Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang Sưu tầm
Chủ đề:
Cơ giới Không Lực Hoa Kỳ
Tác giả:
tkd
Vận tải cơ bao gồm những công tác vận chuyển binh sĩ, tử sĩ, thương binh, cứu thương, chiến cụ, vật liệu xây cất, quân lương, nhiên liệu, v.v. Dưới đây BKT chỉ trình bày tượng trưng một vài đơn vị, còn rất nhiều KĐVT chưa được đăng trên trang điện tử này.
Huy hiệu Trường đào tạo
Sĩ Quan Không Quân Hoa Kỳ
(US Air Force Academy)
Bằng Bay KQHK
Lời mở đầu: Nói về Binh chủng Không Quân thì kể từ thời Tạo Thiên Lập Địa đến hôm nay, chưa có một quốc gia nào trên quả Địa cầu này có một lực lượng Không Quân hùng hậu như nước Mỹ về cả lượng lẫn phẩm, dĩ nhiên là Vĩ Đại và Siêu Việt. Chỉ cần nhìn lại lịch sử chiến tranh Việt Nam, nước Mỹ đã viện trợ cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa miền Nam nước VN một khối lượng lớn phi cơ quân sự mà có thời người ta đã đánh giá Không Lực VNCH đứng vào hàng thứ tư trên thế giới. Thật vậy, hiện nay Không Quân Hoa Kỳ làm Bá Chủ Hoàn Cầu. Đấy là chưa nhắc đến ngành Không Gian Hoa Kỳ, nơi mà quốc gia này đã và đang có rất nhiều Dự án điều nghiên về không gian, phát minh những phi thuyền để chinh phục không gian từ hơn 50 năm qua. –– BKT
Binh chủng Không Quân Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ còn được gọi là Không
Lực Hoa Kỳ, viết tắt KLHK; tên tiếng Anh:
United States Air Force,
viết tắt USAF. Công tác chính của KLHK là Không Chiến (Aerial
warfare), Không Vận (Air Mobility) và Không Yểm (yểm trợ Hỏa lực cho quân bộ
binh, di tản thương binh, v.v.). Ngoài những phi vụ quân
sự, KLHK còn được trưng dụng vào những cuộc không vận nhân đạo như
di tản nạn nhân thiên tai, nạn nhân chiến tranh, tiếp tế lương
thực cho các vùng thiên tai khắp thế giới. KQHK là một lực lượng võ trang, là một trong bảy lực lượng
đồng phục của Hoa kỳ như sau:
1. Binh chủng Bộ Binh Hoa Kỳ (United States Army
–
USA), được thành lập ngày 14 tháng 6, năm 1775. Khẩu hiệu: “Đây là
nơi chúng ta sẽ bảo vệ.” (khi viễn chinh ngoài nước Mỹ,
chữ 'nơi' ám chỉ những nơi QĐHK
đặt chân đến và đóng quân ở đấy.)
2. Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến (United States Marine Corps
[USMC]) được
thành lập ngày 10 tháng 11, năm 1775, nay đã hơn hai thế kỷ.
3. Binh chủng Hải Quân (United States Navy) được thành lập năm 1797.
4. Binh chủng Không Quân (United States Air Force) được thành lập
ngày 18 tháng 9, năm 1947.
5. Binh chủng Tuần Duyên (United States Coast Guard) được thành lập
ngày 4 tháng 8, năm 1790.
6. Nha Y–Tế
Công cộng–bán
quân sự (United States Public Health Service
Commissioned Corps) được thành lập ngày 16 tháng 7, năm 1889.
7. Nha Hải Dương & Khí Tượng Quốc Gia–bán
quân sự (National Oceanic and
Atmospheric Administration Commissioned Corps) được thành lập ngày
22 tháng 5, năm 1917.
Không Lực Hoa Kỳ là lực lượng quân sự sinh sau đẻ muộn (1947), biệt
lập, và là một trong 3 bộ trực thuộc Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Bộ trưởng
Bộ KQHK là một dân sự được tổng thống HK chỉ định với đa số phiếu
ủng hộ của Thượng Viện Mỹ. Sĩ quan cao cấp nhất của Bộ Không Quân
(BKQ) là tướng Tham Mưu trưởng Không Quân chỉ huy toàn thể BCKQ
(Binh Chủng Không Quân), và viên tướng này cũng là thành viên của
ban Tham Mưu trưởng Liên Quân Hoa Kỳ. Cả hai Bộ trưởng và Tham mưu
trưởng KQ đều không có quyền hành trên các đơn vị tác chiến của
KLHK. Bộ trưởng BQP chỉ định các Tư Lệnh Không Quân chiến trường để chỉ huy các
đơn vị tác chiến KQ, cấp bậc tư lệnh chiến trường của KLHK là Đại
tướng (tướng 4 sao).
Vào năm 2012, KLHK có 332,854 quân nhân các cấp tại ngũ; 185,522 dân
sự; 71,400 quân trừ bị; 106,800 KQ Vệ Binh Quốc gia và một kinh phí
lên đến $140 tỷ Mỹ kim. KLHK có khoảng
5,484 chiếc phi cơ đủ loại,
một Hệ thống Phòng không với
450 Hỏa Tiễn ICBM (Hỏa Tiễn Liên Lục Địa) và
63 Vệ tinh lượn là lượn lượt quanh Địa cầu
24x7x365, tất cả kết thành một lực lượng Không quân khổng
lồ & mạnh khủng khiếp nhất thế giới.
Đây là loạt bài sưu tầm bắt đầu từ các loại Phi cơ Vận tải Quân sự
lớn của Hoa Kỳ. Nói về ngành không vận quân sự Hoa Kỳ thì phải công
nhận rằng Không Lực Hoa Kỳ đã đạt được đến mức thượng thừa hay siêu
việt. Có thể nói, hiện nay, Không lực của toàn khối Đông Âu Nga–sô–viết
và Trung cộng kết lại cũng không thể nào sánh
kịp.
Trang điện tử này sẽ đề cập đến ba loại Phi cơ Vận Tải Chiến lược
(strategic airlifter) sau đây của Không Lực Hoa Kỳ:
1. Phản lực cơ C–5 Galaxy (Ngân Hà) là loại phi cơ khổng lồ đa năng:
chuyển vận cơ giới và quân cụ có kích thước lớn bất quy tắc (không
theo tiêu chuẩn), hàng hóa, nhu
yếu phẩm, và binh sĩ.
2. C–17 Globemaster (Đại Bàng Hoàn
vũ) bé hơn C–5, là loại phi
cơ đa năng: chuyển vận cơ giới, hàng hóa, nhu yếu phẩm, binh sĩ, và
còn được dùng trong việc huấn luyện Nhảy dù và thả dù tiếp tế.
3. KC–135 Hercules (Hẹc–quin/Lực Sĩ) dùng trong việc tiếp tế nhiên
liệu cho máy bay quân sự của Hoa Kỳ và Đồng minh trên không trung,
nghĩa là đổ thêm xăng cho máy bay đang bay trên không (mid–air
refuel) để máy bay có thể bay không ngưng nghỉ cho đến khi đáp xuống
điểm hẹn hay mục tiêu. Không đoàn Vận tải 434 Tiếp tế Nhiên liệu
trên không trung đã từng hoạt động trong chiến tranh VN, sau này có
tham dự trận chiến thành Bá Đa, Iraq, còn gọi là Hành quân Bão Sa
Mạc, hay chiến tranh vùng Vịnh (Gulf War).
Kính mời quý độc giả tuần tự theo dõi những tấm ảnh dưới đây:
Phần
I, C–5 Galaxy; Phần II, C–17 Globemaster; và
Phần III, KC–135
Tiếp tế nhiên liệu trên không trung. Sau cùng là phần
Credits.
PHẦN I: C–5 Galaxy (Ngân Hà)
Công dụng/Sứ mệnh của C–5 Ngân Hà
Chiếc C–5 Galaxy (tạm dịch Ngân Hà), là chiếc Vận tải cơ lớn nhất trong các loại phi cơ Vận tải của KLHK, so với thế giới thì chiếc C–5 Galaxy chỉ đứng hàng thứ năm về kích thước thôi. C–5 Galaxy được dùng để chuyên chở các loại cơ giới của nhà binh có kích thước to lớn bất thường (outsize) như xe nhà binh, xe vận tải 18–bánh (Rigger) của dân sự, xe tăng, thiết giáp xa, tầu bè, xe ủi đất, xe làm đường của binh chủng Công binh, cầu di động, máy bay đủ loại kể cả chính nó (C–5), các giàn phóng Hỏa tiễn lên không gian và phi thuyền không gian của cơ quan NASA. Ngoài cơ giới và cơ khí ra, C–5 còn chuyên chở quân lương, binh sĩ của các quân binh chủng HK, v.v. Đặc biệt hơn nữa, ngoài nhiệm vụ vận tải thuần tính quân sự, thỉnh thoảng C–5 Galaxy cũng được dùng trong những Phi vụ Nhân đạo như chở đồ tiếp tế cứu trợ nạn nhân thiên tai bão lụt, v.v. vòng quanh thế giới.
Chú ý: C–5 Ngân Hà có thể chở toàn bộ một đơn vị quân sự võ trang đầy đủ trong tư thế sẵn sàng nghênh chiến đến bất cứ nơi nào trên thế giới trong khoảnh khắc và sau đó vận chuyển cơ giới và tiếp liệu cần thiết để bảo đảm lực lượng quân sự này tiếp tục chiến đấu cho đến chiến thắng.
Những đặc điểm về Phi cơ Vận tải C–5
1. C–5 Ngân Hà lớn hơn các vận tải cơ khác.
C–5 có thể chở
được 36 kiện hàng bình thường và 81 Binh sĩ cùng một lúc.
Chiếc Ngân Hà này cũng có thể chở được bất cứ những loại
quân cụ nào có thể chuyển bằng đường hàng không, bao gồm
những món hàng nặng và cồng kềnh như chiếc cầu dã chiến di động nặng
74 tấn. Nó cũng có thể chở những hàng hóa có kích thước
không bình thường xuyên lục địa và có thể cất cánh và đáp
trên những phi đạo ngắn. Vì C–5 có hai cửa, trước mũi và sau
thân phi cơ, nên nhân viên chất hàng có thể chuyển hàng hóa
lên phi cơ này ở cả hai phía trước và sau phi cơ cùng một
lúc, như thế giảm thời gian chất hàng lên phi cơ.
2. Có thể cất cánh và đáp trên phi đạo
dài chỉ 6,000 bộ
(1,829m).
3. Hệ thống đáp: C–5 có 5 Bộ phận đáp với tổng số 28 bánh
xe, đủ an toàn để chịu đựng sức nặng của toàn thân phi cơ
chở đầy hàng hóa.
4. Hai cánh cửa ở đằng mũi và sau phi cơ đều có thể mở
toang, để lộ nguyên lòng phi cơ khiến cho việc di chuyển
hàng hóa lên–xuống phi cơ dễ dàng và nhanh chóng.
5. Hệ thống đáp có thể được hạ thấp ngang với mặt đất để cho
các xe chở hàng lên xuống phi cơ dễ dàng.
6. Mỗi cửa lên phi cơ có hai đường lên rộng rãi để có thể
chứa được hai dãy xe hơi đậu song song với nhau trong lòng phi cơ.
7. C–5 có một Hệ thống điện tử tối tân
để theo dõi và báo
cáo những trục trặc của phi cơ, hệ thống này
ghi & phân tích dữ kiện của hơn 800 điểm kỹ thuật cần
lưu ý trên chiếc C–5A và
7,000 mẫu thử của chiếc C–5M. Hệ thống điện báo trục trặc này
giúp chuyên viên Kỹ thuật tìm ra được manh mối trở ngại kỹ
thuật để sửa chữa và bảo trì C–5 nhanh
chóng & chính xác hơn.
8. Đuôi của C–5 Galaxy có hình chữ “T” với chuôi cánh thoai thoải
về phía sau (wing sweep) 25˚. Đây cũng là cách để nhận diện
chiếc phi cơ nào là C–5 Galaxy.
9. Động cơ: 4 đầu máy Turbofan được đặt dưới bộ cánh trên
những trụ (pylon) treo.
10. Bình nhiên liệu:
C–5 có cả thảy 12 bình xăng nằm xen kẽ
trong bộ cánh với dung tích 51,150 ga–lông (193,624 lít),
lượng xăng này đủ để đổ đầy 6 toa rưỡi chở xăng của một đoàn
tầu hỏa. Với đầy bình xăng và không có hàng hóa, C–5 nặng
332,500 cân (150,820 kilograms), thêm 270,000 cân
(122,472kg) hàng hóa nữa, C–5 Ngân Hà có thể bay một hơi
2,150 hải lý (tương đương 2,474.18 dặm hay 3,982km), đáp
xuống căn cứ đầu tiên bỏ hàng, cất cánh và tiếp tục bay đến
căn cứ thứ hai cách căn cứ đầu 500 hải lý (575.39 dặm hay
926km) –– suốt dọc đường từ điểm xuất phát đến căn cứ thứ
hai xài không hết bình xăng. Nhưng nếu cần, C–5 sẽ sử dụng phương pháp Tiếp
tế nhiên liệu trên không trung thì chiều dài đường bay không
thành vấn đề, chỉ ăn thua ở sức chịu đựng dẻo dai của Phi
hành đoàn thôi.
Những đặc điểm thông dụng của Phi
cơ C–5
Nhiệm vụ chính:
Không vận
hàng hóa có kích thước lớn hay không bình thường,
Nhà thầu:
Công ty
Lockheed, chi nhánh Georgia, tiểu bang Georgia,
Động cơ máy bay:
Bốn động
cơ General Electric TF–39 cho các kiểu C–5A, B, C, và F–138
General Electric cho kiểu C–5M (mới nhất),
Lực đẩy:
43,000 cân
(19,504kg), mỗi đầu máy cho các kiểu C–5A, B, C và 51,250
cân (23,247kg) cho mẫu C–5M.
Kích thước:
Cánh:
222.9 bộ
(67.89m),
Thân phi cơ: Dài:
247.1 bộ (75.3m); Cao:
65.1 bộ (19.84m),
Ngăn hàng hóa:
Cao: 13.5 bộ (4.11m); Rộng:
19 bộ (5.79m); Dài:
143 bộ 9
inches (43.8m),
Số kiện hàng kham được: 36.
Trọng tải: Tối đa: 270,000 cân (122,472 kg).
Để có thể cất cánh: 840,000 cân (381,024 kilograms). Chú ý: trọng lượng này bao gồm chính nó + thêm hàng hóa.
Vận tốc: 518 dặm 1 giờ (.77 Mach) hay 834km/giờ.
Một bình xăng đầy của chiếc
C–5M (tân trang) có thể bay được 1 đoạn đường dài khoảng
4,800 hải lý (5,523.741 dặm hay 8,889.6km), chẳng hạn từ Căn
cứ KQ Dover, tiểu bang Delaware bay sang Căn cứ Incirlik,
Thổ Nhĩ Kỳ chở 120,000 cân quân dụng. Nếu bay với chiếc phi
cơ trống rỗng thì khoảng 7,000 hải lý (8,055.456 dặm hay
12,964km).
Phi hành đoàn:
7 người (1
hoa tiêu chính, 1 hoa tiêu phụ, hai kỹ sư, và ba lơ phi cơ
(chuyên viên xếp đặt hàng hóa))
Giá thành:
1 chiếc C–5A
trị giá $152.8 triệu Mỹ kim (Tài khóa/FY 1998); C–5B – $179
triệu Mỹ kim (1998); C–5C (với ngăn chứa hàng đã được cải
tiến) – $88 triệu Mỹ kim (1998); C–5M (với Chương trình RERP cải tiến)
–
$90 triệu Mỹ kim (2009)
Ngày hoạt động của các kiểu C–5:
C–5A – 1970, C–5B – 1986, C–5C – 1988, và C–5M – 2009.
Tồn kho:
Tổng số máy bay
trong Đoàn phi cơ vận tải C–5 thay đổi từng tháng dựa trên
bao nhiêu chiếc C–5A được Quốc Hội HK cho phép không bay
nữa; có 52 chiếc C–5M sẽ tồn kho đến tài khóa 2017, tới nay
đã có 8 chiếc C–5M được giao cho KLHK (tháng 8, 2012.)
Lịch sử của C–5
Vào cuối năm 1963, chương trình vẽ lại toàn diện họa đồ CX–4
thành họa đồ mới có tên là CX–X. Trong kiểu vẽ mới này các
kỹ sư chỉ cho có 4 động cơ thay vì là 6 như trong họa đồ
CX–4. Ngoài ra, các động cơ của họa đồ CX–X cũng đã được cải
tiến để đốt nhiên liệu ít hơn cùng lúc tăng tầm hoạt động
của máy bay. Và sau cùng vào tháng Tư năm 1964 một bản họa
mới được trình làng thay thế CX–X, có tên gọi “Hệ thống Tiếp
vận Hạng nặng” hay CX–HLS (Heavy Logistics System).
Tháng 5, 1964, các hãng thầu chế tạo máy bay Hoa Kỳ như
Boeing, Douglas, General Dynamics, Lockheed và Martin Marietta lập
tức gửi đơn xin thầu Dự án CX–HLS. Riêng các hãng thầu lớn
khác như General Electric, Curtiss–Wright và Pratt &
Whitney xin thầu chế tạo động cơ cho Dự án CX–HLS. Sau cùng
thì còn lại 5 hãng được tuyển chọn để thi hành những công
tác sau đây: 3 nhà thầu Boeing, Douglas và Lockheed làm việc
trong một Dự án dài một năm chuyên việc nghiên cứu về thân
phi cơ; và 2 nhà thầu General Electric, Pratt & Whitney
nghiên cứu về động cơ cho chiếc Vận tải cơ C–5.
Về thân phi cơ, cả 3 hãng đều có chung một khái niệm, đó là
đặt phòng lái trên cùng để cho hàng hóa và hành khách có thể
lưu thông từ phía trước mũi phi cơ. Kiểu vẽ của 2 công ty
Boeing và Douglas đặt phòng lái nằm gọn trong một chiếc rọ
(không phải là rọ nhốt lợn của An–nam ta) ngay trên phía trước thân phi cơ, trong khi hãng Lockheed
thì đặt phòng lái nằm nghiêng dọc theo thân phi cơ, trông
giống như hột vịt lộn nằm hai bên hông phi cơ.
Cánh máy bay kiểu xuôi (xoải) như cánh chim én hay “swept wing” và
hai cửa trước–sau để tiện việc chất hàng hóa lên và gỡ hàng
hóa từ máy bay xuống... là những đặc điểm chung của tất cả
các nhà thầu hồi đó. Đuôi máy bay hình chữ “T” là kiểu vẽ của
nhà thầu Lockheed, trong khi Boeing và Douglas thì vẽ theo
tập quán thường.
Không Quân HK chuộng kiểu vẽ của hãng Boeing hơn của
Lockheed, mặc dầu Lockheed cho giá thành rẻ hơn. Sau cùng
Lockheed trúng tuyển tháng 9, 1965, và tháng 12 cùng năm thì
trúng thầu. Đầu máy hiệu TF–39 do hãng GE chế tạo cũng đã
được chọn để làm động cơ cho chiếc Vận Tải Cơ Quân đội mới
này. Cũng vào thời điểm này, khái niệm về động cơ máy bay
của hãng GE phải được xem là một cuộc cách mạng cơ khí, vì
so với những động cơ trước đó chỉ nhỏ hơn 2–1, với động cơ
TF–39 hứa hẹn tỷ lệ 8–1, nghĩa là nó có sức đẩy cao hơn và
đốt ít nhiên liệu hơn.
Chiếc C–5A Galaxy – Ngân Hà đầu tiên (căn cước máy bay số
66–8303) được khánh thành ngày 2 tháng 3, 1968 từ xưởng đóng
máy bay tọa lạc tại thành phố Marietta, tiểu bang Georgia,
Hoa Kỳ. Hoa tiêu lái thử chiếc C–5A mới cáu này là Leo
Sullivan với danh hiệu truyền tin là “eight–three–oh–three
heavy” (tám–ba–ô–ba nặng). Trong khi bay thử, hoa tiêu
nhận ra phi cơ có một lực “kéo lê” (cản) khác biệt với tốc độ Mach
đã được thử nghiệm trong hầm gió trước đây.
Công ty Lockheed–Georgia đã giao chiếc C–5
đầu tiên cho Không Đoàn Vận tải 437 tại Căn cứ KQ
Charleston, vào tháng 6 năm 1970 thì Căn cứ này trở thành
Liên Căn cứ KQ Charleston, tiểu bang South Carolina. Những
chiếc vận tải cơ C–5 Galaxy này đang được các quân nhân binh
chủng KQHK tại ngũ, Không Quân Trừ bị và Vệ Binh Quốc gia
điều khiển. Hiện những con chim C–5 này đang đồn trú
tại các Căn cứ Không Quân Hoa Kỳ sau đây:
Dover, tiểu bang
Dalaware; Travis, California; Lackland, tiểu bang Texas;
Martinsburg ANGB [Vệ binh QG], tiểu bang West Virginia;
Memphis ANGB, tiểu bang Tennessee; và Căn cứ KQTB Westover,
tiểu bang Massachusetts.
Vào tháng 3, năm 1989, 50 chiếc C–5B cuối cùng đã được sáp
nhập với 76 chiếc C–5A của Lực Lượng Không Vận KLHK. Đoàn
phi cơ C–5B bao gồm những cải tiến cộng với hơn 100 loại tân
trang từ các phi cơ C–5A để nâng sự tin tưởng và để việc bảo
trì phi cơ được hữu hiệu hơn.
Dựa trên một cuộc nghiên cứu cho người ta thấy hiện có 80%
dịch vụ bảo trì sườn phi cơ C–5 dài hạn còn lại, vào năm
1998, Bộ Tư Lệnh Không Vận Hoa Kỳ đã đẩy mạnh chương trình
Tân trang phi cơ C–5 Galaxy. Chương trình Tân Tiến Hóa Điện
tử Hàng không cho Phi cơ C–5 bao gồm việc cập nhật hóa hệ
thống điện tử trên không để nâng phẩm chất cho các hệ thống
liên lạc, hướng đạo, và giám sát hay thi hành những điều lệ
trong ngành quản trị không lưu. Chương trình tối tân hóa này
cũng bao cả việc gắn thêm những dụng cụ an toàn và một hệ
thống điều khiển phi cơ tự động (auto pilot).
Một phần khác của chương trình tân tiến hóa phi cơ C–5 là
Chương trình Hỗn hợp Gia tăng Bảo đảm và Thay động cơ mới.
Năm mươi hai chiếc C–5 gồm các mẫu (1 chiếc C–5A, 2 C–5C, và
49 C–5B) sẽ nhận được chương trình tân trang RERP vào tài
khóa 2017. Điểm nổi bật của chương trình tân trang này là
động cơ General Electric CF6–80C2 (F–138) hiện đang lưu hành
trong ngành hàng không dân sự. Đầu máy này tăng 22% lực đẩy,
đà cất cánh giảm 30%, và tốc độ bay (leo) lên cao mau hơn
58% và chở được nhiều hàng hóa hơn trên những đoạn đường xa
hơn. Với đầu máy mới và nhiều món cải cách khác, chương
trình RERP đã biến các phi cơ C–5A, B, C thành
C–5M, Super
Galaxy (tạm dịch Siêu Ngân hà). Chương trình tân tiến hóa
này sẽ làm cho các con chim sắt khổng lồ C–5 trầm hơn (theo
Điều luật 4 của Cơ quan Hàng không Liên bang Hoa Kỳ) và làm
tăng sự tin tưởng cùng việc bảo trì hữu hiệu, duy trì một
cấu trúc và một hệ thống toàn diện, giảm chi phí sở hữu và
gia tăng khả năng hành quân trong suốt thế kỷ thứ 21 này.
Trong hai Tài khóa 2004 và 2012, Quốc hội Hoa Kỳ đã phê
chuẩn cho 46 chiếc C–5A nằm ụ (về hưu đấy, không bay nữa).
Tài khóa 2006 có một C–5B bị rơi tại Căn cứ KQ Dover, tiểu
bang Delaware, và không thể sửa chữa được. Kết quả hiện tại
chỉ còn 79 chiếc C–5.
Ban kỹ thuật phiên dịch,
Thứ Năm, July 18, 2013
Hình ảnh chiếc Vận Tải Cơ khổng lồ C–5 Galaxy
của Không Lực Hoa Kỳ (KLHK)
Hết Phần I
PHẦN II: C–17 Globemaster (Đại Bàng Thế Giới)
Sơ lược về Phi cơ hiệu C–17
Globemaster III (Đại Bàng Hoàn vũ)
Chiếc C–17 bé hơn C–5, thay cho C–5 chuyên chở những loại
hàng hóa có kích thước bình thường hơn. C–17 còn được dùng
để huấn luyện nhảy dù cho các binh đoàn Nhảy Dù của Quân Lực
Hoa Kỳ và những dịch vụ thả dù tiếp tế. C–17 do hãng thầu
McDonnell Douglas chế tạo cho Không Lực Hoa Kỳ từ thập niên
80 đến đầu thập niên 90. C–17 mang tên của hai chiếc Vận tải
cơ quân sự trước nó, đó là chiếc C–74 Globemaster và chiếc
Douglas C–124 Globemaster II. C–17 là phi cơ được dùng vào
các sứ mạng Vận tải Quân sự có tính cách chiến lược, chuyên
chở hàng hóa và binh sĩ đi khắp cùng Thế giới; ngoài công
tác Vận tải chiến lược, C–17 còn được dùng trong những công
tác Vận tải Chiến thuật, di tản thương binh, và những nhiệm
vụ thả dù.
Những đặc điểm về Phi cơ Vận tải
C–17
Nhiệm vụ:
chở hàng hóa và
Binh sĩ
Bản quyền:
Hoa Kỳ
Ngày khánh thành:
15 tháng
9, năm 1991
Ngày bắt đầu công vụ:
14
trháng 7, năm 1993
Tình trạng hiện tại:
đang
hoạt động
Nhà thầu:
Hãng chế tạo Máy
bay Boeing
Động cơ: 4 đầu máy Pratt & Whitney F117–PW–100 Turbofan, có thể quay ngược chiều; máy bay Boeing 757 chạy cùng động cơ; mỗi đầu máy có lực đẩy 40,440 cân anh (18,343kg). Lực đẩy ngược chiều hướng dẫn gió thổi lên thẳng và hướng về phía trước, điều này sẽ tránh được bụi và rác rến bị hút vào máy của phi cơ.
Kích thước:
Cánh:
169 bộ 10 inches (51.75 meters) (từ nách phi cơ đến chuôi
cánh)
Thân phi cơ:
dài:
174 bộ (53 mét); cao: 55 bộ 1 inch (16.79m)
Ngăn chứa hàng:
dài 88 bộ (26.82m); rộng 18 bộ (5.48m); cao 12 bộ inches
(3.76m)
Trọng tải: thời bình, tối đa 585,000 cân (265,352kg), kể cả sức nặng của chính nó. Có thể chở 102 Binh sĩ Nhảy dù với đầy đủ quân trang quân dụng; 36 băng–ca và 54 thương binh còn đi lại được, và những chiêu đãi viên hàng không; 170,900 cân hàng hóa (77,519kg) trong 18 kiện hàng.
Vận tốc: 450 knots (517.851 dặm/giờ hay 833.4km/g) ở cao độ 28,000 bộ (8,534m) (Mach .74)
Tầm hoạt động:
Cao độ:
45,000 bộ (13,716m) với tốc độ bình phi.
Khoảng cách:
vòng quanh địa cầu dùng phương tiện tiếp tế nhiên liệu
trên không trong lúc đang bay.
Phi hành đoàn: 3 người: 1 hoa tiêu chính, 1 hoa tiêu phụ, và 1 lơ phi cơ (nhân viên chất hành lý & hàng hóa). Đội di tản Thương binh: tối thiểu 5 người gồm 2 y tá hàng không và 3 chuyên viên kỹ thuật về y khoa. Nhân viên Y tế thay đổi tùy nhu cầu con số thương binh trên phi cơ.
Vận tốc: 450 knots/517.85mph/833.40km/g (.74 Mach). Chiếc C–17 có thể thả 300 [khoảng 2 đại đội rưỡi] Binh sĩ Nhảy dù với đầy đủ quân trang quân dụng trong một chuyến bay. Mỗi vòng (pass) chỉ thả được 50 Binh sĩ Nhảy dù.
Phi đạo: C–17 có thể cất cánh trên những phi đạo với chiều dài chỉ tới 3,500 bộ (1,064m) và rộng 90 bộ (27.4m). Trên phi đạo nhỏ hẹp này, C–17 vẫn có thể quay đầu 180° một cách thoải mái dùng hệ thống 3–sao và hệ thống de (lùi).
Khách hàng chính của C–17 gồm:
Không Lực Hoa Kỳ
Không Lực Hoàng Gia Anh
Không Lực Hoàng Gia Úc–đại–lợi
Không Lực Hoàng Gia Con–nấy–đi–yên (Gia–nã–đại/Canada)
Thời kỳ sản xuất:
1991–hiện tại.
Tổng số máy bay C–17 đã được sản
xuất: 250, con số này đếm được hôm tháng 12 năm 2012.
Giá thành:
1 chiếc C–17
giá $218 triệu Mỹ kim
(theo giá từ 1–Oct–2007 đến 30–Sep–2008 hay FY2007).
Công ty đóng tầu bay C–17:
McDonnell Douglas/Boeing.
Lịch sử của C–17 Globemaster III
Vào thập niên 1990, hãng chế tạo máy bay Boeing đã sáp nhập
chung với hãng McDonnell Douglas, tuy Không Lực Hoa Kỳ đã
chấm dứt đặt hàng C–17, nhưng hai công ty này vẫn còn đang
tiếp tục sản xuất phi cơ hiệu C–17 để xuất cảng cho những
quốc gia chuộng nó. Hiện chiếc Vận Tải Cơ C–17 này đang được
Không Lực Hoa Kỳ sử dụng, các quốc gia như Không Lực Hoàng
Gia Anh, Úc–đại–lợi, Gia–nã–đại, Quatar, Khối Ả–rập Thống
nhất, Ấn Độ, và Không Đoàn Vận Tải Hạng Nặng thuộc Tổ chức
Hiệp Ước Phòng Thủ Bắc Đại Tây Dương (NATO) mà trong đó Mỹ
là một thành viên.
Ban kỹ thuật phiên dịch,
Thứ Năm, July 18, 2013
Hình ảnh chiếc Vận
Tải Cơ C–17 Globemaster –
Đại Bàng Hoàn Vũ của Không Lực
Hoa Kỳ (KLHK)
Hết Phần II
PHẦN III: KC–135 Hercules (Lực Sĩ)
Sơ lược về chiếc phi cơ hiệu
KC–135 HERCULES (Hẹc–quin/Lực Sĩ)
Vận tải cơ KC–135 chở xăng tầu bay và tiếp
tế nhiên liệu cho các máy bay thuộc Không Lực Hoa Kỳ và Đồng
Minh của Hoa Kỳ đang bay trên không trung, đây là công tác
mà KC–135 đang thi hành hơn nửa thế kỷ nay. Tài sản có một
không hai này của quân đội Hoa Kỳ đã giúp Không Lực Hoa Kỳ
có thể bay đi khắp 4 phương, khắp cùng thế giới không ngưng
nghỉ. Phi cơ Vận tải KC–135 tiếp tế nhiên liệu cho Không
Quân, Hải Quân, và các phi cơ của Binh chủng Thủy Quân Lục
Chiến Mỹ, kể cả những phi cơ của các quốc gia đồng minh với
Hoa Kỳ. Ngoài nhiệm vụ tiếp tế xăng dầu cho máy bay trên
không trung, KC–135 còn có thể được dùng như những trạm
cứu thương trong các phi vụ tản thương, chở các
thương binh còn đi lại được hoặc những thương binh phải nằm
trên băng–ca.
Những điểm đặc biệt của KC–135
Đơn vị:
Đoàn phi cơ KC–135
được đặt dưới quyền điều khiển của 6 Không Đoàn KC–135 tiếp
tế nhiên liệu & 1 Liên Đoàn KC–135: KĐ434, 452d, 459, 507, 916, 927,
và LĐ931, tất cả trực thuộc
Sư Đoàn 4 Không Lực Hoa Kỳ (4th Air
Force). Phi cơ Vận tải KC–135 được trang bị 4 đầu máy loại
Turbofan, gắn dưới đôi cánh kiểu “swept” (xuôi) 35˚. Xăng dự
trữ trên chiếc KC–135 được bơm qua súng bơm xăng, súng bơm
xăng là phương pháp duy nhất được trang bị trên chiếc phi cơ
này để chuyền xăng qua các phi cơ đang bay trên không trung.
Trên phi cơ KC–135 luôn luôn có một chuyên viên phi hành,
được gọi là chuyên viên điều khiển súng bơm xăng, ngồi ngay
phía đuôi của phi cơ, anh ta có nhiệm vụ điều khiển “khẩu
súng” bơm xăng này vào đúng miệng bình xăng của những phi cơ
cần được tiếp tế xăng trong lúc đang bay.
Một chiếc KC–135 có thể bơm xăng cho hai phi cơ cùng một lúc
trên không.
Nhiệm vụ chính:
Tiếp tế
xăng máy bay trên không trung
Hãng sản xuất KC–135:
Boeing
Động cơ:
CFM–56 Turbofan
do hãng CFM International chế tạo
Lực đẩy:
mỗi động cơ gắn
trên cánh có một lực đẩy 21,634 cân (9,813kg)
Kích thước:
Cánh: 130 bộ 3 inches (39.88m)
Thân máy bay: dài 136 bộ 3 in (41.53m), cao: 41 bộ 8 in (12.7m)
Vận tốc:
530 dặm/giờ
(853km/giờ) ở cao độ 30,000 bộ (9,144m)
Tầm hoạt động:
Cao độ: 50,000 bộ (15,240m)
Khoảng cách: 1,500 dặm (2,419km) với 150,000 cân nhiên liệu để tiếp tế (68,039 kg); công tác chuyên chở hàng hóa tối đa 11,015 dặm (17,766km).
Trọng tải:
cất cánh với
trọng lượng tối đa là 322,500 cân anh (146,284
kí–lô–gam/kg). Ngăn hành khách và hàng hóa được đặt ngay
trên ngăn chứa xăng tiếp tế để có thể chở hành khách và hàng
hóa. Tùy theo cách xếp đặt của bình tiếp tế nhiên liệu trên
mỗi chiếc KC–135 mà một chiếc có thể chở tối đa 83,000 cân
(37,648kg) hàng hóa. Mỗi phi vụ tiếp tế nhiên liệu có thể
chở tối đa 200,000 cân xăng (90,719 kg) (đây là nói về trọng
lượng xăng chứ không phải dung tích).
Hành khách:
tối đa 37
người
Hàng hóa:
tối đa 83,000
cân (37,648 kg). Trong lòng phi cơ có 6 vị trí cho 6 kiện
hàng.
Phi Hành Đoàn:
3 người gồm
1 hoa tiêu chính, 1 HT phụ, và một chuyên viên Bơm (xăng).
Một số phi cơ KC–135 đòi hỏi phải có chuyên viên hướng đạo
hàng không
tháp tùng. KLHK có một nhóm hướng đạo viên và có thể
được chỉ định cho những công tác đặc biệt thôi.
KC–135 cũng đèo theo nhân viên
tản thương gồm 5 người: 2 y tá và 3 chuyên viên Y tế
trong những phi vụ tản thương từ mặt trận. Tuy nhiên, số
nhân viên Y tế này có thể thay đổi tùy theo nhu cầu của
thương binh.
Giá thành:
1 chiếc KC–135
trị giá $39.6 triệu Mỹ kim
(năm 1998 tính theo giá cố định)
Ngày khánh thành: Tháng 8, 1956.
Hàng tồn kho:
Bộ Tư Lệnh
Không Vận Hoa Kỳ (BTLKVHK) đang quản trị 414 chiếc phi cơ
Vận Tải hiệu KC–135, trong đó có 247 chiếc đang nằm trong
tay các đơn vị Vệ Binh Quốc Gia Hoa Kỳ (180) và Lực lượng
Không Quân Trừ Bị (67) có nhiệm vụ yểm trợ cho BTLKVHK. Số
KC–135 khiển dụng là 167 chiếc.
Lịch sử của KC–135
Lúc ban đầu, KC–135 được KLHK mua để yểm trợ cho các Pháo
đài bay chiến lược của Bộ Tư Lệnh Không quân Chiến lược HK
thôi, nhưng vào cuối thập niên 60 thì KC–135 đã được đưa
sang vùng Đông Nam Á châu để tiếp tế nhiên liệu cho các Phản
lực cơ chiến đấu F–105 và F–4 song song với việc tiếp tế
nhiên liệu cho các phi cơ chiến lược B–52 tại chiến trường
Việt Nam. Nhờ việc tiếp tế nhiên liệu trên không này mà các
phi vụ hành quân có thể hoạt động nhiều giờ trong vùng hành
quân hơn thay vì chỉ vài phút vì các bình xăng của những
chiếc chiến đấu cơ này rất hạn chế. Ngoài ra, các nhân viên
phi hành KC–135 còn yểm trợ cho các chiến đấu cơ của binh
chủng Hải quân và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ nữa. Hơn thế
nữa, các phi hành đoàn KC–135 còn tiếp cứu một số các phi cơ
bị phòng không địch bắn hư hại nhưng còn có thể bay được, và
dìu chúng nó trở về căn cứ an toàn. Sau khi QLHK triệt thoái
khỏi chiến trường VN, các đơn vị KC–135 vẫn tiếp tục vai trò
Yểm trợ Chiến thuật trong những cuộc chiến sau này như Cuộc
Hành Quân Bão Sa Mạc và Chiến lược trên không.
Sáu (6) Không Đoàn & 1 Liên Đoàn KC–135 (KĐ434, 452d, 459, 507,
916, 927, LĐ931) là những đơn vị chịu trách nhiệm điều khiển
và bảo trì các phi cơ KC–135. Các Không Đoàn & Liên Đoàn
Tiếp tế xăng máy bay trên không trung trực thuộc Bộ Tư Lệnh
Không Quân Trừ Bị Hoa Kỳ. Nhiệm vụ chính là Tiếp tế Nhiên
liệu cho phi cơ đang bay trên không trung. Hậu cứ chính của
KĐ434 là Căn cứ Không Quân Trừ Bị Grissom, tiểu bang
Indiana, Hoa Kỳ.
Ban kỹ thuật phiên dịch,
Thứ Năm, July 18, 2013
Hình ảnh chiếc Vận
Tải Cơ KC–135 Hercules (Lực sĩ/Hẹc–quin)
của Không Lực
Hoa Kỳ (KLHK)
Hết Phần III
Credits
Hình ảnh: BKT sưu tầm, trình bày & Ấn loát
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: BKT Sưu tầm, trình bày & Ấn loát
Đăng ngày Thứ Bảy, July 20, 2013
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang