Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
LIÊN ĐOÀN NGƯỜI NHÁI HẢI QUÂN-QLVNCH
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Đây là đoạn hồi ký của tôi trong
những ngày Cộng sản chiếm miền Nam, và 2 lần vượt ngục tù cải tạo
trong 3 năm sống với chế độ Cộng sản. Hồi ký này tôi viết tại
trại tỵ nạn Mã Lai, Tiểu bang Kelantan, Tỉnh Kotabaru.
Mùa
Thu, năm 1978.
Dĩ vãng hiện lên đầu óc tôi như
cơn ác mộng bi thương buồn thảm!
...Ngày 21-4-75, tôi được
báo cho biết có cuộc họp báo nơi phòng Khánh Tiết (trong Dinh Độc
Lập). Nội
dung cuộc họp báo tôi chưa được biết, đó cũng là việc làm bảo mật
thường ngày của khối Cận Vệ chúng tôi.
Cuộc họp báo
lúc 19 giờ đêm 21-4-75.
Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa
Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức, bàn giao chức vụ lại cho Phó Tổng
thống Trần Văn Hương làm Tổng thống theo Hiến Pháp do Lưỡng Viện
Quốc Hội chỉ định.
Trong lúc chiến sự gay go nguy hiểm, Cộng
quân đã chiếm toàn miền Trung và đang bao vây Tỉnh Long Khánh. Tin
Tổng thống Thiệu từ chức đã làm cho toàn thể Quân Lực đang chiến đấu
với Cộng quân trên khắp các mặt trận bị giao động hoang mang mất hẳn
tinh thần.
Đến chiều ngày 28-4-75, Tổng thống Trần Văn Hương
họp báo giao quyền Tổng thống lại cho Đại tướng Dương Văn Minh theo
yêu cầu của Lưỡng Viện Quốc Hội VNCH.
Ngày 29-4-75. Tổng
thống Dương Văn Minh ra lệnh trục xuất người Mỹ phải rời khỏi Việt
Nam trong vòng 24 giờ.
Cảnh tao loạn đã diễn ra khắp nơi
trong đô thành, trong khi các phái bộ Hoa Kỳ cấp tốc rời khỏi VN do
cuộc không vận khổng lồ từ các căn cứ ở Thái Lan, Phi Luật Tân và
Hàng Không Mẫu Hạm Đệ Thất Hạm Đội chờ sẵn ngoài khơi. Trong lúc đó
người dân VN cũng được không vận ra đi với các gia đình nhân viên
làm việc cho Mỹ, cũng trong số đó có cả quân nhân, công chức cùng
thoát đi.
Tình hình chiến sự càng lúc càng thêm nguy ngập,
Cộng quân đã cắt hẳn các con đường vào thành phố và đang tập trung
quân để bao vây đô thành.
Về phần tôi, sau khi Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu từ chức, 2 ngày sau tôi được lệnh hộ tống đưa Tổng
thống phu nhân lên phi trường để đi Đài Loan. Anh em Cận Vệ chúng
tôi vẫn túc trực ứng chiến 24/24 tại Dinh Độc Lập. Tôi được biết
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sau khi từ chức vẫn còn ở lại trong Dinh
Độc Lập cho đến đêm 25-4-75. Phái bộ Hoa kỳ vào Dinh “rước đi” cùng
lúc với thành phần Nội Các chính phủ của Ông. Khối Cận Vệ lúc bấy
giờ do Trung Tá Võ Trung Thứ điều hành, và tất cả cận vệ viên từ Sĩ
quan, hạ Sĩ quan và binh sĩ vẫn còn túc trực, vì nhiệm vụ của khối
Cận Vệ là bảo vệ vị nguyên thủ quốc gia. Khi Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu ra đi, chúng tôi lại có nhiệm vụ bảo vệ vị nguyên thủ đương
nhiệm Tổng thống Trần Văn Hương và rồi đến Tổng thống Dương Văn
Minh.
Đối với Ông Trần Văn Hương thì tôi là một trong số những Người
Nhái có nhiệm vụ bảo vệ cho Ông từ khi đang giữ chức vụ Thủ
tướng, Đại tướng Nguyễn Khánh giải nhiệm Ông Trần Văn Hương vào
năm 1965. Cộng sản đã lên 7 bản án tử hình, BTL/HQ chỉ thị cho
toán Người Nhái bảo vệ an ninh cho Ông.
Ông cụ mỗi đêm
thường gọi tôi đến bên Ông ngồi chung trên chiếc võng đong đưa
trong tiền đình của ngôi nhà Santa Maria tại Vũng Tàu. Ông kể cho
tôi nghe những mẩu chuyện trong đời Ông từ thời kháng chiến chống
Pháp trong bưng biền và cho đến lúc Ông ra làm Đô trưởng đô thành
Sài Gòn Chợ Lớn, rồi đến chức vụ Thủ tướng cho đến lúc bị giải
nhiệm. Ông thân thiết và thường khuyên bảo tôi như con cháu trong
nhà. Được vài tháng sau tôi và một số NN trở về BTL/HQ để nhận
công tác đo nước lập thủy đạo, cập nhật hải đồ các bãi đổ bộ cho
toàn miền Nam, từ Bến Hải đến Đảo Phú Quốc suốt mấy tháng trường.
Mãi đến năm 1971, Ông Trần Văn Hương ứng cử Phó Tổng thống chung
liên danh với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Khối Cận Vệ Phủ Tổng
thống đề cử tôi làm Sĩ quan trưởng toán Cận Vệ để bảo vệ cho Ông
trong suốt thời gian Ông cụ đi vận động tranh cử cho đến khi đắc
cử.
Sau lễ Đăng Quang nhậm chức Phó Tổng thống, toán Cận
Vệ chúng tôi trở về nhiệm sở khối Cận Vệ Phủ Tổng thống, Ông cụ
gọi tôi vào và ngỏ ý muốn tôi ở lại làm việc cho Ông, tôi cám ơn
Ông cụ và từ chối. Vì nhiệm vụ của toán Cận Vệ chúng tôi là bảo
vệ cho Ông cụ và cùng lúc huấn luyện cho toán Vệ Sĩ của Phủ Phó
Tổng thống về các phương pháp bảo vệ an ninh cho yếu nhân do Đại
úy Cương (cháu ruột của Ông cụ) làm trưởng toán. Vì có những liên
hệ như trên nên khi Phó Tổng thống Trần Văn Hương đảm nhiệm chức
vụ Tổng thống VNCH do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bàn giao, tôi
lại nhận trách nhiệm Sĩ quan Cận Vệ cho Ông cụ.
Đến ngày
28-4-75. Đại tướng Dương Văn Minh nhận chức vụ Tổng thống VNCH do
Lưỡng Viện Quốc Hội yêu cầu Tổng thống Trần Văn Hương bàn giao.
Đại úy TBH (cháu ruột của Tổng thống Dương Văn Minh) giữ chức
vụ Trưởng Phòng Cận Vệ, lại giao cho tôi và Chuẩn úy Trang Đức
cận sát để bảo vệ cho TT Dương Văn Minh. Đại úy H biết rõ và tin
tưởng khả năng võ thuật và tác xạ của tôi vì Đại úy Huệ phục vụ
bên Võ Phòng Phủ Tổng thống lúc trước, nên Đại úy H thường thao
dượt luyện võ với tôi. Cũng vì vậy mà tôi phải túc trực 24/24.
Tối đêm 29-4-75. Cộng quân pháo kích vào đô thành khắp nơi,
tôi và Thiếu tá Trần Chí Đức trưởng toán 4 Cận Vệ, đang phân phối
điểm gác tại tư dinh số 3 đường Trần Quý Cáp, Đại úy H giao cho
tôi tấm vải trắng để xé ra đeo trên cánh tay trái để làm ám hiệu,
tôi nghi ngờ hỏi Đại úy H: tại sao lại dùng vải màu trắng làm ám
hiệu? Đại úy H không trả lời. Thiếu tá Trần Chí Đức trưởng toán 4
liền lên xe Jeep bỏ đi mất. Một lúc sau thấy không an toàn vì
pháo kích nên Tổng thống Minh và Nội Các chính phủ cùng gia đình
vào dinh Độc Lập nghỉ đêm.
Trung Tá Võ Trung Thứ họp Sĩ
quan chúng tôi lại và rưng rưng nước mắt: Có lệnh cấp trên, các
Anh Em hãy nghe tôi. Hãy nghĩ đến gia đình các anh mà theo lệnh
cấp trên. Buông súng xuống!Tất cả nhục nhã này tôi xin gánh chịu
các anh đừng nên chống lại nữa vô ích....
Trung Tá Thứ còn
nói nhiều nữa, nhưng tôi không còn nghe gì được nữa cả, uất hận
tuôn trào, tôi cảm thấy chơi vơi nhục nhã đau đớn ê chề. Tôi nghĩ
nếu chúng tôi thật sự chống trả thì dầu cho Cộng quân có bao vây
dinh Độc Lập bằng chiến xa, pháo binh hay tấn công bằng phi cơ,
thì chúng tôi cũng có thể giữ được ít nhất là nửa tháng. Chúng
tôi căm tức nhưng biết mình cũng không xoay sở được gì!
Sau khi suy tính cùng các anh em Cận Vệ, tôi và một số anh em
cùng lên xe Jeep chạy đến Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ với hy vọng được rời
khỏi Việt Nam trong những chuyến trực thăng di tản cuối cùng, chớ
không thể bó tay đầu hàng Cộng sản được.
Nhưng chúng tôi
không thoát được định mạng đã an bài, vì khi đến Tòa Đại Sứ Mỹ
nhìn thấy dân chúng đang chờ đợi ngoài vòng rào đông quá, không
thể nào trực thăng chở đi hết được vì đúng 12 giờ đêm 29-4-75 là
hết thời hạn di tản. Chúng tôi chờ mãi đến 5 giờ sáng ngày
30-4-75. Thất vọng và chán nản quá chúng tôi đành quay trở về
dinh Độc Lập. Đầu óc tôi cứ quay cuồng câu Nước Mất, Nhà Tan.
6 giờ sáng ngày 30-4-75. Chúng tôi hộ tống Tổng thống Dương
Văn Minh qua dinh Thủ tướng để họp Nội
Các. Cộng quân bắt đầu pháo kích mạnh hơn vào thành phố, dân
chúng chạy loạn khắp nơi, 9 giờ sáng, 2 chiếc trực thăng dành
riêng cho Tổng thống cất cánh rời khỏi dinh Độc Lập do các Sĩ
quan phi công bỏ đi đúng như dự tính, nhưng vì tôi không có mặt
nên đành lỡ chuyến. Dự định của chúng tôi sẽ đi khuya đêm
29-4-75, nhưng sợ cất cánh ban đêm sẽ bị bắn vì có lệnh giới
nghiêm, nên phải đợi đến sáng.
Trung Tá Lân Chỉ Huy Trưởng
Liên Đoàn An Ninh Danh Dự, Thiếu tá Hậu Trưởng Khối An Ninh Phủ
Thủ tướng và tôi cùng bàn thảo nên thoát đi bằng cách nào, nhưng
vẫn vô kế, vì đường về miền Đông và miền Tây đều bị cô lập. Chúng
tôi nhìn nhau mà lòng buồn man mác.
Tiếng súng vẫn nổ vang
rền trên các đường phố, máy truyền tin bên cạnh chúng tôi vẫn
vang lên lời báo cáo khắp nơi về. Cộng quân đang giao chiến tại
Gò Vấp. Ngã Tư Bảy Hiền đã thấy bóng Việt cộng. Cầu Nhị Thiên
Đường đang đánh.... Tiểu Đoàn Dù đang đụng độ dọc theo các chốt
đóng trên xa lộ, v.v.
10 giờ 30, chúng tôi hộ tống TT Minh
về dinh Độc Lập, trên tay chúng tôi khẩu súng đã trở thành vô
dụng, vì không được nổ súng trong mọi trường hợp. Anh em chúng
tôi đưa mắt nhìn nhau mà không nói được lời nào. Rồi việc phải
đến đã đến. Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều
kiện, đúng như sự nghi ngờ về ám hiệu màu trắng tôi đã nêu trên.
Đầu hàng! Đầu hàng à! Trời ơi! Chúng tôi phải chịu nhục
nhã như vầy sao?
Tổ Quốc quấn khăn tang, mây che phủ đầu
trên thành phố thân yêu. Hàng vạn nhà ra tro ra khói bốc cao trời.
Bài ca “Vuốt Mặt” như vang lên đâu đây... làm cho tôi tê tái
giọng ca uất hờn như tiếng nấc nghẹn ngào của Quê hương. VIỆT NAM
ƠI! VIỆT NAM ƠI!!!
Thật không còn gì đau đớn cho bằng việc
tôi nhìn thấy cảnh mất nước do một số người ham tranh giành ngôi
vị để rồi giờ đây đứng cúi đầu trước quân thù trên thềm dinh Độc
Lập nơi mà cả thế giới nhìn vào trên bốn ngàn năm lịch sử oai
hùng của dân tộc.
Bắt đầu các tên Việt cộng nằm vùng tiềm phục trong các cơ quan lộ
mặt trong dinh Độc Lập thì do tên thợ điện đứng ra tiếp thu rồi
giao lại cho đơn vị bộ đội Hương Giang chiếm giữ.
Sau 5
ngày bị quản thúc tại dinh Độc Lập, chúng tôi được thả về để chờ
lệnh tập trung cải tạo. Lòng tôi tan nát không còn nghĩ suy gì
được nữa cả. Tôi lang thang trên đường phố hết ngày này sang ngày
khác. Từ thuở nhỏ cho đến bây giờ tôi chưa bao giờ rơi nước mắt
vì bị thương tích của thể xác, nhưng sao bây giờ nước mắt tôi cứ
tuôn ra không sao cầm lại được.
Đến ngày chúng
gọi tất cả Sĩ quan đi trình diện học tập cải tạo mà tôi vẫn chưa
nghĩ ra được cách nào để hoạt động chống lại bọn Cộng sản vì thời
gian phải trình diện quá ngắn và còn quá rối loạn, nên đành phải
đi trình diện học tập, mong nếu chúng giữ lời hứa là Sĩ quan cấp
Úy chỉ đi học tập cải tạo 10 ngày, sau đó mới có cơ hội hoạt động
được.
Ngày 28-6-75 là thời hạn cuối cùng, tôi đến trình
diện tại trường Sơn Hà (Dakao). Đến 2 giờ sáng ngày 29-6-75,
chúng điểm danh và đưa chúng tôi lên xe Molotova bỏ mui bố phủ
kín lại trong khi di chuyển. Khoảng 4 giờ sáng đến nơi, có người
biết nơi đây là Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 5 Công Binh (Thành Ông Năm)
căn cứ này còn nguyên vẹn. Khoảng 9 giờ sáng bọn chúng ra lệnh
chúng tôi đi thâu dọn tất cả đạn dược rơi rải khắp nơi trong trại
để giao lại cho chúng. Riêng tôi vẫn nghi ngờ bọn chúng không
thật sự giữ lời hứa, nên tôi lén đem giấu 5 trái lựu đạn M26 nơi
đống cát trước dãy trại của tôi ở.
Bắt đầu bọn chúng tổ
chức chia chúng tôi ra từng khu vực, mỗi khu khoảng 150 người,
mỗi đội gồm 5 hoặc 6 tổ, mỗi tổ 12 người. Tổ chức nhà bếp, nhà
cầu và đào giếng nước. Tôi càng nghi ngờ hơn về chính sách của
bọn chúng, vì nếu chỉ đi học tập trong vòng 10 ngày thì bọn chúng
bắt chúng tôi phải làm tiện nghi có tính cách dài hạn để làm chi?
Đến ngày thứ 3, chúng bắt đầu thâu tiền cơm 10 ngày, bọn
chúng cho chúng tôi uống thuốc ngừa sốt rét? trong 5 ngày và phải
uống trước mặt của chúng nó, tôi không tin vì nghi ngờ nên chỉ
ngậm trong miệng đem ra ngoài bỏ đi.
Lần lựa ngày này sang
ngày khác, đã đến 10 ngày rồi mà bọn chúng không nói năng chi cả,
có người hỏi thì chúng trả lời các anh chưa học tập bài nào cả
nên chưa về được. Rồi một tháng trôi qua chúng vẫn im lìm.
BẮT ĐẦU NGHIÊN CỨU VÀ TỔ CHỨC VƯỢT TRẠI TÙ
Lợi dụng ban ngày
còn đi qua lại các trại khác được, tôi qua khu trại kế bên để tìm
người đồng tâm ý để sắp đặt kế hoạch từ trong trại này thoát ra
rồi phải làm thế nào, v.v. Khoảng 2 tuần sau, tôi đã tổ chức được
2 tổ, mỗi tổ là 2 người, tổ 1 tên Nam và Dũng, Nam là cháu của
Giám Đốc Quan Thuế phi cảng Tân Sơn Nhất, còn Dũng thì có nhà
thuốc Tây ở đường Bùi Viện Quận Nhì Sài Gòn, gia đình của 2 anh
có ghe tàu sẵn, đang chờ 2 anh ra để vượt biên.
Tổ 2 Hoàng
Trinh, Sĩ quan Đại Đội Biệt kích Dù đã từng nhảy xuống Hạ Lào, và
Nguyễn Hoành, Đại Đội Trưởng Biệt Động Quân. Anh Hoành biết được
2 thứ tiếng Thượng phổ thông. Dự tính tổ 2 khi ra khỏi trại sẽ
vượt biên giới qua Thái Lan để tìm đường giây kháng chiến trở về
giải phóng đất nước. Trong 2 tổ, tôi thích tổ 2 hơn vì đồng quan
điểm là chúng tôi phải làm gì cho quê hương đất nước chớ không
thể khoanh tay. Nhưng vẫn phải chờ cơ hội, vì các anh đều còn hy
vọng là được bọn CS thả về rồi mới xoay xở về sau.
Tháng
thứ 2 đã trôi qua, bọn chúng bắt đầu cho học tập 10 bài chính trị
trong tháng thứ 3. Nội dung các bài có tính cách phỉ báng chế độ
VNCH, và ngụ ý tất cả người dân miền Nam đều có tội với cách mạng
của bọn chúng qua nhiều hình thức khác nhau... Tháng thứ 4, sau
khi học xong 10 bài, bọn chúng bắt tất cả phải khai tội đối với
cách mạng, và dụ dỗ phải khai cho thật, chúng sẽ khoan hồng, v.v.
Tôi rất nóng lòng vì biết bọn chúng chẳng bao giờ thả tôi ra.
Tôi giấu nhẹm không khai thành tích diệt Cộng sản khi còn ở đơn
vị Người Nhái đã từng tiêu diệt VC trong những lần phục kích và
đột kích vào mật khu của chúng trong vùng Rừng Sát Nhà Bè, trong
suốt mấy tháng hành quân phối hợp cùng với Seal Team Hoa Kỳ.
Nhưng tôi vẫn lo không biết là hồ sơ trong đơn vị còn nguyên hay
đã được tiêu hủy trước khi chúng vào.
Tôi tổ chức một
người bạn ngày trước làm việc tại BTL/HQ/P4 ở gần phòng tắm của
bọn cán bộ để lấy tin tức tình hình ở ngoài như thế nào, sau mấy
tuần tôi được biết ở ngoài đã có biểu tình đòi chồng con đang đi
học tập, và có đụng độ ở Đèo Cheo Reo và Đèo An Khê, Ban Mê Thuột
có pháo kích do phần tử ly khai của Quân Đội VNCH thực hiện.
Những tin này càng làm cho tôi tin chắc các Sĩ quan sẽ khó mà
được chúng thả về. Tôi đem tin này bàn với tổ 1, Nam và Dũng đều
không dám vượt rào, tôi đành phải nói xuôi theo là cùng chờ đợi.
Tôi bàn với tổ 2, Hoành và Trinh hơi ngần ngại, nhưng tôi khích
động nên 2 anh đồng ý vượt rào, kế hoạch từ trong ra ngoài thì
bên của ai nấy lo, và hẹn điểm gặp nhau ngoài vòng rào là bãi tha
ma cách vòng rào phía Đông chừng 700 thước. Tôi đem những điều đã
nghiên cứu như sau cho Hoành và Trinh biết:
Hệ thống
phòng thủ: Cô lập từng khu; an ninh mật báo từng tổ (vì thế mà
tôi không tổ chức vượt rào trong đội của tôi); giới hạn đi lại
qua con đường nhựa; ban đêm có lính gác đôi lưu động có đèn rọi
sáng cả con đường nhựa; bờ đê cao 2 thước; 6 lớp consertina;4 lớp
rào kẽm gai, rào đứng, xiêng, ngang và hào chống chiến xa sâu 4
thước, rộng 5 thước; 2 giờ đổi gác 1 lần;ở ngoài vòng rào khoảng
2 giờ có toán tuần tiễu (đoán theo tiếng chó sủa).
Khi
thoát ra đến điểm hẹn ngoài vòng rào nơi bãi tha ma, nếu quá 2
tiếng đồng hồ không gặp nhau thì tự tìm về Sài Gòn, qua ngày sau
sẽ gặp nhau tại điểm hẹn ở xa lộ Biên Hòa, trễ nhất là ngày thứ 3
sau khi ra được phải gặp nhau để bàn tính thêm kế hoạch vượt biên
giới.... Bây giờ chúng tôi chỉ còn chờ cơ hội và thời tiết thuận
tiện.
Đời sống của các Sĩ quan VNCH trong các
trại giam cầm mà bọn CS gọi danh từ thật hoa mỹ là “Học tập cải
tạo” thực ra chỉ để trả thù tập thể Quân Đội VNCH, giết lần mòn
vì đói thiếu dinh dưỡng, bệnh tật vì không có thuốc men. Trong tổ
của tôi có anh bạn Trần Văn Hồ bị bệnh tiêu chảy suốt 1 tuần lễ
mà phòng Y Tế không cho một viên thuốc nào cả, đến tuần lễ thứ 2
thì bệnh biến chuyển qua kiết lỵ, anh em cùng tổ lo cho nhau chớ
phòng Y Tế không ngó ngàng gì đến. Ăn uống quá thiếu dinh dưỡng,
chỉ trong vòng 2 tháng mà trại đã có khoảng 40% bị liệt bại.
Tôi nghi ngờ là bị chúng đầu độc bằng thuốc mà bọn chúng đã
cho uống khi mới vào trại, từ khi uống thuốc vào, khoảng chừng 2
tháng rưỡi sau, đang đứng mà té lúc nào chẳng hay.
Trong
suốt gần 4 tháng mà chúng tôi chỉ ăn được mỗi tháng một lần thịt
heo, mỗi người được khoảng 8 gram thịt, mỡ lẫn da. Tôi nghĩ may
là trại này còn được mấy con heo do trại gia binh quân đội VNCH
bỏ lại, nên bây giờ chúng tôi mới được ăn thừa của bọn chúng bỏ
ra cho. Thèm thịt, thiếu mỡ, không đường, nên chúng tôi bắt tất
cả con gì ăn được mà ăn như chim chóc, rắn rết, chuột, ếch, cóc
nhái, ễnh ương, v.v.
Còn về tinh thần anh em Sĩ quan thì
lụn bại thê thảm, tất cả đều bi quan về cuộc chiến thảm bại vừa
qua, ý nghĩ của họ mong mỏi được CS khoan hồng mà thả họ về với
gia đình phục hồi đời sống cũ. Cũng trong trại tôi có gặp 2 người
bạn ở trại kế bên, một anh lúc trước chỉ huy toán phòng không
dinh Độc Lập, thuộc Toán 4, khi chiếc phản lực cơ do tên phản
nghịch Nguyễn Thành Trung, mang bom dội vào dinh Độc Lập, anh đã
kịp thời bắn chận nên lần thứ 2 bom thả đã lệch ra ngoài vì không
còn chính xác, và anh trưởng toán gác dinh Độc Lập. Tôi đem ý
định vượt rào thì anh nào cũng không dám thực hành mà cũng chỉ
mong được thả về đoàn tụ với gia đình.
Thời cơ đã đến do
việc chúng nó phát động phải tích cực lao động nặng. Tôi suy đoán
là chúng nó sắp chuyển chúng tôi đến trại khác xa xôi và làm việc
nặng nhọc hơn. Tôi bàn tính với Hoành và Trinh nếu để chúng đưa
đi trại khác thì chúng ta không thể biết được tình hình nơi đó,
nếu muốn vượt trại chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, tôi đề
nghị vượt trại vào ngày 17-9 âm lịch là ngày 21-10-75. Hoành và
Trinh hỏi tôi tại sao lại chọn ngày trăng tròn mà ra?
Tôi
trả lời: Mình chọn ngày đó là vì yếu tố bất ngờ, bọn chúng nghĩ
chúng ta không dám ra trong những đêm có trăng sáng, chúng sẽ
chểnh mảng hơn, và kế hoạch tôi là sẽ vượt ra lúc 8 giờ tối, sau
7:30 giờ điểm danh thì bọn chúng thay vọng gác mà đi tuần dưới
đất, và trước 9 giờ giới nghiêm, và giờ đó trăng chưa mọc. Còn
thoát ra thì 2 anh nghiên cứu như thế nào thì hãy cố gắng vượt
ra, còn tôi thì đã có cách riêng. Chúng ta phải đi riêng rẽ,
chúng nó khó phát giác hơn. Tôi khích động tinh thần 2 anh:
“Chúng ta toàn là tay thiện chiến, Biệt Động Quân, Biệt Kích Dù
và Người Nhái, chúng ta phải chứng tỏ cho chúng nó biết khả năng
của chúng ta”. Tôi tiếp: Tôi nói thật với các anh, nếu ngày mai
này chúng nó thả tôi ra mà ngày hôm nay có cơ hội tôi cũng thoát
ra trước khi chúng nó thả. Tôi khích động tinh thần và danh dự
Binh chủng của các anh nên 2 anh đồng ý theo chương trình đã
hoạch định cho ngày 21-10-75.
Vượt trại! Vượt
trại!
Tiếp theo có tiếng súng nổ và tiếng kẻng đánh liên
hồi... và lệnh tập họp điểm danh lúc 2 giờ khuya đêm 14-10-75.
Tập họp điểm danh, báo cáo quân số xong, chúng tôi được biết có 2
Sĩ quan cấp Đại úy đã vượt rào bị phát giác và bị bắn chết 1 anh
tại hàng rào và 1 anh bị thương nơi chân, chúng kéo lôi anh này
vào để tại hội trường để cảnh cáo chúng tôi hãy xem đó làm
gương.... Sáng ngày các anh em bó chiếu xác anh đã chết và chôn
tại chỗ, còn anh bị thương thì chúng mang đi đến các trại khác để
cảnh cáo.
Sự việc xảy ra đã làm cho Hoành và Trinh mất
tinh thần không ít. Tôi cố gây niềm tin cho 2 anh, phân tích kỹ
những lỗi lầm của nạn nhân cho Hoành và Trinh thấy: Các anh đó
chọn thời điểm không đúng, 2 giờ khuya thanh vắng quá, nhằm ngày
mồng 9 âm lịch, giờ đó có trăng non, và mặc đồ màu xanh lợt nên
dễ bị phát giác, và còn nhiều chi tiết mà tôi không biết rõ.
Chúng tôi cùng kiểm soát lại kế hoạch xem coi có cần bổ
khuyết hay không? Và chúng tôi cương quyết vượt trại giam, với
tinh thần bất khuất, bất chấp mọi nguy hiểm sẽ xảy ra cho mình.
Tôi rất tin tưởng mình sẽ vượt ra an toàn. Chúng tôi chờ đợi chỉ
còn đúng 1 tuần là đến ngày quyết định với cảnh giác căng thẳng
tột độ.
21-10-75. Ngày, giờ quyết định đã đến, lúc 7giờ
tối tôi mang qua trại của 2 anh Hoành và Trinh 3 trái lựu đạn M26
(tôi đã giấu trong đống cát như đã kể trên) còn tôi giữ lại 2
trái. 2 anh ngạc nhiên, tôi giải thích cho 2 anh biết và căn dặn,
nếu lỡ bị phát giác khi trốn ra thì phải hy sinh chớ đừng để
chúng nó bắt lại.
Chúng tôi cùng kiểm điểm lại lần cuối
cùng kế hoạch đào thoát. Hoành là người hoạt bát và nhờ thế nên
Hoành đã nhờ cán bộ mua giùm 100gr café và đường cách nay hơn một
tháng, tôi đã dặn Hoành để dành lại cho ngày hôm nay 3 ly café
đặc. Chúng tôi vừa uống vừa tính toán, khi xong hết, Hoành nói là
cần mang theo mền và mùng vì đó là kỷ niệm đời binh nghiệp của
anh. Tôi không đồng ý nên ngăn cản.
Trong lúc đó lại thấy
gió thổi mạnh và mây đen kéo đến làm cho anh em chúng tôi lên
tinh thần vô cùng, tôi thầm nhủ “Trời thương anh em chúng con
rồi!”.
19 giờ 30 là giờ tập họp điểm danh, tôi từ giã
Hoành và Trinh hẹn đúng 20 giờ vượt trại và gặp nhau ngoài điểm
hẹn tại bãi tha ma. Tôi lần ra hàng rào kẽm gai cô lập trở về
trại mình. Tôi đã tạo thói quen là cứ đến khoảng 19 giờ là tôi
giăng mùng sẵn để các người cùng tổ không để ý tới tôi, hôm nay
cũng vậy. Tôi từ bên trại của Hoành và Trinh về, tập họp điểm
danh xong tôi liền vào mùng nằm, chừng 20 phút sau, tôi ra đi
tiểu, lúc này gió thổi rất mạnh, mưa bắt đầu rơi, trại chúng tôi
cũng như trại của vệ binh VC đều lo đóng cửa sổ, thừa lúc lộn xộn
đó tôi vội bước qua hàng rào kẽm gai lọt qua khu vực của vệ binh
VC, đi nhanh ra bờ đê và lăn nhanh qua bờ đê, tôi nằm im để nghe
động tịnh và móc ra 2 miếng cao su, (tôi lấy ruột xe mà bọn VC bỏ
lại khi chúng cắt các vỏ xe máy ủi đất để làm dép, tôi đã cắt lỗ
để xỏ mấy ngón tay và đem cất giấu) tôi mang 2 bao tay giả vào và
bò đến hướng đã định, dùng bao tay giả đó để nâng đỡ kẽm gai,
lách mình chui qua, tôi làm rất thận trọng, nhanh nhẹn và chính
xác, vì tôi đã nghiên cứu thật kỹ từ loại kẽm gai và cách thức
rào ra sao như rào đứng thì bợ lách như thế nào, rào xiên thì
phải nâng đẩy và đưa chân nào ra trước, rào thấp ngang mặt đất
thì phải nằm ngửa và đỡ từng sợi kẽm gai, rào consertina phải
lách và chui qua làm sao.... Vì thế nên vượt qua 10 lớp kẽm gai
hàng rào và hào chống chiến xa, chỉ trong vòng 15 phút đến 20
phút thì tôi đã có mặt ngoài hàng rào rồi, tôi tiến nhanh vào lũy
tre cách hàng rào khoảng 50 thước ẩn mình vào bóng tối của lũy
tre để tránh đường chân trời.
Mưa bắt đầu nặng hột, tôi
thu mình dưới lũy tre cố giương mắt nhìn về hướng điểm hẹn bãi
tha ma cách đó khoảng 100 thước, vì đề phòng 2 anh bạn bị lộ có
thể chỉ điểm cho cán bộ bao vây.
Cơn mưa kéo dài đến
khoảng 11 giờ đêm, vẫn không thấy bóng dáng của Hoành và Trinh,
còn ở trong khu trại giam cũng không nghe báo động. Mưa đã tạnh
lần, tôi di chuyển ngược lên hướng đào thoát của Hoành và Trinh
để đón cũng không thấy tăm hơi chi cả. Tôi nóng lòng, suy nghĩ
không lẽ 2 anh bạn này không dám vượt ra? Càng về khuya càng cảm
thấy nhiều nguy hiểm! Nhưng tôi vẫn cố gắng đợi chờ, câu hỏi tại
sao, tại sao cứ loanh quanh trong đầu óc của tôi. Cảnh đêm khuya
hoang vắng cạnh bãi tha ma trong rừng chồi nó âm u làm sao! Tôi
cố chờ mãi đến khoảng 2 giờ khuya, bầu trời lại bắt đầu vần vũ,
mây đen kéo đến mờ mịt. Biết sắp có trận mưa to, tôi lo ngại quá,
vì điểm hẹn chỉ cách hàng rào trại giam có khoảng 700 thước. Trời
mưa mà tôi đổ mồ hôi hột vì lo cho 2 bạn của mình, tôi không nỡ
bỏ đi, nhưng ở lại thì thập phần nguy hiểm có thể bị chúng bao
vây bắt lại.
Tôi đang suy tính bỗng nghe có tiếng nói và
tiếng chân người đi tới, tôi cấp tốc nép mình vào bụi cây, lòng
hoang mang hồi hộp chờ đợi. Khi đoàn người đến gần, tôi lắng nghe
tiếng nói chuyện.... À! Thì ra là những người dân trong thôn xóm
đang gánh rau cải ra chợ bán! Ý nghĩ thoáng nhanh trong đầu tôi,
mình phải rời khỏi nơi nguy hiểm này trước, về Sài Gòn rồi sẽ gặp
nhau tại điểm thứ 2 an toàn hơn, vì địa thế nơi đây tôi không
biết nên sẵn dịp này tôi nương theo những người gánh hàng để
tránh các chốt chận khám xét của VC.
Và tôi đã ra đến chợ
Hốc Môn, tôi đón chuyến xe đò sớm nhất và về đến Sài Gòn lúc 7
giờ sáng. Tôi đến nhà người bà con bên vợ để hỏi thăm tin tức và
liên lạc với vợ con, tôi và vợ con gặp lại nhau sau 6 tháng qua
người bà con này, tôi ở tạm đây vài hôm để liên lạc với Hoành và
Trinh, nhưng suốt mấy ngày liền tôi đến điểm hẹn đều không có tin
tức của 2 anh. Vợ tôi cũng đã thay tôi liên lạc với gia
đình của Hoành và được biết không có tin tức gì về
Hoành cả. Thế là chương trình dự tính vượt biên giới qua Thái
Lan không thành!
Sau mấy ngày ở tạm nhà người
bà con, tôi từ giã và di chuyển qua nhà anh Nguyễn Thành Nhơn ở
tạm phía sau để liên lạc lại với các anh em đồng chí hướng.
Trước năm 1975. Anh Nguyễn Thành Nhơn, là Chủ Tịch Tổng Cuộc
Phong Trào Thể Dục Thẩm Mỹ Việt Nam và cũng là Chủ Tịch Tổng Cuộc
Thám Hiểm và Săn Bắn Cá Dưới Biển VN. Giám Đốc Chương Trình Sức
Khỏe Giống Nòi, Chương Trình Con Kiến Càng trên Đài truyền hình
VN. Đối với tôi, anh Nguyễn Thành Nhơn là người Thầy và cũng là
người Anh tinh thần của tôi, vì trước khi nhập ngũ vào Quân Đội
tôi đã được anh huấn luyện trở thành Huấn Luyện Viên của phòng
tập Trung Ương.
Tôi ở ẩn trong nhà anh và thường xuyên
liên lạc với các anh em cùng đơn vị (Xin tạm dấu tên vì các anh
em còn đang ở VN) đang chờ đợi những đường dây yểm trợ từ ngoài
về để cùng nhau hoạt động lật đổ chế độ Cộng sản bạo tàn này.
NGÀY ĐỊNH MẠNG ĐƯA TÔI VÀO TÙ LẦN THỨ NHÌ
(Ngày 9-4-76.
Sau 6 tháng vượt trại tù Thành Ông Năm).
Vào lúc 7 giờ
tối, tôi đang đứng chờ vợ tôi làm việc ở tòa soạn báo Tin Sáng,
mãn việc ra về, tôi đón nàng để đưa lại chiếc xe velo solex cũ
(không có gắn máy). Vì thương con sợ con bị kẹt chân vào bánh xe
làm con đau vì nó đã bị kẹt một lần rồi nên tôi vừa gắn chiếc yên
nhỏ để cho vợ tôi chở con tôi. Vì thân phận vượt tù nên tôi phải
trốn tránh không thể để cho bà con thân thuộc biết được. Tôi đang
đứng chờ đợi ở trước trụ sở Khóm mà tôi không biết vì chúng không
có treo bảng, khoảng chừng 15 phút, tôi thấy 2 tên công an trong
trụ sở đi đến hỏi giấy tờ của tôi, tôi lo sợ nhưng không còn
tránh né được nữa đành phải đưa giấy tờ ra, chúng giữ giấy tờ của
tôi và mời tôi vào trụ sở, tới lúc đó tôi mới biết là đang đứng
trước hang cọp. Vừa lúc đó vợ tôi nghỉ việc ra về vừa đi tới, tôi
vội trao chiếc xe cho vợ tôi và dặn “Anh đang bị theo dõi em hãy
đi nhanh đi hãy lo cho con”.
Rồi tôi theo công an vào trụ
sở. Sau khi xem giấy tờ tên công an nghi ngờ giấy tờ của tôi là
giả, nên giữ tôi lại để chờ điều tra lại địa chỉ. Lòng tôi lúc đó
như lửa đốt vì tôi biết sẽ không thoát được, giấy tờ của tôi toàn
là giả thì làm sao chứng minh được?
Tôi nghĩ hậu quả sẽ vô
cùng thảm khốc, nên có ý định hạ tên công an đang canh gác. Tôi
xin đi tiểu để xem địa thế. Xung quanh tòa trụ sở này tường cao
khoảng 2 thước phía trên đầu tường có gắn miểng chai lại còn 1
vòng kẽm consertina, phía sau có dãy nhà bếp, phòng chứa củi và
nhà cầu, trên nóc nhà cũng có vòng kẽm gai consertina. Tôi vào
phòng tiểu, suy tính chỉ có phía sau là hy vọng nếu nhảy qua được
phía bên nhà khác. Tôi nghĩ đã đến đường cùng rồi nên quyết định
hy sinh nếu không thoát được thì thôi! Tôi ra khỏi nhà cầu và
bước theo tên công an bất thần tung ra một quả đấm vào hàm hạ của
tên này, nhưng rủi thay, tên này trước khi bị ngất xỉu đã la lên
một tiếng, tôi chạy nhanh lấy đà đạp lên thành tường nhảy lên nóc
nhà phía sau, chạy dọc theo đường kẽm gai, trong lúc đó bọn công
an túa ra và bắn theo tôi, tôi vẫn cố chạy trên nóc nhà, dự tính
nhảy qua nóc nhà khác, bỗng tôi bị trượt chân vì miếng ngói tróc
xi măng nên đành nhảy trở xuống đất. Thôi rồi! Mặc tình cho bọn
công an xúm lại còng tay tréo ra sau rồi chúng thi nhau đấm đá
vào thân thể tôi, chúng treo tôi lên cửa sắt với chiếc còng sắt,
sức nặng của thân hình trên 60 ký lô mà bị treo hổng chân tréo
tay như thế, nên tôi không còn sức chịu đựng với những trận đòn
như mưa bấc. Thân mình tôi gục xuống như tàu lá rũ.
Sáng
hôm sau chúng đưa tôi lên khẩu cung. Để tránh liên lụy cho anh
Nguyễn Thành Nhơn, tôi khai theo lời sắp sẵn là “Sĩ quan trốn
trại học tập về thăm nhà, nhưng không dám về nhà vì biết công an
canh chừng nên phải lang thang ngoài chợ trời, đêm đến thì mướn
chiếu ngủ ngoài nhà ga xe lửa, v.v.” Sau đó bọn chúng giải tôi
qua phòng giam Quận Nhì, trên đường đi tôi có ý định nhảy xuống
xe nhưng không có cơ hội vì chúng nó còng tay tôi chung với ông
ký giả Trần Hồng Thu. Đến Quận Nhì, sau khi làm thủ tục, chúng
đem tôi và ông Thu vào phòng giam.
Trại giam quận 2 Sài
Gòn.
Nơi đây thật đúng là địa ngục ở trần gian! Chúng vừa
mở 2 lớp cửa sắt ra, mùi hôi nồng nặc, chúng xô tôi vào trong rồi
khóa cửa lại. Cảm tưởng của tôi nơi đây như là nhà thương điên.
Trong ánh sáng âm u tôi thấy không biết là bao nhiêu người, thân
hình gầy guộc trần truồng như nhộng. Lớp thì bất động miệng thều
thào, còn những người mạnh hơn thì bao quanh tôi, xô đẩy nhau
dành được đến gần tôi, thật là một cảnh tượng kỳ lạ mà tôi chưa
bao giờ thấy. Tên đại diện trại giam phải đánh đập la thét những
người này mới chịu dang ra khỏi tôi, tên đại diện hỏi tôi có mang
theo thuốc lá không? Tôi trả lời không có vì tôi không biết hút
thuốc. Tốp người vây quanh tôi mới thở dài chán nản. À! thì ra
các người tưởng tôi mới vào có đem theo thuốc lá nên mới tranh
nhau để xin thuốc lá. Tên đại diện trại giam đưa tôi vào trong
một phòng giam phía trong nữa rồi khóa lại. Các người vây quanh
hỏi thăm tôi đủ chuyện, tôi chán nản ngồi bó gối không muốn trả
lời, vì biết có trả lời cũng không xuể.
Đời sống trong
trại giam này chắc không có ai tưởng tượng được, phòng còn để
bảng phòng giam rộng 8 thước vuông, phạm nhân giam chứa tối đa là
40 người, nhưng bọn CS đang giam gần 300 người. Nơi đây nếu người
nào đứng lên thì mất chỗ ngồi, và không đủ không khí để thở, vì
vậy mà đêm ngày gì phạm nhân cũng mình mẩy ướt đẫm mồ hôi, ăn
uống không có dinh dưỡng, một bữa ăn là 2 chén cơm lường bằng
chén nhỏ cho mỗi người, đổ chung vào cái thau nhôm với 4 giá canh
rau muống nấu với muối hột, 6 người ăn chung với 3 chiếc muỗng
chia nhau múc ăn, vì tranh ăn nên bữa ăn nào cũng cãi vã, đánh
đấm nhau, ồn ào suốt ngày đêm. Ban đêm thì nằm sắp chồng lên
nhau, tới lỗ cầu tiêu cũng được nhét giẻ lại để nằm, các song sắt
trong hai phòng giam riêng cũng được chia nhau đeo vào song bằng
chiếc áo lót cột ngang lưng để ngủ.
Vì tình trạng nêu trên
nên những người bị bắt vào đây chỉ trong vòng 2 tháng là bắt đầu
bị ghẻ, loại ghẻ thiếu dinh dưỡng này nổi lên thành vành chính
giữa thì lõm sâu và chảy nước vàng. Nước vàng này chảy đến đâu
thì ghẻ lở chỗ đó, và sau đó bị liệt bại, ban đêm bị ghẻ lở hành
hạ, bệnh nhân la khóc vang trời. Tôi có cảm tưởng như đang ở Địa
ngục, thỉnh thoảng có người chết vì liệt bại, thân xác nạn nhân
được lôi ra khỏi phòng.
Tôi cố gắng giữ sức khỏe, hàng
ngày đều tập thể dục, chạy bộ 400 bước, hít đất 100 cái, tập tay
mỗi bên 60 cái. Chịu đựng được đến tháng thứ 5, tôi cảm thấy yếu
lần.
Dự tính phá trại giam Quận Nhì.
Tôi đã có ý
nghĩ phải phá trại giam này từ ngày đầu khi đặt chân vào đây
nhưng chưa tìm được người thích hợp nên phải chờ đến bây giờ.
Trong thời gian ở đây tôi quen với một ông Trưởng ty Xã Hội
tại Tỉnh ở Cao Nguyên (Xin tạm dấu tên vì còn đang ở Việt Nam),
Ông là đảng viên của Đại Việt. Ông thường kể cho nghe về quá
trình hoạt động của Đảng và về cá nhân của Ông.
Vào khoảng
một tháng nay, tôi để ý theo dõi một người bị bắt về tội tư sản
mại bản, vì tồn trữ 60 tấn café sống mà không khai báo, tên là Hồ
Ngọc Ẩn. Nhà ở đường Tự Do, mỗi tuần đều phải lên phòng Điều Tra
lấy khẩu cung, tôi làm quen và hỏi thăm ý định sau này của anh,
anh cho biết là không thể chịu đựng nổi ở nơi đây, và anh có ý
định trốn. Tôi gợi ý hỏi Ẩn, nếu muốn thoát ra, anh phải làm sao?
Ẩn nói về cách trốn của Ẩn, tôi thỉnh thoảng bổ túc cho Ẩn, tôi
thấy Ẩn có vẻ vui mừng.
Vì tôi nóng lòng tìm người để thực
hiện kế hoạch của tôi nên tạm chọn Ẩn, nhưng tôi chưa cho Ẩn biết
ý định của tôi. Ngày hôm sau Ẩn được gọi lên lấy khẩu cung lúc 8
giờ sáng thì khoảng 9 giờ có tiếng gọi tên tôi và Ông Trưởng ty,
khi tôi và Ông vừa ra khỏi phòng giam thì đã có tên cán bộ trưởng
trại và 2 tên công an ôm súng AK, tên cán bộ ra lệnh còng tay tôi
và ông Trưởng ty rồi day qua chỉ mặt và nói với tôi: “Tao đã biết
kế hoạch của chúng mày rồi, dự định Chúa nhật này sẽ giết cán bộ,
cướp vũ khí, phá trại giam”, rồi quay lại bảo 2 tên công an đem
chúng tôi qua trại giam đặc biệt. Phòng giam đặc biệt bề dài 3
thước, bề ngang rộng 1 thước, nhốt 10 người, tiêu tiểu tại chỗ,
lỗ thông hơi để thở thì vừa lọt bàn tay, và đến giờ cơm được bọn
cán bộ đưa vào mỗi tù nhân là một chén cơm đút vào vừa lọt cái lỗ
thông hơi. Sự việc xảy ra tôi nghĩ là do tên Hồ Ngọc Ẩn phản bội
đã báo cáo với công an để lập công.
Nhất nhật tại tù,
thiên thu tại ngoại!
Ngày ở trong tù sao mà dài lê thê,
ngột ngạt, nặng nề ghê gớm vô cùng. Ngồi bó gối, tôi ôn lại những
chuỗi ngày trong tù cải tạo lần trước.
- Thiếu úy Trần tấn
Mao, Sĩ quan tiếp liệu Người Nhái đã buồn rầu, khóc thương cho
gia đình 14 đứa con đói khổ của mình, tôi thường khuyên và gợi ý
vượt trại với anh. Nhưng biết mình già yếu, không đủ can đảm vượt
trại, anh chỉ mong được Cộng sản giữ lời khoan hồng thả anh về
đoàn tụ với gia đình. Anh khóc mãi. Khóc đến mù đôi mắt! Tôi
buồn, tôi suy tư, những hình ảnh sắt máu gớm ghê chẳng bao giờ
tôi quên được! Tôi căm thù, uất hận. Tôi nguyện sẽ đem hết sức
mình để làm những gì mà tôi có thể làm được, để đóng góp cho ngày
lật đổ Cộng sản, giải phóng quê hương được trở lại ngày tự do
tươi sáng. Nước mắt tôi rơi. Đúng tôi khóc chứ! Tôi khóc vì căm
thù, vì uất hận, hổ thẹn lớp người chúng tôi đã để mất nước....
Việt Nam ơi! Việt Nam ơi! Chúng con phải làm sao? Phải làm gì cho
tổ quốc? Rồi bây giờ tôi lại đang sa vào lao lý, biết bao giờ tôi
thoát được nơi đây?
Sau 10 ngày giam tôi nơi biệt phòng để
chúng điều tra lại, nhưng không ra manh mối, nhưng chúng không
dám trả tôi về phòng giam cũ, chúng chuyển tôi qua phòng giam
Quận Nhất kiên cố hơn. Tôi vừa vào phòng giam thì đã thấy 2 người
bị giam bên quận 2 là anh Tiến, Trung úy Cảnh sát và Ông Trưởng
ty. Chúng tôi chào mừng nhau và với các bạn tù mới, trong phòng
giam này có một băng đảng cướp có súng nổi tiếng trước năm 75, là
băng đảng Đà Lạt. Trong khoảng thời gian trước năm 75, băng đảng
này đã từng tranh giành ảnh hưởng khu vực làm ăn của nhau với
băng đảng Đại Cathay ở vùng Sài Gòn. Bằng đại diện cho 4 anh em
trong băng đảng, đến gặp tôi chào hỏi và ngỏ lời nhờ tôi đứng ra
sắp xếp kế hoạch phá trại giam này, Bằng nói: “Tụi em đã nghe
tiếng anh đã từng vượt trại tù cải tạo, và vừa rồi lại bị bể kế
hoạch phá trại giam ở Quận Nhì, v.v.” Tôi chỉ cười mà không trả
lời.
Mỗi ngày Bằng và các anh em đều đến ngồi chung và tâm
sự. Bằng kể lại chuyện xưa và nói: “Chúng em ngày trước chỉ biết
ăn chơi du đãng du thực, phá phách, trốn tránh không chịu đi lính
để bây giờ chúng nó chiếm miền Nam tất cả đều đói khổ. Bây giờ
tụi em hối hận quá! Mong nếu tụi em ra được lần này, tụi em nhất
định phải tìm cách phá tụi nó.”
Vì tôi vừa bị phản bởi tên
Ẩn, nên thận trọng hơn, tôi đã nghĩ cách phá chỗ này rồi nhưng
còn giữ kín. Tôi hỏi Bằng và anh em có được thăm nuôi không? Bằng
đáp hàng tuần đều được thăm nuôi, tôi nói với Bằng hãy bảo người
thăm nuôi gởi vào một típ kem đánh răng chứa Acid nguyên chất,
khi nào có rồi thì cho tôi hay, và tôi dặn Bằng đừng hỏi tại sao,
Bằng thấy tôi đã chịu giúp thì rất vui mừng, hứa sẽ làm theo lời
dặn của tôi.
Sắp đặt kế hoạch phá trại giam Quận Nhất.
Nhưng đêm 4-10-76, cán bộ vào thông báo ngày mai tôi và một
số người sẽ chuyển trại trong đó có ông Trưởng ty và Tiến. Tin
này làm cho Bằng và các anh em trong băng đảng lo buồn, Bằng nói:
“Anh rời khỏi nơi đây tụi em không biết làm sao!”. Tôi bèn họp
các anh em Bằng lại và nói: “Trước khi tôi đi, tôi sẽ chỉ kế
hoạch lại cho các anh, bây giờ các anh em cho tôi biết trong
phòng giam này chỗ nào yếu nhất?” Anh em Bằng nói: “Tụi em ở đây
gần một năm rồi mà vẫn không nghĩ ra vì tường dầy 2 tấc, song sắt
to bằng cườm tay, nóc và nền đúc xi măng, cửa sắt phải 2 người
mở, đóng mới nổi. Tôi nói: “Tất cả đều kiên cố, các anh thấy cánh
cửa sắt dầy và nặng nhưng 2 cái bản lề là chỗ yếu nhất, các anh
em vẫn chưa hiểu?”.
Tôi bắt đầu chỉ kế hoạch dự tính phá
trại giam này. Khi có típ acid nguyên chất rồi thì mới lo các
phần khác như dưới đây:
• Chọn ngày giờ cho thích hợp
•
Chuẩn bị một người giỏi võ
• Một chiếc xe đậu sẵn vào giờ đó
tại đường gần nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi.
Bắt đầu vào kế
hoạch:
- Chọn đêm Chúa nhật, lúc 1 giờ khuya (chúng đổi
gác lúc 12 giờ khuya, chọn 1 giờ khuya là lúc tên gác buồn ngủ.)
Đúng giờ đã định, đem típ acid nguyên chất đổ vào 2 bản lề
cửa sắt, khoảng 15 phút sau, 2 người khiêng cánh cửa sắt qua một
bên, người giỏi võ chạy nhanh ra hạ tên lính gác cướp lấy súng,
cách phòng giam 2 tấm vách tường, trong lúc đó tất cả các anh em
đồng chạy lên phòng trực, hạ sát 3 tên đang ngủ và lấy súng đạn
rồi chạy xuống đánh thức tất cả tù nhân cho họ hay là Phục Quốc
Quân đến giải vây và chỉ cho tất cả chạy ra cổng chính, còn các
anh em thì phải vượt tường rào phía nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi để lên
xe đậu sẵn nơi điểm hẹn.
Điểm quan trọng là phải nhanh lẹ
chính xác và cố gắng làm thật im lặng và đừng nổ súng nếu thấy
không cần thiết. Vì khi đó mà bị náo động thì rất nguy hiểm, các
điểm gác khác sẽ báo động, các anh em sẽ khó thoát thân. Các anh
em phải xem lại thật kỹ để biết rõ nhiệm vụ của mỗi người mà làm
cho thật gọn. Các anh em phải nghĩ trong đầu mình là chỉ được
thành công chớ không được thất bại. Sau khi nghe tôi trình bày
sắp xếp kế hoạch, anh em của Bằng rất vui mừng, ôm vai tôi tỏ
lòng biết ơn.
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi những người có
tên trong danh sách chuyển trại, chúng còng tay chúng tôi lại với
nhau đưa lên xe Molotova phủ mui bố xuống, xe chạy đưa chúng tôi
lên Gia Định (BCH/Tiểu khu VNCH cũ) để tập trung tù nhân trong 14
Quận của Thành Phố tại đây, sau đó đoàn xe trực chỉ ra ngoại ô,
vì xe bỏ mui bố che lại hết nên chúng tôi không biết bọn chúng
chở đi đâu, khoảng 4 giờ di chuyển xe ngừng lại, chúng tôi lần
lượt xuống xe. Tôi vươn mình hít dài một hơi thở không khí trong
lành của vùng rừng núi cho thoải mái, vì suốt 6 tháng bị giam,
tôi chưa được thấy ánh sáng mặt trời và thở được không khí trong
lành.
Chúng tôi đang ở trên một ngọn đồi, san sát các dãy
nhà tole và có rất đông bọn công an. Các người bị nhốt ở đây cho
chúng tôi biết nơi đây là đồi Phượng Vĩ, căn cứ của Trung Đoàn
52, thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh, tại Ngã 3 Ông Đồn, dưới chân núi
Chứa Chan.
Trại Cải Tạo Phản Động K3 do công an thành phố quản lý
Đồi Phượng Vĩ trước ngày 30-4-75 là Căn cứ Trung
Đoàn 52 Sư Đoàn 18.
Tập họp điểm danh, 120 người chúng tôi
được đưa vào 2 dãy nhà lợp tole vách ván, trong tổng số 20 dãy,
xung quanh các dãy trại gồm có nhiều lớp kẽm gai bao bọc có gắn
lon thiếc. Tất cả 120 người “tù phản động” này hầu hết đều liệt
bại nên phải khiêng vào. Vừa yên chỗ, một tên cán bộ quản giáo
vào “sinh hoạt” cho biết đây là Trường K3, hôm nay các anh đến
đây là ngày thứ nhất của 3 năm học tập cải tạo, v.v. Nơi đây các
anh được liên lạc về gia đình để thăm nuôi, mỗi lần thăm nuôi 15
phút. Các anh hãy nhớ viết thơ thế nào mà có lợi cho cách mạng,
cho gia đình và cho bản thân các anh thì các anh viết. Tên cán bộ
quản giáo tuyên truyền một lúc rồi kết thúc: Vì các anh mới nhập
trại nên ban quản giáo cho các anh được nghỉ “Bồi Dưỡng” vài hôm.
Chúng tôi đều hiểu, vì tất cả bị liệt bại nên chúng nó để cho
chúng tôi hồi phục rồi mới bắt đầu mang cày vào cổ chớ có tốt
lành gì đâu.
Nghiên cứu kế hoạch vượt trại tù lần thứ 2
tại đây trong vòng 20 ngày.
Một đêm ngủ thoải mái với
không khí trong lành của miền rừng núi Chứa Chan, tỉnh Long
Khánh. Ngày hôm sau tôi đi vòng quanh các dãy trại, tôi gặp anh
Dũng Mặt Đỏ của phòng An Ninh Đặc Tra Phủ Tổng thống. Tôi gặp
Dũng sau giờ lao động, anh mừng rỡ chạy lại ôm tôi, tôi dặn nhỏ
Dũng đừng nói với ai vì tôi không có khai thật là Sĩ quan Cận Vệ.
Tôi hỏi thăm Dũng tình hình nơi đây và tại sao Dũng không vượt
trại? Dũng cho biết hiện giờ đội công tác của anh đã được bọn
chúng tin tưởng nên cho đi làm xa tận trong rừng để cưa cây gỗ.
Còn trốn thì Dũng không dám vì sợ bị bắt lại và sợ về không có
chỗ an thân.
Dũng cho tôi biết: Dũng bị đưa lên đây từ
ngày đầu, chúng lấy trại này dự định chỉ giam thành phần trình
diện học tập thuộc đơn vị tỉnh Biên Hòa. Sau một thời gian chúng
bố phòng chắc chắn hơn, chúng đưa thêm về đây các tù “phản động”
gồm nhiều thành phần từ cấp Tá đến binh sĩ và tù chính trị luôn
cả phụ nữ phản động. Phụ nữ thì chúng ngăn riêng khu vực, và nguy
hiểm nhất là dọc theo triền đồi, trong các lớp kẽm gai có chôn
mìn 3 râu (loại mìn chống cá nhân có 3 ngòi nổ) hiện giờ thỉnh
thoảng gió thổi lay động cây dại mìn cũng nổ, vì vậy mà suốt 16
tháng rồi mà không có ai dám vượt trại trốn ra!
• Tôi gặp
anh Thiếu úy Hoa, Cảnh sát Dã Chiến Biệt Đoàn 222, Võ sư Thái Cực
Đạo, Huấn luyện viên của Đại Đội Đặc Nhiệm bảo vệ Phủ Tổng thống.
Hoa cho biết anh đã tổ chức trong đội anh được gần 20 người ở đội
16 của anh.
• Anh Thượng sĩ Truyền Tin Võ Phòng phủ Tổng
thống là anh Quốc, anh bị bắt vì hoạt động trong lực lượng Dân
Quân Phục Quốc, anh cũng đã tổ chức ở đội 15 gần 20 người.
• Anh Ba Hương, là vệ sĩ cho Ông Đại Sứ Nguyễn Văn Kiểu (anh
ruột của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu), anh Ba Hương thuộc toán
Bảo Vệ yếu nhân của Cảnh sát, anh cũng cho biết có tổ chức ở đội
17, gần 20 người.
Được biết Đại Tá Nguyễn văn P, Tỉnh
trưởng Long Khánh, bị bắt ngoài mặt trận trước ngày 30-4-75 đang
bị nhốt ở đây. Tôi nhờ anh Tiến, trước năm 75, Tiến là đệ tử của
Đại Tá P liên lạc với ông để biết thêm tin tức, thì được Đ/T P
cho biết, ông vẫn thường xuyên l/l với Lực lượng Phục Quốc ở bên
ngoài. Tôi đề nghị với Đ/T qua anh Tiến. Nếu Đ/T thấy cần đánh
phá trại giam này thì tôi xin trách nhiệm một lực lượng xung kích
khoảng 50 người giỏi võ thuật. Anh Tiến chuyển lời tôi đến Đ/T,
sau đó Tiến cho tôi biết Đ/T bảo đừng lo, vì ông đã được lực
lượng bên ngoài cho biết sẽ giải thoát trại giam trong tuần này
hoặc tuần tới? Nhưng đã qua hơn tuần mà không thấy động tịnh gì
cả, Tiến hỏi lại Đ/T thì tôi được biết là trong tuần này? Tôi cảm
thấy bất ổn vì tôi đã nghe tin này đã xầm xì trong một vài trại,
tôi nghi ngờ tin này đã bị lộ! Vì tôi đã theo dõi trong mỗi đội
tù đều có nhiều an ninh chìm của công an. Tôi nghĩ hậu quả rất
ghê gớm, nhưng tại sao chúng biết mà vẫn làm ngơ? Có lẽ chúng đã
có chuẩn bị rồi. Trong đêm thỉnh thoảng chúng thực tập báo động.
Chúng thổi còi và đánh kẻng báo hiệu, trong vòng 10 phút tất cả
20 dãy trại đều bị phong tỏa. Mỗi dãy trại đều có 1 tiểu đội cầm
AK47, trung liên Tiệp Khắc và B40, chĩa thẳng vào trại.
Tôi lo chọn trong số những người trong trại để tính
việc đào thoát, vì tôi không tin tưởng khả năng của LL phục Quốc
do Đ/T P... cho biết. Trong số các anh em quen thân đều ngại vượt
tù, chỉ mong được CS tha tội trở về sống với gia đình, tôi chỉ
chọn được một người là:
Trung úy Kỹ sư Điện Tử Trần Quang,
đặc trách Đài Radar Phú Lâm. Can đảm chịu đựng, bị bắt do tên Hạ
sĩ quan dưới quyền điềm chỉ, Quang vẫn cương quyết không nhận làm
lại cho CS để được tha tội. Quang cũng thường ngỏ ý với tôi nếu
có tổ chức thì xin cho anh tham gia, và anh hứa sẽ làm bất cứ
việc gì do tôi sắp đặt, vì đã nghe tôi đã có thành tích tổ chức
vượt tù.
Tôi chọn anh Trần Quang là vì thích hợp cho kế
hoạch của tôi và cùng ở chung dãy với tôi, khổ người của anh nhỏ
nhắn, trầm tĩnh nhưng linh hoạt.
Tôi quyết định theo kế
hoạch trù liệu để vượt trại. Tôi và Quang mỗi sáng thức dậy và đi
“viếng lăng bác Hồ”, tiếng lóng để chỉ việc giải quyết vệ sinh.
Vừa đi vừa bàn tính, tôi cho Quang biết ý định vượt rào và dặn
Quang chỉ làm theo những gì tôi cần chớ đừng hỏi tại sao và phải
ngăn cách đừng tỏ ra thân thiện để chúng không nghi ngờ, Quang
đồng ý vì Quang tin tưởng nơi thành tích của tôi.
Sau 2
tuần lễ, tôi đã thâu thập hệ thống phòng thủ và nghiên cứu thận
trọng như sau:
• 20 dãy tole, vách ván, mỗi miếng chiều
dài 3 thước có đóng nẹp chận đầu
• Sau khi điểm danh, 18
giờ 30, tất cả các cửa sổ, cửa chính đều khóa lại
• Bên
ngoài phòng, hàng rào 4 lớp kẽm gai cao 2 thước có treo lon,
nhiều hàng rào kẽm gai dọc theo triền đồi, có khoảng 3 lớp
consettina cuối cùng dưới chân đồi
• Bãi Mìn do Trung Đoàn
52, Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH thiếp lập lẫn trong các lớp hàng rào,
Trung Tá Đức Chỉ Huy Trưởng Hậu cứ của Trung Đoàn 52 hiện đang bị
giam tại đây, xác nhận là đúng
• Quân số canh gác và phân
công dẫn tù đi lao động là khoảng 200 tên công an
• 4 vọng
gác cao 5 thước, khoảng 2 giờ đổi phiên 24/24, ban đêm khoảng
giữa phiên đổi gác, có toán tuần tra võ trang lẻn vào nghe lén
từng dãy trại.
Hệ thống bố phòng xung quanh đồi
Trung Đoàn Bộ Đội đóng quân toàn diện từ hướng Đông qua Nam đến
hướng Tây. Nằm sâu trong rừng và đặc trách núi Chứa Chan, ước
tính chiều dầy khoảng chừng 3 cây số, bao trùm mặt tiền của trại
giam. Mặt hậu từ hướng Tây Bắc đến Bắc qua Đông, do cán bộ, thanh
niên xung phong và khu kinh tế mới, cán bộ nằm vùng lẫn lộn có
thể Trung Đoàn Bộ Đội cũng đảm trách vùng này. Nhìn chung mặt này
có vẽ lỏng lẻo nhưng là tử địa vì khi thoát ra mặt này thì chỉ có
thể đi về phía rừng lá, không còn đường trốn.
Hệ thống an
ninh chìm là nguy hiểm nhất, riêng đội 18 của tôi 60 người đã có
5 tên chìm đội lớp tù, (do sự điều tra của Quang), chúng kiểm
soát từ lời nói và hành động của mỗi người, khi ăn, khi ngủ, khi
đi lao động, v.v.
Bây giờ tôi chỉ còn chờ chúng đưa đi lao
động ở ngoài để quan sát và tìm hướng đi.
Sau hai tuần
nghỉ dưỡng sức, các người bị liệt bại đã khá hơn. Tối Chúa Nhật,
trước giờ điểm danh, cán bộ đem xuống một danh sách biên chế chỉ
định tôi làm đội trưởng 18K, đúng như suy đoán của tôi, vì chúng
muốn kiểm soát tôi chặt chẽ, sắp xếp đánh số chỗ ngủ, không được
ngủ khác chỗ. Tôi phải chịu trách nhiệm mọi sự xảy ra trong đội,
báo cáo quân số trước khi đi và khi về, lao động, nghỉ bệnh, công
tác nhẹ, và trước khi đi ngủ, tối đến sau khi điểm danh tôi phải
điều hành sinh hoạt, phê bình, sửa sai, đề nghị, đọc báo và văn
nghệ Mục đích của chúng là làm cho tôi phải bận rộn trong công
việc và an ninh chìm của chúng dễ theo dõi tôi (tôi đã đề phòng
việc này nên đã chọn Quang giúp tôi trong việc đào thoát, vì
chúng không để ý đến Quang).
Xung quanh các dãy trại đều
đóng ván chiều dài 3 thước và đóng chận nẹp. Tôi giao cho Quang
một miếng sắt mỏng nhỏ và dẫn Quang đi ngang qua chỗ miếng ván
thiếu chiều dài, chúng thêm vào một miếng ngắn mà không có đóng
chận nẹp, tôi chỉ cho Quang và dặn mỗi đêm đi tiểu, Quang bò
xuống dưới sàn ngủ, đến chỗ đó long đinh, từ bây giờ cho đến thứ
sáu phải xong nghĩa là mình có thể đẩy ra nhẹ nhàng không bị
động, sau khi xong báo cho tôi hay. Quang nhận lời.
Ông
Trưởng ty T và tôi vẫn thường ngày lãnh cơm và ăn chung, tôi rất
mến ông là người học thức qua tư cách, rất trầm tĩnh. Trong tuần
lễ vừa qua ông có thăm nuôi, ông được người cháu ruột đem đồ ăn,
gồm muối xả, café, sữa đặc, đường và vài trăm gram thịt kho. Được
gia đình báo cho biết, trước ngày đi thăm ông, có người anh bà
con của ông tập kết về cấp Trung Tá VC. Người này coi đồ thăm
nuôi đã rầy là gởi đồ thăm nuôi cho tù nhân ăn ngon sẽ bị đưa ra
Bắc vì trại này là trại phản động! Tôi nhìn thấy ông có vẻ lo
buồn, nhưng tôi vẫn chưa cho ông biết tôi đã chuẩn bị vượt trại
mà trong đó có ông.
Hôm nay là tuần lễ thứ ba, đội 18K của
chúng tôi bắt đầu mang cày vào cổ, đội chúng tôi dẫy cỏ và nhổ
cây bắp khô. Đến chiều hết giờ lao động, chúng tôi đến ao tưới
rau để tắm, nước ao tù này do nước mưa đọng lại gồm cả nước phân
do ban trồng hoa màu phụ gánh từ trong trại tưới, nước phân chảy
xuống ao. Vì thế đêm đó đội chúng tôi bị ngứa gãi muốn rách da.
Ngày thứ ba, vun vồng trồng khoai. Ngày thứ tư, khiêng đá đắp
đập ngăn dòng suối. Ngày thứ năm, tiếp tục khiêng đá đắp đập đến
11 giờ. Nghỉ việc, tất cả tập họp điểm danh về trại ăn trưa. Khi
điểm danh thiếu mất người, tôi vội báo cáo cho tên cán bộ, tên
này bình tĩnh đưa súng AK lên bắn chỉ thiên 3 phát một, và khoảng
1 phút sau có tiếng súng AK đáp lại khắp nơi (cũng nhờ việc này
xảy ra nên tôi biết được hướng các chốt bọn chúng đang đóng dọc
theo bìa rừng từ hướng Tây qua đến hướng Bắc). Tên cán bộ ra lệnh
cho tôi dẫn tù nhân về trại, trên đường về chúng tôi đi ngang qua
các chốt của bọn công an, chúng chĩa súng vào đội chúng tôi và
chửi nhiều câu thô tục. Tôi căm hận dẫn đội mình về trại. Khoảng
1 tiếng đồng hồ sau, chúng bắt lại được tên trốn và đem về nhốt
bên dãy trại của chúng. Tên phó thủ trưởng gọi tôi lên lấy khẩu
cung cùng với vài người trong đội. Tôi được biết tên trốn là an
ninh chìm, do Quang báo lại cho tôi, buổi chiều hôm trước tên Hậu
này đã đứng nói chuyện với cán bộ ở gần hàng rào, tôi nghĩ đây là
màn dàn cảnh để cảnh cáo chúng tôi.
Sáng ngày thứ sáu,
chúng tập họp tất cả 20 dãy trại. Tên phó thủ trưởng đọc bản án
và đem trình diện tên Hậu. Tiếp theo chúng cảnh cáo chúng tôi
“hãy yên tâm học tập cải tạo. Ngày mà các anh đặt chân đến đây là
ngày thứ nhất của 3 năm. Các anh đừng mong trốn thoát nơi đây, dù
một con kiến cũng không thể rời khỏi nơi này? Bằng chứng là suốt
16 tháng qua chẳng ai có ý nghĩ đó. Anh Hậu vì mới đến nên chưa
hiểu, nên anh sẽ lãnh phạt 15 ngày quản chế nơi hầm tối...”.
Hôm nay đội tôi được lệnh tháo kẽm gai vòng rào tiền đồn hình
tam giác án ngữ căn cứ của Trung Đoàn 52/18. Tôi mừng thầm vì
hướng đào thoát của chúng tôi sẽ ở chỗ này. Tôi đôn đốc anh em
tháo gỡ cho nhanh kịp trong ngày thứ bảy, vì tối Chúa nhật là
ngày, giờ quyết định.
Trong giờ cơm, bắt đầu tôi báo cho
ông Trưởng ty biết để chuẩn bị thoát khỏi chỗ này, ông ngạc nhiên
hỏi lại, tôi nói:
“Bác hãy chuẩn bị sẵn bộ đồ đen để mặc
khi rời khỏi nơi đây, và một bộ đồ khác bỏ vào túi nylon rồi bỏ
vào bao cát để đem theo”.
Tôi nói tiếp:
“Bác phải
rời khỏi nơi này nếu không Bác sẽ bị đưa ra Bắc”.
Tôi nói
tránh vì ông thường ngày ngồi ăn cơm với tôi, nếu ông không đi
ông sẽ bị liên lụy. Tôi nhìn thấy nét mặt đăm chiêu của ông, tôi
hơi lo ngại, ông hỏi:
“An tính chừng nào?”
Tôi đáp:
“Có thể đêm mai, nếu thời tiết tốt”.
Ông hỏi tiếp:
“Làm sao ra từ đây?”
Tôi đáp:
“Sẽ chui ra dưới
gầm chỗ của bác nằm đó!”
Ông giật mình:
“Sao? ở
dưới chỗ tôi nằm à?”
Tôi đáp:
“Dạ phải, miếng ván
dưới chỗ bác nằm tôi đã long đinh rồi! Vì chỉ có chỗ nằm của Bác
là có lối ra thôi”.
Tôi kể rõ kế hoạch cho ông nghe:
“Sau khi từ đây chui ra, tôi chạy nhanh ra hàng rào treo lon,
tôi ngồi xuống, Quang sẽ chạy ra và leo lên vai tôi, tôi đứng
lên, Quang bước qua phía bên kia hàng rào và đứng chờ, Bác chạy
ra bước lên vai tôi, tôi đứng lên, bác bước qua vai của Quang,
Quang ngồi xuống để Bác xuống đất và tiếp tục đến hết các hàng
rào treo lon, và sau đó Bác và Quang phải theo bên tôi, đừng bước
sai nguy hiểm vì Bãi Mìn dọc theo triền đồi.
Ông lo lắng
hỏi:
“An có chắc mình sẽ thoát được Bãi Mìn hay không?”
Tôi đáp:
“Bác đừng lo, tôi đã tìm ra điểm chuẩn của
Bãi Mìn rồi!”
Tôi nói để cho ông an lòng, và kể rõ hướng
đi của kế hoạch.
Nghiên cứu cách thức vượt Bãi Mìn
Về
phần Bãi Mìn tôi đã suy nghĩ nhiều ngày đêm, tôi đem ra so sánh
các cách gài mìn bẫy của Người Nhái chúng tôi và của Việt cộng,
mà vẫn chưa tìm ra manh mối (vì lúc phối hợp công tác với Người
Nhái Hoa Kỳ, tôi đã từng tháo gỡ mìn bẫy của VC).
Vì
chuyên viên Mìn Bẫy khi gài Bãi Mìn thì chỉ có đơn vị trưởng và
người gài biết sơ đồ mà thôi. Sau cùng, tôi suy ra từ 2 chữ Phòng
Thủ. Tôi lập sa bàn để định vị trí, các hàng rào cách khoảng với
nhau đều đặn, và các trụ cột thì đều đặt so le hay nói cách khác
là hình chữ Z. Vậy PhòngThủ thì khi chuyên viên đặt mìn bẫy phải
đặt Mìn ở chỗ an toàn cho các trụ cột hàng rào, để khi mìn nổ
không làm sụp đổ các hàng rào để còn giữ được phần nào các kẽm
gai, vì hàng rào phòng thủ mục đích là chống xâm nhập chiến thuật
biển người của VC. Theo sa bàn, tôi sẽ vượt ra theo hình chi (Z)
theo hướng các trụ cột, tránh các khoảng trống mà tôi nghĩ là có
đặt Mìn, và sẽ lần ra gần phòng trực cổng chính của bọn công an,
vì trụ cột chuẩn tôi chọn gần cổng chính, chính xác hơn mấy trụ
cột ở khoảng giữa.... Tôi đã xem xét rất kỹ giữa khoảng cách 2
hàng rào, chỉ rào kẽm gai chạy dọc, song song với các hàng rào
khác và từ hàng này qua hàng kia bằng các đường kẽm gai giăng
ngang với 2 đường chéo góc, còn phía cuối chân đồi có 3 vòng rào
loại consertina, báo hiệu là đã hết bãi Mìn (vì rào loại
consertina cuốn vòng tròn, không thể rào trong vùng có mìn bẫy,
vì có thể bị gió thổi rung động mà chạm ngòi nổ, vì loại mìn
chống cá nhân có 3 ngòi nổ rất nhạy thường gọi là Mìn 3 râu.) Tôi
vui mừng lẫn lo âu mặc dầu không dám tin chính xác 100/100. Nhưng
tôi đã quyết lòng tìm cái Sống trong cái Chết, bất chấp mọi nguy
hiểm.
Đêm thứ bảy 23-10-76 khoảng 8 giờ tối, trời mưa thật
lớn, kéo dài đến 2 giờ khuya, tôi thầm cầu nguyện cho đêm mai
cũng có mưa to thì sẽ là giờ quyết định đào thoát của chúng tôi,
vì theo kinh nghiệm của tôi, nếu hôm nay có mưa thì ngày hôm sau
cũng sẽ có mưa trễ hơn hôm nay, và sẽ mưa liên tiếp vài hôm, (lần
trước tôi đào thoát trại tù Thành Ông Năm, cũng có mưa giống như
ngày hôm nay ở đây).
Ngày Chúa Nhật, từ sáng đến 5 giờ
chiều, vợ con tôi mới gặp được tôi sau 6 tháng tù, tôi hàn huyên
với vợ con trong 15 phút. Vợ tôi đem đồ ăn thăm nuôi, tôi chỉ lấy
café, đường, sữa đặc và mấy đòn bánh tét nhỏ,và túi trái cây, còn
các thức ăn khác tôi đưa lại để vợ tôi đem về, vì tôi biết vợ con
của tôi rất thiếu thốn, khi đi thăm nuôi chắc lại phải bán bớt
vật dụng trong nhà. Vì có tên công an dòm ngó, tôi chờ khi vợ tôi
cúi xuống gần tôi khẽ nói: “Đêm nào trời mưa thì cầu nguyện cho
anh”. Vợ tôi nghe tôi nói giật mình lo sợ, vì vợ tôi hiểu ý câu
nói của tôi.... Hết giờ thăm nuôi, vợ con tôi phải rời khỏi trại
thăm nuôi để đến nhà ga Gia Rây, đón xe lửa về Sài Gòn. Còn tôi
và đoàn tù được thăm nuôi trở lại trại giam.
Cũng như
thường lệ, tên cán bộ điểm danh xong, chúng lo khóa lại các cửa
cẩn thận. Khoảng 8 giờ tối, mây đen kéo đến và trận mưa bắt đầu
đổ hột lúc 9 giờ, tôi đã cho Quang biết chuẩn bị các chi tiết như
ông Trưởng ty, dặn Quang lược café lấy nước đậm pha với sữa,
đường, rồi cất vào bình nylon nhựa, chung với các đòn bánh tét,
còn café nước nhì thì đãi các anh em không có gia đình thăm nuôi,
với chút ít bánh trái vì sợ các anh em uống café đậm sẽ khó ngủ,
sẽ tạo khó khăn cho chúng tôi.
Tôi và Quang bình tĩnh chờ
đợi, tôi chỉ lo cho ông Trưởng ty, vì sau khi nghe tôi thông báo
vượt trại, tôi thấy ông không ngủ mà ngồi hút thuốc suốt đêm qua.
Tôi mến ông vì đã ở chung qua nhiều lần chuyển trại, và cùng ăn
cơm chung. Mưa càng lúc càng to, 9 giờ tắt đèn, tất cả đều về chỗ
nằm, nhưng vì hôm nay có thăm nuôi, họ thức thì thầm kể chuyện
gia đình cho nhau nghe trong bóng đêm.
11 giờ đêm, tôi cố
giương mắt thật to nhìn qua kẽ vách theo dõi 4 chiếc bóng đen mặc
áo mưa đi đổi vọng gác qua các lằn ánh sáng của sấm chớp. Khoảng
1/2 giờ sau, 1 tiểu đội tuần tra mang vũ khí đi kiểm soát 20 dãy
trại rồi chúng trở ra phòng trực ở cổng chính.
Giờ đào
thoát đã đến
Tôi nhẹ nhàng rời khỏi chỗ nằm đến chỗ Quang
bấm nhẹ. Quang bước theo tôi trong bóng đêm dến chỗ ông Trưởng ty
nằm tôi kéo nhẹ ông xuống đất nhưng ông không chịu xuống, ông kéo
tôi sát lại và khẽ nói:
“Xung quanh họ còn thức!”
Tôi trả lời:
“Không sao đâu bác, bác cứ chui xuống gầm sàn
là xong”
Ông không chịu, bảo tôi phải chờ cho ông 1 tiếng
đồng hồ nữa.
Tôi sợ động mấy người nằm gần nên đành lui về
với Quang trở lại đầu dãy trại để tiếp tục theo dõi các toán lính
gác qua kẽ hở. Quang nóng lòng thì thầm qua tai tôi: “Ông làm như
vậy là chết mình rồi anh.” Tôi cố trấn tĩnh Quang: “Không sao.”
Nhưng lòng tôi như lửa đốt. Khoảng nửa giờ sau, bên ngoài bớt
mưa.
Tôi quyết định kéo nhẹ Quang đến chỗ ông. Tôi kéo hẳn
ông xuống đất và đẩy ông chui xuống gầm sàn dưới chỗ ông nằm ông
ta cứ dùng dằng không chịu chui, Quang chui vào trước đẩy nhẹ
miếng ván đã long đinh và chui ra ngoài, tôi liền đẩy ông chui ra
tiếp, ông không chịu lại đẩy tôi ra, trong lúc dằng co đó làm cho
người nằm kế bên ông lên tiếng: “Không biết cái gì kêu lụp cụp
vậy?” Liền lúc đó nghe có tiếng diêm quẹt, tôi cấp tốc chui ra
ngoài, nhìn lại không thấy ông chui theo, Quang kéo tôi thúc
giục: “Đi anh để chết đó!” Tôi cố rướn mình lên nhìn vào trong
không thấy được vì tối. Tôi chạy nhanh theo Quang và ngồi xuống
cho Quang leo lên vai, tôi đứng lên Quang bước qua bên kia rào
tuột xuống đất chờ. Tôi dặn Quang chờ tôi một chút, vì lúc đó tôi
vẫn còn nghĩ đến ông. Tôi nhanh nhẹn chạy trở lại lỗ trống hy
vọng ông đã chui ra, nhưng tôi không thấy, tôi dán mắt vào kẽ hở,
qua diêm quẹt mồi đèn, bóng ông ta đang ngồi bó gối hút thuốc lá
trên sàn nơi chỗ ông nằm. Thôi rồi! Tôi không còn hy vọng gì để
cứu ông được nữa! Tôi chạy thật nhanh trở ra hàng rào kẽm gai,
không thấy bóng của Quang, tôi vội trèo qua 4 lớp hàng rào kẽm
gai mà vẫn không thấy bóng của Quang đâu cả, tôi cúi rạp người
xuống nhìn theo đường chân trời, bỗng thấy bụi cây bên phải của
tôi lay động, tôi vội bò ngay lại đó gặp Quang, thì ra Quang
không dám chờ tôi tại chỗ vì là đường đi tuần của bọn lính gác.
Tôi nắm tay Quang: “Đi theo tôi”.
Tôi dẫn Quang bò đến trụ
hàng rào điểm chuẩn, gần trạm canh cổng chính, tôi nhắm theo các
trụ cột hàng rào và bò lách kẽm gai, thận trọng theo hình chữ Z,
Quang bò theo sát tôi, độ chừng 15 phút, tôi và Quang đã xuống
tới dưới triền đồi thoát khỏi Bãi Mìn, chúng tôi khom người chạy
nhanh qua khoảng đất trống, băng qua tiền đồn hình tam giác, nơi
đó là chỗ đội của tôi vừa tháo hết kẽm gai hôm thứ bảy, nên tôi
và Quang đã vượt qua chỗ này dễ dàng, chạy thêm một đoạn thẳng
vào bìa rừng, chúng tôi lọt vào vùng gai mắc cỡ tây cao phủ đầu,
chúng tôi bị gai đâm vào mình không biết bao nhiêu mà kể, chúng
tôi đang vạch gai để tìm đường đi, bỗng chúng tôi bị lọt xuống
dòng suối, tôi rất mừng vì trong dự tính kế hoạch của tôi không
biết có dòng suối này, tôi biết chắc chắn theo con suối này sẽ
xuống được nhà ga Gia Rây (vì tôi đã nhìn thấy từ trên trại giam
chiếc cầu xe lửa gần chợ Gia Rây). Tôi bảo Quang tắm cho sạch và
đồng thời di chuyển theo dòng suối, khi đến gần nhà ga Gia Rây,
tôi kéo Quang bò lên cầu để vào hướng núi Chứa Chan, nhưng khi
qua ngang đường rầy xe lửa, bỗng tôi nghĩ ra một phương pháp vội
kéo Quang đứng lên đường rầy, mỗi người một bên, tôi quàng tay
qua vai Quang và Quang làm ngược lại, bây giờ tôi và Quang đã
vững trên đường rầy, chúng tôi bắt đầu chạy trên đường rầy dễ
dàng không sợ vấp ngã, chúng tôi tiếp tục chạy khoảng 2 giờ đồng
hồ nữa rồi ngồi trên đường rầy mà nghỉ mệt, vì chúng tôi biết là
đã thoát vòng kiểm soát của khu vực trại giam khá xa.
Tôi
đang nghĩ đến Ông Trưởng ty, có lẽ ông biết mình già yếu không
còn đủ sức chạy bộ, ông lo sẽ làm vướng bận chúng tôi nên đành ở
lại? Khi còn ở quận 2, ông có tặng một bài thơ cho tôi và bảo tôi
học thuộc lòng bài thơ như sau:
Tự Thán
Đời là
chi?
Ta là gì?
Dòng đời vẫn chảy,
Ta cứ mãi đi!
Ta
là một cội thông hiu quạnh
Đứng chọc trời xanh dưới nắng tà
Sớm chiều vi vút tiếng thông reo
Ẻo lả cành theo ngọn gió vèo
Giông tố bao lần lay lá cội
Sớm chiều vẫn vút tiếng thông reo
Tiếng thông reo, tiếng thông reo
Trải bao giông tố vẫn reo gió
chiều.
Nguyễn văn T
Vừa ngồi nghỉ mệt trên đường
rầy xe lửa vừa ăn bánh tét và thưởng thức café sữa ngon lành....
Quang quàng tay qua vai tôi giọng cảm động:
“Anh An, anh
là người cứu mạng của tôi, nên tôi xin nói thật cho anh biết,
-giọng Quang trầm lại- Tôi là đảng viên của Trung Hoa Quốc Dân
Đảng, tôi tên thật là Lai Minh Quang, cháu ruột của Trung Tướng
Lai Minh Kiên, hiện bác tôi đang ở Đài Loan, tôi có nhiệm vụ nằm
trong Quân Đội VNCH, và tên Trần Quang là tên giả, tôi học và tốt
nghiệp Kỹ sư Điện Tử tại Okinawa Nhật Bản. Khi về Việt Nam, tôi
phụ trách Trưởng Đài Radar Phú Lâm, mục đích là để theo dõi bên
Trung cộng, các máy bay bên Trung cộng cất cánh thì ở Đài Radar
Phú Lâm đều nhận biết.... Khi miền Nam sụp đổ, tôi đã được báo
trước nên đã cho vợ con rời khỏi Việt Nam hiện đang ở Tân Gia Ba,
vì tôi còn công tác nên phải ở lại Việt Nam. Bây giờ việc trước
mắt là về Sài Gòn, tôi bắt liên lạc với các điểm rồi chúng mình
cùng tìm đường qua Đài Loan, khi ra được ngoại quốc rồi sẽ tính
sau.”
Chúng tôi tiếp tục chạy, khi đến nhà ga Bảo chính
thì trời gần sáng. Chúng tôi vào rừng chồi thay bộ đồ khô mang
theo trong bao nylon bỏ trong bao cát, nhờ lọt xuống suối nên
chúng tôi đã tắm sạch đất đỏ, bây giờ thay bộ đồ khô vào trông
cũng sạch sẽ. Chúng tôi vẫn tiếp tục chạy trên đường sắt hướng về
Long Khánh cho kịp chuyến xe lửa từ Nha Trang vào. Khi tới những
nơi có người ở thì chúng tôi đi bộ, còn những chỗ không người thì
chạy tiếp. Những dân cư ở dọc theo con đường xe lửa từ nhà ga Bảo
chính vào đến Long Khánh chúng tôi thấy phần nhiều là người
Thượng. Khi đến nhà ga Long khánh khoảng 8 giờ sáng, con đường
dài 35 cây số. Tôi lấy trong lai quần ra 5 đồng tiền VC (vì đã có
kinh nghiệm vượt tù lần trước) tôi đã dấu từ lúc mới bị bắt, tôi
đưa tiền cho Quang vào mua vé, được trạm bán vé cho biết 9 giờ xe
lửa tới, tôi và Quang vào quán café gần đó ngồi uống café và bàn
chuyện về Sài Gòn mua hột giống để đem về vùng kinh tế mới trồng
trọt, v.v. Trong quán cũng có vài tên cán bộ công an VC đang ngồi
uống Café.
Tiếng còi hú từ xa của chuyến xe lửa từ Nha
Trang vào Sài Gòn đã gần đến, tôi và Quang đều cảnh giác. Chúng
tôi chia nhau mỗi người một đầu toa để tránh sự theo dõi của bọn
công an. Và chúng tôi đã về đến Sài Gòn lúc 12 giờ trưa, nhưng
Quang lại bị sưng vù cả 2 chân không đi được nữa (vì Quang chưa
bao giờ chạy xa như vậy, còn đối với tôi đã được huấn luyện qua
khóa Người Nhái thì chạy bộ 35 cây số không có gì trở ngại), tôi
gọi xe xích lô đạp chở chúng tôi về Chợ Lớn, nhưng khi đi ngang
qua quán phở 79, đường Võ Tánh, chúng tôi cảm thấy thèm quá nên
xuống xe vào tiệm gọi phở ăn một bữa thật ngon. Vì thấy chúng tôi
nước da sạm đen ông chủ tiệm phở hỏi: “Các anh ở đâu về mà đen
quá vậy?” Tôi trả lời là chúng tôi từ vùng Kinh Tế mới về Sài Gòn
để mua hột giống trồng trọt.... Sau đó chúng tôi gọi xe xích lô
chở Quang đến một địa điểm riêng của Quang. Chúng tôi từ giã và
hẹn gặp lại tại một quán café ở ngã 7 Chợ lớn, nhưng tôi đã đến
điểm hẹn liên tiếp mấy ngày mà không gặp Quang. Tôi nghĩ có thể
điểm liên lạc của Quang không muốn tiếp xúc với tôi vì sợ bị lộ,
và tôi mất liên lạc với Quang từ đó!
Tôi đến thăm anh
Nguyễn Thành Nhơn trong đêm mới trở về Sài Gòn, tôi nhảy rào vào
nhà gặp anh chị. Anh chị rất vui mừng. Tôi kể chuyện lại cho anh
chị nghe. Anh Nhơn cho tôi hay là phòng tập Thể Dục của anh đã bị
bọn công an phường tịch thâu rồi, anh bảo tôi ở lại ngủ một đêm
rồi sáng mai sẽ đi, tôi cám ơn anh chị và từ giã trước vì sáng
sớm tôi đã rời khỏi nhà của anh chị.
Tôi cố liên lạc lại
với các bạn thân ngày trước, nhưng có người thấy tôi từ xa thì đã
vội vào nhà khóa cửa lánh mặt. Cũng may được một người bạn cho
mượn chiếc xe đạp, và nhờ đó tôi di chuyển khắp nơi trong thành
phố, dự định tìm vào các lực lượng kháng chiến trong rừng. Tôi
gặp một đại diện của một giáo phái (xin tạm giấu tên) sau một
tháng, ông gặp lại cho và cho hay:
“Chắc em không có phần
vào trong với anh em, là vì tôi đã liên lạc và ở trong đã gởi 3
lần liên lạc viên ra để đưa em vào nhưng đều đổ bể cả. Và ở trong
đã quyết định hủy bỏ công tác đón em rồi!”
Thêm một lần
thoát nạn
Người bạn thân Mai Văn Lương (hiện đang sống tại
Cali) cùng đơn vị phủ Tổng thống, đã giúp tôi thật nhiều trong
lúc cùng cực. Anh đã giúp tôi liên lạc với một lực lượng vùng Hậu
giang, có cơ sở mua bán phân bón, văn phòng tại đường Trần Hưng
Đạo, đối diện với Tổng Nha công an thành phố. Đêm đó tôi ở lại
ngủ tại cơ sở suốt đêm trò chuyện cùng anh Hoàng (Hoàng cấp bậc
Đại úy Sĩ quan Đà Lạt trốn trình diện đi tù cải tạo) cho biết cơ
sở này được quyền giữ 20 nhân viên ngủ lại đêm, anh khuyên tôi
yên tâm ở lại đây để chờ liên lạc viên từ Hậu Giang lên đón
tôi.... Sáng sớm hôm sau tôi và anh Hoàng ra ăn sáng ở tại quán
café vỉa hè gần đó, Lương cũng vừa tới. Trong quán có rất đông
bọn công an đang uống café. Tôi có linh cảm như có việc gì sắp
xảy ra nên sau khi ăn sáng xong tôi nói với Lương đưa tôi về chỗ
ẩn trú của tôi và khi nào có liên lạc viên ở Hậu Giang lên thì
đến đón tôi, vì ở đây tôi cảm thấy có nhiều nguy hiểm. Lương đồng
ý và đưa tôi về chỗ ẩn rồi ra đi. Nhưng khoảng 12 giờ trưa, Lương
trở lại kiếm tôi và cho hay tất cả cơ sở đó đã bị công an thành
phố hốt hết rồi! Thật may cho tôi, tôi chỉ thoát trong đường tơ
kẽ tóc.
Có nhiều ngày tôi lang thang đạp xe từ 6 giờ sáng
khắp nơi trong thành phố cho tới 9 giờ tối mà tôi chưa biết đêm
nay phải ngủ ở đâu? Có hôm tôi chỉ ăn vài trái chuối qua ngày vì
không tiền. Có nhiều hôm được tin bọn công an bố ráp ở các bến xe
đò Xa Cảng Miền Tây, nhà ga xe lửa là những nơi tôi thường mướn
chiếu để ngủ nên phải tìm vào nhà các bạn để trốn.
Tôi bị
bắt hụt lần thứ 2
Có lần tôi đang ẩn trong nhà một người
bạn ở quận 11, Sài Gòn, khoảng 1 giờ khuya, bọn công an Phường
tông cửa ập vào nhà, tên công an trưởng ra lệnh tất cả phải đứng
yên tại chỗ và cho biết là chúng được tin trong nhà bạn tôi có
làm lò nướng bánh mì lậu. Chúng bắt đầu lục soát, trong lúc đó
tôi đang ở trong phòng ngủ của bà mẹ anh bạn vì bà về thăm quê ở
Thốt Nốt, nên anh bạn cho tôi ngủ tạm, vì tôi cũng đề phòng
trường hợp này có thể xảy ra nên tôi không nằm ngủ trên giường mà
chỉ trải tấm mền lót để nằm dưới đất, còn trên giường thì mùng,
mền, nệm gối đều xếp ngay ngắn, cửa phòng khi vào tôi đã khóa lại
phía trong, khi nghe tiếng bọn công an vào tôi liền kéo tấm mền
đẩy vào gầm giường rồi chui vào trốn trong tủ áo vì quá cấp tốc
nên tôi không còn đường nào để thoát. Tiếng tên công an trưởng
hỏi bạn tôi:
“Ai ở trong phòng này?”
Bạn tôi trả
lời:
“Đây là phòng ngủ của má tôi hôm nay bà đã về quê ở
Thốt Nốt thăm bà con, không có ai ở trong đó hết”
Tên công
an ra lệnh bạn tôi lấy chìa khóa mở cửa phòng để chúng khám xét.
Tôi lo sợ nghĩ rằng lần này hết phương thoát khỏi. Sau khi cửa
phòng đã mở tôi nghe tiếng chân của tên công an bước vào phòng,
tôi hé nhìn kẹt cửa tủ áo thấy tên này ngó dáo dác trên giường
rồi bước đến bàn đèn chộp lấy chiếc đồng hồ đeo tay của tôi đang
để trên bàn rồi vội bước ra và ra lệnh cho mấy tên khác lên gác
lục soát để tìm tang vật về việc làm bánh mì lậu như bột mì, bàn
cân bột, v.v. Khi bọn công an lên gác anh bạn vội mở cửa sau cho
tôi tẩu thoát. Tôi thoát nạn lần này là nhờ vào chiếc đồng hồ
“Hai cửa sổ, ba người lái” (tiếng của bộ đội CS khi mới vào Nam)
của tôi, vì tên công an lấy được nên vội bỏ đi ra ngay.
Lần thứ 3 bị bắt hụt.
Trong gần dịp lễ Giáng Sinh năm
1977, được tin bọn công an sẽ bố ráp ở các nơi công cộng, bến xe
đò, nhà ga xe lửa, nên tôi đến xin bạn tôi cho ngủ nhờ. Khoảng 12
giờ khuya có tiếng đập cửa và tiếng bọn công an kêu gọi mở cửa
phía trước lẫn phía sau. Trong lúc bạn tôi đi mở cửa, tôi chạy
lên gác lầu và mở cửa sổ leo lên nóc nhà và bò rạp mình theo bóng
tối qua 2-3 nóc nhà và nằm nép mình xuống máng xối giữa 2 mái nhà
của phòng bán thực phẩm do cán bộ VC quản lý. Chúng lục xét khắp
nơi rồi lên gác mở cửa sổ nơi tôi vừa thoát ra. Chúng nhìn qua
mấy nóc nhà nhưng vì tối quá nên chúng nó không thấy tôi nên
chúng xuống lầu rồi bỏ đi. Kể từ đó anh bạn tôi không còn muốn
thấy mặt tôi nữa vì anh đã quá sợ. Còn về phần tôi thì cũng ngại
ngùng không muốn liên lụy đến anh bạn nữa nên tôi tránh xa khu
nhà của anh!
Tôi được một anh bạn khác giới thiệu cho tôi
gặp một người đại diện cho một tổ chức kháng chiến chống Cộng ở
miền Tây (xin được giữ kín), lúc đó tôi cũng có trách nhiệm cố
vấn tham mưu, đại diện cho một lực lượng tại đô thành Sài Gòn gồm
nhiều thành phần hỗn hợp, tôn giáo, quân nhân, công chức của Việt
Nam Cộng Hòa. Vì lúc này tất cả Sĩ quan đều bị đi tù cải tạo còn
lại thành phần quân nhân từ Hạ sĩ quan trở xuống. Anh bạn Người
Nhái của chúng tôi cấp bậc là Thượng sĩ đã họp cùng một số anh em
quân nhân và vài đoàn thể Tôn Giáo khác tổ chức ra một lực lượng
trong đô thành. Khi anh gặp được tôi trốn trại lần thứ 2, anh ngỏ
ý nhờ tôi giúp trong phần điều hành nhân sự vì trong tổ chức nhân
sự đã vượt quá khả năng Hạ sĩ quan của anh. Tôi cũng cho anh biết
là khả năng của tôi cũng hạn hẹp. Không thể lộ mặt được vì đang
lẩn trốn, tạm thời tôi xin nhận phần chìm đại diện cho tổ chức để
tìm các tổ chức khác để kết hợp, v.v. Trong phần vụ đó tôi đã dấn
thân cùng với một tổ chức khác đi về miền Tây để liên lạc với các
cánh quân ly khai vùng Sóc Trăng và Cờ Đỏ, và sau buổi họp tại
khách sạn ở Cần Thơ, tôi đã bí mật mang về Sài Gòn những số nhà
của các địa điểm cần được phối kiểm để tiếp tế khi cần. Nhưng chỉ
vài tuần sau thì tổ chức tôi đang hơp tác bị bể, chúng tôi đành
phải nằm yên.
Nhờ người bạn thân giới thiệu tôi với một
đại diện một cánh quân ở Miền Tây, tổ chức của anh đang bị động ở
miền Tây nên anh lánh về Sài Gòn. Tôi và anh bàn thảo trong tinh
thần cởi mở thân mật vì chúng tôi đều đang đi tìm những đường dây
tiếp tế thật sự từ ngoại quốc về và hứa sẽ giúp đỡ cho nhau khi
cần với khả năng mà mình có.
Sắp đến Tết Nguyên Đán ở đô
thành lại bị bố ráp, tôi đến gặp anh Trần (xin tạm gọi là anh
Trần...) nhờ anh giúp đưa tôi tạm lánh nạn về miền Tây ở vùng Cái
Răng. Anh giới thiệu tôi là người Tàu lai ở Chợ Lớn đi tìm việc
làm với ông chủ vườn cây ăn trái và nhờ ông giúp đỡ. Ông chủ vườn
đưa tôi vào vườn cây của ông cách mặt lộ khoảng 3 cây số. Vì là
vùng đất Bưng (đất sét đen) nên chỉ đi bằng chân không, vì bùn
sình lún sâu không thể mang giày dép được. Tôi ở chung với vợ
chồng người cháu. Tôi tạm gọi là anh Ba, anh là HSQ Truyền tin,
anh tự làm cho mù mắt để được miễn dịch, sau khi VC chiếm miền
Nam, vợ chồng anh bần khổ nên về đây ở tạm. Anh cũng thường tự
trách mình mỗi khi tâm sự với tôi là ngày trước anh đã hèn nhát,
đã tự hủy hoại thân thể để cầu an bây giờ VC vào rồi anh mới thấy
hối hận. Anh cũng hỏi thăm dò tôi thuộc thành phần nào nhưng tôi
giấu nhẹm chỉ cho anh biết tôi là người Tàu lai tên là Hứa Gia
Ân. Vườn cây ăn trái có khoảng 300 gốc, ban ngày tôi tưới nước và
lặn xuống dòng rạch để móc sình non lên vun gốc. Ban đêm khi
chiều xuống, tôi và anh Ba chèo xuồng đi giăng câu ở những nơi
hoang vắng để tránh tai mắt bọn công an vùng. Có nhiều đêm mưa
tầm tã chúng tôi quần áo ướt sũng co ro trên xuồng, hoặc tìm vào
các ngôi miễu hoang mà trú ẩn cho qua cơn mưa, gần sáng chúng tôi
mới chèo xuồng về. Vợ anh Ba, chị đem cá câu được ra chợ Cái Răng
bán và mua lại gạo muối về dùng. Thỉnh thoảng một vài tuần anh
Trần vào thăm tôi và tiếp tế chút ít tiền đưa cho anh chị Ba lo
giúp phần ăn uống cho tôi vì ông chủ vườn cũng không có dư dả nên
vợ chồng anh Ba và tôi điều phải tự túc.
Thoát nạn lần thứ
4.
Tôi ở đây gần 3 tuần, tôi đã gặp NN Nguyễn Văn Cao
chung khóa 2 NN với tôi, trong lúc tôi ra mặt lộ để hớt tóc. Cao
gặp tôi vui mừng, tôi vội kéo Cao ra ngoài để tránh mọi người để
ý và cho anh Cao biết là tôi đang lẩn trốn vì đã vượt tù cải tạo
hiện giờ thân phận tôi là người Tàu lai ở Chợ Lớn thất nghiệp nên
xuống đây làm vườn để sống. Cao khẽ nói với tôi:
“Chú Ba T
(Ông chủ vườn) ngày xưa đã tiếp tế VC. Nếu anh ở nhà ông thì tạm
là an toàn vì công an phường khóm đều quen biết ông.”
Nhưng vài hôm sau ông chủ vườn cho tôi hay là công an nói giấy tờ
của tôi đã gần hết hạn và muốn gặp mặt tôi vào ngày mai. Tôi cảm
thấy nguy hiểm nên khoảng 3 giờ sáng sớm hôm sau tôi lén rời khỏi
Cái Răng đi xe đò trở về Sài Gòn.
Sau đó có lúc tôi ở Cai
Lậy, Cần Thơ, Cái Răng, Bò Ót, Ô Môn, Thất Sơn, Châu Đốc.... Tôi
cố tìm vào các nơi bưng biền, nhưng khi biết ra thì các anh em
chỉ có “ngọn mà không có gốc”.
Tôi đành phải vượt biên,
sau khi đã bị VC bắt hụt mấy lần. Cuối cùng tôi được một người
bạn thân giúp cho tôi đem vợ và đứa con trai vừa hơn 3 tuổi.
NGÀY VƯỢT BIÊN
Ngày lễ Thanh Minh là ngày vượt biên!
Chúng tôi xuống ghe tại bến Ninh Kiều, Cần Thơ rồi chạy ra cửa
biển Tranh Đề, được chiếc ghe đánh cá Kiên Giang mang số KG-0660
đón lên ghe và khởi hành ra cửa biển, nhưng khi vừa ra tới cửa
biển chiếc ghe lại leo lên cồn cát, tất cả trên ghe là 59 người
kể cả lớn nhỏ, đều nhốn nháo lên, vì trên ghe có người đã vượt
biên 5 lần 7 lượt mà vẫn không thoát, lần này ghe lại mắc cạn,
nên mọi người đều lo sợ.
Tôi đứng ra kêu gọi tất cả hãy
bình tĩnh, và tổ chức lại, chia ra nhiều tổ, mỗi tổ 2 người, bắt
đầu xuống nước tính từ ghe chia ra tổ nào đi theo hướng nấy và
khi nào tìm được chỗ nước sâu tới ngực thì kêu lên. Tất cả đều
làm theo lời của tôi, một lúc sau ở hướng bên trái kêu lên có chỗ
sâu, tất cả đều cùng xúm lại đẩy ghe về hướng đó, ghe lại khởi
hành, nhưng ghe chạy chỉ được chừng vài trăm thước thì máy bơm
nước từ trong ra ngoài bị bể. Tôi liền tổ chức chia thành 3 toán
thay phiên nhau tát nước trong ghe ra ngoài. Tôi chọn 3 người lớn
tuổi làm trưởng toán có trách nhiệm sắp đặt thay phiên nhau.
Tôi nghi ngờ anh tài công này, tôi lên phòng lái hỏi anh tài
công: “Anh chở theo bao nhiêu lít dầu?”
Tài công trả lời:
“400 lít”.
Tôi hỏi: “Ghe này chạy bao nhiêu cây số giờ?”
Tài công: “không biết!”
Tôi hỏi: “Bây giờ anh đang
chạy đi đâu?”
Tài công: “Cứ chạy rồi sáng vô Hòn Khoai
tính lại”
Tôi biết tên tài công này có mưu đồ, tôi tức
giận thét lớn lên: “Anh rời khỏi phòng lái ngay, kể từ bây giờ
tôi lái chiếc ghe này!”
Tôi kéo cổ tên tài công ra khỏi
phòng lái và dặn các anh trưởng toán coi chừng tên tài công, còn
tôi vào phòng lái, lấy hướng 180 độ trên la bàn là hướng giữa Côn
Sơn và Hòn Khoai mà lái đi suốt đêm cho đến 7 giờ sáng. Tôi nhìn
về hướng bên trái ghe thấy dạng núi Côn Sơn, biết là đúng hướng
rồi, tôi lái thêm ba giờ nữa để ghe ra tới hải phận quốc tế. Tôi
được các người trên ghe cho biết tên tài công không có ý định
vượt biên, nên vợ con anh ta để lại Việt Nam. Còn ghe thì không
có tu bổ hay sửa chữa chi hết, nên nước đã vào theo kẽ hở tróc
chai rồi lại hư luôn máy bơm nước, còn máy cũng hư, chỉ còn máy
tiến mà không có máy lùi. Trên ghe đi biển vượt biên mà không có
hải đồ, chỉ vỏn vẹn một la bàn trong phòng lái mà thôi. Tôi đem
tấm bản đồ giới thiệu đường hàng không của Mã Lai, tỷ lệ 1/40
triệu, nhìn vào bản đồ thấy nước Việt Nam bằng đầu ngón tay út,
dùng bản đồ đó và địa bàn Bộ Binh (tôi đem theo tấm bản đồ và địa
bàn này trong mình là dự tính vượt biên bằng đường bộ) tôi đo và
xoay theo hướng độ, tôi kẻ đường thẳng đến thị trấn Kotabaru của
Mã Lai, giáp biên giới của Thái Lan, là hướng 240 độ.
Tôi
lái ghe đổi hướng trực chỉ. Chúng tôi đã đi 2 đêm 2 ngày, mỗi
ngày tôi đều thay dầu vào lúc 4 giờ chiều, rồi lại đi tiếp. Bỗng
thấy có chiếc tàu từ xa chạy cùng chiều, chiếc tàu chạy tốc độ
rất nhanh khi đến gần chúng tôi mới biết là tàu đánh cá Thái Lan.
Chiếc tàu vượt qua ghe rồi ngừng lại, ra dấu cho chúng tôi cập
vào, vì ghe không có máy lùi nên kêu tất cả thanh niên khoảng gần
30 người đứng dàn hàng trên ghe để khi cập vào thì đỡ lại, và tôi
lái góc 90 độ mũi ghe chỉa thẳng vào hông tàu của Thái Lan dự
tính khi đến gần sẽ lấy mũi lại song song với tàu, nhưng tàu Thái
Lan hoảng sợ vội vọt mạnh về phía trước, làm cho một tên Thái rớt
xuống biển. Tôi vòng ghe lại vớt tên này lên, tên thủy thủ lên
ghe chúng tôi mà có vẻ sợ sệt, chiếc tàu Thái Lan vòng lại và ra
dấu thả tên Thái đó và ra dấu sẽ tiếp tế thực phẩm cho chúng tôi.
Tôi ra dấu cho tên Thái Lan nhảy xuống lội về tàu, chúng tôi được
tàu Thái câu bỏ xuống 2 bao gạo và 2 thùng bằng nylon chứa nước
ngọt (vì khi ghe bị mắc cạn chúng tôi đã đổ bớt nước ngọt đem
theo để cho ghe được nhẹ bớt nên thiếu nước ngọt). Sau đó tàu
Thái Lan trở hướng chạy ngược lại, còn chúng tôi tiếp tục đi. Bà
con trên ghe bàn tán, có lẽ tàu Thái Lan đó là hải tặc, nhưng khi
thấy trên ghe đông thanh niên đứng dàn hàng nên chúng nó sợ chúng
tôi cướp lại tàu của chúng nó nên chúng đành bỏ đi?
Đến
chiều ngày hôm đó tôi họp với 3 anh trưởng toán lại và cho các
anh biết là tình trạng chiếc ghe không còn an toàn nữa, vì chất
chai trét đã bị tróc nước vô nhiều, hy vọng có tàu lớn đi ngang
cứu giúp. Tất cả đều lo lắng. Khoảng 6 giờ chiều, bỗng thấy ánh
sáng chớp lên thật xa, tôi xem kỹ biết là Hải Tiêu, tôi báo cho
tất cả trên ghe hay tin đều vui mừng, tôi lái theo hướng Hải Tiêu
cho tới 12 giờ đêm mới vào được tới cửa sông, khi tôi ủi ghe lên
bờ vừa chạm cồn cát, chiếc ghe rã ra và chìm xuống nước, 59 người
lớn và trẻ em trên ghe đều bồng bế nhau nhảy xuống biển, nước sâu
tới cổ, và tất cả mọi người đều an toàn đến bến bờ đất nước Mã
Lai.
Chiếc ghe đánh cá Kiên Giang mang số KG-0660 đã làm
tròn trách nhiệm của mình đưa người tới bến bờ TỰ DO và đã trở về
với lòng Đại Dương ngàn đời! Còn Chúng ta... những đứa con vì 2
chữ TỰ DO đã bỏ nước ra đi đang lang thang nơi đất lạ khắp năm
châu. Biết đến bao giờ những đứa con này mang 2 chữ TỰ DO về cho
đất mẹ!
NN Lê Đình An
Mã Lai, Mùa thu 1978.
Ghi chú: Vào năm 1984, gia đinh tôi còn ở Thành phố Houston, tôi
có gặp lại một anh Sĩ quan bị tù chung ở Thành Ông Năm quận Hốc
Môn (nơi tôi vượt tù lần thứ nhất). Anh này được thả ra sau 3 năm
tù, và anh đã vượt biên bằng ghe đánh cá. Sau khi tay bắt mặt
mừng, anh cho tôi biết tin tức về các anh em tù cải tạo, tôi hỏi
về 2 anh Nguyễn Hoành và Hoàng Trinh. Anh thở dài và cho biết:...
sau khi ở Trại Thành Ông Năm, bọn chúng đã chuyển tù nhân tất cả
ra vùng U Minh rồi sau đó chuyển ra An Thới Phú Quốc, rồi chuyển
về núi Thị Vải, 2 anh Nguyễn Hoành và Hoàng Trinh đã vượt trại tù
ở chân núi Thị Vải, Vũng Tàu và đã bị bắn chết cả 2 ở giữa vòng
rào kẽm gai!
Vào tháng 5 - 2003. Tôi được NN
Nguyễn Đức Nguyên báo tin cho tôi biết có gặp anh Đặng Văn Sáu,
Sĩ quan bị tù cải tạo qua Mỹ trong diện HO hiện anh đang làm an
ninh khu vực (Security) của Ngân Hàng nơi NN Nguyên đang gởi
tiền. Anh này biết Nguyên là NN nên hỏi Nguyên có biết anh Lê
Đình An làm việc ở Phủ Tống Thống hay không? Nguyên trả lời Anh
An là bạn cùng chung đơn vị Phủ Tổng thống với tôi. Anh Sáu kể
lại câu chuyện:
“Anh Lê Đình An và tôi ở tù chung trại
Phản động K3 ở Gia Rây. Ngày anh An vượt trại với một người tên
là Trần Quang, tất cả Trại tù anh em đều bàng hoàng kinh sợ vì
xung quanh trại đều có mìn. Anh Sáu kể tiếp: “sau khi anh An vượt
trại, bọn cán bộ cho tất cả tù ngưng lao động để chờ bắt các anh
trở lại, nhưng bọn cán bộ rất tức giận vì chúng không bắt lại
được. Sau đó khoảng chừng 4 tháng, chúng nó chuyển tất cả trại
K3 ra miền Bắc. Trên chuyến Tàu đang chờ đợi chở ra Bắc,
anh em lại thấy cán bộ giải đến một người bị còng tréo tay sau
lưng, thân hình gầy gò ốm yếu, khi giải đến gần anh em mới biết
là anh Trần Quang. Sau này anh Quang vì ở chung trại với tôi nên
kể cho tôi nghe cuộc vượt tù với anh Lê Đình An, thời gian đó
anh Quang vì bị bệnh sốt xuất huyết cho nên người quen của anh
Quang phải đưa vào nhà thương điều trị vì vậy nên Quang bị lộ và
bị bắt lại, rồi chúng nó giải giao lại cùng trại Nam Hà chung với
toán chúng tôi....
Được vài tháng sau Quang tâm sự với tôi
là sẽ tìm cách trốn nữa. Quả thật Quang đã tìm cách trốn bằng
cách uống nhiều thuốc trị sốt rét nên bị vật vã, khi bọn cán bộ
chở vào nhà thương thì Quang đã chết vì bị uống quá liều. Có lẽ
Quang dự tính dùng phương pháp này để khi vào nhà thương, anh sẽ
tìm cách thoát thân. Nhưng anh vĩnh viễn không còn cơ hội nữa!
Vào ngày 03-01-2004. Tôi nhận được điện thoại của anh Đặng
Văn Sáu, tôi rất vui mừng. Sau khi hàn huyên thăm hỏi.... Anh Sáu
cũng kể lại diễn tiến từ khi tôi và Trần Quang vượt trại cải tạo
K3 như kể ở phần trên....
Anh Đặng Văn Sáu được thả ra vào
năm 1982. Anh lập gia đình vào năm 1983, khi có được một cháu,
gia đình anh được qua Mỹ trong diện HO đợt 10, hiện đang sống tại
California.
(Xin xem tiếp
bài “Trại tỵ nạn Kotabharu”)
NN Lê Đình An
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bài-01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13
|
Hình nền: Biển Thái Bình/VN. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by NN Lê Đình An chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, October 29, 2016
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang