Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Hồi Ký Chiến Trường
Chủ đề: Ngày Quân Lực 19–6
Tác giả: MĐ BS Nguyễn Thanh Liêm
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời giới thiệu:
Bác sĩ Liêm là Y sĩ trưởng cuối cùng của TĐ5ND khi tôi là Tiểu
Đoàn Trưởng. Trong trận Khánh Dương, khi theo lệnh BCH/LĐ3ND
triệt thoái về sau tuyến II, tức phía sau khu vực TĐ6ND. Tôi
quyết định cho TĐ đoạn chiến và triệt thoái vào ban đêm. Khi ĐĐ54
dẫn đầu cánh quân B chạm địch, BS Liêm lại đi cùng cánh quân này
vì còn chuyện trò tâm sự với Đại úy Huỳnh Quang Chiêu, ở gần nhà
BS Liêm và là SQ
[sĩ quan] được
tôi chỉ định kèm cho Trung úy Vũ, tân ĐĐT/ĐĐ54. Trung úy Vũ hy
sinh và Đại úy Chiêu cùng BS Liêm mất tích. Khi về đến Sài Gòn
tôi đến nhà 3 SQ này để phân ưu. Không ngờ khoảng 1 tuần sau,
Quân cảnh Vũng Tàu liên lạc với TĐ để xin xác nhận có 2 SQ tên
Chiêu và Liêm theo thuyền dân cập bến Vũng Tàu và nhất là họ mang
theo chiến lợi phẩm là súng AK–47 của VC. Sau khi xác nhận, ngày
sau 2 vị này về Sài Gòn. Tôi rất vui song lúc đó BS Liêm chỉ kể
qua loa chuyện vượt thoát của ông. Hôm nay được đọc bài bS Liêm
viết chi tiết về cuộc vượt thoát này, tôi rất vui và xin giới
thiệu với bạn đọc câu chuyện vượt thoát hy hữu của 1 Y sĩ Quân y
Nhảy Dù.
Trung tá Bùi
Quyền,
nguyên TĐT TĐ5ND
Đã
42 năm qua, tôi những tưởng câu chuyện vượt thoát y như phim ảnh này
đã chìm
vào dĩ vãng. Nào ngờ các bạn Mũ Đỏ gần xa yêu cầu tôi nên ghi lại để
được tỏ tường Nhảy Dù là Cố Gắng. Tôi cố gắng nhớ lại để không phụ
lòng anh em mong đợi.
Ngày 1 (28/3/1975):
Trời chiều của Tháng 3 thật là nóng bức. TĐ5ND đóng trên sườn đồi
gần đèo M’Drak. Đó là khúc đường trên Quốc Lộ 21 dài khoảng 20km.
Đầu đèo cách Buôn Ma Thuột (hay Ban Mê Thuột) 96Km. Đoạn đường đầu
đèo dài 4km nằm giữa hai dãy núi khá cao, vách núi dựng đứng. Núi
Chu Kroa cao 958m về phía Bắc. Các triền núi nhỏ hơn mà đỉnh cao
nhất là 609m về phía Nam. Các bạn cũng biết, Quốc Lộ 21 nằm giữa
Quận Khánh Dương và Quận Ninh Hòa. Từ trên đồi cao, tôi nhìn qua
Quốc Lộ 21 là Buôn Làng M’Mo của người Ê–đê với chừng năm ba mái nhà
sàn xưa cũ. Tiểu Đoàn có nhiệm vụ ngăn chặn địch từ Ban Mê Thuột kéo
về Nha Trang. Tôi nhìn thấy nhiều Thiết Vận Xa M113 án ngữ trước
Buôn M’Mo, gần cây cầu xi măng trên Quốc Lộ 21. Tất cả đều ở tư thế
sẵn sàng chiến đấu. Pháo địch bắt đầu rơi, băng qua ngọn đồi rồi rớt
ầm đâu đó dưới chân đồi. Tiểu Đoàn vô sự. Đêm xuống dần, Trung tá
Bùi Quyền, TĐT TĐ5ND tiên liệu địch sẽ trèo lên đồi theo chiến thuật
tiền pháo hậu xung nên ra lệnh cho mọi người đều phải sẵn sàng. Trời
tối đen như mực, dưới đồi có tiếng chân người đạp lá rừng nghe xào
xạc, có vẻ như rất đông người đang bò lên đồi. Lệnh triệt thoái, đi
hàng một, im lặng, súng cầm tay, đạn lên nòng; cả tiểu đoàn di
chuyển theo nhau về hướng Đông Nam. Lúc đó là 7 giờ tối. Tôi đi theo
Trung tá Quyền, cố gắng đi gần ông. Phải cố gắng lắm vì trời tối
quá, đường đồi nhiều cỏ tranh và khó bước vì trơn trượt. Cũng may có
Đại úy Chương lâu lâu gọi khẽ “Bác Sĩ đâu rồi”. Khoảng 10 giờ đêm
thì Tiểu Đoàn dừng lại trên một ngọn đồi thấp. Pháo địch từ chân đồi
phóng lên, nhìn rất đẹp y như mấy trái hỏa châu, hướng về TĐ5ND và
nổ loạn xạ. Phân tán nhanh. Phân tán nhanh. Mọi người phóng nhanh về
điểm hẹn để trực thăng xuống bốc. Tôi lạc đàn từ phút ấy!
Ngày 2 (29/3/1975):
Nhiều tiếng hét đồng loạt “hàng sống chống chết” vang lên hung bạo
và đầy hận thù từ dưới đồi dần dần to hơn, rõ hơn. Miệng tôi đắng lạ
thường, tay chân tôi luống cuống, mắt tôi may còn kính cận thị chưa
bị rớt. Tôi chui lẹ vào đám rễ cỏ tranh rậm rạp mọc cao hơn đầu
người, sau khi còn đủ trí khôn lăn long lóc xuống chân ngọn đồi nhỏ.
Lúc này, địch dàn hàng ngang, cầm AK có lưỡi lê nhọn gắn đầu súng,
vừa đi vừa xâm xoi tìm lính Dù để đâm cho chết hoặc bắt làm tù binh.
Trong số đó không có tôi.
Tôi bình an vô sự. Lục soát đã ngưng, địch
rút lui trong yên lặng. Suốt đêm đó tôi nằm yên, lạnh và ướt dưới
đám cỏ tranh. Trỗi dậy khi trời vừa sáng, tôi nghe có tiếng gọi của
ai đó, nằm rất gần. Té ra là Minh, y tá Dù của tôi. Thầy trò mừng
quá, ôm nhau và tôi lại có một túi cứu thương khá đầy đủ thuốc men
do Minh trao lại “Em giao lại cho Bác Sĩ”. Hai thầy trò cứ nhắm
hướng Đông mà đi vì nghĩ đó là hướng biển, hy vọng gặp lại những
người cùng cảnh ngộ với mình. Băng rừng mà đi, bụng đói, miệng khát.
Nhưng hai thầy trò may mắn gặp được Thiếu úy H và Trung Sĩ Q cùng 3
lính Dù của TĐ5ND. Riêng Thiếu úy H còn bản đồ hành quân và địa bàn,
và mọi người vẫn còn súng M16 và lựu đạn. Ngày nghỉ, đêm đi, cả đoàn
7 người đều còn sức khỏe.
Chúng tôi đạp nước theo dòng suối mà đi để
địch không tìm ra dấu giày. Dọc đường dây điện thoại màu đen lẫn với
lá rừng, nằm chơ vơ khi ẩn khi lộ thiên, đi không khéo đụng chạm,
địch sẽ biết. Chúng còn khắc chữ K lên thân cây để chỉ hướng tiến
quân về Nha Trang (dấu I và dấu < nhập lại thành chữ K, dấu < mũi
nhọn là hướng tiến của địch) Nhờ có thuốc lọc nước Iodine mà chúng
tôi uống nước dơ ngon lành. Lại có rau tàu bay và mấy con cua kẽ đá,
chúng tôi ăn sống cho khỏi chết vì đói. Nhưng tôi bị kiết lỵ, dài
dài cho đến ngày về đến Sài Gòn. Bình thường lính Dù ai cũng khỏe
mạnh nên túi cứu thương không có thuốc trị kiết lỵ!
Ngày 3 (30/3/1975):
Đêm nay cả 7 người tiếp tục băng rừng, đi đầu là Thiếu úy H kế đó là
tôi, sau tôi là y tá Minh, rồi đến A–Chãy (Chãy có nghĩa là Trai) và
2 lính Dù, Trung sĩ Q đi đoạn hậu. Chúng tôi yên lặng đi cách nhau 2
sải tay, vậy mà đôi lúc người không nhìn thấy bóng bạn phía trước.
Tôi nhiều lần kêu khẽ “Thiếu úy chậm bước chút xíu”. Cây rừng đan
dày đặc, có cây to gốc 3 người ôm mới giáp vòng. Trong đêm tối có
cây màu đen, có cây màu trắng do vỏ cây có lân tinh chiếu sáng. Tôi
đưa tay vịn một sợi dây mây, ai ngờ “rột một cái” dây đó rút lẹ lên
trên cành cây to, đó là một con rắn lớn thòng xuống rình mồi. Thật
hú hồn! Đoàn người cả đêm đi không ngừng vì ngó lại hướng đóng quân
cũ thấy ánh lửa sáng rực xa xa, chắc là địch đang đốt cháy tại nơi
chúng vừa chiếm đóng. Thiếu úy H nói “mình phải đi thật nhanh hơn
nữa”.
Ngày 4 (31/3/1975): Gần sáng, cả đoàn mệt và chân
đã mỏi nhừ, tìm được một chỗ ẩn núp khá an toàn là dưới một thân cây
thật to bị đốn ngã nằm ngang do dân làm rừng để lại. Bố trí an toàn
xong, cả đoàn nghỉ, nằm với lá cây phủ đầy người mà không dám thở
mạnh. Đó đây, nhiều tiếng vượn hú “Hú hu u u... chóc chóc chóc”
chúng gọi nhau trên các cây chà là rừng to cao để báo động có người.
Lại còn có tiếng chim gì kêu nghe lạ tai “cọc cọc cọc” y như điệp
khúc, nghe cũng ơn ớn. Những con vắt, đỉa và sâu đo, mấy ngày qua
hút máu ở kẽ ngón chân và trong nách được chúng tôi “giải phóng” với
cái bụng no nê đầy máu sau khi chúng tôi cởi giày ra và giũ áo mới
thấy chúng còn bám chặt trong nách và các kẽ ngón chân. Miệng tôi đã
khô đến nỗi không còn đủ nước bọt mà quyện với cỏ để dùng tay rứt
chúng ra!
Ngày 5 (1/4/1975): Đã xa vùng hỏa tuyến,
chúng tôi thử đi ban ngày và ngủ vào ban đêm, nhưng vẫn cảnh giác đề
phòng địch. Đang đi, bất chợt Thiếu úy H ra dấu dừng lại. Phía trước
mặt, chỗ mấy cây cổ thụ to, có một đám lá rừng chất đống bất thường,
một bầy ruồi nhặng bay lên với mùi hôi thối của xác chết! Địch đã
giết chết nhiều lính Dù và lính Bộ Binh, tháo giày vì các xác đều
chân trần, rồi phủ lá rừng che lại. Chúng tôi đứng nghiêm chào kính
và ngậm ngùi chào tiễn biệt các anh hùng tử sĩ đã vị quốc vong thân.
Mong các anh thông cảm cho chúng tôi phải vượt thoát lẹ, cầu mong
các anh phù hộ cho chúng tôi về được đến nhà. Bước đi rồi, tôi mới
thấy mặt mình sao ướt ướt! Có thể vì tôi vẫn còn nhớ khi học “Chinh
Phụ Ngâm Khúc” của Đặng Trần Côn:
“Hồn tử sĩ
gió ào ào thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi
soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn!”
Trên đường đi, chúng tôi còn gặp các tử sĩ
dụm năm dụm ba, phủ lá đầy ruồi nhặng và đã phân hủy, do địch giết
hại. Đếm được 4 chỗ như vậy, chúng tôi nghĩ là còn nhiều nữa trong
cánh rừng Khánh Dương này.
Ngày 6 (2/4/1975):
Vẫn di chuyển hàng một với Thiếu úy H đi đầu và Trung sĩ Q đoạn hậu.
Ngày đi đêm nghỉ, chúng tôi đang đi vào vùng đất Cọp Khánh Hòa–Ma
Bình Thuận. Nhiều dấu chân Cọp được chúng tôi nhìn thấy gần các bụi
tre gai rừng màu vàng sẫm. Đang đi cả đoàn phải ngồi thụp xuống, ô
kìa, phía trước mặt, một bầy nai lông xám, chừng 8 con đang cúi đầu
xuống uống nước hố bom, có một con nai đực có gạc to đứng canh
chừng. Đừng bắn, đừng bắn, địch nghe tiếng súng M16 sẽ bao vây và
chúng ta khó thoát. Cả đoàn nghe lời tôi, mặc dù ai cũng đói vì đã
đi 5 ngày rồi. Đàn nai đánh hơi, thấy động, thoáng một cái đã biến
nhanh vào rừng. Chúng tôi lấy bi đông ra lấy nước, sau khi bụm tay
lấy nước rửa mặt và uống thật no. Tôi cảm thấy cũng không xong vì
đói lâu ngày chỉ nên uống vài ngụm. Tiếp tục đi, độ nửa giờ sau,
chúng tôi gặp một cái chòi che đậy bằng cành cây lá rừng. Chắc là
địch di chuyển nhanh về Nha Trang nên bỏ trống. Dưới nền đất đào sâu
đủ cho 3 người núp, chúng tôi gom được nhiều lương khô, là các bánh
cơm và các thẻ đường vàng bọc ngoài giấy in đầy chữ tàu. Bây giờ,
đoàn gặp phải một cái hào nước không sâu nhưng chạy dài về hướng
Đông. Thôi đành phải lội, nước ngập tới ngực, súng phải kê cao khỏi
đầu, đoàn lội hàng dọc, vén lau sậy mà đi.
Vừa lên bờ, chúng tôi chạm trán 2 cán binh
địch với 2 súng AK47 chĩa thẳng vào và bắt tất cả chúng tôi buông
súng. Gần đó có một ngôi chùa, chúng tôi bị 2 tên cán binh này dẫn
độ về đó. Đến nơi chúng bắt chúng tôi ngồi chung một chỗ ngoài hiên
chùa. Chúng gom hết súng và lựu đạn của chúng tôi để một chỗ xa hơn
trong chùa, xong cả 2 đứa bình tĩnh đi chiên cá chờ đơn vị bộ đội
của chúng sắp về ăn cơm chiều. Chúng gác 2 cây súng AK gần bên chảo
dầu đang sôi sùng sục thơm nức mùi cá chiên chừng 5 con vừa bắt ở
dưới hào.
–
Hành động ngay! Hành động ngay.
Thiếu úy H và Trung sĩ Q bàn chuyện cướp
súng và hạ 2 tên này. Kế hoạch được thi hành ngay trong chớp nhoáng,
2 tên ngã qụy vì đòn hội đồng với que củi tạ. Chúng tôi gom hết cá
chiên vào 2 nón cối, quơ luôn 2 súng AK, dép râu cùng dây nịt bằng
da nâu. Toàn là chiến lợi phẩm rất hữu dụng sau này trên đuờng vượt
thoát gian nan. Thật nhanh và thật gọn, 7 người chúng tôi chạy nhanh
ra khỏi chùa để tránh địch trở về biết được và truy lùng. Trời đã về
chiều, ống cống thông thủy gần quốc lộ hiện ra cứu chúng tôi. Cả
đoàn chui ngay vào và chạy thật lẹ trong đường cống có đường kính
cao hơn đầu người. Đường tối om om, chân tôi đạp nước cống bì bõm,
mồ hôi nhẽ nhại, người nóng, tim đập thình thịch. Ra khỏi đoạn đường
ống cống là khoảng đất trồng bắp của dân quê vắng ngắt, chúng tôi
dừng lại, xúm nhau bốc cá chiên còn nóng và ăn vội vàng. Thật tuyệt
vời làm sao! Đói quá nên tôi chưa kịp nhai đã nuốt, may mà không bị
hóc xương cá, hay là đã nuốt luôn xương cá nhỏ rồi chăng? A–Chãy còn
đi vào rẫy bẻ trộm bắp non được vài trái, xong cả đoàn chạy băng vào
lùm cây trước mặt, thì trời đã tối hẳn, bỏ lại sau lưng tiếng la của
dân làng và tiếng chó sủa truy đuổi. Lại một đêm ngủ trong rừng lá
thấp, chúng tôi lấy Iodine bỏ vào bi đông nước để lắng chết mấy con
đỉa nhỏ, uống ngon lành, chia phiên gác xong, tôi ngủ thiếp đi.
Ngày 7 (3/4/1975):
Khi mặt trời đã lên cao, chúng tôi tiếp tục đi về hướng Đông do địa
bàn chỉ hướng. Khi qua một bụi tre cao có hai con chim nhỏ như chim
cu, cứ bay trên đầu chúng tôi, một con kêu “te te”, con kia kêu
“hoạch hoạch”, ai nuôi hay chim rừng? Chúng tôi sợ bị lộ nên cứ chạy
thật nhanh để rút vào rừng cây trước mặt. Đến nơi, vừa lăn xuống đất
nằm để thở, tôi nhớ lại chuyện Tấm Cám mà mỉm cười một mình “Te Te
hoành hoạch, giặt áo chồng tao, phải giặt cho sạch, đừng phơi hàng
rào, rách áo chồng tao.” Đường đi bây giờ là con đường quanh co và
xuống dốc, không còn những cây to và gai rừng cản trở nữa, nhưng
vượt qua những khoảng trống thật không phải dễ. Để tránh địch thấy
và bao vây bắt trọn, chúng tôi ngụy trang, người cắm đầy cành lá cây
rừng địa phương. Bảy bụi cây người di chuyển chậm qua các khoảng
trống. Đến chân một gò cao, ô kìa có cây cam rừng nặng chĩu trái
chín xanh xanh vàng vàng. Thế là chúng tôi xúm nhau rung gốc cây,
thu được vài chục trái cam chín rụng xuống.
Thôi rồi! nước cam đắng như nước trái khổ
qua! Đàng kia có một cái mương nước đã khô nhưng kẽ đá chặn có nước
nhỏ giọt, chúng tôi hứng được nửa bi đông. Đến chiều chúng tôi lọt
vào vòng đai của Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ (Nha Trang). Tối hôm đó
chúng tôi yên lặng nằm nghỉ bên mấy gò mả, nhưng lại thức giấc vì
tiếng thở phì phò của vài con bò bị chủ chạy giặc bỏ lại. Trung sĩ Q
và ba lính Dù thịt con bò nhỏ, cắt một cái đùi bỏ vào ba lô và lấy
lá gan còn nóng hổi chia cả đoàn cùng ăn sống cho đỡ đói. Gan bò
sống, tanh, còn ấm, khó nuốt, nhưng đói quá, tôi cũng nuốt được. Bây
gờ, bệnh kiết lỵ của tôi đã bớt nhiều, người gầy ốm và râu cũng mọc
dài lưa thưa. Nhờ trời, hai chân tôi vẫn còn đi khỏe lắm.
Ngày 8 (4/4/1975):
Trời gần sáng, chúng tôi chạy vội lên một ngọn đồi, lên cao, ngắm
nhìn biển đã hiện ra về phía Đông. Xa xa có một hòn đảo nhỏ, bản đồ
hành quân ghi là Hòn Bà Lớn. Mặc kệ là Bà Lớn hay Bà Nhỏ, bằng mọi
cách cả đoàn phải bơi qua bên đó vì Nha Trang sắp mất hay đã mất.
Qua hòn đó rồi coi có chiến hạm Hải Quân mình vớt hay không? Cả đêm
nằm suy nghĩ liên miên, tôi khấn vái liên tục mỗi khi thấy một sao
sa trên bầu trời đầy sao, rồi khấn nữa khi nhìn xuống quốc lộ xa xa,
cả một đoàn xe Molotova chở đầy lính địch ngụy trang lá rừng tiến về
hướng Nha Trang.
Ngày 9 (5/4/1975): Hừng sáng, cả đoàn chạy
như điên xuống mé nước. Thật là kỳ diệu, nói ra không ai chịu tin,
một chiếc ghe nhỏ cắm sào ở mé nước trong bờ lau sậy và rong biển.
Tôi định gọi chủ ghe xin quá giang nhưng ghe vắng chủ. A–Chãy nhảy
vào khoang ghe và kêu to “có cá kho. Có cá kho, Bác Sĩ ơi!” Thế là
cả đoàn lại được một bữa tiệc Trời cho. Lập tức, 7 người chúng tôi
leo lên ghe, nhưng A–Chãy xin ở lại về với bà Dì còn kẹt ở Nha
Trang, nên cậu ta khóc từ giã, cởi hết quân phục bỏ lại, chỉ mặc áo
thun quần đùi, đi chân không, chạy về phía cây số 4 trên quốc lộ
hướng về Nha Trang. Sáu người còn lại, chia nhau 2 tay chèo, 2 tay
gỡ ván làm chèo phụ, còn 2 người thì dùng 2 nón cối tát nước trong
ghe để ghe nhẹ đi nhanh. Chúng tôi hì hục, vội vã chèo ghe qua Hòn
Bà Lớn. Nắng lên cao, sóng biển không to, nhưng gió thì mạnh và
lạnh. Ghe lại bị lỗ mọt, hở, nước biển tràn vô. Phải chèo gấp, nước
vô ghe sẽ chìm giữa biển! Độ 30 phút sau, ghe cập bến cát và đá
ngầm, chúng tôi ướt át hoàn toàn, đem chiến lợi phẩm vào gấp và núp
trong một góc đá để nghe ngóng tình hình, chờ hết mệt mới tính tiếp.
Đến 10 giờ sáng, cả đoàn họp lại bàn chuyện. Nếu không thoát khỏi
đây, thì chắc 6 người sẽ là tù binh của địch.
Ngoài khơi, tuyệt không thấy bóng một
chiếc tàu của Hải Quân Việt Nam
[Cộng Hòa] mình.
Mọi người buồn và suy nghĩ lung lắm. Tôi nghĩ không lẽ mình sẽ chết
ở đây? Ý nghĩ loé lên, đề nghị với Thiếu úy H và Trung sĩ Q, tôi nói
“Đã nằm trong lòng địch, tại sao mình không ăn mặc và nói năng giả
làm địch, Thiếu úy, Trung sĩ và tôi đội nón cối, mang AK và đi dép
râu, còn 3 lính Dù thì trói lại, cởi giày làm như tù binh ngụy bị ta
bắt được giải về Nam điều tra gì đó theo lệnh cấp chỉ huy. Tôi có
cây súng lục nhỏ đi đầu làm chỉ huy, kế đó là Thiếu úy, còn Trung sĩ
cầm AK đi đoạn hậu canh 3 tù binh giả đi ở giữa. Tất cả quần áo Dù
và giày, súng M16, nón sắt coi như chiến lợi phẩm, mình tọng vào cái
bao tải lớn của bộ đội này rồi Trung sĩ mang đi sau chót. Phải đóng
kịch cho thật khéo, lộ ra là chết cả đám”. Cả đoàn đồng ý làm theo
kế hoạch của tôi, mọi sự phó cho Trời Phật giúp đỡ. Hóa trang xong,
cả đoàn theo thứ tự di chuyển về phía Nam trên Hòn Bà Lớn.
Chúng tôi gặp một nhà sư tuổi chạc trung
niên, mặc áo vàng, trong cái chòi nung than cây bán vào đất liền
đang làm việc đốt than. Nhà sư thấy chúng tôi, đứng lên, từ tốn hỏi
“quý vị có cần bần tăng giúp gì không?” Tôi trình bày là tiến quân
vào Nam, bắt được 3 tên ngụy hết sức nguy hiểm, lệng Đảng chỉ thị
dẫn độ chúng vào Nam, ở đây có phương tiện đường thủy gì không. Sư
bèn chỉ về cuối đảo này, có dân quân và dân làng chài có thể giúp đỡ
cho các đồng chí. Chúng tôi cảm ơn nhà sư, và tiếp tục đi thong thả
về phía cuối đảo mà trong lòng vô cùng căng thẳng, chưa biết lành dữ
ra sao. Lúc đó là 6 giờ chiều, trời nhá nhem tối. Đang đi, chúng tôi
bị rất nhiều dân quân bao vây, chúng nổ AK đùng đùng chỉ thiên bắt
chúng tôi dừng lại. Xong chúng tiến lại gần, tên chỉ huy trông có vẻ
nhà quê, hắn hỏi, tôi trả lời y như khi gặp Sư làm than. Chúng tạm
tin và dẫn chúng tôi về làng chài mà không hỏi giấy tờ gì cả. Độ 1
giờ sau, chúng thắp đèn dầu và mời tôi ngồi, rồi rót trà mời uống và
nói chuyện. Đến 10 giờ đêm, tên chỉ huy cho mấy dân quân dẫn chúng
tôi ra một chiếc ghe chài lớn, trên đó có vợ chồng chủ ghe và 1 em
bé còn ẵm trong tay, còn có 1 cậu dân làng theo phụ. Đám dân quân
chào tạm biệt chúng tôi y như chúng chào các đồng chí của chúng. Ghe
bắt đầu nhổ neo, chúng tôi thở phào thoát nạn.
Máy ghe chạy tạch tạch thật mau, Nhưng
Trung sĩ Q vội la lên “Ê! chạy đi đâu? Tính chạy vào nội à?” Nhanh
như chớp, Thiếu úy H nhảy vào buồng lái, kê súng AK vào ngực chủ ghe
bắt hắn lái về Nam theo hướng Sao Nam Tào đang loé sáng trên nền
trời đêm. Cậu phụ ghe thấy mưu gian bị lộ, nhảy ùm xuống biển thoát
thân Vợ chồng chủ ghe khai thật, là dân quân bắt họ lái ghe vào đất
liền (nội) để giao cho bộ đội lập công. Bây giờ xin các ông tha cho,
tụi tôi không dám về lại Hòn nữa, mà theo các ông về Nam, nhưng ghe
sắp cạn dầu, không đủ dầu để về đến Vũng Tàu. Sẵn ngụy trang là
địch, chúng tôi phải liều một phen nữa. Thiếu úy H đứng đầu ghe,
Trung sĩ Q ghìm súng AK ở buồng lái canh chừng tên chủ ghe đang cầm
tay lái. Ở phía ngược lại đi về hướng Nha Trang có một ghe chài lớn
mang cờ đỏ sao vàng đang lướt tới, đầu ghe có một cán binh địch cầm
AK. Thiếu úy H cho ghe chậm lại. Trung sĩ Q hét tên chủ ghe hãm tốc
[độ].
Ghe bên kia, chưa biết chuyện gì, cũng hãm tốc
[độ].
Khi 2 ghe cập lại, Thiếu úy H xưng đồng chí, nhờ giúp dầu để về đến
Vũng Tàu giao 3 tên ngụy nguy hiểm này theo lệnh đảng. Lập tức 4
thùng dầu được chuyển qua ghe chúng tôi. Nhờ vậy chúng tôi đi suốt
đêm, hướng về Nam.
Ngày 10 (6/4/1975):
Dọc đường biển, ghe chạy ngoài khơi, đất liền khó thấy. Nhưng Thiếu
úy H canh địa bàn đúng hướng, im re không nói gì, tôi cũng yên bụng,
nhưng lại ói vì say sóng. Uống thuốc vào thì bụng tôi lại yên. Ghe
có ghé vào một đảo nhỏ để mua thêm dầu, chúng tôi kè sát vợ chồng
chủ ghe vì sợ họ trốn mất. Cả đoàn bây giờ ăn mặc quân phục Dù lại
như cũ. Chúng tôi cám ơn lẫn nhau cho màn đóng kịch gạt địch quá
phiêu lưu mạo hiểm như thế này. Binh pháp Tôn Tử chắc cũng có câu
“phải đặt mình vào đường chết mới mong tìm ra lối sống.”
Ngày 11 (7/4/1975):
Phải mất thêm một ngày ghe chúng tôi mới cập bến Bãi Trước (Bãi Tầm
Dương) của Vũng Tàu. Sống thật rồi! Sống thật rồi! Cả đoàn hân hoan
nhìn rất nhiều ghe chạy giặc đang bỏ neo, nhấp nhô lên xuống theo
sóng biển vỗ vào bờ đá Bãi Trước. Lúc đó là 11 giờ đêm. 12 giờ đêm
là giờ giới nghiêm. Sáu anh em chúng tôi từ giã và cám ơn vợ chồng
chủ ghe, sau khi tôi tặng 1 số tiền vài ngàn gọi là đền ơn. Chúng
tôi phóng lẹ lên bờ, đi tìm một cái quán gần đó, gọi chủ quán nấu
cho 1 nồi canh chua cá bông lau với chục trái ớt dầm nước mắm thật
cay. Chủ quán chịu chơi còn mang ra 3 gói thuốc Salem và hộp quẹt.
Chưa bao giờ anh em chúng tôi vui mừng ăn cơm canh chua và uống bia,
hút thuốc đầy tinh thần Mũ Đỏ sống chết có nhau, tương thân tương ái
đến như thế này. Giờ giới nghiêm đã tới. Chủ quán đóng cửa. Đường
phố vắng tanh. Anh em chúng tôi lúc này vô gia cư nên đành nằm ngoài
sân trước quán mà ngủ.
Ngày 12 (8/4/1975):
Trời đã hừng đông, người qua lại thật tấp nập, lộn xộn, ngơ ngác.
Loạn lạc có khác. Sáu anh em Nhảy Dù ra đón xe đò về Sài Gòn. Mọi
người nhìn chúng tôi với ánh mắt ngạc nhiên, chắc có một chút thán
phục và thương hại vì Thiếu úy H luôn miệng nói “chúng tôi về từ mặt
trận Khánh Dương và đây là Bác Sĩ Liêm, người về từ cõi chết”. Xe đò
dừng lại, phụ [tài]
xế mời anh em chúng tôi lên xe đang đông nghẹt khách, cho ngồi ghế
“súp” vì xe hết chỗ, không tính tiền vì nể lính Nhảy Dù.
Xe về đến Ngã Tư Hàng Xanh thì Quân Cảnh
chận lại để xét. Chúng tôi ngồi yên. Quân Cảnh 204 (là Quân Cảnh của
Sư Đoàn Nhảy Dù) lên xe và kêu “Ồ! Bác Sĩ Liêm còn sống à! Chào Bác
Sĩ, cả Sư Đoàn đều nói Bác Sĩ đã chết. Mời BS và Thiếu úy, Trung sĩ
và 3 anh em đây lên xe Jeep về thẳng Bộ Tư Lệnh. Các nón cối, súng
AK, dây nịt, dép râu của địch, tụi tôi xin phép mang về Bộ Tư Lệnh
luôn.” Tôi xin phép đi riêng về nhà để tắm rửa, cạo râu và mặc quân
phục chỉnh tề, rồi tôi sẽ vào trình diện diện Chuẩn Tướng Lê Quang
Lưỡng và Trung tá Bùi Quyền sau. Vừa về đến nhà, chưa kịp hàn huyên
với gia đình thì “Két” một cái, xe Jeep của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù do
đích thân Trung tá Bùi Quyền lái, đến nhà đón tôi về hậu cứ của TĐ
là trại Ngô Xuân Soạn ở Tam Hiệp, Biên Hòa, mổ một con bò khao quân
và mừng Bác Sĩ Liêm trở về bình an vô sự.
Nhảy
Dù Cố Gắng
Tháng 3, 2017 Westminster, Nam Cali
Mũ Đỏ BS Nguyễn Thanh Liêm,
Cựu Y Sĩ Trưởng/Tiểu
Đoàn 5 Nhảy Dù–QLVNCH
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những trang liên hệ
Melbourne: Ngày Quân Lực 19/06/2017
Ngày Quân Lực 19/6/2017 tại Houston, Texas–Hoa Kỳ
Ngày Quân Lực 19/6/2017 tại San Jose, California–Hoa Kỳ
Hình ảnh phóng sự Ngày Quân Lực 19 Tháng 6 – 2017
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Huy hiệu Lục Quân QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E–mail by MĐ Nguyễn Minh Hoàng chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật,
July 2, 2017
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang