Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký
Chủ đề:
Tội Ác & Chủ nghĩa Cộng sản
Tác giả:
MĐ BS Vĩnh Chánh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời Tác giả: Bài viết mới của Vĩnh Chánh là hồi
ký về một gia tộc hoàng phái quyền chức, với những mảnh vỡ trôi
dạt từ trong ra ngoài nước.
Phần 1: là chuyện người cha bị cộng sản
thủ tiêu, với nhiều tình tiết bị lịch sử khuất lấp trong vụ án
“Tân Việt Cách Mệnh Đảng” tại Huế đầu thế kỷ 20, khi người Pháp
kết án tù 3 nhà giáo Đào Duy Anh, Đặng Thái Mai, Bửu Tiếp và một
số học trò Đồng Khánh, Quốc Học: Huỳnh Thị Liễu, Nguyễn thị Quang
Thái, Võ Nguyên Giáp.
Phần 2: là chuyện trên đất Mỹ. Từ một
tại nạn do sai sót y khoa, tới “tai họa cộng sản” tại Việt Nam.
Các tựa đề được đặt thêm theo nội dung.
–Vĩnh Chánh
1. Chiến Tranh & Nhà Tù:
Thế giới
tuổi thơ ấu của tôi ở cố đô Huế là xóm Đường Đá, bên hông Toà
Khâm Mạng Phủ Cam. Đây là khu điền trang của Ông Nội tôi, trải
dài từ phía dưới Đồn Girard/Lăng Mả Tây cho đến gần bờ sông Bến
Ngự. Dinh cơ chính là 1 tòa lầu 3 tầng trắng toát bề thế, kế bên
có tòa nhà thư viện 2 tầng, chứa đầy sách cổ Hán Nôm, nơi làm
việc của ông nội. Xa xa, khu nhà đất dành cho ba măng tôi, vườn
trước vườn sau đều thông sang vườn lớn.
Từ tuổi học vỡ lòng, biết trèo cây hái
trái, khi chạy chơi trong khu vườn lớn của ông bà nội, tôi đều đi
ngang qua khu mộ đại gia đình, trong đó có mộ phần của Ba tôi,
nằm riêng một mình giữa tầng đất thứ hai. Tôi thường ngồi trên
cột đá bên mộ, cố đọc những hàng chữ khắc trên tấm bia, nhưng
hình như càng đọc càng không hiểu tại sao mình không bao giờ được
thấy mặt ba. Cũng không hiểu tại sao Ông Bà Nội được các chú bác
kêu là “Thầy, Mạ” mà anh chị em tôi lại kêu thầy mạ mình là “Ba,
Măng”. Nhiều thắc mắc vẩn vơ đôi khi theo tôi vào giấc ngủ.
Trong nhà thời ấy có bộ ván kê sát bên
cửa sổ, tôi được nằm giữa Măng và chị Băng Tâm. Vào những đêm
trăng, tôi nằm nghiêng hướng ra phía vườn, theo dõi mặt trăng khi
sáng trong, khi lu mờ vì mây. Bóng cây bên ngoài song cửa có lúc
bỗng thình lình xoay chuyển. Nhiều hình ảnh kỳ dị nhảy múa, chập
chờn. Có chuyện gì vậy, đằng sau mặt trăng nằm nghiêng kia? Giống
như đằng sau những bia mộ trong vườn, đó là những bí ẩn mà tôi
không thể hiểu.
Từ ngày khôn lớn, vừa nghe chuyện nhà
vừa học hỏi thêm, tôi dần dần biết thêm về thân thế gia tộc mình,
hoàn cảnh đất nước loạn ly, và chuyện Ba tôi bị đột tử khi tôi
còn nằm trong bụng mẹ.
Chỉ mới là biết thêm. Không phải là
thấu hiểu. Nhiều bí ẩn đằng sau mặt trăng vẫn còn bị khuất lấp.
*******
Theo phả tộc triều Nguyễn, tập gia phả
phòng 15, Ông Sơ tôi là Hoàng tử Nguyễn Phúc Miên Thanh, tự Gián
Trạng, hiệu Quân Đình, tước Trấn Biên Quận Công, là con thứ 51
của Đức Thánh Tổ Minh Mạng và quí nhân Lê Thị Lộc. Ông Cố Nội tôi
là công tử Nguyễn Phúc Hường Điệp (tức Vĩnh), từng là Tri Phủ
huyện Phú Vang năm 1877, sau đó là Đại Sứ Chánh Tế, thay Vua cúng
lạy lăng tẩm các tiên vương.
Ông Nội tôi là Hoàng thân Nguyễn Phúc
Ưng Đằng, làm quan coi Ký Lục, cơ quan phiên dịch Hán–Nôm và
Pháp ngữ của triều đình. Bà Nội tôi là em ruột của bà cố Ngô Đình
Khả, mẹ của anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Khu đất của dòng họ
Ngô Đình – nơi có phần mộ ông Ngô Đình Khả và người con lớn là
ông Ngô Đình Khôi – nằm kế khu đất của Ông Nội tôi, chỉ cách một
con đường nhỏ, cũng phía bên dưới Đồn Girard, và cách chùa Linh
Quang khoảng 400 thước. Anh em nhà Ngô Đình kêu Bà Nội tôi bằng
Dì, thường cho người đem sang quà biếu trong các dịp lễ tết.
Sang đời Ba tôi, Ông Nguyễn Phúc Bửu
Tiếp, sinh năm 1904, được Ông Nội cho theo Tây học. Đầu thập niên
20, khi ra Hà Nội học trường Cao Đẳng Sư Phạm Đông Dương (École
Supérieure de Pédagogie), ông Tiếp có người bạn thân cùng lớp là
Ông Đặng Thái Mai, sinh năm 1902, lớn hơn ông 2 tuổi. Cả hai cùng
tham gia các hoạt động sinh viên.
Tuy là trường Tây nhưng hội sinh viên
tại đây tự xưng là “Hưng Nam Phục Việt”, hàm ý chống lại ách lệ
thuộc người Pháp. Năm học cuối, ông Đặng Thái Mai chọn chuyên
khoa văn chương. Ông Bửu Tiếp chọn ngành khoa học. Cả hai cùng
tốt nghiệp năm 1926, sau đó cùng nhau về Huế làm giáo sư Quốc
Học, giao tình ngày càng thân thiết hơn.
Huế đầu thế kỷ 20, và vụ án “Tân Việt
Cách Mệnh Đảng”:
Đầu thế kỷ 20, dù triều đình bất lực
trước giặc Pháp xâm lược, nhưng tại kinh đô Huế cũng như khắp
nơi, tinh thần quốc gia dân tộc vẫn mạnh mẽ chống lại ách lệ
thuộc, phong trào Đông Du phục quốc do các bậc sĩ phu phát động
được hưởng ứng rộng rãi. Sau vụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt cóc từ
Thượng Hải mang về nước kết án chung thân, tình hình càng sôi
sục.
Năm 1927,
Huỳnh Thúc Kháng từ chức Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ để
phản đối Pháp, cùng Đào Duy Anh về Huế mở báo Tiếng Dân, nhà xuất
bản Quan Hải Tùng Thư, rồi thành lập Tân Việt Cách Mệnh Đảng, do
Đào Duy Anh là Tổng Thư Ký Sáng Lập. Sẵn tinh thần “Hưng Nam Phục
Việt” và là bạn nhà giáo đồng trang lứa, 2 ông Đặng Thái Mai và
Bửu Tiếp thường lui tới sinh hoạt với ông Đào Duy Anh.
Cùng năm 1927, trong số học trò Quốc
Học tham gia bãi khóa có Võ Giáp, 16 tuổi, bị viên giám thị người
Pháp đuổi học. Giáp được các ông thầy thu xếp đưa vào tập việc
tại báo Tiếng Dân và Quan Hải Tùng Thư. Ngoài trụ sở tòa báo trên
đường Đông Ba, căn nhà của ông bà Đặng Thái Mai tại Huế trở thành
nơi tụ hội.
Sau khi đảng Tân Việt được thành lập, số người tụ hội lui tới
ngày càng đông hơn, gồm cả các thầy giáo và học trò. Tổ chức “Học
Sinh Đoàn” của Tân Việt Cách Mệnh Đảng, ngoài Võ Giáp, còn có
thêm 2 cô nữ sinh Đồng Khánh tham gia rải truyền đơn, là Huỳnh
Thị Liễu, 14 tuổi, và Nguyễn Thị Quang Thái, 13 tuổi. Kiểu tụ họp
“cách mệnh” tài tử này tất nhiên không thể qua mắt mật thám Pháp.
Tháng 7, 1929, Đào Duy Anh bị bắt, đảng
Tân Việt tan hàng. Các thầy trò Quốc Học Đồng Khánh liên hệ lần
lượt vào nhà lao Thừa Phủ. Mấy ông thầy giáo Lê Viết Lượng, Đặng
Thái Mai, Bửu Tiến lãnh án tù 3 năm, nhưng đám học trò vị thành
niên được thả ra sớm. Huỳnh Thị Liễu về quê Đồng Hới ở với mẹ.
Nguyễn thị Quang Thái và Võ Giáp cùng nhau ra Hà Nội.
Theo sử sách cộng sản được phổ biến
trong bách khoa toàn thư Wikipedia, Võ Giáp chính là tên khai
sinh của Võ Nguyên Giáp, sinh năm 1911. Người vợ đầu tiên của
Giáp là Nguyễn thị Quang Thái, sinh năm 1915. Đảng Tân Việt được
thành lập tại Huế ngày 14 tháng 7 năm 1928. Vẫn theo Wikipedia,
đảng Cộng sản Đông Dương thì mãi tới tháng 3 năm 1930 mới được
thành lập ở... Hồng Kông. Thêm 10 năm sau, Võ Nguyên Giáp mới gia
nhập đảng này. Đây cũng là lúc Nguyễn Ái Quốc đang là hội viên
của “Việt Nam Đồng Minh Hội” ở Quảng Châu, do Nguyễn Hải Thần là
chủ tịch sáng lập (Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh làm phó,
được Quốc Dân Đảng Trung Hoa hỗ trợ). Năm 1941, chính hội này đề
cử Nguyễn Ái Quốc về nước hoạt động.
Chỉ cần đối chiếu niên biểu các nhân
vật sự kiện trên đây, sẽ thấy mọi phong trào yêu nước như Duy
Tân, Phục Quốc hoặc các đảng phái, từ Quốc Dân Đảng, Đại Việt,
tới Tân Việt đều hoàn toàn xuất phát từ tinh thần quốc gia dân
tộc. Ngay danh xưng “Tân Việt Cách Mệnh Đảng” (kị húy tên vua
Minh Mạng) cũng cho thấy chất bảo hoàng phong kiến. Sau khi rã
đám, các thành viên còn lại của Đảng Tân Việt đã thành lập “Liên
Đoàn Quốc Gia”. Thời ấy chưa hề có đảng Cộng sản, mọi liên hệ kể
công sau này chỉ là ăn có hoặc ăn cướp. Như họ đã cướp danh nghĩa
Việt Minh (tên gọn của Việt Nam Đồng Minh Hội) và cướp công cuộc
kháng chiến chống Pháp của cả dân tộc.
Sau khi ra tù, năm 1934, ông Đặng Thái
Mai mang gia đình ra Bắc. Riêng ông Bửu Tiếp vào Nam, có thêm cô
học trò Huỳnh thị Liễu trốn mẹ đi theo. Chàng là hoàng phái con
quan mà đi tù, rồi tự ý thành hôn. Nàng, sinh tại Đồng Hới năm
1914, kém chàng 10 tuổi, bỏ học rồi bỏ nhà bỏ quê theo chàng. Đó
là sơ lược thân thế về Ba và Măng tôi. Chuyện phiêu lưu ái tình
cách mạng của họ, nhìn lại có vẻ giống tiểu thuyết tiền chiến như
chàng Dũng trong Đôi Bạn của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam hay cô
Loan trong Đoạn Tuyệt.
Tại Sài Gòn, Ba
tôi dạy Vật Lý và Hóa Học cho các trường tư thục. 5 anh chị của
tôi đều ra đời ở Sài Gòn. Mãi tới khi người Pháp hết quyền hành
tại Huế, Ba tôi mới có thể công khai trở về. Ông nội tôi, tuy
từng phải nói là không nhìn nhận đứa con ngỗ ngược tù tội, nhưng
trong điền trang ở Phủ Cam, vẫn có phần đất dành riêng cho Ba tôi
làm nhà, và Măng tôi vẫn được Ông Bà Nội nhìn nhận là con dâu
chính thức.
Sau Cách Mạng tháng Tám 1945, vua Bảo Đại từ chức, trong Chính
phủ Liên Hiệp tại Hà Nội, có Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ Tịch,
Nguyễn Tường Tam làm Bộ Trưởng Ngoại Giao, Cụ Huỳnh Thúc Kháng
làm Bộ Trưởng Nội Vụ, Giáo sư Đặng Thái Mai làm Bộ Trưởng Văn
Hóa. Ông Bửu Tiếp được mời giữ chức vụ Giám Đốc Bình Dân Học Vụ 3
tỉnh Bình–Trị–Thiên. Tuy chức Giám Đốc Học Vụ được chen thêm 2
tiếng “bình dân” cho ra vẻ cách mạng, nhưng dân trong vùng Phủ
Cam thời ấy vẫn gọi ba tôi là “Quan Đốc Tiếp”.
Ngày 24 tháng 7, 1946, sau khi người y
tá vừa rút mũi kim chích thuốc khỏe ra khỏi mạch máu ở tay là Ba
tôi đứng tim chết, khi Măng tôi vừa bước chân vào nhà.
Măng tôi kể là ngay khi ôm xác Ba trong
tay, bà đã cảm thấy có điều gì bất thường. Ba tôi lúc đó đang
khỏe mạnh, việc chích thuốc bổ chỉ là để gìn giữ sức lực. Người
chích thuốc là 1 y tá bà con xa, và thường chích thuốc khỏe Huile
de Camphre vào thịt mông Ba tôi. Tại sao lần này ông ta lại chích
vào mạch máu? Vì đó chính là mũi thuốc được thi hành theo một
“lệnh xử lý” – theo từ ngữ cộng sản – có nghĩa là “giải quyết
hoặc thủ tiêu.” Chi tiết việc này được kể ở phần sau.
Vậy là Ba tôi bị đột tử khi mới 42
tuổi. Măng tôi trở thành góa phụ ở tuổi 32, với 5 đứa con thơ,
tuổi từ 10 đến 3 và 1 bào thai 4 tháng trong bụng, là tôi, đứa
con út không biết mặt cha.
Tang lễ ba tôi nghe nói được tổ chức
rất lớn. Lễ di quan có đội quân danh dự của “vệ quốc quân” dàn
chào, hộ tống. Số người đưa linh cữu từ nhà thờ Chánh Tòa Phủ Cam
về nghĩa trang đại gia đình dài cả cây số. Câu chuyện về đám tang
sau này còn được thầy tôi ở trường Y Khoa Huế là Bác sĩ Nguyễn
Văn Vĩnh nhắc đến mỗi khi tôi có dịp gặp ông. Ông nói đám tang
Ông Bửu Tiếp là một biến cố lớn ở Huế năm 1946.
Thời cầm quyền của Việt Minh ở Huế
không đầy năm. Quân Pháp trở lại. Lệnh toàn quốc kháng chiến được
công bố ngày 19 tháng 12, 1946. Măng tôi mang lũ con về vùng quê
lánh nạn.
Ngày
30 tháng 12 năm 1946, tôi được sinh ra trong lúc đang chạy loạn
tại Mỹ Chánh nên tên tôi là Chánh. Măng tôi kể là ngay sau khi
sinh, Măng đang còn nằm nghỉ thì thấy bóng Ba hiện về và từ từ
bước đến nơi tôi đang nằm, đưa tay vuốt vuốt đầu tôi rồi xoay
lưng bước ra.
******
Cơ hội
Huế – Sài Gòn:
Chiến tranh và nhà tù:
Trong những năm chiến tranh Pháp–Việt,
măng tôi một mình tần tảo lo liệu nuôi đàn con 6 đứa.
Dù hoàn cảnh khó khăn, Măng tôi kể là
bà vẫn hằng cầu nguyện đọc kinh, nương dựa vào đức tin Công giáo,
và rất may mắn nhận được sự giúp đỡ tinh thần từ các cha Dòng
Thiên An và Dòng Chúa Cứu Thế tại Huế.
Năm 1954, đất nước bị chia đôi. Người
Pháp ra đi. Chế độ Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu một vận hội mới tại
miền Nam. Măng tôi chính thức được nhận vào làm cô giáo trong
trường nữ trung học Đồng Khánh. Bà dạy môn Nữ Công Gia Chánh,
cùng với cô Hoàng Kim Cúc. Sau đó, măng tôi được phép đem cả gia
đình vào cư trú trong khu gia cư giáo chức ngay trong khuôn viên
trường. Tất cả các anh chị em tôi đều được các cha dòng Thiên An
lưu tâm trợ giúp cho cơ hội học hành.
Mấy năm sau, anh đầu của tôi là Vĩnh
Toàn tốt nghiệp bác sĩ và bị động viên, chị thứ hai là Băng Tâm,
tốt nghiệp dược sĩ và lấy chồng là bạn cùng lớp, ở luôn trong Sài
Gòn. Anh thứ ba là Vĩnh Anh được học bổng Plan Columbo du học tại
Canada.
2 người chị sinh đôi, Liên Tâm
và Mai Tâm thì một chị vào Sài Gòn làm việc, một chị lên Đà Lạt
học rồi lấy chồng là 1 Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Động Quân.
Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ năm 1963: Miền
Bắc cộng sản công khai xâm chiếm miền Nam, chiến tranh lan rộng.
Tết Mậu Thân, trong khi học Y Khoa Huế năm thứ nhất, tôi tiếp tục
ở với Măng tôi trong khu lầu 3 trường Đồng Khánh. Chính từ đây
tôi đã chứng kiến cảnh quân cộng sản nổ súng mở màn cuộc tàn sát
tại Huế. Trong số hàng ngàn nạn nhân của cộng sản, có các vị Giáo
Sư người Đức của trường Y Khoa Huế.
Sau Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, Măng tôi di
chuyển vào Sài Gòn và được anh đầu tôi mua cho căn nhà trong Cư
Xá Sĩ Quan Chí Hòa. Qua năm 1973, tôi tốt nghiệp y khoa Huế và
chọn về Quân Y Nhảy Dù.
Năm 1975, chị Băng Tâm và chị Mai Tâm,
một trong hai chị sinh đôi của tôi, cùng gia đình của họ may mắn
rời nước trong mấy ngày cuối cuộc chiến. Ngày 30 tháng Tư 1975,
là y sĩ trưởng của 1 Tiểu đoàn Nhảy Dù lãnh phần bảo vệ cầu Bình
Triệu, tôi ở lại với đơn vị tới giờ chót. Sau lệnh buông súng rồi
tan hàng, như trong cơn mê sảng, tôi tìm về được tới nhà vị hôn
thê.
3 ngày
sau, 1 đám cưới đơn giản được cử hành tại nhà nguyện Dòng Chúa
Cứu Thế. Sau đó, tôi đi “trình diện học tập”, để lại người vợ mới
cưới sau khi mất nước, ở chung với Măng tôi và bà chị sinh đôi
còn lại.
Năm
1977, anh Vĩnh Anh, ông anh thứ ba, từ Canada về nước thăm gia
đình, có vào thăm tôi trong trại tù cải tạo ở Trảng Táo. Trước
đây, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ Canh Nông, vì chống chiến tranh
Việt Nam, anh phải trốn và sống bất hợp pháp tại Canada một thời
gian khá dài. Sau chuyến thăm này, Măng tôi mừng hết lớn khi được
thư anh báo nay đã là “công dân Canada”, có nghĩa là không còn mơ
về Việt Nam phục vụ đất nước.
Về anh Vĩnh Toàn, ông anh đầu của tôi,
tuy hai anh em cùng ở trong nước nhưng vì hoàn cảnh, chúng tôi ít
có dịp gặp nhau. Tôi chỉ được biết, sau khi tốt nghiệp bác sĩ,
thời VNCH, anh từng là Trưởng Ty Y Tế Quảng Nam. Mùa xuân 1975,
khi miền Trung thất thủ, anh đang là Giám Đốc Bệnh Viện Hội An.
Sau đó, được chế độ mới thuyên chuyển về làm việc tại bệnh viện
toàn khoa tại Đà Nẵng. Mãi sau ngày đi tù cải tạo về, 2 anh em
mới gặp lại lần đầu, khi anh vào Sài Gòn thăm măng tôi. Nghe anh
nói đã quyết định tiếp tục sống trong nước, không đi đâu cả, tôi
hiểu là anh em chúng tôi sẽ đường ai nấy đi.
Cũng sau khi từ nhà tù về nhà, tôi mới
biết là trong thời gian tôi đi tù, có người quen xưa là “dì” Bích
Hà, con gái đầu của “bác” Đặng Thái Mai, đồng thời là người vợ
sau của ông Võ Nguyên Giáp, đến tận nhà thăm Măng tôi 2 lần, do
hỏi thăm địa chỉ từ ngoài trường Đồng Khánh.
Măng tôi cũng nói thêm, thời Ba và Măng
tôi lui tới với gia đình ông Đặng Thái Mai tại Huế trước ngày bị
Pháp bắt, Bích Hà chỉ mới 1, 2 tuổi, chưa kịp có thân tình riêng.
Việc “Bà Đại Tướng” cất công tìm địa chỉ, tới tận nhà thăm hẳn là
do 2 ông Đặng Thái Mai và Võ Nguyên Giáp quyết định. Ngay trong
lần gặp đầu, Măng tôi kể là bà có nói việc con mình là bác sĩ mà
cũng bị bắt ở tù. Miền Nam ngày càng đói khổ, mà ngoài Bắc vô đây
cái gì cũng tha ra ngoài đó. Khi chia tay, tưởng sẽ đi luôn.
Không ngờ Bích Hà còn trở lại thăm lần thứ hai, và khi ra về, còn
vui vẻ mang theo tất cả những sách quý bằng tiếng Pháp do Măng
tôi tặng lại.
Có thể nhờ 2 cuộc viếng thăm đặc biệt này mà các anh công an khu
vực có phần nương tay với ngôi nhà của Măng tôi trong cư xá Bắc
Hải, khi đi tù về, tôi cũng không bị làm khó dễ.
Măng tôi còn nhắc tới câu chuyện một
cặp vợ chồng mà gia đình 2 bên từng quen biết trước đây ở Huế, là
anh chị Phục và Vịnh Thủy, từng hoạt động với anh Vĩnh Anh tôi
trong tổ chức “Trí thức Việt Kiều Yêu Nước” tại Montreal. Sau khi
nghe tuyên truyền đất nước đã hòa bình độc lập, anh chị đã hăng
hái tiên phong về nước phục vụ sớm sủa, để rồi chỉ vài năm sau,
phải âm thầm mang 2 con nhỏ vượt biển trở lại Canada. Câu chuyện
anh chị Phục – Vịnh Thủy liều chết để tìm lại tự do khiến tôi
không còn chút do dự.
Khi vợ chồng tôi quyết định tìm đường
ra đi, Măng tôi đã lặng lẽ góp phần.
Lần vượt biển đầu tiên thất bại. Tháng
6 năm 1978, vợ chồng tôi cùng cả nhóm vượt biển bị bắt tại Vũng
Tàu đưa về trại giam Cần Giờ. Tôi bị chuyển trại về khám Chí Hòa,
nhưng vợ tôi nhờ mang bầu sắp sinh nên được thả ra sớm.
Chính Măng tôi đã lo liệu chăm sóc khi
con gái chúng tôi được sinh ra. Tên khai sinh của cháu là Hoài
Anh, tên ở nhà là Bồ Câu do bà Nội đặt. Lần đầu thăm nuôi, vợ tôi
đứng cách tôi khoảng 20 thước và đưa Bồ Câu lên cao cho tôi nhìn
thấy con. Chỉ nhìn từ xa thôi. Phải gần 1 năm sau, tôi mới có thể
ôm con khi được thả ra khỏi khám Chí Hòa.
Măng tôi rất thương yêu cháu Bồ Câu, vì
như lời bà nói, ngay khi còn là thai nhi, cháu đã cùng mẹ đi tù
vượt biên. Khi cháu vào đời, bố còn tiếp tục nằm trong khám Chí
Hòa. Bà thường cầm tay, vuốt tay cháu và khen Bồ Câu có bàn tay
rất đẹp, giống như bàn tay của người “chirurgien”. Bà còn nói,
chắc con bé sau này sẽ thành 1 y sĩ giải phẫu như “thằng bố của
nó.”
2. Tai nạn y khoa tại Mỹ và “Tai họa
cộng sản” ở VN:
Ngọn lửa nến bé bỏng lung linh trên
bánh sinh nhật. Cháu Bồ Câu đầy tuổi, tươi cười trong tay mẹ, như
muốn nhoài cả người về phía ngọn lửa.
Ngay sau khi thổi nến, Bà nội và cả nhà
bắt đầu phút cầu nguyện trang trọng. Tất cả đều căng thẳng trước
những ngày sắp tới: Bà nội đã quyết định ở lại nhà chờ tin, nhưng
Bồ Câu sẽ cùng cha mẹ và các dì và cậu bên mẹ đi vượt biển.
Tháng 9 năm 1979, ra đi lần thứ hai,
suốt 3 ngày 3 đêm trên biển, Bồ Câu thật ngoan, ngồi yên trong
vòng tay của mẹ, không la khóc hay trở chứng. Sau chuyến vượt
thoát đầy hung hiểm, tránh được tàu hải tặc rượt bắt nhờ đêm tối,
rồi thuyền bị chìm gần bờ biển Thái Lan, chúng tôi may mắn được
cứu vớt. Trong 10 tháng tại trại tị nạn Liem Ngot, Thái Lan và
trại Bataan, Phi Luật Tân, cháu Bồ Câu được thương yêu, vui vẻ ca
hát mừng sinh nhật 2 tuổi.
Nhờ sự bảo lãnh của chị tôi và anh rể,
chúng tôi được chấp thuận cho định cư tại Hoa Kỳ. Chuyến bay tới
Nam Cali đúng vào ngày kỵ giỗ của Ba tôi: 24 tháng 7, 1980.
Bắt đầu lại cuộc sống từ hai bàn tay
trắng, nhưng với lòng hăng hái quyết chí và tự tin. Tin Ơn Trên
phù hộ. Tin vào khả năng tự lập của mình. Tin Bồ Câu rồi đây sẽ
đi học và hấp thụ một nền giáo dục tốt đẹp. Cả nhà đều cật lực
làm việc. 2 chị lớn nhận hàng may tại nhà. Các cậu em, sau giờ
đến trường, cùng xúm xít phụ xỏ chỉ, đơm khuy.
Phần tôi thì vừa lãnh phần việc đi nhận
và giao hàng may, vừa đến lớp học về chuyên môn y khoa. Với vốn
liếng chuyên môn hạn hẹp và lỗi thời, để có thể bắt kịp những
tiến bộ y khoa tối tân của nước Mỹ, tôi hiểu mình phải thức khuya
dậy sớm và tận lực học hỏi.
Đó là thời gian căn nhà thuê bé nhỏ
tràn ngập hạnh phúc, bé Bồ Câu lăng xăng vui đùa trong nhà và
ngoài sân, được cha mẹ, dì cậu cưng chiều thương yêu. Rồi những
thùng quà đầu tiên được gửi về bên nhà ở Sài Gòn. Tiếng máy may
điện chạy hầu như liên tục, hòa với tiếng cười đùa giữa cậu cháu,
tiếng ê a tập đọc tập hát của Bồ Câu. Cháu mới 3 tuổi đã hát múa
đúng điệu, theo chương trình giáo dục con nít Big Bird trên
truyền hình.
Sau khi may mắn đậu liền cả 2 chứng chỉ y khoa quan trọng gồm
bằng FLEX và ECFMG, tôi tập trung lo gởi đơn xin học thêm đến các
trung tâm Giáo Dục Y Khoa, chờ cơ hội trở lại nghề y sĩ. Đúng lúc
ấy cả nhà còn có thêm tin vui, mẹ có bầu và Bồ Câu sẽ sớm có em
bé.
Tai họa và
phép lạ:
Một
buổi sáng cuối tháng 10,1981, cha mẹ đem Bồ Câu đến bệnh viện
South Coast Medical Center ở thành phố Laguna Beach cho Bác sĩ
Nha Khoa bọc 7 cái răng bị siết trong cùng một lần. Bé vui vẻ nói
bye bye bố mẹ khi theo y tá vào phòng mổ.
Trước khi nha sĩ bọc răng, phải gây mê
toàn diện, thủ thuật sẽ mất khoảng 1 giờ rưỡi, chúng tôi được cho
biết. Chờ quá 2 giờ. Rồi 3 giờ. 4 giờ. Nôn nóng hỏi thăm, chỉ
được bảo phải tiếp tục chờ.
Mãi xế chiều, 1 y tá đưa chúng tôi vào
phòng hồi sinh cấp cứu. Bồ Câu nằm bất động trên giường, phủ chăn
trắng. Không mở mắt, không hay biết. Bố mẹ sững sờ. Mới hồi sáng,
bé tươi tỉnh, không một lo sợ, vẫy tay bye bye cha mẹ trước khi y
tá đẩy xe vào phòng mổ, mà giờ đây như một xác không hồn. Y tá
chỉ giải thích ngắn gọn là em bé bị phản ứng thuốc nên tạm thời
hôn mê.
Sự
thật không như lời người y tá giải thích. Qua thủ tục pháp lý,
chúng tôi nhận được phó bản của toàn bộ hồ sơ chữa trị. Riêng hồ
sơ liên hệ đến giải phẫu và gây mê cho thấy chính bác sĩ gây mê
đã gây ra tai họa. Thay vì phải đặt ống bơm dưỡng khí vào phổi,
ông ta đưa ống đó vào bao tử, khiến bé hoàn toàn không nhận được
dưỡng khí để thở trong 10 phút, gần như bị chết ngộp.
Hồi tưởng lại buổi sáng định mệnh ấy,
khi ngồi trong phòng chờ, tôi nghe tiếng loa loan báo “code blue”
nhiều lần, cứ ngỡ là cho ai, sau này mới biết lệnh cấp cứu đó
chính là cho con mình. Đau đớn thay. Nhờ hô hấp nhân tạo, Bồ Câu
sống lại, được nuôi qua ống chuyền sữa ensure từ mũi xuống bao
tử, nhưng não bộ bị tổn thương trầm trọng.
Sau gần 2 tháng chữa trị tại Children
Hospital of Orange County với cha mẹ túc trực cạnh giường ngày
đêm, bác sĩ cho biết Bồ Câu bị chứng Cerebral Palsy – Liệt Não –
nên dù sống sót nhưng cả 2 phương diện thể xác và tâm lý đều sẽ
phát triển chậm (both severe physical and mental retardation).
Vì đòi hỏi săn sóc đặc biệt, đành phải
chấp nhận chuyển bé qua 1 trung tâm phục hồi chức năng trong một
thời gian vô hạn định, nhưng không có ngày nào mà chúng tôi không
ghé thăm Bồ Câu, cho dù bụng thai của vợ càng ngày càng nặng nề.
Một ngày trời mưa sau Tết năm 1982, khi
đến thăm, vừa vào bên trong tòa nhà của trung tâm phục hồi, chúng
tôi bắt gặp trên chiếc giường đẩy, ngay giữa hành lang, một thân
hình bé nhỏ đang quằn quại trong cơn co giật. Đến gần, hình hài
ấy chính là con mình, miệng nghiến chặt trong cơn động kinh liên
tục, mình mẩy ướt mèm. Ôm con mà xót xa đắng cay. Còn cảnh cùng
cực nào lớn hơn thử thách này, Chúa ơi! Tất cả chỉ còn 1 nguyện
cầu duy nhất là xin cho con mình được sống và sống chung với cha
mẹ và gia đình chứ không trong 1 trung tâm chăm sóc xa lạ.
Từ đó, không ngày nào chúng tôi không
tới thăm Bồ Câu. Điều nguyện cầu cho con được sống và sống bên
cha mẹ trở thành 1 quyết tâm thôi thúc 2 vợ chồng sát cánh, tiến
hành mọi thể thức với trợ giúp từ các cơ quan xã hội để chuẩn bị
đem con về nhà.
Đứa con thứ hai ra đời ngày 10 tháng
Tư, 1982. Dù phải chịu đựng quá sức khi mang thai, nhưng cháu Bea
vào đời bình an, xinh xắn, khỏe mạnh. Ngay ngày thứ hai sau khi
rời bệnh viện sản khoa, chúng tôi đến thẳng trung tâm phục hồi,
ký giấy đón Bồ Câu về nhà.
Sau tai họa, ơn trên cho chúng tôi được
hưởng nhiều phép lạ, trên cả mức chờ đợi.
Đầu tiên, là từ ngày về lại nhà, Bồ Câu
vĩnh viễn thoát khỏi chứng động kinh co giật. Con mắt bắt đầu có
thần hơn dù vẫn chưa di chuyển lên xuống qua về.
Nhờ từng được hướng dẫn và thực tập, vợ
tôi đã có thể một mình đặt ống naso–gastric tube thông từ mũi
xuống bao tử cho con trong suốt cả năm, sau đó còn tập cho Bồ Câu
uống qua đường miệng, từ 1 giọt, tăng lên 2 giọt, 3 giọt rồi kiên
nhẫn tập cho bé nuốt từng chút nhỏ đồ ăn nghiền đến 1 hột cơm, 2
hột cơm.
Tiếp
theo, là chỉ vài tuần sau khi có Bồ Câu về nhà, cuối tháng Tư
1982, tôi được nhận vào làm bác sĩ tổng quát cho bệnh viện tư
Leesville General Hospital, thuộc tiểu bang Louisiana.
Leesville là 1 thị xã nhỏ của vùng
Southern, nơi dân bản xứ có tiếng là kỳ thị. Với tôi, thay vì
tiếp tục học lên, cơ hội trở lại hành nghề bác sĩ tại đây phù hợp
hơn với hoàn cảnh thực tế. Tuy nhiên, cơ hội này cũng là 1 thử
thách sinh tử, đòi hỏi sự bén nhạy khi định bệnh, tận tụy khi trị
liệu. Khi giao thiệp bằng tiếng Mỹ, dù chưa thể thuần thục, vẫn
cần sự chính xác, tinh tế trong ngôn từ. Đó là thời kỳ phải vừa
làm vừa học, vừa gìn giữ nhân cách của 1 bác sĩ người Việt duy
nhất trong vùng.
Rất may mắn, chỉ 1 thời gian sau, tôi
chính thức được bệnh viện chấp nhận như 1 bác sĩ chính ngạch,
tăng lương thêm 50% cộng bonus
[tiền hoa hồng]
cuối năm. Nhờ vậy, cuộc sống gia
đình mau chóng được ổn định. Số lượng bệnh nhân đến khám với tôi
nhiều hơn. Trong những lần gia đình ra bên ngoài, nhiều cư dân
bản xứ dừng lại bắt tay tôi, chào hỏi vợ con tôi.
Sau trên 1 năm được kiên trì tập luyện,
Bồ Câu tạm thời đã có thể uống sữa, ăn cháo, ăn cơm với luôn cả
rau cải thịt cá cắt nhỏ, khi được mẹ đút vào miệng. Phản xạ nuốt
tốt dần. Phép lạ lại xảy đến khi chúng tôi quyết định rút ống
chuyền mũi – bao tử, Bồ Câu giữ khả năng ăn, nuốt bằng miệng,
thân thể dần mạnh hơn, tay chân cứng cáp dần, miệng bắt đầu biết
cười và bập bẹ ư ê như em Bea, khi 2 chị em ở cạnh nhau.
Nhờ thu nhập khá dần, căn nhà mới có
phòng tập lớn với đầy đủ tiện nghi, ngày ngày luôn có người thay
phiên đến nhà làm việc, luyện tập cho Bồ Câu, nào là physical
therapist, occupational therapist, speech therapist, sức khỏe của
bé hồi phục dần.
Từ tuổi Mẫu Giáo, Bồ Câu được học
chương trình giáo dục đặc biệt (Special Education), có xe đón
rước tận nhà. Các thầy cô giáo làm việc rất công tâm và tận tụy,
nhiều bà giáo trong ngành Giáo Dục Đặc Biệt thường lui tới nhà
chỉ bảo, giúp đỡ. Chúng tôi luôn biết ơn họ. Không có họ, chúng
tôi không thể nào có đủ hiểu biết, trong tiến trình từng bước
giúp Bồ Câu khôi phục và phát triển chức năng. Khi nhà có hồ tắm
với nước ấm quanh năm, Bồ Câu cũng biết tỏ ra rất thích và thoải
mái nằm ngửa trong phao hoặc trên tay cha mẹ.
Gia đình đông dần với sự ra đời thêm
của 2 đứa con sinh sau. Dù bận rộn tất bật hơn, chúng tôi luôn cố
gắng sinh hoạt chung với các con, từ trong nhà cho đến ra bên
ngoài, ở đâu có cha mẹ là có đầy đủ 4 đứa con. Nếu cha không đẩy
kịp xe lăn cho Bồ Câu thì Bea đẩy chị. Nếu mẹ chưa đút kịp cho
chị ăn, thì Betty lo giùm.
Dù ở nơi xa lạ, không thân thích, không
một bóng đồng hương, nhưng đúng là lời chúng tôi cầu xin cho con
được sống và sống với cha mẹ đã được bề trên lắng nghe. Các linh
mục trong nhà thờ giáo xứ đặc biệt cho phép Bồ Câu chịu phép rước
lễ vỡ lòng ở tuổi 16 (first holy communion) dù Bồ Câu không qua
lớp giáo lý căn bản.
Chuyện chưa từng nói về thủ đoạn tàn ác
của cộng sản:
Khi tin cháu Bồ Câu gặp nạn được báo về Sài Gòn, Măng tôi bị tai
biến mạch máu não khá nặng, nhưng bà cố tập luyện giữ gìn sức
khỏe, nói muốn sang Mỹ chăm sóc cháu.
Sau khi được anh chị tôi bảo lãnh sang
Cali, vào đầu thập niên 90, Măng tôi dời qua Louisiana ở với gia
đình “thằng con út” và cháu Bồ Câu.
Trong khoảng 3–4 năm, các anh chị bên
Cali thay phiên nhau qua thăm Măng, có khi rủ nhau đi chung cho
vui thêm. Anh Vĩnh Anh từ Montreal cũng qua thăm mẹ được 2 lần.
Vậy là trừ ông anh lớn Vĩnh Toàn còn ở lại Việt Nam, anh chị em
tôi có nhiều dịp sum họp. Nhờ vậy, nhiều chuyện được thổ lộ giúp
tôi hiểu thêm về sự thức tỉnh của mọi người trước sự tráo trở,
tàn tệ của Cộng sản.
Đầu tiên là do anh Vĩnh Anh kể lại
chuyện chính anh vừa trải qua. Năm 1990, các thành viên chủ chốt
của nhóm Việt Kiều Yêu Nước (VKYN) tại Montreal, trong đó có ông
anh tôi, được Ban Việt Kiều của chính phủ CSVN mời về nước với
mục đích góp ý cho Đảng CSVN làm cách nào tránh được hiện tượng
Thiên An Môn/Tiamen Square xảy ra tại Trung Quốc năm 1989, sẽ
không thể xảy ra tại Việt Nam.
Theo kế hoạch của nhóm Montreal, anh
Vĩnh Anh nằm chờ tại Sài Gòn, 4 người kia bay ra Hà Nội; 1 anh ở
chờ trong khách sạn, 3 anh còn lại vào họp, mang theo văn bản góp
ý của nhóm Việt Kiều Yêu Nước ở Montreal: bãi bỏ chế độ độc đảng,
cho thành lập chế độ đa đảng càng sớm càng tốt.
Sau 2 ngày không thấy các bạn mình trở
lại khách sạn, và cũng chẳng nhận tin nhắn miệng nào, người chờ
bên ngoài khách sạn Hà Nội điện thoại báo tin cho anh tôi. Đoán
chuyện không hay xảy ra, anh tôi tức tốc bay ra Hà Nội, đến tư
gia “bác Võ Nguyên Giáp”, xin vào gặp với tư cách là “con trai
của ông Bửu Tiếp”, người thầy giáo Quốc Học Huế thời xưa. “Bác”
Võ Nguyên Giáp lắng nghe, lắc lắc đầu, rồi bảo anh tôi về chờ tại
khách sạn.
Thêm 2 ngày căng thẳng chờ đợi trong lo âu. Bỗng trong đêm thứ
hai, cả anh tôi và người bạn kia được chở vào bên trong một cơ
quan, nhìn thấy 3 người bạn mình đang có mặt tại chỗ, mặt mày
người nào cũng xám xịt, căng thẳng, 1 người lại có băng trắng ở
cổ tay. Không dài dòng giải thích, cả 5 người được lệnh ký tên
vào 1 tờ giấy cam kết đủ thứ, kể cả việc không bao giờ được về
lại Việt Nam.
Sau khi đồng loạt ký tên, cả 5 người được chở thẳng ra phi trường
lên chuyến bay sớm nhất về Canada. Trên máy bay, anh tôi được các
bạn cho biết, sau khi phát biểu ý kiến chủ trương đa đảng của
nhóm Việt kiều yêu nước ở Montreal, cả 3 người bị bắt, đưa ngay
vào nhốt trong 1 bệnh xá tâm thần. Anh bạn tổng thư ký của nhóm
quá tức giận nên quyết tự sát bằng cách rạch cứa cổ tay mình,
nhưng được cứu thoát. Chính vì vậy mà chúng mới thả cho về vì e
ngại sẽ có khó khăn với bộ ngoại giao Canada.
Vậy là nhóm Việt Kiều Yêu Nước
Montreal, trước đây đã từng bị rúng động bởi hiện tượng vợ chồng
Phục & Vịnh Thủy vượt biên trở về lại Canada, nay lặng lẽ tan rã,
mỗi thành viên mỗi mang 1 nỗi niềm riêng.
Câu chuyện anh Vĩnh Anh và nhóm bạn
Montreal làm Măng tôi trầm ngâm rất lâu, sau đó bà mới kể lại 1
bí ẩn mà bà giấu kín trong lòng từ nhiều năm.
Sau khi Ba tôi mất, suốt thời kháng
chiến chống Pháp, chi hội phụ nữ nằm vùng tại Huế cố lôi kéo Măng
vào tổ chức của họ, nhưng Măng đã nhiều lần thoái thác với lý do
góa phụ bận rộn nuôi bầy con, 10 lần bị kêu đi họp thì chỉ đến 1
lần cho có lệ.
Vào thời gian chia đôi đất nước của
hiệp định Geneve 1954, Măng tôi thình lình đến nơi họp, và đến
trễ. Đang đứng bên ngoài cửa căn nhà họp trong chiều tối, tình cờ
Măng nghe tiếng các người bên trong phòng đang bàn tán về mình
“Thằng Tiếp không chịu ra ngoài Bắc làm việc theo chỉ thị cấp
trên, nên chúng ta đã xử lý nó rồi. Cái thứ Công giáo đó chỉ làm
hư danh cách mạng thôi. Nay còn con Liễu (tên của Măng tôi), rán
chờ coi nó có chịu tập kết hay không, rồi sẽ quyết định”. Nghe
vậy, Măng tôi lạnh cả xương sống, từ từ rời căn nhà họp không một
tiếng động. Từ đó, bà dứt khoát cắt đứt mọi liên lạc.
Khi nghe kể chuyện này, tôi hỏi Măng
phải chăng Ba chết do cộng sản ra lệnh thủ tiêu, rồi sau đó lại
dàn dựng 1 lễ an táng long trọng kiểu nhà nước để mà mắt thiên
hạ, Măng tôi trả lời đúng như vậy. Bà cũng xác nhận ông bà chỉ là
những người quốc gia chống Pháp vì yêu nước, chưa bao giờ là đảng
viên cộng sản. Bà nói thêm, càng về sau Măng càng nghiệm ra những
giả dối của Cộng sản và từng lo ngại khi thấy 2 con trai lớn
không có kinh nghiệm này.
Nhân dịp này, tôi hỏi Măng thương đứa
con nào nhất trong nhà, Măng bảo trước đây, chính tôi là đứa Măng
thương nhất, vì tôi mồ côi cha ngay khi còn nằm trong bụng mẹ,
lớn lên lại khốn đốn vì chiến tranh, tù tội. Nhưng giờ đây, người
được Măng thương nhất lại là anh Vĩnh Toàn. Anh sinh trước tôi cả
chục năm, lớn lên bên cạnh ba măng và các bạn toàn là những người
chống lại sự xâm lược của người Pháp, do đó anh dễ có cảm tình
với cuộc kháng chiến của Việt Minh. Măng tôi nói anh Vĩnh Anh và
tôi, dù sao cũng đang sống trên 1 đất nước tự do. Còn anh Vĩnh
Toàn đã lỡ ở lại với cộng sản, lại không hề có kinh nghiệm về họ,
chắc anh sẽ là người có cuộc đời bị thua lỗ nhất, nay lui cui
sống đạm bạc một mình.
Đúng là tình mẹ bao giờ cũng đổ xuống
cho đứa con yếm thế nhất, ít hạnh phúc nhất. Tôi biết gia cảnh
anh chị Vĩnh Toàn đã ly thân từ lâu. Anh chị chỉ có 1 con gái duy
nhất. Cháu ở với mẹ, không có người dẫn dắt và 1 tai họa khủng
khiếp đã xảy ra. Năm 1987, khi đang theo học Nha Khoa Sài Gòn năm
thứ 2, không hiểu vì chuyện gì, cháu nhảy cầu quyên sinh ban đêm
trên sông Sài Gòn.
Thật đau lòng khi nghe tin cháu, 1 cô
sinh viên trẻ đẹp, học giỏi, bị đẩy tới mức tuyệt vọng đến nỗi
phải tự kết liễu cuộc sống! Cho tới nay, chính Măng tôi và anh
chị em chúng tôi vẫn không thể hiểu được nguyên nhân đã đưa tới
cái chết bi thảm của cháu.
Từ khi cả nhà đã ra hải ngoại sống, anh
Vĩnh Toàn cũng rất ít liên lạc. Bất ngờ, chúng tôi nhận được tin
về anh nhờ 1 lá thư khác thường do chú Bửu Phát, em của Ba tôi,
gởi từ trong nước ra. Thư cho biết có người từng là học trò của
Ba tôi trước đây ở trường Quốc Học, nay làm lớn tại Hà Nội, có ý
muốn thu xếp chuyện mua bán khu nhà đất của ông Nội tôi ở Phủ
Cam. Anh Vĩnh Toàn, con trưởng của ba tôi hiện vẫn ở Đà Nẵng,
được yêu cầu đứng tên đại diện cho toàn gia đình phía các anh chị
em chúng tôi, nhưng anh thẳng thừng bác bỏ, không chịu ký tên. Vì
vậy, chú Bửu Phát kêu gọi bà con bên Mỹ ký tên ủng hộ ý kiến bán
khu nhà đất của Ông Nội.
Lời kêu gọi của chú Bửu Phát dĩ nhiên
không được ai hưởng ứng. Ngay chú Bửu Bình, con trai út cưng của
Ông Bà Nội, định cư tại Dallas qua chương trình H.O., cũng không
màng, thì còn ai lên tiếng. Sau năm 1995, có người trong nước báo
tin chú Bửu Phát đại diện gia đình đã nhận tấm bằng tổ quốc ghi
ơn cho “Liệt Sĩ Bửu Tiếp” và chưng tại nhà của Chú. Hư thật ra
sao cũng chẳng ai bận tâm.
Sau tin anh Vĩnh Toàn không chịu ký tên
bán đất tổ tiên cho quan lớn cộng sản, có thêm tin công việc y sĩ
của anh cũng không còn suôn sẻ. Không hiểu vì bất mãn với chế độ
hay với chính mình, anh phải tìm quên trong rượu chè, cuộc sống
càng ngày càng cô quạnh. Sau 1 tai nạn lưu thông, anh suy yếu
dần. Chị Mai Tâm cùng chồng về thăm anh tại Đà Nẵng, cho biết là
tuy sức khỏe suy yếu nhưng sau cùng anh đã trở lại 1 tín đồ Công
giáo, đi lễ nhà thờ hằng tuần với vợ chồng Linh và Oanh. Oanh là
bà con xa bên Nội, đã tới ở luôn trong nhà để săn sóc anh tôi
trong những năm cuối đời.
Mấy tháng trước khi hoàn toàn mất trí
nhớ và từ trần vào năm 2010, anh tôi nhận được tất cả các phép bí
tích của người Công giáo từ cha chánh sở giáo xứ. Đám tang anh
được làm tại nhà thờ. Rất đơn chiếc. Không vợ con, anh chị em.
Chị dâu tôi cũng qua đời chỉ 1 năm sau đó.
Sau vài năm ở Louisiana với chúng tôi,
Măng tôi trở về California sống với các con gái. Thị xã Leesville
là nơi hẻo lánh, Măng tôi không có dịp gặp được người đồng hương
để nói chuyện tiếng Việt. Năm 1997, Măng bị tai biến mạch máu não
trầm trọng, sau gần 7 năm được săn sóc chu đáo tại nhà của chị
tôi và chồng, Măng tôi qua đời năm 2004.
40 Năm nhìn lại thấm thía nỗi đau của
những người quốc gia bị cộng sản sát hại.
Dù thế nào, vẫn phải có một lần về đứng
trước mộ phần Ông Bà Nội và Ba tôi, một lần nhìn lại mảnh đất tổ
tiên, thăm lại khu vườn kỷ niệm thời thơ ấu. Đây là điều tôi hằng
tự nhủ ngay khi vừa qua tuổi hưu trí, nhưng mãi tới tháng 12 năm
2013, 40 năm sau khi rời Huế và 34 năm rời bỏ quê hương, vợ chồng
chúng tôi mới có dịp về nước lần đầu.
Trên đường về Huế, chúng tôi ghé Đà
Nẵng và hẹn trước với vợ chồng Linh Oanh để nhờ đem chúng tôi đến
viếng mộ của anh Vĩnh Toàn tôi trong 1 nghĩa trang rộng lớn tại
Hòa Vang.
Cháu
gái con anh chị cũng đã được bốc mộ rồi hỏa thiêu tại Hội An
trước khi đem vào Sài Gòn từ mươi năm trước. Chúng tôi có đến
thăm nơi cất giữ di cốt của cháu trong 1 ngôi chùa nhỏ nghèo nàn
tại Thủ Đức. Rất khó tìm thấy hũ tro của cháu vì nằm lẫn lộn với
hàng trăm hũ, trong một ngăn phòng chật hẹp tăm tối. Chúng tôi
thắp nén hương, cầu ơn trên cho cháu được siêu sanh tịnh độ.
Trong 1 ngôi chùa khác tại Gia Định rộng lớn và tân kỳ, chị dâu
tôi được chôn cất riêng trong 1 khuôn viên đẹp đẽ sáng sủa sang
trọng. Anh, chị và cháu, cho tới phút cuối đời, vẫn ở xa cách
nhau. Chúng tôi chỉ còn biết cầu mong cho vong linh cả 3 người,
vợ, chồng, con được gần gụi thương yêu nhau dù giờ đây thân xác
thì ngàn trùng xa cách.
Trước ngày trở lại Huế, tôi còn gặp
thêm 1 điều mai mỉa: Dù đã đổi chủ từ lâu, khu đất của ông nội
tôi cho tới nay vẫn còn được mấy ông lớn cộng sản theo đuổi.
Chú Bửu Phát cũng đã mất từ lâu, nhưng
vẫn có người giao tận tay tôi tờ giấy “Tổ Quốc Ghi Công” mang tên
Ba tôi mà chú Bửu Phát từng nhận, kèm theo mảnh giấy ghi địa chỉ
1 ông lớn cộng sản tại Hà Nội, nói đang chờ đợi liên lạc với tôi
về chuyện giúp mua bán vườn và nhà cửa của Ông Nội. Tôi liên
tưởng ngay đến câu chuyện chú Bửu Phát từng đề cập mấy chục năm
trước, nhưng bị bỏ giở nửa chừng. Nay biết tôi về, nên phải chăng
người đó lại muốn liên lạc về chuyện cũ này. Chẳng hiểu chuyện
muốn giúp mua bán vườn đất Ông Nội tôi và chuyện cấp tấm bằng tổ
quốc ghi công có liên hệ đến nhau không?
Tôi từ chối nhận tờ giấy ghi số điện
thoại cùng tên tuổi ông ta từ tay người liên lạc.
Sau cùng, 1 ngày Huế mùa đông, chúng
tôi đã tới được mảnh đất tổ tiên. Khu điền trang cũ của Ông Nội
tôi đã bị chiếm đoạt, đổi chủ từ lâu. Tòa nhà 3 tầng xưa trắng
toát, bề thế, nay nhếch nhác, thảm hại. Cây cối vườn xưa tươi tốt
nay xơ xác điêu tàn. Khu nghĩa trang gia đình xưa trang nghiêm,
thứ tự, nay cỏ tranh rậm rạp.
Đứng trước phần mộ của Ba tôi, nay bị
chính quyền mới bắt dời đến núi Thiên Thai cùng chung với các mộ
phần của đại gia đình, ôn lại lời Măng tôi kể việc ông bị chi bộ
đảng của cộng sản ra lệnh “xử lý”, tôi thấm thía nỗi đau của
những người quốc gia bị cộng sản sát hại.
Thời Việt Minh vừa nắm quyền tại Huế
năm 1946, nhiều vị nhân sĩ trí thức quốc gia một lòng vì nước
cũng đã bị thủ tiêu. Học giả Phạm Quỳnh có người con lớn là Phạm
Tuyên thoát ly gia đình theo Việt Minh. Ông Phạm Quỳnh bị Việt
Minh bắt mang vào rừng xử tử.
Phạm Tuyên sau thành nhạc sĩ nổi tiếng,
từng kể lại là “Bác Hồ” có lần nói với ông rằng Phạm Quỳnh là 1
học giả yêu nước, 1 nhân vật lịch sử đáng được tôn trọng. Sau 30
tháng Tư 1975, Phạm Tuyên chính là tác giả bài ca “Như có Bác Hồ
trong ngày vui đại thắng!” Trong khi ấy thì tại miền Nam, có tin
người ta đã tìm được hài cốt của 2 ông Phạm Quỳnh và Ngô Đình
Khôi bị vùi chung 1 hố trong xó rừng gần Huế. Các dấu hiệu từ hài
cốt cho thấy 2 ông bị chôn sống.
Như thời còn thơ ấu, tôi cũng đã cúi
xuống cố đọc tấm bia mộ ba tôi. Ông sinh năm 1904, bị “xử lý” năm
1946, lúc khởi đầu những tháng ngày tao loạn. Đó cũng là năm sinh
của tôi, đứa con được ông hiện hồn về trong mơ vuốt vuốt cái đầu
nó. Từ đó, biết bao nhiêu tang thương dâu bể.
Măng tôi, cô nữ sinh Đồng Khánh 14 tuổi
mê ông thầy giáo độc thân, ôm truyền đơn của Tân Việt Cách Mệnh
Đảng vô trường học năm 1927, nay cũng không còn nữa. Sau gần 60
năm ở góa nuôi con, Bà đã mãn phần tại California đúng năm 90
tuổi.
Trong
khi ấy thì cả nước Việt Nam, số phận không khác vườn nhà ông nội
tôi là bao. Mảnh đất tổ tiên bị cướp đoạt, mồ mả ông cha bị đào
bới.
Hơn 1 thế
hệ cùng thời với cha tôi đã trở thành dĩ vãng. Những người từng
kề cận ông thời tuổi trẻ như Giáo sư Đặng Thái Mai hay cậu học
trò Quốc học Võ (Nguyên) Giáp cũng đã không còn nữa, nhưng đất
nước thì vẫn tiếp tục bị hủy hoại bởi cái chế độ phi nhân mà họ
từng phục vụ.
Ngày tôi trở lại Huế, cuối tháng 12 năm 2013, cũng là lúc nhà
nước cộng sản vừa rình rang quốc táng Võ Nguyên Giáp, chết trước
đó vài tháng. Còn nhớ, trang nhà của đài BBC Luân Đôn thời ấy có
bài viết về ông, nói là từ lâu Đại tướng Giáp đã bị phe cánh
trong Đảng loại bỏ, tước hết mọi chức vụ, tư dinh bị đặt trong
tình trạng quản chế, mọi việc đi lại, gặp gỡ, ăn nói, đều phải
theo lệnh. Vậy mà khi ông mất hồi tháng 10, 2013, 2 tháng trước
khi chúng tôi đi Việt Nam, vẫn rềnh rang đánh bóng tuyên truyền.
Sự tráo trở, tàn bạo của cộng sản đã
đẩy nhiều thế hệ vào cảnh tương tàn chưa từng có trong lịch sử
dân tộc. Ba tôi bị thủ tiêu, như bao người quốc gia khác, như
những bà con Huế bị tàn sát thời Tết Mậu Thân, đều là nạn nhân
của cộng sản.
Nhiều thế hệ đã và sẽ còn tiếp tục đi qua, kể cả thế hệ chúng
tôi.
Nhiều tội
ác đã bị khuất lấp hoặc sẽ được quên đi. Nhưng quên không có
nghĩa là tha thứ, vì tha thứ là quyền của những người đã chết,
những nạn nhân cộng sản.
******
Bằng cái biết hạn hẹp của mình, tôi đã
cố sơ lược truyện “truyện trăm năm” của gia tộc từ những năm 20
của thế kỷ trước. Nhưng lịch sử cũng như chuyện “Đằng Sau Mặt
Trăng” hẳn nhiên còn nhiều tầng bí ẩn, khuất lấp.
Xin được trở lại với phần đời bé nhỏ
của gia đình chúng tôi.
Theo dòng thời gian, khi gia đình di
chuyển về Nam Cali, Bồ Câu vừa bước qua tuổi teen. Biết chào
hello, biết nói vài chữ bằng song ngữ, biết đòi hỏi, biết hỷ nộ
ái ố, biết đi chập chững với walker, biết ăn bốc và tự xúc ăn
bằng muỗng, uống với ống hút... Tuy nhiên vẫn hoàn toàn không tự
lập được trong vấn đề vệ sinh cá nhân, đánh răng rửa mặt, tắm
rửa, thay áo quần, vào giường, ra khỏi giường... Tất cả đều cần
sự trợ giúp.
Sau khi được “cho” tốt nghiệp trung học ở tuổi 22, Bồ Câu được
gởi đến Vocational Visions, là 1 trung tâm giáo dục giúp đỡ người
khuyết tật lớn tuổi, dưới sự quản trị của Orange County Regional
Center (OCRC). Có xe buýt sáng chở đi chiều chở về. Tại trung
tâm, có ngày Bồ Câu ở chơi tại chỗ, có ngày được xe chở đi ra bên
ngoài, gọi là community trips, đôi khi 2–3 lần mỗi tuần. Cứ mỗi
năm, có cuộc họp giữa cha mẹ với cán sự xã hội đại diện OCRC và
đại diện Vocational Visions để đánh giá tiến triển của Bồ Câu
trong năm qua và chọn phương án cho năm tới. Qua đó, chúng tôi
được biết chỉ riêng OCRC đã chi tiêu khoảng 38 ngàn đô cho sinh
hoạt và di chuyển của Bồ Câu mỗi năm. Ngoài ra, còn nhiều phúc
lợi xã hội khác, khi Bồ Câu được ưu tiên cấp thẻ Medicare, nhưng
chỉ sau khi mẹ Bồ Câu chính thức nhận an sinh xã hội khi về hưu.
Nhìn lại, dù là nơi tối tân như Hoa Kỳ,
tai nạn do sự lầm lẫn, sai sót trong ngành y, đặc biệt trong khoa
gây mê mà nạn nhân thường là các em bé 3, 4 tuổi như Bồ Câu, là
chuyện cho tới nay vẫn không thể tránh khỏi. Nhưng bù lại, hệ
thống phúc lợi xã hội của nước Mỹ trong việc chăm sóc luôn vận
hành hữu hiệu. Nhờ vậy, trên 56 triệu người bị khuyết tật, gồm đủ
loại, chiếm 19 phần trăm dân số nước Mỹ, không ngừng được trợ
giúp.
Chúng
tôi luôn biết ơn và vinh dự được chu toàn bổn phận của một công
dân Mỹ.
Vĩnh Chánh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by CATHY chuyển
Đăng ngày Thứ Hai, July 3,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang