whites)
như người Âu. Hầu hết người Ả Rập thời xưa sinh sống bằng nghề du
mục. Do đó, chính họ đã tự đặt tên cho chủng tộc của mình là Arab
có nghĩa là du mục (Arab means Nomad).
Người Ả Rập và Do
Thái thù ghét nhau là do sự kỳ thị tôn giáo, sự thật Ả Rập và Do
Thái đều cùng một chủng tộc. Theo Thánh Kinh Cựu Ước Do Thái thì
sau cơn đại hồng thủy, cả nhân loại chết hết, chỉ còn lại một gia
đình của ông Noah sống sót mà thôi. Con trai lớn của ông Noah là
Shem trở thành tổ tiên của các giống dân Do Thái và Ả Rập. Do đó,
phát sinh danh từ “Semites” để gọi chung Do Thái và Ả Rập.
Semites có nghĩa là “con cháu của Shem” (Semites: Descendants of
Shem).
Mới đây, một số nhà khoa học về nhân chủng đã làm
một cuộc thử nghiệm DNA trên nhiều người Do Thái và nhiều người Ả
Rập tại Iraq, Arabia, Yemen và Syria. Họ công bố kết quả thử
nghiệm đã xác nhận người Do Thái và các giống dân Ả Rập đều cùng
chung một mẫu DNA, tức cùng chung một nguồn gốc tổ tiên. Chẳng
những vậy, họ đều có chung một nguồn gốc văn hóa từ Babylon. Ngôn
ngữ cổ của Babylon là Sumerian, ngôn ngữ cổ Do Thái là Hebrew và
ngôn ngữ Arabic đều có nhiều nét tương đồng. Ngôn ngữ của
Muhammad và của Kinh Koran là ngôn ngữ Ả Rập (Arabic) hiện là
ngôn ngữ chính của 250 triệu người thuộc nhiều quốc gia ở Trung
Đông.
3. Chính Trị và Tôn Giáo:
Trong thế kỷ 6 và nửa đầu thế kỷ 7, toàn vùng Trung Đông bị chia
thành hai miền đặt dưới sự khống chế của hai đế quốc: Đế quốc Ba
Tư làm chủ miền đông gồm có Iran, Iraq, Syria và Arabia. Trong
thời gian này, đế quốc Ba Tư chọn Hỏa Giáo (Zoroastrianism) làm
quốc giáo và chọn Ctesiphon làm thủ đô. Đế quốc Byzantine làm chủ
miền tây gồm có Hy Lạp, Do Thái, Palestine, Ai Cập và vùng Địa
Trung Hải. Đế quốc Byzantine chọn Ky-tô Giáo làm quốc giáo và
chọn Constantinople (nay là Istanbul) làm thủ đô.
Hai đế
quốc Ba Tư và Byzantine đánh nhau liên miên từ thế kỷ 2 đến thế
kỷ 7, ròng rã 500 năm. Từ đầu thế kỷ 4, đế quốc Byzantine đổi tên
Ky-tô Giáo thành “Công Giáo”, tiếng Hy Lạp Katholikos có nghĩa là
tôn giáo hoàn vũ (Universal Religion). Rất nhiều người Ả Rập
trong vùng kiểm soát của đế quốc Byzantine theo đạo Công Giáo.
Tất cả những người này thuộc quyền cai quản của Giáo Hội Syria
(Syriac Church). Đến giữa thế kỷ 6, đế quốc Công Giáo Byzantine
chinh phục được vua xứ Abyssinia (tức là Ethiopia ngày nay) theo
đạo và cho nhiều đoàn truyền giáo xâm nhập Yemen ở cực nam bán
đảo Ả Rập.
Đế quốc Ba Tư thấy rõ âm mưu của Byzantine nên
tìm cách nâng đỡ mọi người Do Thái và những người Ả Rập theo đạo
Do Thái nắm chính quyền tại bán đảo Ả Rập. Năm 510 (tức 60 năm
trước khi Muhammad sinh ra) với sự yểm trợ của đế quốc Ba Tư, một
người Ả Rập theo đạo Do Thái là Yusuf Asai đã thống lãnh các bộ
lạc Ả Rập và lên ngôi vua cai trị toàn bán đảo Ả Rập.
Đến
năm 525, đế quốc Byzantine yểm trợ cho vua Công Giáo xứ Abyssinia
đem quân xâm chiếm bán đảo Ả Rập. Vua Yusuf Asai chống cự không
nổi phải bỏ chạy, cuối cùng nhà vua nhảy xuống biển tự tử. Từ đó,
bán đảo Ả Rập thành thuộc địa của Abyssinia và Ky-tô Giáo thành
quốc giáo tại xứ này.
Năm 570, người Ả Rập cầu cứu hoàng
đế Ba Tư đem quân đánh đuổi quân Ky-tô Giáo Abyssinia. Đế quốc Ba
Tư chiến thắng và biến bán đảo Ả Rập thành một tỉnh của đế quốc.
Cũng từ đó, Hỏa Giáo của Ba Tư được truyền bá rộng rãi trong dân
chúng Ả Rập.
4. Phong Tục Tập Quán:
Dù sống cuộc đời du mục ở sa mạc hay chuyên nghề thương mại
sinh sống tại thành thị, mọi người Ả Rập đều thích tự xưng là
“những người con của sa mạc” (sons of desert). Từ nhiều ngàn năm
qua cho đến nay, người Ả Rập vẫn luôn luôn gắn bó với những con
lạc đà. Chúng là những cỗ xe lý tưởng đưa họ qua sa mạc và đồng
thời cũng là nguồn cung cấp sữa và thịt. Người Ả Rập ít trồng
trọt nên họ thường bị thiếu ngũ cốc và bị suy dinh dưỡng. Cuộc
sống sa mạc đã tạo ra hoàn cảnh khiến cho các bộ lạc du mục phải
luôn luôn gây chiến với nhau để tranh chiếm các giếng nước hiếm
hoi hoặc tranh chiếm các thảo nguyên để thả nuôi gia súc. Qua
nhiều thế kỷ, cuộc sống du mục đã hình thành nơi các sắc dân Ả
Rập những phong tục tập quán đặc biệt:
a. Tục trả
thù:
Để có thể sống còn trong những điều kiện
khắt nghiệt của sa mạc, mọi người Ả Rập phải tụ họp lại thành
từng nhóm (groups) gắn bó với nhau bằng quan hệ huyết thống.
Nhiều nhóm liên kết với nhau thành đoàn (clans) hoặc lớn hơn nữa
thành bộ lạc (tribes). Mọi cá nhân đều phải gắn bó với quyền lợi
chung của bộ lạc. Người Ả Rập gọi tinh thần gắn bó ấy là
“muruwah” bao hàm rất nhiều ý nghĩa: phải can đảm trong chiến
đấu, phải kiên nhẫn chịu đựng mọi sự đau khổ khi bộ lạc gặp khó
khăn, phải cương quyết bảo vệ mọi kẻ yếu trong bộ lạc và phải
quyết tâm trả thù những kẻ đã dám xâm phạm đến sinh mạng và tài
sản của bộ lạc.
Các tù trưởng có trách nhiệm bảo vệ mọi
thành viên trong bộ lạc của mình. Nếu không trừng phạt những kẻ
đã xâm phạm đến sinh mạng và tài sản của thành viên trong bộ lạc
mình thì tù trưởng đó sẽ không còn được tín nhiệm nữa. Vì tính
liên đới trách nhiệm trong bộ lạc nên trong nhiều trường hợp một
người trong bộ lạc này bị giết thì một người trong bộ lạc thù
địch phải bị giết để đền mạng. Luật sa mạc là nợ máu phải trả
bằng máu. Bán đảo Ả Rập là một sân khấu vĩ đại của những chu kỳ
bạo động không bao giờ dứt.
Trong những thời kỳ đói kém
hay hạn hán, các bộ lạc gặp khó khăn thường chọn một trong những
bộ lạc thù địch để tấn công nhằm cướp gia súc, thực phẩm và hàng
hóa cần thiết để sống còn. Các đàn ông của bộ lạc địch đều bị
giết. Các đàn bà trẻ đẹp bị bắt đưa về làm vợ bé hay đầy tớ. Số
còn lại bị đưa đi bán ở chợ nô lệ.
Những người Ả Rập du
mục không hề coi những vụ cướp của giết người như vậy là điều tội
lỗi. Họ quan niệm đó chỉ là những việc làm tự nhiên để trừng phạt
kẻ thù một cách hợp lý mà thôi.
b. Tục giết các bé
gái sơ sinh (Female Infanticide)
Luật sa mạc cũng
tàn nhẫn như luật rừng: Chỉ có kẻ mạnh sống sót, mọi kẻ yếu phải
bị loại trừ! Việc giết các bé gái sơ sinh là một phương cách điều
chỉnh dân số của các bộ lạc du mục. Lý do là một khi bộ lạc có
quá nhiều con gái và quá ít con trai thì bộ lạc bị lâm vào tình
trạng suy yếu. Chỉ có đàn ông con trai mới có thể đáp ứng nhu cầu
sống còn của bộ lạc, đó là nhu cầu chiến đấu và nhu cầu lao động
sản xuất.
Phụ nữ bị coi rẻ nên xã hội du mục không dành
cho họ một quyền lợi luật định nào (no legal right). Họ bị coi
như một thứ tài sản, hay nói đúng hơn là một động sản (movable
property). Những gia đình nào đã sinh một vài đứa con gái rồi thì
những bé gái sinh sau thường bị giết chết không thương tiếc.
c. Tục cắt da qui đầu và cắt âm vật
Theo tương truyền thì Abraham là người đầu tiên tự cắt da qui đầu
của mình và cắt da qui đầu các con trai của ông để tỏ lòng tuân
phục Thiên Chúa. Do đó, tục lệ cắt da qui đầu trở thành nghi lễ
bắt buộc đối với mọi người theo đạo Do Thái. Tục lệ này thường
được gọi là Phép Cắt Bì (Circumcision).
Trước khi có đạo
Hồi, đa số người Ả Rập thường tự xưng là tín đồ đạo Abraham, tức
Đạo Do Thái Nguyên Thủy. Họ thường cắt da qui đầu cho các bé trai
giống như người Do Thái.
Ngoài ra, người Ả Rập có tục lệ
cắt bỏ một phần hoặc tất cả âm vật, còn được gọi là mồng đóc
(Clitoris) của các bé gái từ 4 đến 8 tuổi. Đây là một tục lệ
chung của người Ả Rập, không phân biệt tôn giáo. Hiện nay, nhiều
người Ả Rập ở Ai Cập, Yemen, Sudan theo Ky-tô Giáo vẫn giữ tục lệ
này. Họ tin rằng việc cắt clitoris tuy có gây đau đớn nhưng tránh
cho phụ nữ những đòi hỏi sinh lý và giúp họ dễ trở nên thanh sạch
cao đẹp hơn.
d. Tục chứng minh trinh tiết cô dâu
Một tục lệ của người Ả rập gây căng thẳng tinh thần cho các
cô gái đến tuổi lấy chồng, đó là tục lệ chứng minh trinh tiết cô
dâu (Proof of the bride’s Virginity). Sau đám cưới, mọi người
trong gia đình cô dâu và những người khách tham dự tụ họp bên
ngoài phòng ngủ cô dâu chú rể. Sau khi động phòng, chú rể bước ra
khỏi phòng ngủ báo cáo kết quả cho mọi người biết. Nếu chú rể
tuyên bố cô dâu đã mất trinh trước đám cưới thì đây là một điều
nhục nhã cho gia đình nhà gái và cuộc hôn nhân có thể bị hủy bỏ!
e. Tục giết gái chửa hoang
Các cô gái
Ả Rập không chồng mà chửa bị coi là đã phạm trọng tội đối với
danh dự của gia đình. Các cô gái này thường bị cha hoặc anh em
ruột giết chết để bảo vệ danh dự gia đình. Vì thế, người Ả Rập
gọi tục lệ này là “Giết người vì danh dự” (Honor Killing). Các cô
gái chửa hoang thường khó có thể thoát chết vì dù có chạy đến cầu
cứu các cơ quan luật pháp cũng không được bảo vệ. Các thủ phạm
giết người trong trường hợp này được xã hội coi là hành động
chính đáng và nếu có bị tù thì cũng chỉ trong một thời gian rất
ngắn có tính cách tượng trưng mà thôi.
Tất cả các tục lệ
kể trên hiện vẫn còn tồn tại trong các xứ Ả Rập Hồi Giáo. Tuy
nhiên, những tục lệ đó không xuất phát từ đạo Hồi vì trong kinh
Koran cũng như những văn bản luật pháp của đạo Hồi đều không có
điều khoản nào qui định về các tục lệ đó. Ngày nay, nhiều nước
Hồi Giáo đã ban hành các biện pháp hủy bỏ hoặc hạn chế các tục lệ
xét ra có hại và lỗi thời.
Charlie Nguyễn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by vnd chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, February 7, 2017
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang