Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Lịch sử
Chủ đề:
Ngày CSTV-Hoa Kỳ
Tác giả: Mường Giang
Mục
lục
Phóng
sự hình ảnh Ngày CSTV
2017
Ngày CSTV 2019
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Tổng ThốngNguyễn Văn Thiệu (1967-1975) từng nói “Ðất nước còn thì còn tất cả”. Bởi vậy sau ngày 1-5-1975, đồng bào miền Nam đã mất hết mọi thứ kể cả quyền được làm người bình thường, khi chính phủ và quân lực VNCH không còn tồn tại để bảo vệ họ như hồi Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972 và trăm ngàn cuộc chiến khắp mọi nẻo đường đất nước, cho tới ngày 30-4-1975 bị rã ngũ theo lệnh buông súng đầu hàng.
Nói
về sự hy sinh của Người Lính VNCH, tác giả Ý Dân đã đem hai lực
lượng quân sự của hai miền Nam-Bắc Việt Nam so sánh và kết luận
rằng: “Cuộc chiến khốc liệt do cộng sản Bắc Việt phát động bởi lệnh
của Liên Sô và Trung Cộng nhằm cưỡng chiếm miền Nam VN, bành trướng
chủ nghĩa cộng sản Đệ Tam Quốc Tế kéo dài đến 20 năm với những hậu
quả tang thương cho quê hương và dân tộc Việt Nam”. Cộng sản Bắc
Việt đã cho hàng triệu bộ đội xâm nhập vào tàn phá miền Nam. Chính
phủ VNCH vì phải bảo vệ lãnh thổ và sinh mệnh đồng bào nên đã chống
trả hết sức dũng cảm và mãnh liệt. Người Việt mấy ngàn năm chung gốc
nguồn, huyết thống, lịch sử và tổ tiên cha mẹ, bỗng dưng oan nghiệt
bị ngoại bang áp đặt đứng về hai phía đồi nghịch hận thù, bôi mặt
tàn sát lẫn nhau trong hàng nghìn trận đánh lớn nhỏ suốt cuộc chiến
này.
Sau ngày 30-4-1975 mọi xảo trá lần lượt bị phơi bày từ
mọi phía, cho thấy cuộc chiến VN hoàn toàn do Hồ Chí Minh và đảng
CSVN làm theo lệnh của cộng sản Quốc Tế gây ra. Cũng vì vậy, Bắc
Việt đã được viện trợ vũ khí ồ ạt của Khối cộng sản Quốc Tế mà đứng
đầu là Liên Sô và Trung Cộng nên được trang bị từ vũ khí cá nhân tới
cộng đồng. Trong khi đó, QLVNCH được Hoa Kỳ trang bị phần lớn quân
dụng đã lỗi thời và nhỏ giọt (kể cả chiến hạm, phi cơ, trọng pháo)
nhưng Họ vẫn can đảm chiến đấu để bảo vệ hữu hiệu được miền Nam VN
cho đến ngày đau thương mất nước.
Cũng nhờ tinh thần chiến
đấu phi thường và sự hy sinh vô bờ bến của Người Lính qua các trận
đánh lừng danh trong quân sử mà điển hình là Tết Mậu Thân năm 1968,
Bắc Việt bất ngờ đồng loạt tấn công 44 tỉnh lỵ của miền Nam VN, vẫn
bị thảm bại ê chề, bỏ lại hơn 60,000 xác trên trận địa khi tháo
chạy. Mùa hè đỏ lửa năm 1972, người lính QLVNCH vẫn kiêu hùng đẩy
lui được nhiều sư đoàn bộ đội Bắc Việt khi mưu toan thôn tính các
tỉnh Quảng Trị, Kon Tum, Bình Ðịnh, Bình Long. Tất cả các trận đánh
trên đều ác liệt, đẫm máu, nói lên sự thiện chiến của người lính
QLVNCH phải đương đầu với quân số đông gấp bội và trang bị vũ khí
tối tân của giặc. Kết quả nhiều sư đoàn cộng sản Bắc Việt phải rút
lui, bỏ lại nhiều chục ngàn tử thi và hằng trăm xác chiến xa bị bắn
cháy, tại mặt trận.
Nhưng số phận của người lính VNCH đã
không may mắn bởi sự sắp đặt oan nghiệt của các thế lực quốc tế, qua
bàn tay lông lá của đồng minh Mỹ. Rồi trong lúc chiến thắng gần kề,
họ đã bị bức tử và đầu hàng. Ðưa ra lời nhận xét về người lính VNCH,
nhà báo nổi danh Peter Kahn viết rằng “người lính miền Nam VN đã
chiến đấu cho lý tưởng tự do, nhưng rất tiếc họ đã bị trói tay, buộc
chân, cắt giảm viện trợ”. Tóm lại, không có quân đội nào khi gặp
hoàn cảnh cay nghiệt trên mà vẫn giữ được lòng trung thành tuyệt đối
với Tổ Quốc và sự chịu đựng một cuộc chiến đấu lâu dài, tàn khốc như
vậy. Còn nhà báo Denis Warner thì lên án gay gắt Quốc Hội Mỹ cắt
giảm viện trợ quân sự cho QLVNCH vào lúc cần phải gia tăng. Sau
cùng, để vinh danh người lính QLVNCH, nhà báo Peter Kahn đã đưa ra
lời kết luận: “Rốt cuộc người lính QLVNCH đã tài giỏi hơn sự ước
lượng của các chuyên gia quân sự trên thế giới. Phía mạnh hơn chưa
hẳn là phía tốt hơn.”
Bộ đội CS Bắc Việt, nhà văn nữ Dương
Thu Hương viết rằng “mục tiêu mà bộ đội Bắc Việt theo đuổi trong
suốt cuộc chiến chỉ đem lại kết quả tai hại, là biến đổi xã hội văn
minh VN bằng một mô hình xã hội man rơ...”
Tự ngàn xưa, quân
đội Việt Nam luôn nổi tiếng kiêu hùng, nên đã đạt được nhiều chiến
công hiển hách trong suốt dòng lịch sử của dân tộc, qua sứ mạng ngăn
chống các cuộc chiến xâm lăng của giặc phương Bắc lẫn phương Nam,
trong đó có cả Lào-Thái, bọn thực dân da trắng Pháp, Tây Ban Nha,
Hòa Lan.
Là con cháu của Tổ Tiên Hồng-Lạc, chúng ta dù được
sinh vào thế hệ nào chăng nữa, ra đời trong nước hay hải ngoại, vẫn
luôn có bổn phận ngưỡng mộ và hãnh diện về công đức vĩ đại “dựng và
giữ nước” của tiền nhân, trong đó “Quân Ðội VN bao đời” là lực lượng
chính yếu bảo vệ Tổ Quốc Hồng Lạc, khác hẳn với Bộ Ðội cộng sản Bắc
Việt trước sau, trên dưới chỉ biết “trung với đảng, hiếu với lãnh
tụ” và yêu nước là “nước Xã Hội Chủ Nghĩa” mà thôi!
Với ý
nghĩa thiêng liêng và cao quý trên, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được
hình thành trong giai đoạn đất nước tạm chia (1955-1975), chống lại
cuộc xâm lăng bằng quân sự của khối cộng sản đệ tam quốc tế, do cộng
sản Bắc Việt đảm nhận. ÐÂY LÀ MỘT CUỘC CHIẾN SINH-TỬ của quân dân
MIỀN NAM chống lại cuộc xâm lăng của bộ đội MIỀN BẮC, để giữ lại
phân nửa gấm vóc giang sơn của Tiền Nhân, không lọt vào gông cùm nô
lệ của giặc đỏ.
Ðây không phải là một cuộc chiến riêng của
cộng sản BẮC VIỆT VÀ NGƯỜI MỸ như giới truyền thông phương Tây thời
đó và ngay cả bây giờ, đã bóp méo sự thật với mục đích đầu độc dư
luận thế giới để làm giảm uy tín của QLVNCH. Làm như vậy, cộng sản
và thành phần ham sống sợ chết, đám con ông cháu cha, quan quyền nhà
giàu được du học ngoại quốc, mới có cơ hội vừa ăn chơi trác táng,
vừa chửi Mỹ, vừa tô son vẽ mặt cho đạo quân tiền phong cộng sản tại
Ðông Nam Á tức Bắc Việt, mới có được một chính nghĩa lý tưởng “đánh
đuổi Mỹ-Ngụy cứu nước”. Còn bọn phản chiến miền Nam VN mới có chính
danh “để khước từ trách nhiệm và bổn phận” đối với đất nước mình
trong thời loạn, mà “giặc đến nhà, đàn bà cũng phải đánh”.
Ðây mới chính là nỗi thảm thê chất ngất của Người Lính Miền Nam,
trong hai mươi năm khói lửa. Vì định kiến, vì buông xuôi, vì thủ
đoạn con buôn quốc tế. Tất cả đã dồn ép QLVNCH vào chân tường trong
cuộc chiến đấu đơn độc, không hậu phương, không một chút tình
quân-dân, cá-nước.., Trong đó thiệt thòi nhất không phải là những
đơn vị chính quy mà là những người lính cô đơn Nhân Dân Tự Vệ, Cán
Bộ Xã Ấp, Xây Dựng Nông Thôn, Cảnh Sát Dã Chiến, Nghĩa Quân và Ðịa
Phương Quân... luôn phải sống chết với đất, với nhà, trực diện từng
giây phút với Việt Cộng để bảo vệ ruộng đồng, làng xóm, đình chùa
nhà thờ, những di tích lịch sử của tổ tiên bao đời tạo dựng và sinh
mệnh trân quý của đồng bào.
Hai mươi năm chiến đấu đời lính
buồn ơi là buồn, trước mặt phải đối mặt với một kẻ thù gian xảo độc
ác, mất hết thiên lương nhân tính vì đã bị chủ nghĩa nhồi sọ, cho
nên chỉ biết có giết người để đạt mục đích được khắc sâu trong da
thịt. Còn sau lưng bị đâm lén bởi hậu phương vô tình bạc bẽo và cuối
cùng trên đầu là đồng minh Mỹ “con buôn chính trị” cùng với đại bàng
trên thượng tầng cao ngất “chia xương, bán máu lính” để vinh thân
phì gia. Xin được cảm ơn những Bộ Ðội VC Nguyễn Thùy, Vũ Ngọc Tiến,
Nguyễn Hòa... đã trung thực vẽ lên “bức tranh vân cẩu” của cuộc
chiến VN, qua những hồi ký, tap ghi, truyện dài, truyện ngắn... kể
cả những bức thư tâm tình rất cảm động. Tất cả hầu hết, đều thẳng
thừng xác nhận hay nói đúng hơn đã lên án “chỉ có Bộ Ðội Bắc Việt
hay Việt Cộng, vì thiếu thốn tình dục, thèm khát đàn bà, nên chỉ có
chúng mới hãm hiếp phụ nữ, chứ người lính VNCH đâu có lý do gì để mà
cuồng dâm cả xác chết của nữ cán bộ VC như một vài kẻ khùng điên
ngẫu hứng, muốn cho đời biết tên tuổi, đã bịa chuyện để làm hoen ố
thanh danh của chính đồng đội mình.”
Cảm nhận đựợc thân phận
nhược tiểu của đất nước và sự bất hạnh của dân tộc, nên người lính
chấp nhận hy sinh đời trai để làm tròn bổn phận cùng trách nhiệm của
một con người có tim óc, cho tới trưa ngày 30-4-1975, khi Tổng Thống
Dương Văn Minh bắt buông súng đầu hàng.
Sau đó, cộng sản Hà
Nội thẳng tay cướp bóc, chẳng những mọi chiến lợi phẩm của chính phủ
VNCH từ công ốc, ngân khố, quân trang dụng, trong đó có mười sáu tấn
vàng y của quốc gia được Nguyễn Văn Hảo giữ lại để nạp dâng công cho
Bắc Bộ Phủ. Tệ nhất là VC táng tận lương tâm, cướp luôn tài sản mồ
hôi nước mắt của đồng bào, mà trong số này có nhiều “mẹ chiến sĩ VC”
đã từng nuôi dấu cán binh bộ đội, ủng hộ vàng bạc lúa gạo cho chúng
sống còn để “quậy nát đất nước” trong suốt thời gian chiến tranh
1945-1975.
Bao nhiêu bi kịch do Hà Nội đã tạo ra sau ngày
miền Nam VN bị cưỡng chiếm, từ hành động cầy mồ người chết để trả
thù đã bị thua VNCH trên chiến trường, tới việc VC cướp bóc tài sản,
cưỡng bức vợ con Người Lính Miền Nam ngã ngựa, hành hạ những phế
binh, cô nhi quả phụ tử sĩ bị kẹt trong nước, với đủ thủ đoạn học
được từ KGB, mà mới nhất là chiến dịch “đuổi tận, giết tuyệt” các
thành phần trên, đang sống tại các chòi, dựng trong Nghĩa Ðịa Phước
Bình, Sài Gòn và những nơi khác khắp mọi miền đất nước. Nơi nào VC
cũng hung hăng tàn ác không hề thay đổi.
Bốn mươi hai năm tan
hàng rã ngũ, quân-dân miền Nam đã lần lượt đồng hành, qua hết chín
tầng địa ngục trần gian nơi thiên đàng xã nghĩa. Nhưng người lính
miền Nam sinh ra trong khói lửa, trưởng thành chốn chiến trường, nên
thể xác dù đã bị bầm giập tan nát, tinh thần của người lính vẫn
nguyên vẹn và không ai có thể thay đổi hay ngăn cản lý tưởng của họ.
Công cuộc đấu tranh của Dân-Quân-Cán-Chính và thế hệ hậu duệ của
VNCH từ mấy chục năm qua sau ngày mất nước, với chính quyền cộng sản
VN trong nước cũng như tại Hải Ngoại, đã minh chứng hùng hồn, về sự
chính danh và lý tưởng của người Quốc Gia và QLVNCH.
Ngày nay
dù trong tay không còn súng đạn, đồng minh nhưng người lính cũ năm
xưa, vẫn tiếp tục con đường quang phục đất nước bằng tim óc, thân
xác còn lại, có đồng đội bên cạnh cùng chiến đấu, đồng bào trong các
Cộng Ðồng Tỵ Nạn ủng hộ giúp đỡ tiếp tay và hãnh diện nhất là sự dấn
thân ồ ạt của những thành phần trí thức trong nội địa và hải ngoại.
Tất cả quyết tâm đạt cho bằng được “Chiến thắng cuối cùng”. Ðó là
giựt sập chế độ bất nhân tàn bạo kẻ cướp của Quốc Tế cộng sản Việt
Nam, cởi ách nô lệ thực dân mới, đang xiết cổ hơn 90 triệu đồng bào
trong nước, thực thi nền dân chủ pháp trị, bình đẳng, tự do... để
cho người Việt lấy lại quyền làm người, đã bị Hồ Chí Minh và đồng
bọn cướp mất từ tháng 9-1945 cho tới ngày nay. Ðược như vậy, người
Việt mới có cơ hội ngẩng mặt nhìn trời và quyền tự quyết về vận mệnh
cũng như số phận của Nước Việt, trước kẻ thù không đội trời chung
“Trung Cộng”.
“dấu binh lửa nước non như cũ
kẻ hành nhân
qua đó chạnh thương
phận trai già rủi chiến trường
chàng Siêu,
tóc đã điểm sương mới về.”
--(Chinh Phụ Ngâm Khúc)
Nếu
không bị Mỹ và bọn trí thức nằm vùng hay thiên tả của miền Nam bán
đứng, chắc chắn VNCH cũng sẽ như Tây Ðức, Nam Hàn và Ðài Loan, không
bị mất và sụp đổ vào tay Bắc Việt vào tháng 4-1975. Người VN sẽ
không bị tủi nhục vì kiếp sống lưu vong đầu đường xó chợ, qua thân
phận tỵ nạn, lao động, bán dâm và làm dâu bất đắc dĩ khắp chân trời
góc biển.
Hai mươi năm chinh chiến, đâu đâu cũng có mặt những
chiến sĩ hào hùng của QLVNCH như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt
Động Quân, Lực Lượng Đặc Biệt, Thiết Giáp, Bộ Binh kể cả Địa Phương
Quân, Nghĩa Quân. Cùng lúc, tại các chiến trường hiểm nguy trên,
không bao giờ thiếu bóng dáng của người lính áo đen, đang âm thầm
hoạt động bên những thần tượng của quân lực, với nhiệm vụ tiếp cận,
thông tin và mở rộng vòng tay đón đồng bào ra khỏi vùng mê lụy, chết
chóc, mà VC gọi là khu giải phóng. Họ là những chiến sĩ vô danh của
QLVNCH, đã có mặt khắp nước từ 1955-1975, đã chết, bị tù đày hành hạ
dã man như bất cứ một người lính nào của miền Nam sau ngày
30-4-1975.
Hỡi ơi, một thời lịch sử hào hùng đã khép lại, bao
chục năm buồn thảm đến đi trong thiên đường xã nghĩa nhưng vẫn không
ngăn nổi phế hưng cuộc đời, trong đó thời gian đã làm sống lại những
gương anh hùng liệt nữ của VNCH thuở nào đã nằm xuống vì đại nghĩa
dân tộc từ 1955-1975. Và như thế viết lại những trang sử này cho dù
không thể nói hết vì Những Người Lính chiến đấu đơn độc trong mọi
chiến trường khắp nước hay tại Bình Thuận, là những chiến sĩ vô danh
thênh thang một cõi đi về.
Còn hình ảnh nào đẹp và hào hùng
hơn khi lật qua những trang quân sử của VNCH của một tướng lãnh hàng
đầu mà cấp bậc được gắn ngay tại mặt trận. Ðó là Ðại Tướng Cao Văn
Viên, tổng tham mưu trưởng QLVNCH, lúc còn đại tá tư lệnh Lữ Ðoàn
Nhảy Dù. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, lúc còn là Thiếu Tá liên đoàn
trưởng Liên Đoàn Quan Sát 77, đã nhảy trực thăng vào chiến trường để
tự mình điều động chỉ huy binh sĩ trong trận Suối Ðá (Tây Ninh) vào
năm 1964, trước tầm súng cá nhân của Việt Cộng.
Những ngày
lửa máu Tết Mậu Thân 1968, làm sao quên được hình ảnh của Chuẩn
Tướng Nguyễn Ngọc Loan xông xáo khắp các Mặt Trận Sài Gòn-Chợ
Lớn-Gia Ðịnh, để trực tiếp chỉ huy các đơn vị Cảnh Sát Dã Chiến tại
Ðô Thành nên đã bị thương nhưng không chịu cho tải thương. Nhiều
tướng lãnh khác cũng đã hy sinh tại chiến trường như Chuẩn Tướng
Không Quân Lưu Kim Cương, Nguyễn Bá Liên (tư lệnh Biệt Khu 24),
Trương Quang Ân (tư lệnh SĐ23BB), Trương Hữu Ðức (tư lệnh Thiết
Giáp), Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh (tư lệnh Quân Ðoàn 4), Ðại
Tướng Đỗ Cao Trí (tư lệnh Quân Đoàn 3). Ðại Tá Lê Ðức Ðạt (tư lệnh
Sư Đoàn 22 Bộ Binh)...
Mùa hè đỏ lửa 1972, Trung Tướng Nguyễn
văn Toàn (tư lệnh Quân Đoàn 2) đã bay vào trận địa tại thị xã Kon
Tum để chỉ huy phá chốt. Tại Bình Thuận, từ 1969-1975, Ðại Tá Ngô
Tấn Nghĩa, tiểu khu trưởng và Ðốc Sự Hành Chánh Phạm Ngọc Cửu (phó
tỉnh trưởng) có đêm nào mà không tới các đồn bót, xã ấp, đại đội Địa
Phương Quân... để ngủ chung với các đơn vị tác chiến. Tại Mặt Trận
Phan Rang ngày 16-4-1975, từ Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi (tư lệnh
tiền phương của Quân Đoàn 3) tới Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang (tư lệnh
Sư Đoàn Không Quân) và Ðại Tá Nguyễn Thu Lương (Lữ đoàn trưởng Lữ
Đoàn II Nhảy Dù). Cả ba vị đều có trực thăng riêng để thoát thân khi
đại quân Bắc Việt tràn ngập khắp nơi, nhưng vì không thể bỏ rơi
thuộc cấp, tất cả đã đi bộ và bị giặc bắt tại chiến trường. Ðó là
những tấm gương chói lọi trong quân sử mà bất cứ ai đọc tới cũng
phải kính phục, ngưỡng mộ.
Tóm lại, trong hàng ngũ tướng lãnh
miền Nam, đã có rất nhiều khuôn mặt LỚN đầy UY VŨ HIÊN NGANG, chấp
nhận cái chết liệt oanh làm banh mặt kẻ thù lúc đó, góp phần với
đồng bào và các chiến sĩ vô danh anh hùng khác... nêu tấm gương bất
khuất của người lính trận, cái tiết tháo ngàn đời của đấng sĩ phu
trí thức Hồng-Lạc và trên hết là TRÁCH NHIỆM-DANH DỰ của Cấp Chỉ
Huy, Lãnh Ðạo: “Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần – Nhất tướng công thành
vạn cốt khô” nên Thành Mất Phải Mất Theo Thành. Những danh tướng
Việt Nam Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ,
Trần Văn Hai... ngay khi Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh bắt Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa rã ngũ đầu hàng cộng sản Ðệ Tam Quốc Tế lúc
trưa ngày 30-4-1975, các vị trên đã tự tìm cái chết vinh, làm hãnh
diện cho màu cờ và sắc áo của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mãi mãi
trong dòng sử oai hùng Nước Việt.
Giá trị của con người giữa
chốn ba quân, vinh hay nhục là thế đó!
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng
11-2016
MƯỜNG GIANG
Nguồn: BKT sưu tầm: http://www.tvvn.org/tuong-niem-va-tri-qlvnch-trong-ngay-chien-si-tran-vong-tai-hoa-ky-muong-giang
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
HẾT
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Mùa CSTV-2017. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: BKT sưu tầm
http://www.tvvn.org/tuong-niem-va-tri-qlvnch-trong-ngay-chien-si-tran-vong-tai-hoa-ky-muong-giang
Đăng ngày Thứ Bảy,
May 27, 2017
Ban Kỹ Thuật Khóa
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang