Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Ngược dòng Thời gian
Chủ đề: VNCH
Tác giả:
Thiện Ý
Bấm
vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Thấm
thoát mà đã 62 năm (1956-2018), nền Cộng Hòa được thiết lập tại
Việt Nam với bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa ban hành ngày
26-10-1956 tại Miền Nam Việt Nam.
Năm nay, nhân ngày 26-10-2018, nghĩ về
Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa ban hành ngày 26-10-1956, chúng tôi
muốn gửi bài viết này đến quý độc giả người Việt Nam không cộng
sản trong cũng như ngoài nước, đề cùng tự hào với quá khứ, rằng
chúng ta đã chọn đúng nền tảng một chế độ chính trị phù hợp với ý
nguyện của toàn dân và tin tưởng mãnh liệt ở tương lai, rằng nhất
định chúng ta sẽ thiết lập được một chế độ dân chủ trên nền tảng
Cộng Hòa đã được xác lập 62 năm qua tại Việt Nam. Nội dung bài
viết lần lượt trình bày:
I – BỐI CẢNH LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
NỀN CỘNG HÒA TẠI VIỆT NAM
Như quý độc giả đã biết, sau Thế Chiến
II, chủ nghĩa thực dân cũ đã bước vào thời kỳ suy tàn, xu thế
giải thực đã buộc các đế quốc từng có nhiều thuộc địa như Pháp,
Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan... đã phải lần lượt trao trả
độc lập cho các nước bị trị. Điển hình là một số nước trong vùng
Đông Nam Á như Ấn Độ và Hồi Quốc được Đế Quốc Anh trao trả độc
lập năm 1947; Indonesia được Hà Lan trao trả độc lập năm 1949;
Triều Tiên được Nhật trao trả độc lập năm 1945; Lào và Cao Miên
Pháp trao trả độc lập năm 1953...
Do đó, theo nhận định của nhiều sử gia
và học giả nghiên cứu chính trị và lịch sử, thì chẳng cần cuộc
kháng chiến gian khổ 9 năm do đảng cộng sản Việt Nam (CSVN) phát
động và chủ đạo tiến hành (1946-1954) làm hao tổn quá nhiều xương
máu nhân dân, tàn phá tài nguyên đất nước không cần thiết theo
chủ trương “tiêu thổ kháng chiến” của Việt Minh cộng sản, để có
được cái gọi là “Chiến thắng Điện Biên lịch sử” (7-5-1954), thì
thực dân Pháp sớm muộn cũng phải trao trả độc lập cho Việt Nam
cũng như nhiều thuộc địa khác. Chẳng qua Ông Hồ Chí Minh và Cộng
đảng Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến này, chỉ là lợi dụng
lòng yêu nước của nhân dân, dùng chiêu bài độc lập dân tộc để
“cướp chính quyền”; sau đó áp đặt chế độ độc tài đảng trị CS tại
Việt Nam, thực hiện tham vọng bành trướng lãnh thổ, nhuộm đỏ toàn
cầu của cộng sản quốc tế, đứng đầu là hai tân đế quốc Đỏ Nga-Tàu.
Thật vậy, trên thực tế, trước áp lực
của xu thế giải thực, thực dân Pháp đã phải lùi từng bước, trao
trả độc lập từng phần cho Việt Nam, qua các Hiệp Định Vịnh Hạ
Long ngày 5 tháng 6 năm 1948, “đề cử” Hoàng đế Bảo Đại làm Quốc
Trưởng, và Pháp thừa nhận Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Quốc
trưởng Bảo Đại như là một quốc gia độc lập nằm trong Liên Hiệp
Pháp. Ngày 8 tháng 3 năm 1949 Tổng thống Pháp Vincent Auriol và
Quốc trưởng Bảo Đại đã ký “Thỏa Ước Elysée”. Theo đó, Pháp hứa sẽ
xây dựng cho Việt Nam một quân đội quốc gia chống cộng. Đây là
khởi điểm của sự thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, gồm có các
binh lính và sĩ quan gốc “Khố Xanh Khố Đỏ” của Pháp chuyển qua.
Chính những sĩ quan có xuất thân này, đã nắm vận mệnh quốc gia
sau khi đảo chánh lật đổ Tổng Thống Diệm, và đã góp phần làm mất
Miền Nam vào tay cộng sản (30-4-1975).
Thế rồi, cuối cùng thực dân Pháp cũng
đã phải trao trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam vào năm 1954.
Nhưng Việt Nam có số phận không may đã rơi vào thế gọng kìm của
một chiến lược quốc tế mới hậu Thế chiến II, với cuộc chiến tranh
ý thức hệ (cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa), nên đất nước
bị qua phân theo Hiệp Định Genève ngày 20-7-1954 ký kết giữa thực
dân Pháp và Việt Minh cộng sản, có ý nghĩa như là Pháp (quân cướp
nước) đã mất nửa thuộc địa Miền Bắc cho đảng cộng sản (phường bán
nước cho quốc tế CS Nga-Tàu). Chính quyền chính thống quốc gia
của Quốc trưởng Bảo Đại, với thủ tướng chính phủ Ngô Đình Diệm
lúc bấy giờ, không ký vào Hiệp định Genève 1954, nên không có
trách nhiệm thi hành, nhưng phải tiếp nhận độc lập chủ quyền quốc
gia trên nửa nước Miền Nam, phải chấp nhận một thực tế bị áp đặt
trái với ý nguyện của nhân dân Việt Nam. Vì vậy trên nguyên tắc
quốc gia Việt Nam vẫn là một, chỉ tạm thời chia cắt để chờ cơ may
thống nhất đất nước.
Hệ quả là một nửa nước Miền Bắc rơi vào
tay đảng CSVN thiết lập “Nền Chuyên Chính Vô Sản”, trên đó xây
dựng chế độ độc tài toàn trị cộng sản, với quyền thống trị độc
tôn, độc quyền của đảng CSVN, một công cụ chiến lược của hai tân
đế quốc đỏ Nga-Tầu. Nửa nước Miền Nam Việt Nam được trao trả cho
chính quyền chính thống quốc gia Việt Nam, thiết lập nền Cộng Hòa
trên đó xây dựng chế độ tự do dân chủ, tức Việt Nam Cộng Hòa, với
sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và các đồng minh Thế giới Tự do trên nguyên
tắc, song trên thực tế đã bị Hoa Kỳ biến thành công cụ chiến lược
một thời của mình; dù chỉ là một công cụ ngay tình(bị ép buộc)
khác với đảng cộng sản Việt Nam đã là công cụ tri tình (tình
nguyện, chủ động thực hiện nghĩa vụ công cụ) cho cộng sản quốc tế
Nga-Tầu. Vì đảng CSVN đã tình nguyện làm một công cụ bành trướng
của cộng sản quốc tế, đứng đầu là Nga-Tầu lúc đó, nên đã phát
động và tiến hành cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn kéo dài 21
năm để thôn tính Miền Nam Việt Nam (1954-1975) và cộng sản hóa cả
nước cho đến nay đã 43 năm rồi (1975-2018).
Trong khi đó, chính quyền chính thống
quốc gia và nhân dân Miền Nam, trong thế chẳng đặng đừng đã phải
làm tiền đồn chống cộng cho Hoa Kỳ và phe Thế giới tự do; buộc
lòng phải thực hiện cuộc chiến tranh tự vệ để ngăn chặn, đẩy lùi
cuộc chiến tranh xâm lược đó của CSBV, để bảo vệ phần đất tự do
Miền Nam; trong ý hướng giữ vững độc lập quốc gia, chủ quyền dân
tộc, để vừa chiến đấu chống cuộc xâm lăng của CSBV, vừa nỗ lực
xây dựng thành công chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa,
tiến tới thống nhất đất nước, không phải bằng bạo lực quân sự, mà
bằng sự ưu thắng của chế độ dân chủ pháp trị VNCH và nền kinh tế
tự do phát triển phồn vinh ở Miền Nam; trên chế độ độc tài toàn
trị CSBV và nền kinh tế chỉ huy nghèo nàn lạc hậu ở Miền Bắc.
Nghĩa là chính quyền và nhân dân Miền Nam, muốn tiến tới tình
trạng như Nam Bắc Hàn hiện nay, mà sự thống nhất Hàn Quốc một
cách hòa bình, với sự ưu thắng của Nam Hàn dân chủ phồn vinh trên
Bắc Hàn độc tài cộng sản nghèo đói và lạc hậu, chỉ còn là vấn đề
thời gian.
Chính vì mục tiêu và lý tưởng vừa nêu, nền Cộng Hòa đã được xác
lập tại Việt Nam, bằng bản Hiến pháp ban hành ngày 26-10-1956,
trên đó xây dựng chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa thay
thế cho chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại nhiều thế kỷ trước đó
tại Việt Nam.
II. NỀN CỘNG HÒA VÀ HIẾN PHÁP VIỆT NAM CỘNG HÒA 1956.
1. Nền Cộng Hòa và cố Tổng
Thống Ngô Đình Diệm.
Theo tự điển Hán Việt của học giả Đào
Duy Anh, Cộng Hòa (Republic: Cộng đồng, dân chúng) có ý nghĩa như
là nền tảng cho một chế độ dân chủ, chế độ Cộng Hòa (Repubican
Regime) với “Chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân”. Cố tổng thống
Ngô Đình Diệm được coi là người khai sáng nền Cộng Hòa như thế
tại Việt Nam.
Sử liệu cận đại Việt Nam ghi nhận các sự kiện có ý nghĩa sau đây:
ngày 7 tháng 7 năm 1954, chí sĩ Ngô Đình Diệm đang sống lưu vong
ở hải ngoại đã về nước chấp chánh theo sự ủy thác của vua Bảo Đại
trong ngôi vị Thủ tướng chính phủ chính thống quốc gia Việt Nam,
để chống cộng và nếu cần chống cả thực dân và phong kiến để bảo
vệ tổ quốc (Như hồi ký của cựu hoàng Bảo Đại đã viết). Vì xu thế
thời đại, Thủ Tướng Diệm không thể duy trì thể chế quân chủ
chuyên chế, nên với sự hậu thuẫn của 18 đoàn thể chính trị (Hội
Đồng Cách Mạng Quốc gia), họp tại Dinh Độc Lập đã quyết định
thiết lập chế độ Cộng Hòa, theo xu thế thời đại, đáp ứng ý nguyện
của quốc dân, qua cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955 truất phế
vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ chuyên chế Việt
Nam thiết lập nhiều thế kỷ trước đó, tôn vinh Thủ Tướng Ngô Đình
Diệm là Tổng Thống đầu tiên chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Để có căn bản pháp lý, ngày 26-10-1955
Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã ban hành Hiến Ước Tạm Thời Số 1, và
ngày 23 tháng 1 năm 1956 đã ký ban hành Dụ Số 8 thiết lập Quốc
hội Lập hiến định hướng cho chế độ Cộng Hòa sẽ được xác lập. Trên
căn bản các văn kiện pháp lý hành chánh này, nhân dân Miền Nam
lần đầu tiên được cầm lá phiếu với tư cách là công dân một nước
độc lập, có chủ quyền, đi bầu người đại diện vào Quốc hội Lập
hiến để thay mặt mình soạn thảo ra một bản hiến pháp dân chủ trên
nền tảng Cộng Hòa đầu tiên. Trong vòng 9 tháng sau, Quốc hội do
dân bầu này đã hoàn thành bản Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa và ngày
26 tháng 10 năm 1956, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã ký ban hành bản
hiến pháp đầu tiên làm căn bản thiết lập các định chế quốc gia,
với tam quyền phân lập và cơ cấu của một chính quyền Cộng Hòa với
chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân.
2. Nền Cộng Hòa và Hiến pháp
Việt Nam Cộng Hòa 1956.
Như trên đã trình bày nền Cộng Hòa là
nền tảng của một chế độ chính trị với chủ quyền quốc gia thuộc về
toàn dân, theo học thuyết chính trị dân chủ Phương Tây; tương tự
quan niệm dân chủ Phương Đông “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân
vi khinh”, đều lấy “Dân làm gốc”. Tiếc rằng, quan niệm dân chủ
này chỉ có trong sách vở ở xã hội phong kiến, thực tế vua vẫn là
tối thượng, chủ quyền quốc gia thuộc về vua, chứ không phải của
toàn dân. Cũng như trong “nền chuyên chính vô sản” chủ quyền quốc
gia thuộc về đảng cộng sản, quyền “Làm chủ của nhân dân” chỉ là
bánh vẽ lừa mị nhân dân, che mắt quốc tế.
Vì vậy muốn chủ quyền quốc gia thuộc về
toàn dân, cần xây dựng một chế độ dân chủ trên nền tảng Cộng Hòa.
Để thiết định chế độ dân chủ Cộng Hòa này, cần có một bản hiến
pháp, là một văn kiện pháp lý căn bản qui định rõ quyền lợi nghĩa
vụ người dân trong, tương quan với chính quyền và nghĩa vụ của
các cơ quan công quyền, với các viên chức được người dân ủy quyền
qua lá phiếu trong các cuộc bầu cử tự do, chọn người đại diện cho
dân, làm nhiệm vụ công bộc ăn lương của dân, điều hành guồng máy
công quyền quốc gia, từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở,
theo ý nguyện của người chủ đất nước là nhân dân, sao cho xã hội
ổn định, phát triển, quốc gia phú cường, mọi tầng lớp nhân dân có
điều kiện phát triển đồng đều, “cộng đồng đồng tiến”, có đời sống
tự do, ấm no để mưu cầu hạnh phúc riêng (cá nhân) cũng như chung
(tập thể).
Trong ý hướng trên, bản Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa đầu tiên được
soạn thảo và ban hành ngày 26-10-1956 và sau đó bản Hiến pháp
Việt Nam Cộng Hòa thứ hai được ban hành ngày 1-4-1967.
Bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa
26-10-1956 được soạn thảo dựa trên hai nền tảng triết lý và chính
trị. Nền tảng triết lý là triết học duy tâm, lấy con
người là trung tâm, là chủ thể xã hội và là đối tuợng phục vụ của
xã hội. Nền tảng chính trị là chủ nghĩa nhân vị, trên đó thiết
lập chế độ Cộng Hòa với chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân, các
quyền dân chủ, dân sinh và nhân quyền được tôn trọng, bảo vệ và
hành xử. Chủ đích của các nhà lập hiến khi chọn chủ nghĩa Nhân Vị
làm nền tảng cho chế độ Cộng Hòa để soạn thảo ra Hiến Pháp hữu
thần Việt Nam Cộng Hòa là để đối kháng với triết học duy vật và
chủ nghĩa cộng sản vô thần, là nền tảng hiến pháp của chế độ vô
thần cộng sản Bắc Việt, vốn coi tôn giáo như thuốc phiện mê hoặc
con người; con người chỉ là sản phẩm kinh tế, là công cụ của xã
hội, cá nhân phải phục vụ xã hội và quyền lợi cá nhân phải hy
sinh cho quyền lợi tập thể (thực chất cũng như thực tế là hy sinh
cho quyền lợi của một tập đoàn thống trị độc quyền là đảng CSVN),
trong một xã hội mà những người cộng sản muốn áp đặt, đó là xã
hội “Xã hội chủ nghĩa”, giai đọan đầu của “xã hội cộng sản” mà
đỉnh cao là “Thiên đường cộng sản” (!?!).
Tham vọng của các nhà lập hiến Việt Nam
khi chọn chủ nghĩa Nhân Vị làm nền tảng cho Hiến pháp chế độ Cộng
Hòa như là một võ khí lý luận để đánh bại đối phương về mặt ý
thức hệ. Đối phương lúc đó là đảng CSVN đã thiết lập ở Miền Bắc
một chế độ độc tài đảng trị CS bằng bản Hiến pháp năm 1958, ngụy
dân chủ, ngụy Cộng Hòa (xanh vỏ, đỏ lòng). Vì Hiến pháp này chỉ
giữ lại bảng hiệu “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”, của Hiến pháp 1946
(Một bản Hiến pháp tiến bộ, hợp lòng dân,do Quốc hội liên hiệp
Quốc-cộng soạn thảo trên nền tảng dân chủ, Cộng Hòa thật, nhưng
chưa thực hiện được. Vì sao? Chúng tôi sẽ trình bày trong một bài
viết khác), nhưng hình thức và nội dung rập khuôn Hiến pháp 1936
của cộng sản Liên Xô vốn xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa xã hội
hay cộng sản.
Với võ khí lý luận là chủ nghĩa Nhân Vị và chế độ dân chủ Cộng
Hòa, các nhà lập hiến VNCH tin rằng, người dân sẽ thấy được hai
con đuờng “Nhân vị chủ nghĩa”
và “cộng sản chủ nghĩa”
dẫn đến mục tiêu tối hậu hoàn toàn trái ngược:
“Chủ
nghĩa nhân vị”: Xây dựng một xã hội vì con người,
tôn trọng phẩm giá con người và xã hội phải phục vụ lợi ích tối
thuợng của con người. Trong khi
“chủ
nghĩa cộng sản”: xây dựng một xã hội vì đảng
CSVN, nô dịch và xã hội hóa con người, biến con người thành công
cụ phục vụ xã hội (thực chất là phụng vụ giai cấp thống trị),
nhân vị bị hạ thấp ngang tầm loài vật (theo lý luận và thực hành
Duy vật biện chứng của CS).
Đồng thời, chủ nghĩa Nhân Vị sẽ là nền
tảng cho chế độ chính trị Cộng Hòa, để bảo đảm được nhân vị và
các nhân quyền căn bản của người dân. Trong bối cảnh cuộc chiến
tranh chống cộng bảo vệ nền Cộng Hòa và chế độ dân chủ VNCH, chủ
nghĩa Nhân Vị giúp người dân phân biệt được mục tiêu và lý tuởng
tranh đấu tối hậu của người Việt Quốc gia là thiết lập cho kỳ
được một chế độ dân chủ Cộng Hòa là vì nhân vị và phẩm giá con
người, vì hạnh phúc của nhân dân, quyền dân chủ dân sinh và nhân
quyền được bảo đảm với tam quyền phân lập; trái nguợc với chế độ
độc tài toàn trị cộng sản, độc tôn và độc quyền thống trị của
đảng CSVN, vì quyền lợi của giai cấp thống trị là các cán bộ đảng
viên CS, gia đình họ và các tầng lớp ăn theo.
Chính vì vậy mà chủ thuyết nhân vị được
xác tín qua phần “Mở Đầu” của Hiến Pháp VNCH
ngày 26-10-1956 như sau:
“Tin tuởng ở sự truờng tồn
của nền văn minh Việt Nam, cần có trên nền tảng duy linh mà toàn
dân đều có nhiệm vụ phát huy;”
“Tin tuởng ở giá trị siêu
việt của con người mà sự phát triển tự do. Điều hòa và đầy đủ
trong cương vị cá nhân cũng như trong đời sống tập thể phải là
mục đích của mọi hoạt động quốc gia...”
Như
vậy, chính trên nền tảng chủ nghĩa Nhân Vị, Quốc hội Lập hiến đầu
tiên của quốc gia Việt Nam đã soạn ra bản Hiến pháp VNCH đầu tiên
(hoàn toàn khác với cái gọi là Hiến pháp VNDCCH 1958 của cộng sản
Bắc Việt “ngụy dân chủ, ngụy Cộng Hòa”), và đã được Thủ tướng Ngô
Đình Diệm, sau trở thành vị tổng thống đầu tiên chế độ VNCH, đã
ký ban hành ngày 26-10-1956.
Nội dung Bản Hiến Pháp này, ngoài phần
“Mở Đầu”, gồm 10 Thiên và 98 Điều thể hiện rõ nguyên tắc phân
quyền: Thiên thứ nhất quy định những “Điều khoản căn bản”; Thiên
Thứ Hai: “Quyền lợi và Nhiệm vụ người dân”; Thiên thứ ba:“Tổng
Thống”; Thiên thứ tư: “Quốc Hội”; Thiên thứ năm “Thẩm phán”;
Thiên Thứ sáu “Đặc biệt Pháp viện”; Thiên Thứ Bẩy “Hội Đồng Kinh
Tế Quốc gia”; Thiên thứ tám “Viện Bảo hiến”; Thiên Thứ Chín “Sửa
đổi Hiến pháp” và Thiên Thứ mười “Các Điều khoản chung”.
Cuộc đảo chánh quân sự ngày 1-11-1963,
với sự trợ giúp của ngọai bang đã đưa đến cái chết thảm thương
cho Cố Tổng thống Ngô Đinh Diệm, một nhà ái quốc, thiết tha với
việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc (là một trong
những nguyên nhân ông phải chết), người có công khai sáng nền
Cộng Hòa Việt Nam. Hiến pháp VNCH ngày 26-10-1956 bị hủy bỏ cùng
với sự cáo chung nền Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa.
Sau những năm triền miên bất ổn chính
trị, xã hội xáo trộn do các phe phái chính trị, quân sự tranh
giành quyền lực (1963-1967) bản Hiến pháp Đệ nhị VNCH đã được
Quốc hội Lập Hiến thông qua ngày 18-3-1967 và đã được Tướng
Nguyễn Văn Thiệu, trong tư cách Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia
ban hành ngày 1-4-1967. Cuộc bầu cử ngày 3-9-1967 đã đưa Tướng
Nguyễn Văn Thiệu lên ngôi vị Tổng Thống VNCH, là vị Tổng Thống
thứ hai của nền Đệ nhị Cộng Hòa Việt Nam.
III – KẾT LUẬN
Tóm lại, như vậy là cuộc chiến đấu anh
dũng của quân dân Miền Nam bảo vệ chế độ dân chủ pháp trị VNCH đã
thất bại, song chỉ là thất bại tạm thời, có tính giai đọan. Vì
sau đó và cho đến nay, cuộc chiến đấu chống chế độ cộng sản độc
tài toàn trị để tái lập chế độ dân chủ Cộng Hòa trên cả nuớc vẫn
đang tiếp diễn. Đây là giai đọan chống cộng cuối cùng vì dân chủ,
cho nền Cộng Hòa Việt Nam của người Việt quốc gia hay là người
Việt Nam không cộng sản trong cũng như ngoài nuớc, phù hợp với
khát vọng của toàn dân. Thực tế đã và đang ngày một khẳng định “chính
nghĩa Cộng Hòa” (Chủ
quyền quốc gia thuộc về toàn dân) tất thắng
“ngụy nghĩa cộng sản”
(Chủ quyền quốc gia thuộc
về đảng CSVN).
Nhân dân Việt Nam nhất định sẽ thiết
lập được một chế độ dân chủ Cộng Hòa trên toàn cõi Việt Nam trong
một tương lai không xa, với một bản Hiến pháp Dân chủ Cộng Hòa,
đáp ứng đúng nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, từ ải Nam Quan
đến mũi Cà Mâu; như từng được khẳng định trong “Lời Mở Đầu” của
Hiến pháp VNCH tiên khởi ngày 26-10-1956.
Thiện Ý
Houston,
ngày 26 tháng 10 năm 2018
Bấm
vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
TỔ QUỐC GHI ƠN ANH HÙNG VỊ QUỐC VONG THÂN!
|
Hình nền: Tiếc Thương Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by ddcb chuyển
Đăng ngày Thứ Hai,
November 5, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang