Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Quân sử - Binh chủng Truyền Tin QLVNCH
Chủ đề:
Hồi Ký
Tác giả:
Nguyễn-Huy Hùng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Mục Lục
Hồi ký gồm 12 chương với
những tiểu đề sau:
Lời Tác Giả
1. Đôi dòng phi lộ
2.
Sơ lược
tổng quát về Quân đội Quốc gia Việt Nam lúc sơ khai
3.
Bộ
Tổng Tham Mưu và Quân đội Quốc gia Việt Nam bắt đầu thành hình và
khởi sự hoạt động
4.
Chiến cuộc xoay chiều, Pháp ra khỏi
Việt Nam
5. Ông Ngô Đình Diệm với những khó khăn trong kế
hoạch cải tiến xã hội tại miền Nam Việt Nam sau Hiệp định Genève
21-7-1954
6. Thế lực chính trị bắt đầu xâm nhập khuynh
loát làm đảo lộn nếp sống kỷ cương của Quân đội
7.
Bầu Chủ
tịch Phong trào Cách mạng Quốc gia của Binh chủng Truyền Tin
8. Hội chợ mừng ngày Chế độ Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam
Việt Nam chính thức ra đời, với ông Ngô Đình Diệm làm Tổng thống
đầu tiên
9. Một công đôi việc: Công vụ thanh tra và “Vinh
quy bái tổ” của Chỉ huy trưởng Viễn Thông Bộ Tổng Tham mưu QLVNCH
10. Chuyến du học thích thú tại Trường Truyền Tin Lục quân
Hoa Kỳ, Fort Monmouth, Tiểu bang New Jersey, bên bờ Đại Tây
Dương, miền Đông Hoa Kỳ
11.
Những niềm vui và kỷ niệm khó
quên
12. Những kỷ niệm sau cùng trong Binh chủng Truyền
Tin.
Xem Bộ Huy hiệu Binh chủng Truyền Tin QLVNCH
Lời Tác giả
Trước
khi đọc những mẩu truyện DUYÊN NỢ TRUYỀN TIN, xin mời đọc hai bài
trình bày tổng quát về TRUYỀN TIN (Signal, Transmission) một nhu
cầu cần yếu trong Quân đội, nhưng quảng đại quần chúng ngoài xã
hội cũng cần và thường gọi là nhu cầu về THÔNG TIN LIÊN LẠC
(Télécommunication) trong đời sống hàng ngày của con người.
TRUYỀN TIN MỘT NHU CẦU THIẾT
YẾU CỦA CÁC LOÀI ĐỘNG VẬT
Khi Hóa Công (Ông Trời) tạo
dựng lên những loài động vật trên trái đất, Ngài đã dự liệu (programming)
cho mỗi loài có một đặc tính riêng, và cơ thể tổng quát của mọi
loài giống nhau như một bộ máy tổng hợp tinh xảo, hoạt động liên
tục không ngưng nghỉ, từ lúc sinh ra cho đến lúc hết hạn kỳ của
đời sống mới ngưng hoạt động. Câu truyện Tôi sẽ trình bày dưới
đây được hạn chế trong phạm vi góc cạnh nhỏ, liên quan đến nhu
cầu thông tin liên lạc của con người mà thôi.
Hầu như tất cả những loài động vật sống
trên cạn là con người (nhân), chim muông (cầm),
súc vật (thú) đều có 5 giác quan là: Khứu giác, Thính
giác, Thị giác, Vị giác, và Xúc giác. Cả 5 giác quan này đều là
phương tiện truyền tin thiết yếu, cần phải có để các sinh vật
liên lạc với nhau. Nhưng, các phương tiện bẩm sinh cơ hữu này,
chỉ sử dụng được hữu hiệu trong một phạm vi không gian giới hạn.
Nếu hai sinh vật đứng cách nhau xa quá tầm nhìn của mắt, thì
chẳng nhìn thấy được các dấu hiệu do đối tác muốn chuyển đến cho
mình. Nếu đứng xa quá tầm khả năng thâu nhận những làn sóng rung
động của không khí đập vào màng nhĩ, thì cũng không nghe được
những điều đối tác muốn nói với mình. Đặc biệt là các dây phát âm
(vocal cords) nơi cổ họng, cũng chỉ có khả năng rung động phát ra
âm thanh cao đến một mức độ tần số nào đó, và cũng chỉ có thể lan
truyền đến một tầm mức xa nào đó thôi.
Các loài cầm và thú không được Hóa Công
phú cho bộ óc thông minh biết phán đoán, tìm tòi, sáng tạo để
vươn lên, nên đành phải chịu đựng sự hạn chế này. Nhưng, “CON
NGƯỜI LINH HƠN VẠN VẬT” như các Cụ thường nói, đâu có chịu chấp
nhận sự hạn chế này, phải vận dụng trí thông minh để sáng tạo ra
những phương tiện cần yếu thoả mãn cho các nhu cầu của mình. Do
đó, chúng ta thấy qua lịch sử các Thời đại phát triển của loài
người từ sơ khai cho đến nay, có rất nhiều loại phương tiện
truyền tin khác nhau, từ đơn giản đến tinh vi, đã được con người
sáng tạo để giải quyết nhu cầu liên lạc của mình trong mọi hoàn
cảnh khác nhau.
Thời sơ khai, khi con người biết tụ tập
thành Bộ Lạc để hiệp lực đi săn mồi mà sống, là lúc thực phẩm bắt
đầu khan hiếm. Đây là thời điểm bắt đầu có chiến tranh giữa các
Bộ Lạc, để cướp của tư hữu của Bộ Lạc khác và chiếm cứ khu vực
sung túc con mồi, cần thiết cho nhu cầu của Bộ Lạc. Do đó, các Bộ
Lạc phải tổ chức các toán chiến sĩ khỏe mạnh để sẵn sàng chiến
đấu bảo vệ Bộ Lạc, cũng như cắt cử người canh gác thường xuyên
tại các tuyến tiền đồn thật xa chung quanh khu vực cư trú của Bộ
Lạc, để báo động khi có dấu hiệu địch đang tới. Thoạt đầu, người
ta dùng Liên Lạc Viên chạy đi báo (sau này trong các thời Vua
Chúa tại Việt Nam vẫn còn dùng gọi là Hỏa Bài Quân). Nhưng,
Liên Lạc Viên thường bị địch quân chặn đường bắt hoặc có thể gặp
tai nạn dọc đường, nên các tin không đến nơi hoặc bị chậm trễ. Do
đó, nhu cầu cần có các phương tiện truyền tin thay thế con người
chạy bộ, nên người ta mới phải cố gắng moi óc nghĩ ra cách dùng
một loại dụng cụ có khả năng tạo ra tiếng vang thật xa để thay
thế cho Liên Lạc Viên. Đó là, dùng một thanh gỗ cứng đập vào một
khúc gỗ rỗng ruột để tạo ra tiếng động, mà truyền tín hiệu từ
tiền đồn đến các trạm trung gian, và các trạm trung gian tiếp
theo nhau truyền về đến hậu cứ chính của Bộ Lạc.
Đến thời con người biết dùng lửa để
nướng chín đồ ăn, thì lại nghĩ ra cách đốt các đống cành lá tạo
ra các bụm khói để báo tin cho nhau. Hiện nay tại Hoa Kỳ, nếu ai
có dịp đi thăm các trung tâm di tích lịch sử của người Mọi Da Đỏ,
thì sẽ được thấy họ biểu diễn cho coi cách họ dùng đống lửa và
tấm da thú vật để tạo các bụm khói thông tin với nhau như thế
nào.
Đến tận
Thế kỷ 20, chúng ta cũng còn thấy các làng xã Việt Nam dùng MÕ
TRE hoặc GỖ để báo tin cho nhau giờ cầm canh đêm hoặc hiệu báo
động có cướp xâm nhập khu vực, giữa các trạm tuần đinh canh gác
tại các xóm trong cùng một làng. Quần chúng vùng đồng bằng sông
Hồng (Bắc Việt) còn dùng TRỐNG lớn tạo được tiếng vang
lan đi thật xa, để báo tin giữa các trạm canh đê trong mùa nước
lũ lụt. Ngoài ra, TRỐNG cũng được dùng để báo hiệu cho quần chúng
biết giờ khai mạc các kỳ họp làng, lễ hội, hay hát tuồng hát bội,
để mà giắt nhau đi tham dự. Nơi thành thị dưới thời Pháp thuộc
trước 1945, đêm đêm chúng ta cũng thường nghe tiếng KẺNG cầm
canh, hoặc báo động có tù vượt ngục, giữa các trạm lính canh gác
tù ngồi trên các chòi lô cốt cao tại các góc tường chung quanh
nhà khám lớn giam tù.
Trên toàn thế giới, suốt từ buổi xa xưa
cho đến Đệ Nhất Thế Chiến, tất cả các nước trên 5 châu Lục địa
đều dùng TRỐNG và KÈN để chuyển lệnh cho quân sĩ, biết giờ giấc
thức, ngủ, tập họp, nghỉ việc tại các doanh trại, và tiến quân,
thối lui nơi chiến trường. Hiện nay các trại lính của Pháp và Hoa
Kỳ vẫn còn dùng KÈN báo thức, ngủ, và mặc niệm trong những buổi
lễ an táng hoặc chiêu hồn Tử Sĩ. Dĩ nhiên người ta phải quy định
các khúc nhạc với những âm điệu KÈN khác nhau, và những hồi TRỐNG
khác nhau để phân biệt mỗi loại tin tức cần truyền đạt. Bên Âu
Châu, người ta còn dùng 2 chiếc CỜ nhỏ mầu trắng đỏ, cằm nơi 2
tay dơ lên hạ xuống theo một quy ước riêng để làm phương tiện
liên lạc giữa 2 trạm truyền tin nằm trong tầm mắt nhìn được của
con người. Những người đi thuyền, tầu, lênh đênh trên biển cả,
ngoài các CỜ nói trên, người ta còn dùng một loại gương phản
chiếu ánh sáng mặt trời có miếng che đóng mở được, nhằm thực hiện
những loại tín hiệu ngắn và dài phối hợp để biểu tượng cho các
mẩu tự La tinh (Morse) để liên lạc trao đổi tin tức với nhau.
Tất cả những loại phương tiện truyền
tin này đều lộ liễu, mọi người có thể thấy và biết được sự hiện
diện và vị trí của đối phương. Do đó người Âu Châu vì nhu cầu bảo
mật các kế hoạch hành quân xâm lược, cũng như phòng thủ, họ đã
nghĩ ra cách huấn luyện và dùng CHIM BỒ CÂU và CHÓ ĐƯA THƯ thay
cho các phương tiện cố hữu mọi người đã quen dùng. Cho đến giữa
Thập niên 1940 qua đầu Thập niên 1950, chúng ta thấy quân đội
viễn chinh của Pháp tái xâm chiếm Việt Nam vẫn còn có những đơn
vị Truyền Tin BỒ CÂU ĐƯA THƯ, làm phương tiện phụ dùng trong các
trường hợp nguy cấp khi các phương tiện điện tử Vô tuyến (radio)
và Hữu tuyến (wire) vì lý do nào đó bị trục trặc không dùng được.
Từ khi Quân Đội Quốc Gia Việt Nam được
thành lập vào đầu Thập niên 1950, trong các Đại đội Truyền Tin
cũng có trong tổ chức Trung đội BỒ CÂU ĐƯA THƯ. Các BỒ CÂU LIÊN
LẠC VIÊN này được tiếp tục nuôi dưỡng và sử dụng cho đến khoảng
năm 1956 mới giải tán, không dùng nữa vì tốn kém và hầu như không
có nhu cầu.
Theo sử liệu Việt Nam, thì vào Thế kỷ 15 (trong khoảng các
năm 1423-1429), thời
Anh
Hùng Áo vải đất Lam Sơn là Lê Lợi chiêu mộ Nghĩa Binh đánh đuổi
quân nhà Minh đang đô hộ nước Đại Việt của chúng ta, có danh
tướng TRẦN NGUYÊN HÃN cũng đã biết dùng BỒ CÂU ĐƯA THƯ để liên
lạc từ chiến trường về hậu cứ với Chủ soái Lê Lợi. Vì thế, Binh
chủng Truyền Tin Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã tôn vinh danh
tướng TRẦN NGUYÊN HÃN làm Thánh Tổ Binh chủng của mình.
Vào dịp chào mừng NGÀY QUÂN LỰC 19
tháng 6 năm 1967 tại Sài Gòn, Binh chủng Truyền Tin đã được Chính
phủ Việt Nam Cộng Hòa cho phép xây dựng tượng đài Thánh tổ TRẦN
NGUYÊN HÃN, ngay tại giữa Công viên trước mặt tiền chợ Bến Thành
(Sài Gòn). Tượng đài gồm một bệ hình tháp vuông cao cả chục mét,
với 4 cửa vòng cầu thông suốt qua bốn hướng, trên đỉnh bệ tháp là
tượng danh tướng TRẦN NGUYÊN HÃN, đúc bằng đồng đen, ngồi trên
lưng ngựa, tay trái tựa trên đốc gươm, tay phải dơ cao CON BỒ CÂU
như đang sẵn sàng thả nó bay đem tin đi. Hiện nay ai có dịp ghé
thăm Sài Gòn, vẫn còn thấy Tượng đài danh tướng TRẦN NGUYÊN HÃN
Thánh Tổ Binh chủng Truyền Tin Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nguyên
vẹn hiên ngang hùng dũng vươn cao trên nền trời, trước mặt tiền
Chợ Bến Thành của thành phố Sài Gòn đã được Thế giới công nhận từ
xa xưa là HÒN NGỌC VIỄN ĐÔNG.
Kể từ khi nhân loại phát minh ra các
phương tiện truyền thông liên lạc bằng điện tử, thì các phương
tiện cổ lỗ đơn giản đề cập trên đây bị bỏ rơi vào quên lãng. Bây
giờ chỉ còn thiểu số người dư giả tiền tài, lập dị, thích có cuộc
sống đơn giản mộc mạc bên thiên nhiên như con người thuộc các
thời đại Sơ Khai và Bán Khai, là còn duy trì sử dụng mà thôi.
Hoặc ta cũng có thể thấy trưng bày trong các Viện Bảo Tàng, để
người ta có thể đến thăm viếng tìm hiểu về quá khứ phát triển của
loài người.
Ngoài những phương tiện truyền thông liên lạc trên đây, chúng ta
cũng nên biết rằng, những sách khảo cứu, những cuốn truyện xã
hội, những cuốn phim, những bức tranh, các bản nhạc, các áng
thơ... mà con người cần có để giải trí và trau dồi thêm kiến thức
cho bản thân qua các Thời Đại, cũng đều là những phương tiện
truyền tin rất cần yếu để giúp cho xã hội loài người thăng tiến.
Đây chính là những phương tiện truyền tin thiết yếu để lưu truyền
các tin tức xã hội, khoa học và sự kiện lịch sử phát triển của
loài người, giữa các thế hệ nối tiếp nhau liên tục trong hiện tại
và tương lai vô tận đến Tận Thế.
Trong Quân đội có nhiều ngành chuyên
biệt khác nhau. Do đó, mỗi ngành chuyên biệt đều có Huy Hiệu
riêng để nhận diện phân biệt trên các bộ quân phục. Thoạt đầu
Binh chủng Truyền Tin được tổ chức theo khuôn mẫu quân đội Pháp,
nên được chia ra thành 2 lãnh vực hoạt động chuyên trách khác
nhau:
1. Ngành
chuyên trách về KHAI THÁC, ban hành các huấn lệnh hướng dẫn điều
hành việc sử dụng các phương tiện máy truyền tin để duy trì liên
lạc giữa các cấp đơn vị trong toàn quân đội.
2. Ngành chuyên trách về VẬT LIỆU, lo
toan các công tác tiếp tế, tồn trữ, và sửa chữa các máy truyền
tin, để cung cấp cho các đơn vị trong toàn quân đội theo đúng
Bảng Cấp Số quy định riêng cho mỗi đơn vị.
Do đó nên thuở ban đầu ấy, Binh chủng
Truyền Tin có tới 2 loại Huy Hiệu khác nhau gắn trên ngực áo các
bộ quân phục: Chim bồ câu xoè cánh với bó đuốc trên lưng
(hình 1) cho Ngành Khai Thác,
và Bó đuốc với hai mũi tên bắt tréo (hình 2)
cho Ngành Vật liệu. Phù Hiệu đơn vị mang nơi tay
áo trái là Phù Hiệu của Đại đơn vị mà đơn vị Truyền Tin đó phụ
thuộc. Chẳng hạn Bộ Chỉ huy Viễn thông Bộ Tổng Tham Mưu thì đeo
Phù hiệu của Bộ TTM, các BCH Viễn thông Quân Khu thì đeo Phù Hiệu
của Bộ Tư lệnh Quân khu mà BCH trực thuộc, Đơn vị Truyền Tin
thuộc Sư đoàn nào thì đeo Phù Hiệu riêng của Sư đoàn đó, Sở Vật
liệu thì đeo Phù hiệu của Nha Quân Cụ....
Đến thời kỳ Quân đội cải tiến tổ chức
theo khuôn mẫu quân đội Hoa Kỳ vào cuối Thập niên 1950, thì cả 2
ngành Khai Thác và Vật Liệu Truyền Tin đều mang chung một mẫu Phù
Hiệu mới duy nhất là Thanh kiếm với 3 vòng quỹ đạo hạt nhân
điện tử chạy quanh lưỡi kiếm (hình 3) nơi
tay áo trái của mọi loại quân phục. Đồng thời có chung một Huy
Hiệu bằng kim khí mầu vàng, gắn ở nơi ve áo 2 bên cổ các loại
quân phục là CHIM BỒ CÂU XOÈ CÁNH VỚI BÓ ĐUỐC TRÊN LƯNG (hình 1)
là mẫu Phù Hiệu trước kia của ngành Khai Thác.
Các Binh chủng Truyền Tin của các quân
đội Pháp và Hoa Kỳ cũng có mẫu Huy Hiệu riêng như trong các hình
4 và 5 dưới đây.
BINH CHỦNG TRUYỀN TIN QUÂN
LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA ĐƯỢC CHÍNH THỨC THÀNH LẬP VÀO NGÀY NÀO?
Nếu
không có ngày Quốc Hận 30-4-1975, cả nước Việt Nam bị chìm đắm
dưới cơn LŨ LỤT ĐỎ phũ phàng do Quốc tế cộng sản gây ra, và Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam không bị cảnh “xảy
đàn tan nghé”, thì chắc không ai quan tâm đặt câu hỏi:
BINH CHỦNG TRUYỀN TIN QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA ĐƯỢC
CHÍNH THỨC THÀNH LẬP VÀO NGÀY NÀO?
Sau hơn 30 năm rã ngũ, cuộc sống riêng
của mỗi người trong chúng ta đều phải trải qua nhiều thay đổi.
Khi biến cố QUỐC HẬN đau thương 30-4-1975 xảy ra tại miền Nam
Việt Nam, ai có cơ hội may mắn cùng với gia đình thoát được ra
nước ngoài, thì phải ra đi với 2 bàn tay trắng chẳng mang theo
được gì. Những người bị kẹt vì công vụ tới giờ chót, lúc Tướng
Dương văn Minh phản bội Dân tộc và Chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa ra
lệnh buông súng đầu hàng quân Việt Cộng tay sai Quốc tế cộng sản
Liên Xô Nga và Trung Cộng xâm lăng miền Nam Việt Nam, muốn tìm
đường thoát ra khỏi nước thì đã quá muộn không còn phương tiện,
đành ở lại gánh chịu tất cả những chính sách trả thù “tiêu
diệt giai cấp tư sản” dã man tồi tệ nhất của lũ Quỷ Đỏ Bắc
phương tràn vào trút lên đầu lên cổ. Tài sản bị tịch thu, bản
thân bị bắt đi tập trung cải tạo trong các trại tù giữa nơi rừng
thiêng nước độc, vợ con bị dồn đi khai hoang các vùng kinh tế mới
cũng với hai bàn tay trắng chẳng còn gì. Vì thế ngay cả những tấm
hình kỷ niệm riêng tư, các giấy tờ hành chánh liên quan đến bản
thân còn không giữ được, nói chi tới các tài liệu quân đội.
Bây giờ, ai cũng đã bạc đầu, sức khỏe
tàn lụi, bộ não suy nhược, làm sao dám bảo đảm là những điều mình
nhớ chắc như bắp, chính xác như kết quả bài toán cộng (một
cộng một bằng hai) không sai, không lẫn lộn???
Vì thế để giải quyết thắc mắc đã nêu
làm tiêu đề của bài viết này một cách khoa học và hợp lý, Tôi đã
phải đi kiếm Bộ Quân Sử Quân Lực Việt Nam do Khối Quân Sử thuộc
Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH sưu khảo, biên soạn và phát hành
từ trước ngày Quốc Hận 30-4-1975. Bộ Quân Sử này gồm 4 cuốn với
những tiêu đề như sau:
1. Quyển I. Quân Lực
Việt Nam dưới các Triều đại Phong kiến (từ Thượng Cổ đến Cận
Kim), phổ biến ngày 19 tháng 6 năm 1968.
2. Quyển II. Quân Lực
Việt Nam chống Bắc xâm và Nam tiến, phổ biến tháng 4 năm 1970.
3. Quyển III. Quân Lực
Việt Nam chống Tây xâm (1847-1945), phổ biến ngày7 tháng 5 năm
1971.
4.
Quyển IV. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa giai đoạn
hình thành 1946-1955, phổ biến ngày 6 tháng 8 năm 1972.
Đọc hết Bộ Quân Sử này, Tôi thấy nội
dung Quyển IV ghi lại đầy đủ tất cả những gì chúng ta cần tìm
hiểu, để có thể xác định BINH CHỦNG TRUYỀN TIN QLVNCH
ĐƯỢC CHÍNH THỨC THÀNH LẬP VÀO NGÀY NÀO?
Đọc đi đọc lại nhiều lần để ghi lại
những gì liên quan đến Truyền Tin, kết quả khiến Tôi liên tưởng
đến một câu đố vui trong dân gian Việt Nam, rất oái oăm nhưng thú
vị vì nó phù hợp với hoàn cảnh y hệt của sự ra đời của Binh chủng
Truyền Tin của chúng ta là: “Sanh con rồi mới sanh Cha, sanh
Cháu giữ nhà rồi mới sanh Ông”.
Sau đây là những gì Tôi đã tham khảo
ghi nhận được để chúng ta cùng xét định xem thời điểm nào được
coi là hợp lý nhất, để công nhận là NGÀY BINH CHỦNG
TRUYỀN TIN QLVNCH ĐƯỢC CHÍNH THỨC THÀNH LẬP.
1. NGÀY 1 THÁNG 6 NĂM 1948
Cựu Hoàng Bảo Đại đã giao cho Thiếu
tướng Nguyễn văn Xuân cựu Thủ tướng Chính phủ Nam Kỳ Tự trị,
thành lập Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam (đại diện cả
3 miền Bắc, Trung, Nam) để làm nền móng ban đầu giải quyết
vấn đề Việt Nam với Pháp và Quốc tế. Sau đó vào ngày 5 tháng 6
năm 1948 trên tầu Duguay Trouin tại Vịnh Hạ Long (Bắc Việt), cựu
Hoàng Bảo Đại đại diện Việt Nam và ông Bollaert Cao Ủy Pháp tại
Đông Dương, gặp nhau để ký bản HIỆP ĐỊNH HẠ LONG 5-6, công nhận
nước Việt Nam Thống nhất Độc lập trong Khối Liên Hiệp Pháp tại
Đông Dương.
Trong thành phần Chính phủ Lâm thời có Bộ Quốc Phòng, nhưng mãi
đến tháng 5-1950 mới có Nghị định số 160/QP ngày 5-5-1950 quy
định rõ ràng thành phần tổ chức, quyền hạn và phương thức hoạt
động của Bộ. Rồi lại phải đợi đến tháng 5-1951 các thành phần cơ
hữu của Bộ mới được thiết lập để hoạt động, gồm:
-Một cơ quan hành chánh đầu não,
-Nha Nhân viên,
-Nha Tư pháp Quân sự,
-Nha Tổng Hành chánh và Binh lương,
-Nha
Quân Cụ (trong đó có Sở vật liệu Truyền Tin),
-Nha Quân Y.
2. NGÀY 1 THÁNG 10 NĂM 1949
Bộ Quốc Phòng ban hành Nghị định thành
lập 3 Tiểu đoàn Việt Nam (BVN= Bataillon Vietnamien) gồm:
-BVN 1 tại Bặc Liêu (gốc Cao Đài) miền
Nam Việt Nam.
-BVN 2 tại Thái Bình miền Bắc Việt Nam. (lúc đó, Tôi là một
trong các thiếu úy vừa tốt nghiệp Khóa 1 Sĩ quan từ Trường Võ bị
Quốc gia Việt Nam tại Huế được bổ nhiệm vào thành phần chỉ huy
của Tiểu đoàn 2 tại Hà Nội, để lo tuyển mộ, tổ chức, trang bị,
huấn luyện quân sĩ tại Hà Nội và Hải Phòng trước khi Tiểu đoàn di
chuyển đi hành quân và đồn trú tại Thái Bình.)
-BVN 3 tại Rạch Giá Nam Việt Nam.
Theo Bảng cấp số quy định về nhân viên
và vật liệu thì, Tiểu đoàn có quân số ấn định là 829 người chia
ra: 23 Sĩ quan, 110 Hạ sĩ quan, 696 Binh sĩ, và thành phần tổ
chức gồm: 1 Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn, 1 Đại đội Chỉ huy, và 4 Đại đội
Chiến đấu.
Bộ
Chỉ huy Tiểu đoàn gồm 6 Sĩ quan: Tiểu đoàn trưởng, Tiểu đoàn phó,
Sĩ quan Tế mục vụ, Sĩ quan Tình báo, Sĩ quan Truyền Tin, và một
Bác sĩ.
Đại
đội Chỉ huy gồm có Ban Chỉ huy Đại đội (Đại đội trưởng và 9
ngưới), 1 Ban Hành chánh (24 người), 1 Ban Truyền Tin (24 người),
1 Ban Quân Y (9 người), 1 Ban Quân xa (24 người), 1 Trung đội
súng nặng (28 người), và 1 Trung đội Thổ Công binh (28 người).
Các loại máy Truyền Tin trang bị cho Ban Truyền Tin gồm: 6 CSR
694, 14 SCR 300, 24 SCR 536, 1 AN/TRC 9, và 6 máy dò mìn SCR 625.
Mỗi Đại đội Chiến đấu gồm có 1 Trung
đội Chỉ huy (20 người, trong đó có Ban Truyền Tin 6 người), 1
Trung đội súng nặng (26 người), và 3 Trung đội Chiến đấu (mỗi
Trung đội 41 người).
3. Các năm 1951, 1952, và các
năm kế theo có một số đơn vị Truyền Tin được chính thức thành lập
như sau:
-Ngày 1 tháng 2 năm 1951, thành lập 2
Đại đội Truyền Tin: Đại đội 1 TT tại Cần Thơ (Nam Việt Nam), Đại
đội 3 TT tại Nam Định (Bắc Việt Nam)
-Ngày 1 tháng 7 năm 1952, thành lập Đại
đội 4 TT tại Ban mê thuột (Cao nguyên Trung phần Việt Nam)
-Ngày 1 tháng 9 năm 1952, thành lập Đại
đội 2 TT tại Huế (Trung Việt Nam)
-Ngày 1 tháng 7 năm 1952, thành lập Đại
đội 5 TT tại Hà Nội (Bắc Việt Nam)
-Ngày 1 tháng 10 năm 1952, thành lập
Đại đội 6 TT tại Gia Định (Nam Việt Nam).
Những năm kế theo thành lập liên tiếp
các Cơ sở Tiếp liệu TT và các Trung tâm Huấn luyện TT tại các
Quân khu. Những cơ sở này cùng với 6 Đại đội TT dã thành lập từ
trước là thành phần gồm chuyên viên nòng cốt thuộc Binh chủng
Truyền Tin.
4. NGÀY 1 THÁNG 5 NĂM 1952
Bộ Tổng Tham Mưu Quân đội Quốc gia Việt
Nam được thành lập, theo Dụ số 43 QP ngày 23-5-1952. Trụ sở đặt
tại khu nhà số 606 Đại lộ Trần Hưng Đạo, Sài Gòn, cho tới năm
1956 thì di chuyển vào Trại Trần Hưng Đạo ngay cửa ngõ dẫn vào
phi trường quốc tế Tân Sơn Nhất, Phú Nhuận, Sài Gòn. Trại này
nguyên là Camp Chanson của Bộ Chỉ huy Quân đội Viễn chinh Pháp
giải tán rút ra khỏi Việt Nam trao lại.
Tổng số nhân sự của Bộ TTM lúc đó gồm
khoảng trên 150 người cả Pháp lẫn Việt Nam. Phía Pháp là 36 người
(21 Sĩ quan, 15 Hạ sĩ quan). Lúc đó Tôi đang mang cấp bậc trung
úy phục vụ dưới quyền Trung tá Lê văn Tỵ, Tham mưu trưởng Biệt bộ
Bộ Quốc phòng, được thuyên chuyển về Bộ Tổng Tham Mưu đảm trách
chức vụ Trưởng Ban Mật Mã thuộc văn phòng Tổng Tham Mưu trưởng.
Tổ chức ban đầu của Bộ TTM rất đơn
giản, gồm:
-Tổng Tham Mưu trưởng và Văn phòng
-Tham Mưu trưởng
-3 Tham mưu phó (Tổ chức và Nhân viên,
Hành quân và Huấn luyện, Tiếp vận)
-Chỉ huy trưởng Viễn Thông (Thiếu tá
Richard) trong sơ đồ tổ chức được xếp ngang hàng với các Tham mưu
phó
-4 Phòng
Tham mưu chính là Phòng 1, Phòng 2, Phòng 3, và Phòng 4
-Nha An ninh Quân đội
-Ban Không Quân
-Ban Hải Quân
-Trung tâm Công văn và Công điện (trong
đó có Trung tâm Truyền Tin)
-4 Nha trực hệ gồm: Nha Nhân viên, Nha
Quân Nhu, Nha Quân Cụ (trong đó có Sở Vật liệu Truyền Tin), và
Nha Quân Y.
5. KỂ TỪ CUỐI THÁNG 11 NĂM 1954
Sau khi Hiệp Ước Genève 21-7-1954 được
ký kết giữa Pháp và Việt Cộng, thì các sĩ quan Việt Nam được lần
lần bổ nhiệm thay thế sĩ quan Pháp đang giữ những trọng trách chủ
yếu tại các Bộ Tham mưu và Đơn vị trong toàn Quân đội Quốc gia
Việt Nam.
Nhờ
thế, ngày 4 tháng 8 năm 1955, Thiếu tá nhiệm chức (grade
fonctionnel) Lương Thế Soái được cho mang cấp hiệu Trung tá Giả
Định (grade fictif) và bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng Viễn thông Bộ
Tổng Tham Mưu QĐQGVN thay thế Trung tá Platwet Roundil. Nhưng
chẳng được bao lâu thì Thiếu tá Nguyễn Khương Sĩ quan Truyền Tin
Phân khu Nha Trang (đã từng theo Thiếu tá Thái Quang Hoàng,
lập chiến khu tại Phan Rang chống Tướng Tổng Tham Mưu trưởng
Nguyễn văn Hinh để ủng hộ Thủ tướng Ngô Đình Diệm) được đưa
về Sài Gòn thăng cho cấp trung tá nhiệm chức làm Chỉ huy trưởng
Viễn thông thay thế Trung tá Soái bị giải ngũ.
6. NGUYÊN VĂN LỜI MỞ ĐẦU GIỚI
THIỆU NGÀNH TRUYỀN TIN
Trong Bộ Quân sử, Quyển IV, Mục nói về
các Quân Binh chủng Chiến đấu và Yểm trợ chiến đấu ghi như sau: “Ngành
truyền tin Việt Nam bắt đầu có từ năm 1951 với những đại đội
truyền tin biệt lập tại các miền quân sự, khác với các binh chủng
chiến đấu khác, bộ chỉ huy của binh chủng truyền tin được thành
lập ngay với Bộ Tổng Tham Mưu và đồng thời các cơ quan truyền tin
quân khu cũng được thành lập ngay với các quân khu. Lúc ấy các bộ
chỉ huy truyền tin gọi là Bộ chỉ huy viễn thông Trung ương và các
Bộ chỉ huy viễn thông quân khu.”
Dựa vào các điều tham cứu trên để suy
luận, chúng ta nhận thấy rằng:
1. Ngày 1 tháng 8 năm 1948, Bộ Quốc
Phòng Việt Nam được thành lập, trong tổ chức có Nha Quân Cụ (có
bộ phận phụ trách về vật liệu Truyền Tin), nhưng chưa có đơn vị
quân đội nào được thành lập.
2. Ngày 1 tháng 10 năm 1949, Có 3 Tiểu
đoàn Việt Nam đầu tiên được thành lập, trong bảng cấp số có Sĩ
quan Truyền Tin và các Ban Truyền Tin, nhưng đây là loại nhân
viên Truyền Tin Binh đoàn, không thuộc quân số cơ hữu của ngành
chuyên môn Truyền Tin.
3. Ngày 1 tháng 2 năm 1951, thành lập 2
Đại đội Truyền Tin: Đại đội 1 TT tại Cần Thơ (Nam Việt Nam), Đại
đội 3 TT tại Nam Định (Bắc Việt Nam).
4. Ngày 1 tháng 5 năm 1952, Bộ Chỉ huy
Viễn thông Bộ Tổng Tham Mưu QĐQGVN được thành lập cùng lúc với Bộ
TTM, là Cơ quan đầu não chính của Binh chủng Truyền Tin sau này.
5. Ngày 4 tháng 8 năm 1955, Thiếu tá
nhiệm chức (grade fonctionnel) Lương Thế Soái được cho
mang cấp bậc trung tá Giả Định (grade fictif không ăn lương),
và được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng Viễn thông Bộ TTM đầu tiên
trong QĐQGVN, thay thế cho Trung tá Platwet Roundil đang là Chỉ
huy trưởng Viễn thông Bộ TTM chấm dứt nhiệm vụ để chỉ còn giữ vai
trò cố vấn mà thôi. Nhưng Bộ Chỉ huy Viễn thông đã chính thức
được thành lập từ ngày 1 tháng 5 năm 1952.
6. Khối Quân Sử thuộc Phòng 5 Bộ Tổng
Tham Mưu, sau khi tra cứu các văn kiện chính thức của Bộ Quốc
Phòng quy định việc thành lập riêng cho từng đơn vị thuộc Quân
đội, đã ghi lời nhận định như sau trong Bộ Quân Sử, Quyển IV,
trong mục nói về các Quân Binh Chủng chiến đấu và yểm trợ chiến
đấu, là: “Ngành truyền tin Việt Nam bắt đầu có từ năm 1951
với những đại đội truyền tin biệt lập tại các miền quân sự, khác
với các binh chủng chiến đấu khác, bộ chỉ huy của binh chủng
truyền tin...”
ĐỂ KẾT LUẬN
Dựa theo các phân tích trên đây, thì
chúng ta thấy rằng, câu trả lời hợp lý hợp tình nhất cho câu hỏi:
“BINH CHỦNG TRUYỀN TIN QLVNCH ĐƯỢC CHÍNH THỨC THÀNH LẬP
VÀP NGÀY NÀO?”
Chính là NGÀY 1 THÁNG 2 NĂM 1951.
Vì vào ngày đó 2 Đại đội Truyền Tin
Việt Nam đầu tiên được chính thức thành lập:
-Đại đội 1 Truyền Tin tại Cần Thơ
-Đại đội 3 Truyền Tin tại Nam Định.
Ngoài ra, trong Quyển IV Bộ Quân Sử, do
Khối Quân Sử Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu biên soạn, sau khi tham
khảo các văn kiện chính thức về thành lập các đơn vị thuộc Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa cũng đã ghi trong mục nói về các Quân Binh
Chủng chiến đấu và yểm trợ chiến đấu, rõ ràng là:
“Ngành truyền tin Việt Nam bắt đầu
có từ năm 1951 với những đại đội truyền tin biệt lập tại các miền
quân sự, khác với các binh chủng chiến đấu khác, bộ chỉ huy của
binh chủng truyền tin được thành lập ngay với Bộ Tổng Tham Mưu và
đồng thời các cơ quan truyền tin quân khu cũng được thành lập
ngay với các quân khu. Lúc ấy các bộ chỉ huy truyền tin gọi là Bộ
chỉ huy viễn thông Trung ương và các Bộ chỉ huy viễn thông quân
khu.” Đến đây Quý độc giả đã có được một khái niệm tổng lược
khái quát về Truyền Tin và ngày Binh chủng Truyền Tin QLVNCH được
chính thức thành lập.
Đại tá Nguyễn-Huy Hùng
Ảnh chụp tại Sài Gòn vào đầu năm 1969
Tiếp sau đây mời Quý độc giả bắt đầu chia sẻ những dòng hồi ký DUYÊN NỢ TRUYỀN TIN của Nguyễn-Huy Hùng.
CHƯƠNG 1
ĐÔI DÒNG PHI LỘ
Đời
quân ngũ của Tôi và Binh chủng Truyền Tin, phải được coi là DUYÊN
và NỢ.
Suốt
thời gian phục vụ Quân đội Việt Nam Cộng Hòa gần 28 năm, Tôi chỉ
ở trong Binh chủng Truyền Tin vỏn vẹn có 10 năm (4 năm Trưởng
Phòng Mật Mã Trung ương Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Quốc gia VN sát
nhập vào Bộ chỉ huy Viễn thông, 3 năm Giám đốc Trường Truyền Tin
Liên trường Võ khoa Thủ Đức, và 3 năm Chỉ huy phó Viễn thông
QLVNCH, sau cải danh là Cục phó Cục Truyền tin).
DUYÊN là tại có nhiều hoàn cảnh tự
nhiên trói buộc Tôi vào ngành Truyền tin. Còn NỢ là vì trong thời
gian Tôi ở trong Binh chủng Truyền Tin có nhiều điều không được
thoải mái như ý, nhưng vì dây tình cảm bạn bè thắm thiết đã khiến
Tôi dù gặp nhiều thiệt thòi cá nhân, mà vẫn không đang tâm rời bỏ
anh em.
Ngày
Phòng Mật Mã Trung ương được sát nhập vào quân số Bộ Chỉ huy Viễn
Thông hồi đầu năm 1954, do Thiếu tá Richard đang làm Chỉ huy
trưởng, Tôi mang cấp bậc thiếu tá với 4 vạch vàng trên vai (lon
Pháp). Mười năm sau, lúc rời Binh chủng Truyền Tin năm 1964,
Tôi vẫn là thiếu tá với 1 hoa mai trắng trên cổ áo (lon của Quân
lực Việt Nam Cộng Hòa), trong khi anh Khương và các cộng sự viên
thân tín, có hơi hướng của Đảng Cần lao Nhân vị, được thăng mỗi
người ít nhất là 2 cấp. Anh Khương từ thiếu tá lên đến đại tá.
Anh Hà Quang Giác từ trung úy lên đến đại tá. Trong thời Đệ Nhất
Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam với Tổng thống Ngô Đình Diệm, là
thời đại của thế lực chính trị khuynh loát Quân đội, nên việc Tôi
là người không chịu gia nhập Đảng Cần Lao Nhân Vị, lại không theo
phe cánh bạn bè làm lớn, do đó hậu quả bị chậm hay không được cất
nhắc lên lon chẳng có gì đáng ngạc nhiên.
Thế rồi, sau cuộc đảo chính mà thời đó
người ta thường gọi là Cách mạng 1-11-1963 do nhóm tướng tá làm
Cách mạng lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, với tinh thần kỳ thị
nguồn gốc Bắc, Trung, Nam, đã hất Tôi đang làm Chỉ huy phó Viễn
Thông và Thiếu tá Phan văn Chuân Chỉ huy trưởng Trường Truyền Tin
Vũng Tầu ra khỏi Binh chủng Truyền Tin, cũng lại là truyện tự
nhiên của tệ nạn phe cánh thời đại nâng đỡ nhau vậy thôi.
Rời chiếc ghế Chỉ huy phó Viễn Thông,
Tôi được đưa sang Nha Thanh tra Quân lực Bộ Quốc phòng, chờ đợi
theo học Khóa 9 Chỉ huy Tham mưu tại trường Đại học Quân sự ở Đà
Lạt, cùng thời gian với mấy ông tướng trong nhóm làm Cách mạng
chỉnh lý lẫn nhau, vì tranh ngôi thứ Lãnh tụ cầm quyền.
Mãn khóa học Chỉ huy Tham mưu vào đầu
năm 1965, Tôi được bổ nhiệm về làm Tham mưu phó Tổ chức Huấn
luyện Bộ Tư lệnh Địa phương quân và Nghĩa quân (ĐPQ và NQ)
do Trung tướng Trần Ngọc Tám làm Tư lệnh. Tại đây, Tôi gặp lại
Đại úy Nguyễn Đình Sách (ĐĐ8TT) đang làm Trưởng Phòng 3,
và Đại úy Nguyễn Hữu Chi làm Chánh Sự vụ Sở Viễn Thông. Tới năm
1966, Bộ Tư Lệnh ĐPQ và NQ đổi tên thành Bộ Chỉ huy Trung ương
ĐPQ và NQ do Đại tá Trương văn Xương làm Chỉ huy trưởng, Tôi được
cử làm Tham mưu trưởng. Đến cuối 1967 BCH TU ĐPQ và NQ lại cải tổ
thành Tổng cục ĐPQ và NQ thuộc Bộ Tổng tham mưu QLVNCH, Tôi được
chỉ định làm Tổng cục Phó.
Sau biến cố Tết Mậu Thân 1968, Tôi được
thuyên chuyển về Nha Tổng Thanh tra Quân lực, làm Chánh Sự vụ Sở
Khai thác. Cuối năm 1969 được cử theo học Khóa 3 Cao đẳng Quốc
Phòng Việt Nam tại Sài Gòn. Tốt nghiệp với Luận án đề cập tới “Nhiệm
vụ của sĩ quan Chiến tranh Chính trị thời Hậu chiến”, nên
Tôi được bổ nhiệm về Tổng cục Chiến tranh chính trị, làm Phụ tá
Tổng cục trưởng kiêm Chủ Nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến. Trung tướng
Trần văn Trung làm Tổng cục trưởng, là người tốt nghiệp cùng Khóa
1 Sĩ quan Việt Nam với anh Khương và Tôi ngày 1 tháng 6 năm 1949
tại Huế. (Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa do Tổng thống Ngô Đình
Diệm lãnh đạo, Khóa Bảo Đại chúng tôi phải xin đổi tên là Khóa
Phan Bội Châu, vì Quốc trưởng Bảo Đại đã bị truất phế sau cuộc
trưng cầu dân ý vào ngày 23 tháng 10 năm 1955 do Thủ tướng Ngô
Đình Diệm tổ chức.)
Anh Nguyễn Khương (Đại tá CHT Viễn
thông từ 1955 đến 1960) và Tôi, là 2 sĩ quan Việt Nam đầu tiên
được chính phủ Quốc gia Việt Nam thời Quốc Trưởng Bảo Đại, gửi
sang Pháp theo học Khóa Sĩ quan Truyền Tin tại Trường Truyền Tin
Pháp ở Montargis (Ecole d’application des Transmissions)
niên khóa 1950-1951. Chúng tôi học chung với các thiếu úy người
Pháp tốt nghiệp khóa Général Frère trường Võ bị Saint Cyr của Lục
quân Pháp xây dựng tại Coetquidam trong vùng Bretagne thuộc miền
Tây nước Pháp.
Thời gian đó, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội
Quốc gia Việt Nam (Bộ TTM-QĐQGVN) chưa được thành lập. Phần lớn
các Tiểu đoàn Bộ binh Việt Nam đều do sĩ quan Pháp thành lập (có
các phương tiện Truyền Tin Binh đoàn). Các Bộ chỉ huy Chi
khu và Phân khu đều có các Trung tâm Truyền Tin, hoạt động dưới
sự chỉ huy của các sĩ quan Pháp. Dĩ nhiên chuyên viên điều hành
khai thác gồm sĩ quan, hạ sĩ quan, và binh sĩ cả Pháp lẫn Việt,
do Quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương tuyển mộ, đào luyện, sử
dụng và trả lương. Chỉ từ năm 1952, khi Bộ TTM-QĐQGVN được thành
lập, thì mới lần lần chuyển giao cho Việt Nam trách nhiệm tuyển
mộ, huấn luyện, quản trị và sử dụng dưới sự chỉ huy của sĩ quan
Việt Nam.
Trước ngày 30-4-1975, Trường Truyền Tin Vũng Tầu, cũng như Cục
Truyền Tin đã từng sưu tầm đúc kết thành tài liệu nói về Lịch sử
thành hình, phát triển, và bành trướng của Ngành Truyền Tin.
Nhưng bây giờ đã thất lạc, và chẳng còn ai giữ được hoặc nhớ rõ
nữa. Bản thân Tôi, dù đã dự phần và biết từ khởi điểm cho đến
cuối năm 1963, nhưng bây giờ với tuổi tác chồng chất, cộng với
thời gian cơ cực 13 năm trong các trại tập trung cải tạo của cộng
sản Việt Nam, trí nhớ bị ảnh hưởng, nên cũng chẳng còn khả năng
ghi lại chính xác như một tài liệu để tham khảo nữa. Do đó, hy
vọng những dòng Hồi ký sau đây của Tôi sẽ cống hiến các bạn một ý
niệm tổng quát, về diễn biến của Cơ quan đầu não Truyền Tin từ
năm 1951 đến 1963, là ngày Tôi rời Binh chủng Truyền Tin mà thôi.
Mong rằng, những bạn làm Trưởng Phòng 6 và Cục trưởng Truyền Tin
từ sau Cách mạng 1-11-1963, sẽ vui lòng ghi lại và gửi đến các
bạn những thay đổi sau này cho đến ngày 30-4-1975, để tất cả
chúng ta có cái thú ôn lại quãng đời quá khứ của mình trong Binh
chủng Truyền Tin, mà người Pháp gọi là Binh chủng của những nhà
thông thái (Arme des Intellects).
Trước hết, hãy cho phép Tôi dài dòng
đôi chút về cái DUYÊN NỢ đã trói buộc Tôi với TRUYỀN TIN từ lúc
nào, trong cuộc đời binh nghiệp của Tôi. Nó khởi đầu từ năm 1947,
ngay khi Tôi mới gia nhập Vệ Binh Bắc Kỳ (Garde Tonkinoise)
ở Hà Nội. Vì thông thạo tiếng Pháp, lại bập bẹ được đôi chút
tiếng Tầy (Thổ vùng Lạng Sơn), và tiếng Tầu Quảng Tây,
nên Tôi đã được bổ nhiệm làm thư ký kiêm thông dịch viên của một
Đại đội, thành viên gồm cả 3 sắc tộc Kinh, Thổ (Tầy)
Lạng Sơn, và Nùng vùng Móng Cáy. Đồng thời còn phải đảm trách
luôn trách vụ Tổng đài viên, để duy trì đường “liên lạc Dây” giữa
Bộ chỉ huy Đại đội đóng tại Ngã Tư Vọng (Bạch Mai, Hà Nội)
xuống các Trung đội trực thuộc đóng đồn rải rác, xa nhau khoảng
từ 7 đến 10 cây số, trên một vòng cung từ Quốc lộ 1 (Hà
Nội-Văn Điển) qua tới bờ sông Hồng, và lên Bộ chỉ huy Phân
khu Pháp đóng ở bên bờ hồ Ha-Le. Công việc Tổng đài viên chỉ có
một mình lo toan, bận bịu vất vả cả ngày lẫn đêm, chẳng có giờ
giấc nghỉ ngơi gì cả, thật là cả DUYÊN lẫn NỢ.
Năm 1949, tốt nghiệp thiếu úy khóa sĩ
quan đầu tiên của Trường Võ bị Quốc gia (cùng với anh Nguyễn
Khương người miền Trung). Tôi vốn gốc từ Bắc Việt đưa vào
học, nên được bổ nhiệm về Tiểu đoàn 2 VN ở Hà Nội. Tiểu đoàn này
là một trong 3 Tiểu đoàn VN (Bataillon VN) đầu tiên của Chính phủ
Quốc gia Việt Nam, do sĩ quan Việt Nam đứng ra tuyển mộ, tổ chức,
huấn luyện, và chỉ huy. Bỗng dưng vào giữa tháng 9 năm 1950, đang
cùng Đại đội hành quân ở vùng Bắc Ninh, Vĩnh Yên, thì có lệnh
triệu Thiếu úy Bùi Đình Đạm (Đại đội 1, tốt nghiệp cùng khóa sĩ
quan với Tôi, sau này trước 30-4-1975 là Thiếu tướng Giám đốc Nha
Động viên Bộ Quốc phòng) và Tôi (Đại đội 4) vào Sài Gòn làm thủ
tục sang Pháp học bổ túc chuyên nghiệp sĩ quan. Khi tới Bộ Quốc
phòng tại số 63 đường Gia Long, Sài Gòn, chúng tôi gặp 2 bạn
thiếu úy khác tốt nghiệp cùng khóa sĩ quan là anh Nguyễn Khương (sau
là Đại tá Chỉ huy trưởng Viễn thông), anh Trần Ngọc Thức (sau
này có thời làm Chỉ huy trưởng Công Binh QLVNCH), và anh
Nguyễn văn Sai bên Không quân. Qua ngày hôm sau, Bộ Quốc phòng
Việt Nam cấp giấy giới thiệu và cho xe đưa chúng tôi sang Cơ quan
Hành chánh Quân đội viễn chinh Pháp làm thủ tục.
Chẳng ai biết chúng tôi được gửi đi học
bổ túc chuyên nghiệp về ngành nào cả. Sau 21 ngày lênh đênh trên
chiếc tầu thủy tên CYRÉNIA của Hy Lạp, qua Ấn Độ Dương, Hồng Hải,
kinh đào Suez, biển Méditerrannée, cặp bến Marseille vào buổi
chiều nhá nhem tối. Lên bờ, chúng tôi được cấp Sự Vụ Lệnh và vé
tầu hỏa đi tiếp, mới biết là anh Khương và Tôi đi học Truyền Tin
ở Trường Truyền Tin Montargis (cách thủ đô ánh sáng Paris
chừng 2 giờ xe lửa, về phía Nam), anh Trần Ngọc Thức đi học
Công Binh tại Angier, và anh Bùi Đình Đạm đi học Pháo Binh ở Idar
thuộc Pháp trên đất Đức (Germany).
Tháng 6 năm 1951, mãn khóa học, Tôi rời
Pháp về nước với cấp bậc trung úy (thăng cấp theo quy chế dành
cho sĩ quan Hiện dịch tốt nghiệp Trường Võ bị ra, sau 2 năm đương
nhiên được Bộ Quốc phòng ban hành Nghị định thăng cấp, không cần
dựa theo đề nghị của bất cứ ai), trong khi anh Khương xin ở lại
học thêm một khóa khác (không biết khóa gì?). Tôi có xin
đi học trường Nhảy Dù ở Pau, để gia nhập Tiểu đoàn Nhảy Dù Pháp
sang tham chiến ở Triều Tiên, nhưng không được chấp thuận, vì Tôi
không là thành phần của quân đội Pháp.
Về tới Sài Gòn bằng đường hàng không
Air France từ Paris, Tôi tới trình diện Bộ Quốc phòng Việt Nam,
gặp Trung tá Nguyễn văn Vận Đổng lý Văn phòng của Bộ trưởng Quốc
Phòng (sau này là Thiếu tướng Tư lệnh Quân khu 3 tại Hà Nội), và
Tôi được Trung tá Vận trình ông Trần văn Hữu Thủ tướng Chính phủ
kiêm nhiệm Bộ trưởng Quốc Phòng bổ nhiệm vào Nha Đổng lý Bộ Quốc
phòng để thành lập Ban Mật Mã, soạn các tài liệu và tổ chức các
hệ thống Mật Mã bảo vệ cơ mật cho các lệnh và tin tức Mật trao
đổi qua hệ thống Truyền Tin, giữa Bộ Quốc phòng với các nơi sau:
Bộ Tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp (EMIF) tại Sài Gòn, Võ phòng
Quốc trưởng Bảo Đại tại Đà Lạt, các Bộ Tham mưu Miền (État major
Régional) ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, các Cơ quan Quân sự địa phương
và các Tiểu đoàn Việt Nam đã thuộc quyền quản trị của Chính phủ
Việt Nam, nhưng vẫn do các sĩ quan Pháp chỉ huy. Lúc đó ở Bộ Quốc
phòng có một Trung tâm Truyền Tin do Trung úy Lê văn Hiền chỉ huy
(sau này anh Hiền làm Chánh Sở Vật liệu Truyền Tin đầu tiên
do Pháp bàn giao vào cuối năm 1954 qua đầu năm 1955).
Khoảng 2 tháng sau, Ban Mật Mã của Tôi
được chuyển sang thống thuộc Tham mưu Biệt bộ Bộ Quốc phòng, do
Trung tá Lê văn Tỵ kiêm nhiệm cả 2 chức vị: Tham mưu trưởng Biệt
bộ Bộ Quốc phòng và Tham mưu trưởng Bộ Tham mưu Miền Nam. (vào
tháng 11 năm 1954, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đề cử Tướng Lê văn Tỵ
làm Tổng Tham Mưu trưởng thay thế Trung tướng Nguyễn văn Hinh.
Sau này, Tướng Lê văn Tỵ được thăng lên đến cấp Đại tướng rồi hồi
hưu và qua đời vì bệnh hoạn. Sau khi Tổng thống Diệm bị lật đổ
thì cố Đại tướng Lê văn Tỵ được Hội đồng Tướng Lãnh đảo chính
truy thăng lên cấp Thống tướng.)
Qua năm 1952, Bộ Tổng Tham Mưu Quân đội
Quốc gia Việt Nam được thành lập, Ban mật Mã của Tôi lại được
chuyển qua Bộ Tổng Tham Mưu, đặt thuộc quân số Văn phòng Tổng
Tham Mưu trưởng. Cơ sở Bộ Tổng Tham Mưu đặt tại đường Trần Hưng
Đạo gần ngã tư Trần Bình Trọng ráp ranh Sài Gòn và Chợ Lớn. Lúc
đó Tướng Nguyễn văn Hinh (con trai của Thủ tướng Trần văn Hữu)
làm Tổng Tham mưu trưởng, và Trung tá Trần văn Minh làm Tham mưu
trưởng. Tôi đã có dịp quen biết Trung tá Minh khi ông còn là
Thiếu tá trong buổi tiếp tân các Ngoại Giao Đoàn nhân dịp Tết
Việt Nam năm 1951 tại Paris do Hoàng Thân Bửu Lộc Đại Sứ Việt Nam
tổ chức.
Dưới
đây là những vần thơ của Bồ câu già Khiết Châu Nguyễn-Huy Hùng
cảm hứng sáng tác tại Khu Little Sài Gòn, Nam California, Hoa Kỳ,
sau những kỳ Hội ngộ cùng các Bồ câu đang lưu vong tỵ nạn cộng
sản Việt Nam, tại Hội quán Lạc Hồng (Tâm’s Beauty College)
thành phố Garden Grove, Nam California, Hoa Kỳ.
Vinh danh Thánh Tổ Truyền Tin
TRẦN NGUYÊN HÃN
Nặng trĩu hai vai một gánh dầu,
Nâng niu lồng quý cặp bồ câu.
Kiên trì
lặn lội tìm chân Chúa.
Dũng mãnh hành
quân diệt giặc Tầu.
Gian khổ mười năm
rèn sĩ tốt,
Xông pha trăm trận chiếm
công đầu
Danh TRẦN NGUYÊN HÃN vang muôn
thuở,
Sử Việt thời Lê rạng Ngũ Châu.
Garden Grove, Quận Orange, Nam
California,
Hội ngộ Truyền Tin Xuân Ất
Hợi 1995.
TRUYỀN TIN TÌNH CŨ
Gặp gỡ nhau đây nhớ những ngày,
Chung vai sát cánh chạy Đông Tây.
Cao
nguyên, Duyên hải, mòn xe lướt,
Đồng
Tháp, Trường Sơn, mỏi cánh bay.
Bĩ cực,
bồ câu tung cánh gió,
An bình, sóng điện
vượt cung mây.
Ngoài trong yên bụng, Tin
thông xuốt,
Trên dưới mừng vui, Lệnh đến
tay.
Hội quán Lạc Hồng, Garden Grove,
Nam California.
Họp mặt Ái Hữu TT tháng
7-2000.
CHƯƠNG 2
SƠ LƯỢC TỔNG QUÁT VỀ QUÂN ĐỘI QUỐC
GIA VIỆT NAM LÚC SƠ KHAI
Quân
đội Quốc gia Việt Nam chưa thành hình, nhưng lại thành lập các Bộ
Tham mưu quân sự Miền hoạt động dưới quyền chỉ huy của Bộ Quốc
Phòng, nhằm mục đích quản trị quân số, yểm trợ quân trang dụng,
và trả lương cho quân nhân các cấp thuộc các Tiểu đoàn Việt Nam.
Việc điều động hành quân, chỉ định nơi đồn trú cho các Tiểu đoàn
Việt Nam, đều tùy thuộc thẩm quyền quyết định của các Bộ Tư lệnh
và Cơ quan chỉ huy Pháp tại mỗi Miền và địa phương Tỉnh, Quận nơi
Tiểu đoàn đồn trú.
Các vị Chỉ huy Bộ Tham mưu quân sự Miền
của Việt Nam hồi 1951 gồm:
-Tại miền Nam, có État Major du Sud
Vietnam, do Trung tá Lê văn Tỵ làm Tham mưu trưởng (gốc sĩ
quan Lực lượng thuộc địa Pháp tại Đông Dương từ trước năm 1945
chuyển qua. Có một thời ông là Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu
đoàn Danh Dự GAEH = Groupe Autochtone de l’Escadron d’Honneur,
đóng tại Sài Gòn);
-Tại miền Trung, có État Major du
Centre Vietnam, do Trung tá Nguyễn Ngọc Lễ làm Tham mưu trưởng
(nguyên là Đại úy Tư lệnh Lực lượng Việt Binh Đoàn ở Huế từ hồi
1947);
-Tại
miền Bắc, có État Major du Nord Vietnam, do Trung tá Vũ văn Thụ
làm Tham mưu trưởng (gốc sĩ quan Lực lượng thuộc địa Pháp tại
Đông Dương trước 1945. Có một thời ông là Thiếu tá Tiểu đoàn
trưởng Tiểu đoàn 2 Việt Nam thành lập từ giữa năm 1949 tại Hà
Nội. Hồi đó Tôi là thiếu úy mới tốt nghiệp Khóa 1 Sĩ quan Việt
Nam Trường Võ bị Quốc gia được thuyên chuyển về Đại đội 2 của
Tiểu đoàn).
Ngoài ba Bộ Tham mưu quân sự Miền Việt
Nam vừa kể, tại miền Bắc Việt Nam còn có 2 Bộ Tham mưu quân sự
khác không thuộc quyền chỉ huy của Bộ Quốc Phòng Chính phủ Việt
Nam cho tới đầu năm 1954, đó là:
-Bộ Tổng Tham mưu Bắc Thái, do ông Đèo
văn Long làm thủ lãnh, đóng tại vùng Sơn La, Lai Châu. Dưới quyền
có một số đơn vị cấp Tiểu đoàn và Đại đội người Thái.
-Bộ Tham mưu Nùng, do Đại tá Vòng A
Sáng (người Sắc tộc Nùng, gốc sĩ quan trong Lực lượng thuộc
địa Pháp tại Đông Dương từ trước năm 1945) chỉ huy, tại vùng
Moncay, Hải Ninh. Sau Hiệp định Genève tháng 7 năm 1954, các đơn
vị Nùng thuộc quyền Đại tá Sáng được di tản vào Sông Mao, tỉnh
Phan Thiết, lập thành Sư đoàn 6 Dã chiến Quân đội Quốc gia Việt
Nam (QĐQGVN) với sự tăng cường thêm một số sĩ quan, hạ sĩ quan và
binh sĩ sắc tộc Kinh. Sau này Sư đoàn 6 được cải danh thành Sư
Đoàn 5 Bộ Binh. Đại tá Sáng được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn,
cho đến năm 1957, phải giải ngũ cùng đợt với một số sĩ quan, hạ
sĩ quan có thâm niên quân vụ trên 15 năm, theo kế hoạch trẻ trung
hóa Quân đội của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Thực ra Kế hoạch này
là biện pháp thanh lọc loại khỏi Quân đội Quốc gia, những sĩ quan
và hạ sĩ quan già kém khả năng, đã được quân đội viễn chinh Pháp
tuyển mộ, sử dụng, thăng cấp bừa bãi vì nhu cầu tăng cường quân
số hành quân của họ, sau khi tái xâm lăng Việt Nam từ 1946.
Riêng tại miền Cao nguyên Trung phần
Việt Nam (Ban mê thuột, Pleiku, Kontum, Quảng Đức, Tuyên Đức
tức là Đà Lạt, và Blao) là vùng lãnh thổ được Quốc trưởng
Bảo Đại coi là Hoàng Triều Cương Thổ, có Bộ Tham mưu Chỉ huy Miền
Cao nguyên do sĩ quan Pháp cấp tướng chỉ huy, mãi đến năm 1954
mới chuyển giao cho sĩ quan Việt Nam đảm nhận. Vị Tư lệnh Việt
Nam đầu tiên là Đại tá Linh Quang Viên (sắc tộc Tầy tức là
Thổ, nguyên là Tri Huyện, con ông Tuần phủ Linh Quang Vọng tại
Lạng Sơn, từ thời Pháp thuộc trước năm 1945. Tôi đã quen biết từ
trước 1945, vì là bạn học cùng lớp Tiểu học và Trung học với các
em ruột của Đại tá Viên).
Từ giữa năm 1950, một số Tiểu đoàn Việt
Nam (lực lượng Chủ lực quân) bắt đầu được thành lập,
bằng cách tập hợp các Đại đội Bộ binh sẵn có do Pháp tuyển mộ, tổ
chức, trang bị, huấn luyến, trả lương và sử dụng tại mỗi miền
lãnh thổ Việt Nam chuyển qua. Những đơn vị cấp Đại đội này có
những tên gọi khác nhau. Ở miền Bắc là các Đại đội Vệ binh Bắc Kỳ
(Garde Tonkinoise), Đại đội Vệ binh Duyên phòng miền
Đông Bắc Kỳ (Garde Frontalière de l’Est Tonkinois), Đại
đội Biệt Kích (Commando), Đại đội Thân binh (Partisan),
Đại đội Nùng, Đại đội Thái. Ở miền Trung là các Đại đội Việt Binh
Đoàn. Ở miền Nam là các Đại đội Vệ Binh Nam Kỳ, và các đơn vị
thuộc Lực lượng Giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên quy thuận
Pháp. Trên Cao Nguyên Trung phần là các Đại đội Sơn Cước (Compagnie
Montagnarde).
Ngoài các Tiểu đoàn Việt Nam (đơn
vị Chủ lực quân) tại mỗi miền Bắc, Trung, Nam, còn có các
đơn vị Phụ Lực Quân địa phương, do các vị Thủ Hiến đại diện Quốc
trưởng Bảo Đại tại mỗi miền, tự tuyển mộ, tổ chức, huấn luyện,
cung cấp quân trang, quản trị nhân số và lương bổng, để sử dụng
trong việc canh phòng giữ an ninh cho các Cơ sở và Chức quyền
Hành Chánh Tỉnh, Quận. Vũ khí đạn dược trang bị cho các đơn vị
Phụ lực quân địa phương này cũng do quân đội Pháp yểm trợ cung
cấp, y như đối với các Tiểu đoàn Việt Nam, nhưng là loại vũ khí
cũ lạc hậu không còn dùng trong cấp số của các đơn vị Chủ lực.
Thi hành Hiệp định Genève tháng 7 năm
1954 ký kết giữa Pháp và Việt Minh cộng sản, các đơn vị thuộc lực
lượng Bảo Chính Đoàn tại Bắc Việt phải di chuyển vào miền Nam Vĩ
tuyến 17, được cải danh là Bảo An Đoàn, đặt dưới quyền chỉ huy
quản trị của một Nha Tổng Giám đốc trực thuộc Bộ Nội Vụ. Các đơn
vị phụ lực quân này được chia về các Tỉnh để đảm trách việc đóng
đồn, và hành quân duy trì an ninh địa phương, dưới quyền kiểm
soát của các vị Tỉnh trưởng. Đến sau ngày Cách mạng 1-11-1963 lật
đổ Tổng thống Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam,
các đại đội Bảo An Đoàn được cải danh thành đại đội Địa Phương
Quân, chuyển giao sang Bộ Quốc phòng trách nhiệm. Nha Tổng Giám
đốc Bảo An Đoàn bị giải tán để thành lập Bộ Tư lệnh Địa Phương
Quân, sau lại cải danh thành Bộ Chỉ huy Trung ương Địa Phương
Quân.
Cuối năm
1951, để chuẩn bị cán bộ cho Quân đội Quốc Gia Việt Nam (QĐQGVN)
sẽ thành lập ồ ạt vào năm 1952, Bộ Quốc Phòng được chỉ thị ban
hành Lệnh Động Viên từng phần thanh niên thuộc lớp tuổi trên 20,
có Tú Tài 2 hoặc Văn bằng cao hơn, nhẹ gánh gia đình, phải nhập
ngũ theo học các khóa đào tạo sĩ quan Trừ Bị tại Nam Định (miền
Bắc) và Thủ Đức (miền Nam).
Đồng thời, 4 sĩ quan người Việt quốc
tịch Pháp, thuộc lực lượng Liên Hiệp Pháp được chuyển sang đặt
thuộc quyền sử dụng của Bộ Quốc Phòng chính phủ Việt Nam, để
nghiên cứu trình dự án thành lập Bộ Tổng Tham mưu cho QĐQGVN,
biến cải các Bộ Tham mưu Miền thành các Bộ Tư lệnh Quân khu, mở
thêm các Trường Võ bị địa phương (École Militaire Régionale)
nhằm tăng cường việc đào tạo các chuẩn úy (Aspirant) làm
Trung đội trưởng (ngoài Trường Võ bị Liên Quân Đà Lạt đào tạo
các thiếu úy hiện dịch, đã có từ năm 1948), thành lập các
Trung tâm Huấn luyện Trung ương và Quân khu để đào tạo các hạ sĩ
quan, và tân binh cho các Tiểu đoàn Khinh binh, Tiểu đoàn Dã
chiến, các Bộ Chỉ huy Liên đoàn Chiến thuật (Groupement
Tactique), và Trung đoàn Địa phương sẽ thành lập trong năm
1952 và những năm tiếp theo.
Bốn sĩ quan này là Thiếu tá Trần văn
Minh, Thiếu tá Lê văn Kim, Đại úy Trần văn Đôn, và Đại úy Nguyễn
Khánh. Tôi đã có dịp gặp và làm quen các vị này trong một buổi
tiếp tân của Tòa Đại sứ Việt Nam tại Paris, đầu năm 1951. Lúc đó
các vị này học Trường Cao đẳng Quốc Phòng (École Supérieure
de Geurre) tại Paris, Tôi học Truyền Tin ở Montargis. Trong
buổi gặp gỡ này Tôi còn được dịp làm quen với Trung úy Lâm văn
Phát và Thiếu úy Vĩnh Lộc học Thiết Giáp tại Saumur, cũng về dự
buổi tiếp tân của Đại sứ Bửu Lộc nhân dịp Tết Nguyên đán Việt
Nam. Đầu năm 1952, 4 vị sĩ quan này được thăng lên một cấp. Đúng
theo sự thỏa thuận giữa 2 Chính phủ Việt Nam và Pháp là, sĩ quan
thuộc quân đội Pháp hoặc trong Lực lượng Liên Hiệp Pháp chuyển
qua phục vụ trong QĐQGVN, được đương nhiên thăng lên một cấp cao
hơn cấp bậc họ đang mang.
Ngay từ ngày bắt đầu thành lập Bộ Tổng
Tham mưu QĐQGVN, Trung tá Trần văn Minh được cử làm Tham mưu
trưởng, ít lâu sau được thăng lên đại tá rồi đi làm Chỉ huy
trưởng Phân Khu Tiền Giang ở Mỹ Tho. Sau đó làm Tư lệnh Quân khu
I đóng tại Cần Thơ, được thăng thiếu tướng ngày 9-5-1955. Sau
cùng tham gia cuộc lật đổ Tổng thống Diệm được thăng lên cấp
trung tướng, có lúc làm Tổng Trưởng Quân lực trong chính phủ Trần
văn Hương, sau cùng bị đưa ra khỏi Việt Nam đi làm Đại sứ Việt
Nam tại các Quốc gia bên Phi Châu.
Thiếu tá Trần văn Đôn làm Chánh Sở An
Ninh Quân đội, ngày 1-7-1952 được thăng cấp trung tá làm Giám đốc
Nha tác động tinh thần (Morale action) gồm An Ninh Quân
đội, và Phòng 5 tại Bộ Tổng Tham mưu, rồi ngày 1-6-1953 thăng lên
đại tá thay Đại tá Trần văn Minh làm Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham
mưu. Sau được thăng cấp thiếu tướng. Đến tháng 10-1963 được cử
làm Quyền Tổng Tham Mưu trưởng thay Đại tướng Lê văn Tỵ nghỉ hưu.
Ngày 1-11-1963 cùng Dương văn Minh, Lê văn Kim, và Trần Thiện
Khiêm, đảo chính lật đổ Tổng thống Diệm, được thăng cấp trung
tướng. Qua đầu năm 1964 bị Tướng Nguyễn Khánh chỉnh lý đưa đi
giam lỏng tại Đà Lạt. Tháng 9 năm 1967 đắc cử Thượng Nghị sĩ nền
Đệ Nhị Cộng Hòa. Đến tháng 3 năm 1975, làm Phó Thủ tướng kiêm Bộ
trưởng Bộ Quốc Phòng trong chính phủ Trần Thiện Khiêm, đến ngày
27-4-1975, ra trước Quốc Hội trình bày thực trạng quân sự để
thuyết phục mọi người ủy nhiệm cho Tướng Dương văn Minh làm Tổng
thống thay ông Trần văn Hương nguyên Phó Tổng thống lên thay Tổng
thống Thiệu từ chức, rồi vào Tòa Đại sứ Pháp tỵ nạn để sang Pháp.
Trung tá Lê văn Kim làm Chỉ huy trưởng
Trường Chỉ huy Tham mưu, sau đó thăng cấp đại tá. Cuối năm 1954,
được giao phó trách nhiệm chỉ huy đoàn quân Quốc gia ra tiếp thu
Quảng Ngãi và Bình Định tại Trung Việt, từ tay Việt Minh rút đi
ra Bắc theo quy định của Hiệp định Genève ký kết ngày 21-7-1954.
Ngày 1 tháng 11 năm 1963, Lê văn Kim cùng Trần văn Đôn Quyền Tổng
Tham mưu trưởng, Trần Thiện Khiêm Tham mưu trưởng Liên Quân, Mai
Hữu Xuân và Dương văn Minh Tư lệnh Lục quân, triệu tập các Chỉ
huy trưởng Binh chủng Nha sở Trung ương họp tại Câu Lạc Bộ Sĩ
quan Bộ Tổng Tham mưu, trong Trại Trần Hưng Đạo, Tân Sơn Nhất,
rồi bắt chẹt mọi người phải theo làm đảo chánh lật đổ Tổng thống
Ngô Đình Diệm, thành công được thăng thiếu tướng. Đầu năm 1964
mưu đồ ra làm thủ tướng không thành. Ngày 30-1-1964 bị Nguyễn
Khánh chỉnh lý đem giam lỏng tại Đà Lạt cùng Trần văn Đôn, Mai
Hữu Xuân, Tôn Thất Đính và Nguyễn văn Vỹ. Sau khi được tha, Tướng
Kim đi vào ngành thương mại, làm Giám đốc Ngân hàng Quân đội.
Thiếu tá Nguyễn Khánh làm Trưởng phòng
Thông tin báo chí Bộ Quốc Phòng. Ít lâu sau được chỉ định đi chỉ
huy các đơn vị tác chiến. Có thời gian làm Chỉ huy trưởng Liên
đoàn Lưu động (Groupement Mobile). Năm 1954 ngả theo ông
Diệm, đến tháng 2-1955 được thăng cấp trung tá Xử lý thường vụ
Tỉnh Cần Thơ. Có lúc làm Tham mưu trưởng cho Dương văn Minh trong
các Chiến dịch tảo thanh các Lực lượng giáo phái Bình Xuyên, Hòa
Hảo. Ngày 11-11-1960 vào Dinh Độc Lập bảo vệ Tổng thống Diệm
chống phe Nhảy Dù Nguyễn Chánh Thi làm đảo chánh. Mọi việc yên
xuôi được thăng thiếu tướng và bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Liên
Quân tại Bộ Tổng Tham mưu QLVNCH. Tháng 12-1962 làm Tư lệnh Quân
đoàn II tại Pleiku. Ngày 1-11-1963, ngả theo phe đảo chánh lật đổ
Tổng thống Diệm xong, được cử làm Tư lệnh Quân đoàn I. Vì không
được cử vào Hội đồng Quân nhân Cách Mạng, nên Khánh toa rập với
Trần Thiện Khiêm Tư lệnh Quân đoàn III “chỉnh lý” nhóm
Đôn-Kim-Xuân vào ngày 29-1-1964. Có sự can thiệp
của Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge, Tướng Dương văn Minh được cử làm
Quốc trưởng, Nguyễn Khánh làm thủ tướng. Từ ngày 19 đến
23-7-1964, Khánh và Nguyễn Cao Kỳ Không quân, vận động với Hoa Kỳ
để Hoa Kỳ yểm trợ hành quân vượt biên giới và đánh bom Bắc Việt.
Ngày 11-8-1964 Khánh thăng cấp cho Trần Thiện Khiêm lên đại
tướng, Nguyễn Cao Kỳ, Tôn Thất Xứng, Chung Tấn Cang, Nguyễn Chánh
Thi, Phạm văn Đỗng, Bùi Hữu Nhơn, Cao Hảo Hớn, Ngô Dzu lên thiếu
tướng, và các Đại tá Nguyễn Đức Thắng, Nguyễn Xuân Trang, Albert
Cao, Đặng văn Quang, Vĩnh Lộc, Lê Nguyên Khang, Hoàng Xuân Lãm,
Nguyễn văn Kiểm lên chuẩn tướng. Ngày 16-8-1964 Nguyễn Khánh
Triệu tập một buổi họp các tướng lãnh tại Vũng Tầu, bầu Khánh làm
Chủ tịch nước Việt Nam Cộng Hòa. Đồng thời ban hành một Hiến
Chương, theo đó Chủ tịch nước đồng thời là Quốc trưởng với nhiều
quyền hành rộng rãi, sẽ tổ chức một Quốc hội với 100 Đại biểu Dân
sự và 50 Đại biểu Quân đội. Hội đồng Quân đội Cách mạng là trung
tâm quyền lực tối cao.
Bắt đầu từ ngày 18-8-1964 trở đi, biểu
tình liên miên chống đối Hiến chương Vũng Tầu của Khánh. Đến
25-8-1964, theo lời Cố vấn của Đại sứ Hoa Kỳ Taylor, Khánh xé bỏ
Hiến chương Vũng Tầu. Ngày 27-8-1964, Thủ đô Sài Gòn rối loạn vì
thù nghịch giữa giáo dân Ki-tô và Phật tử trước Bộ Tổng Tham mưu
(6 Ki-tô hữu bị bắn chết), Hội đồng Tướng lãnh lập “Tam
đầu chế” Dương văn Minh, Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Khánh (Khánh
làm thủ tướng). Dương văn Minh được cử làm Chủ tịch Ủy Ban
Lãnh đạo Lâm thời Quốc gia và Quân đội. Thành lập Thượng Hội đồng
Quốc gia gồm 16 người: Phan Khắc Sửu, Nguyễn văn Huyền, Trần Đình
Nam, Trần Văn Văn, Trần văn Quế, Nguyễn văn Lực, Nguyễn Xuân Chữ,
Hồ văn Nhựt, Mai Thọ Truyền, Ngô Gia Hy, Lê Khắc Quyến, Tôn Thất
Hanh, Lương Trọng Tường, Nguyễn Đình Luyện, và Hồ Đắc Thăng, để
dự thảo Hiến Pháp mới.
Ngày 24-10-1964 Ông Phan Khắc Sửu được
bầu làm Quốc trưởng. Ngày 28-10-1964 Dương văn Minh bàn giao
chính quyền cho ông Phan Khắc Sửu, Trần văn Hương được cử làm thủ
tướng. Ngày 24-11-1964, Giáo dân và Phật tử tiếp tục biểu tình
chống đối, vì chính phủ Hương dùng người thuộc nhóm Cần Lao cũ
của Ngô Đình Nhu. Nhóm Young Turks của Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn
Khánh chuẩn bị lật đổ Hương. Ngày 4-12-1964, các tướng họp tại Đà
Lạt lập Hội đồng Quân Lực. Đến ngày 7-1-1965 Hội đồng Tướng lãnh
quyết định trao quyền cho phe dân sự. Hương cải tổ Nội các có 4
tướng trong thành phần Chính phủ: Nguyễn văn Thiệu làm Đệ Nhị Phó
thủ tướng, Trần văn Minh làm Tổng trưởng Quân lực, Linh Quang
Viên làm Tổng trưởng Tâm lý chiến, và Nguyễn Cao Kỳ làm Tổng
trưởng Thanh niên và Thể thao. Ngày 20-1-1965, các Thượng tọa
Phật giáo Trí Quang, Tâm Châu, Pháp Tri, Thiện Hoa, và Hộ Giác
tuyệt thực để chống đối.
Ngày 27-1-1965, Hội đồng Quân lực ra
thông cáo quyết định nắm lại chính quyền, Khánh thành lập một Hội
Đồng Quân Dân gồm 20 người. Lưu nhiệm Phan Khắc Sửu trong chức vị
Quốc trưởng, Nguyễn Xuân Oánh quyền thủ tướng. Đến ngày
16-2-1965, Khánh lại ký Nghị định cử Phan Khắc Sửu làm Quốc
trưởng, Phan Huy Quát làm thủ tướng. Phật giáo đồng ý chấm dứt
tranh đấu. Có sự can thiệp của Mỹ, Hội đồng Quân lực quyết định
cử Trần văn Minh làm Tổng Tư lệnh Quân đội thay Khánh, và buộc
Khánh đi làm Đại sứ lưu động. Ngày 24-2-1965 Khánh rời Việt Nam
bằng đường Hàng không, đã bốc một nắm đất tại phi trường Tân Sơn
Nhất mang theo lúc ra đi.
Bộ Tổng Tham mưu QĐQGVN được bắt đầu
thành lập hoạt động từ đầu năm 1952, nhưng đến tận tháng 6 mới có
Nghị định quy định việc thành lập. Trung tá Không quân Pháp là
Nguyễn văn Hinh (quốc tịch Pháp, có vợ Pháp, con Thủ tướng
chính phủ Việt Nam Nguyễn văn Tâm) đang làm chánh võ phòng
của Quốc trưởng Bảo Đại, được thăng lên cấp thiếu tướng và bổ
nhiệm làm Tổng Tham mưu trưởng QĐQGVN. Thoạt đầu Bộ Tổng Tam Mưu
đóng tại đường Trần Hưng Đạo gần Chợ Lớn, sau rời vào Camp
Chanson (trụ sở của Bộ Tư lệnh Quân đội Viễn chinh Pháp tại
Đông Dương chuyển giao) nằm sát phi trường Tân Sơn Nhất,
quận Phú Nhuận, tỉnh Gia Định. Trại được đổi tên là Trại Trần
Hưng Đạo.
Các
Bộ Tham mưu Miền được cải danh là Bộ Tư lệnh Quân Khu (Région
Militaire), với Tư lệnh là sĩ quan Việt Nam, nhưng phần lớn
các Trưởng Phòng trong Bộ Tham mưu đều là người Pháp tăng phái.
Dĩ nhiên nhân viên sĩ quan, hạ sĩ quan, và binh sĩ trong các
Phòng gồm cả Pháp lẫn Việt. Mãi cho đến cuối năm 1954 qua đầu năm
1955 mới chuyển hết cho nhân viên Việt Nam trách nhiệm.
Các Vị Tư lệnh các Quân khu (QK) đầu
tiên là: QK1 (miền Nam) Đại tá Lê văn Tỵ (nguyên Tham mưu
trưởng Tham mưu Biệt bộ Bộ Quốc phòng, Tôi đã có dịp làm việc
dưới quyền với tư cách Trưởng Ban Mật Mã); QK2 (miền
Trung) Đại tá Trương văn Xương (nguyên là Thiếu tá Tư
lệnh lực lượng giáo phái Cao Đài tại Bến Tre quy thuận Pháp, năm
1951 ông là Trung tá Trưởng Phòng 1 Bộ Tham mưu miền Nam, hàng
ngày tới trình việc lên Đại tá Tỵ, nên Tôi đã có dịp gặp và quen);
QK3 (miền Bắc) Đại tá Nguyễn văn Vận (gốc sĩ quan
lực lượng Thuộc địa Pháp từ trước 1945, nguyên là Đổng lý văn
Phòng Bộ Quốc phòng, thời Thủ tướng Trần văn Hữu kiêm nhiệm Tổng
trưởng Quốc phòng. Hồi Tôi mới du học Pháp trở về ông đã bổ nhiệm
Tôi làm Trưởng Ban Mật Mã Bộ Quốc phòng, sau đó mới chuyển qua
Tham mưu Biệt bộ của Đại tá Lê văn Tỵ); Riêng QK4 (miền
Cao nguyên Trung phần, thuộc Hoàng Triều cương thổ) Tư lệnh
do một tướng người Pháp đảm nhiệm. Tuy nhiên trong các Phòng, Ban
thuộc Bộ Tham mưu cũng có lẫn lộn cả sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ
Pháp và Việt. Đến cuối năm 1954 mới chuyển giao qua tay sĩ quan
Việt Nam trách nhiệm làm Tư lệnh Quân Khu.
Sau khi khái lược dông dài về bức họa
chung của QĐQGVN, Tôi xin quay trở về lãnh vực riêng của chúng ta
là Truyền Tin và Mật Mã, từ khi Bộ Tổng Tham mưu được thành lập
năm 1952, như thế nào?
Tại Bộ Tổng Tham Mưu (Bộ TTM)
cũng như tại mỗi Bộ Tư lệnh Quân khu, đều có tại mỗi nơi một Bộ
Chỉ huy Viễn Thông, do sĩ quan Truyền Tin Pháp chỉ huy, và một
Trung Tâm Truyền Tin, nhân viên gồm cả Pháp lẫn Việt. Riêng Ban
Mật Mã do Tôi phụ trách, được chuyển từ Tham mưu Biệt bộ Bộ Quốc
phòng, về Văn phòng Tổng Tham mưu trưởng, đặt dưới sự chỉ huy
trực tiếp của Tham mưu trưởng Liên quân (Trung tá Trần văn
Minh), với danh hiệu mới là Sở Mật Mã (Service du
Chiffre) y như tổ chức của bên Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Viễn
chinh Pháp. Tại mỗi Quân Khu có Ban Mật Mã trực thuộc Chánh văn
phòng Tư lệnh. Tại các Phân khu (Secteur, Subdivision),
Chi khu (Sous Secteur, Arrondissement) và Tiểu đoàn và
cấp đơn vị tương đương, thì có Sĩ quan Mật Mã. Các Sĩ quan Mật Mã
thường là sĩ quan Truyền Tin kiêm nhiệm hoặc một sĩ quan tham mưu
được Đơn vị trưởng tín nhiệm đề cử, nhưng phải được Sở An Ninh
Quân đội Trung ương tại Sài Gòn sưu tra, ra văn thư chính thức
đồng ý mới được nhận lãnh trách vụ Sĩ quan Mật Mã. Sở Mật Mã quản
trị hồ sơ, theo dõi, và liên tục yêu cầu điều tra bổ túc theo
định kỳ. Mật Mã là một hệ thống độc lập, dọc từ Bộ Tổng Tham mưu
xuống thẳng cấp đơn vị nhỏ nhất là Tiểu đoàn, đơn vị cấp tương
đương và ngược lại.
Sau khi thi hành Hiệp định Genève tháng
7 năm 1954, các Đại đội Bảo An (Phụ lực quân) là lực lượng nòng
cốt để đóng đồn và hành quân bình định bảo vệ an ninh địa phương
xã, ấp, và các cầu, phà, trục lộ giao thông, tại cấp Tỉnh (Tiểu
khu), Quận (Chi khu), nên Sở Mật Mã đã được giao
trách nhiệm tiếp tay hỗ trợ Nha Tổng Giám đốc Bảo An Đoàn, huấn
luyện tổ chức một hệ thống Mật Mã riêng, để bảo mật các tin tức
trao đổi giữa Nha Tổng Giám đốc Bảo An Đoàn trực thuộc Bộ Nội Vụ
xuống các Tỉnh đoàn Bảo An tại các Tỉnh (Tiểu khu) và
Quận (Chi khu).
Việc huấn luyện sĩ quan và hạ sĩ quan
chuyên viên Mật Mã trong Quân đội Quốc gia Việt Nam, đều do Sở
Mật Mã trách nhiệm tổ chức tại Bộ Tổng Tham Mưu và các Bộ Tư lệnh
Quân khu tùy theo nhu cầu đòi hỏi. Nhân số chuyên viên Mật Mã gia
tăng lũy tiến theo sự bành trướng của Quân đội. Riêng tại Bộ Tổng
Tham Mưu, khi Sở Mật Mã sát nhập vào Bộ Chỉ huy Viễn Thông Bộ TTM
cuối năm 1953, có quân số gần 40 sĩ quan và hạ sĩ quan Nam Nữ, kể
luôn cả chuyên viên thuộc xưởng Mã hoạt động bên Trung tâm truyền
Tin Bộ Tổng Tham Mưu.
Vì lý do bảo mật, mặc dù nhân viên
Truyền Tin chỉ là những chuyên viên lo chuyển vận các bản văn Mã
hóa trao đổi giữa các cấp đơn vị trong Quân đội, nhưng vì thường
xuyên hoạt động mật thiết với nhân viên Mật Mã, nên bắt buộc phải
có những giờ huấn luyện đặc biệt để giới thiệu tổng quát về nhiệm
vụ của Mật Mã, cũng như nhu cầu bảo vệ chuyên viên và các phương
tiện Mật Mã quan trọng như thế nào, cho các Sinh viên sĩ quan học
giai đoạn 2 chuyên môn Truyền Tin, các sĩ quan khóa căn bản
Truyền Tin Binh chủng và Truyền Tin Binh đoàn tại các Quân
trường.
Trong
những năm 1953, 54, và 55, các bài giảng huấn còn phải dùng Pháp
ngữ, Tôi phải đích thân đảm trách các khóa giảng, nên đã ghi nhớ
một kỷ niệm rất chân tình về một sĩ quan khóa sinh cũng trạc tuổi
Tôi, đến bây giờ vẫn chưa quên. Việc xảy ra tại một trong các lớp
học nơi Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức. Sĩ quan trẻ tuổi sau khi
nghe Tôi thuyết giảng, đã đặt những câu hỏi rất sáng giá (Smart),
chứng tỏ ông ta quan tâm thật sự đến ngành Mật Mã khác hẳn mọi
người, đã khiến Tôi đặc biệt chú ý đến ông ta. Đặc điểm riêng của
ông ta là thông minh, chững chạc, mái tóc đen nháy nhưng lại có
một nhúm sợi trắng phau, ngay bên đường rẽ ngôi phía trước trán.
Ngay lúc đó, Tôi nghĩ thầm, chắc vì ông này gốc ngành mũ đen (Thiết
Giáp) hào hoa phong nhã thích làm duyên với phái nữ, nên đã
nhuộm một nhúm tóc “Bạch Kim” trước trán để gợi sự chú ý
của các nàng tiên Trần gian cho vui vậy thôi. Nhưng không ngờ,
sau này Tôi có nhiều dịp gặp lại ông ta ngoài các đơn vị Truyền
Tin, thấy nhúm tóc “Bạch Kim” trước trán vẫn “trơ
trơ cùng tuế nguyệt”, mới vỡ lẽ đó là cái đẹp tự nhiên “Thiên
tạo” chớ không phải “Nhân tạo”.
Bây giờ gặp lại nhau trên “xứ lạ
quê người”, tuổi gần bảy chục, tóc của Tôi mới bắt đầu hoa
râm, đặc biệt cũng có một nhúm “bạch kim” phía trước
trán y như của người sĩ quan trẻ thuở nào Tôi đã gặp. Ngược lại,
tóc ông ta bây giờ lại bạc đều toàn diện, không còn dấu vết của
thời trẻ trung ấy nữa để mà phân biệt. Ông ấy là anh Bùi Trọng
Huỳnh, Đại tá Cục trưởng Truyền Tin sau cùng của Quân lực Việt
Nam Cộng Hòa trước 30 tháng 4 năm 1975. Tôi mới có dịp gặp lại
tại miền Nam California, trong một buổi Hội ngộ Tân Xuân 1993 do
Hội Ái hữu Truyền Tin họp mặt Xuân Mậu Tý 2008 tại khu Little
Saigon Nam California.
Truyền
Tin tổ chức nơi Hội quán Lạc Hồng của anh Nguyễn văn Diễm.
Anh Diễm thuở xưa cũng là một sĩ quan
Truyền Tin trẻ từng làm việc tại Bộ Chỉ huy Viễn Thông Bộ TTM
thời Tôi làm Chỉ huy phó, và là anh em cột chèo với anh Đỗ Như
Luận Tham mưu trưởng, sau được thuyên chuyển qua Truyền Tin bên
Bộ Tư lệnh Hải quân, Tôi từng có rất nhiều cảm tình đặc biệt. Nay
thì anh Diễm đang là Hiệu Trưởng Tâm’s Beauty College ở thị xã
Garden Grove, và còn là một doanh gia Việt Nam thành công trên
đất Mỹ, được tổ chức doanh gia toàn Hoa Kỳ tuyên dương công nhận.
Sau đây là mấy bài thơ kỷ niệm các mùa
Thu của người lính Truyền Tin già Nguyễn-Huy Hùng cựu tù chính
trị, để các bạn cùng thưởng thức cho vui.
YÊN BÁI TRẮNG ĐÊM
Sàn tre vật vã ẩm ê,
Lắng nghe giun dế tỉ tê nỗi niềm.
Lao
xao chuột rúc bên thềm,
Rì rầm nước đổ,
cú chêm nhịp buồn.
Trăng rừng lạnh lẽo
cô đơn,
Sương khuya mờ ảo, gió luồn khe
song.
Nhớ con thương vợ não lòng,
Chợ đời bạc bẽo long đong một mình.
Thời
gian hờ hững vô tình,
Không gian khoả
lấp bao hình thân thương!
Liên trại 1, Việt Cường, Hoàng Liên Sơn. Thu 1976.
GIỮA LÒNG TRƯỜNG SƠN
Gió đưa nhẹ lá vàng rơi,
Nghiêng nghiêng nắng ngả bóng đời vào Thu.
Lom khom ven núi đoàn tù,
Khua dao, múa
cuốc, ngẩn ngơ vạn sầu.
Gió sương hun
bạc mái đầu,
Rừng hoang chặn lối thấy
đâu đường về.
Não nề ngày tháng lê thê,
Mây ngàn thăm thẳm bóng quê mịt mù.
Xuyên trời vụt ánh chim cu,
Làm sao gửi
gói ưu tư nghẹn ngào?
K2, Thanh Phong, Thanh Hóa. Thu 1981.
RỪNG LÁ HÀM TÂN
Gió thoảng Thu vàng rụng khắp nơi,
Nắng xuyên Rừng Lá rách tơi bời.
Nước
reo suối cạn, trơ hàng sỏi,
Vượn hót khe
cao, vọng núi đồi.
Thế sự thăng trầm,
tâm chẳng rúng,
Tình đời xoay chuyển,
chí càng nuôi.
Thất thời nuốt hận âm
thầm đợi,
Vận tới khoa gươm cứu giống
nòi.
Trại Z30D, Hàm Tân, Thuận Hải.
Thu 1987.
NHỚ THUỞ THANH BÌNH
Không gian bàng bạc sóng trăng mơ,
Vạn vật miên man ảo ảnh mờ.
Đèn giấy
long lanh vờn bóng nguyệt,
Sáo diều vi
vút thả hồn thơ.
Bánh chay, lài toả
hương dìu dịu,
Trà mạn, sen dâng ý dật
dờ.
Thấp thoáng quân cù quay tán gió
(1),
Dập dìu trai gái thả tình thơ
(2).
Garden Grove, quận Orange, Nam Cali. Thu 1994.
(1) Miền Bắc gọi là đèn kéo quân, miền
Nam gọi là đèn cù.
(2)
Vào dịp đêm Trung Thu ngoài Bắc, thường trai gái hay tụ tập ở sân
Đình hoặc ở những bãi cỏ trống gần chợ, gần điếm canh nơi đầu
làng, dùng những câu hát ví trao đổi tâm tình với nhau công khai
trước mọi người, gọi là Hát Trống Quân hay Hát Đúm. Sau những dịp
hát như vậy, có nhiều cặp trước lạ sau quen, (bị cú sét ái
tình) trở thành tình nhân, rồi kết hôn.
CHƯƠNG 3
BỘ TỔNG THAM MƯU VÀ QUÂN ĐỘI QUỐC GIA
VIỆT NAM BẮT ĐẦU THÀNH HÌNH VÀ KHỞI SỰ HOẠT ĐỘNG
Bộ
Tổng Tham Mưu (Bộ TTM) Quân đội Quốc gia Việt Nam (QĐQGVN) đáng
lẽ được thành lập sớm từ đầu năm 1952, nhưng vì có sự bất đồng ý
kiến trong việc chỉ định người giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng,
giữa Quốc trưởng Bảo Đại và ông Letourneau Bộ trưởng các Quốc gia
Liên hiệp của chính phủ Pháp, nên mãi tới cuối tháng 5 năm 1952
mới có Nghị định ban hành quy định ngày thành lập chính thức kể
từ ngày 1-5-1952. Thiếu tướng Nguyễn văn Hinh làm Tổng Tham mưu
trưởng, và Trung tá Trần văn Minh làm Tham mưu trưởng.
Tổng nhân số Bộ TTM, lúc khởi đầu hoạt
động gồm khoảng 150 người cả Pháp lẫn Việt Nam, trong đó sĩ quan
và hạ sĩ quan người Pháp đã chiếm con số 36. Tổ chức Bộ TTM cũng
rất đơn giản như sau:
-Tổng Tham mưu trưởng và Văn phòng (trong
đó có Sở Mật Mã).
-Tham mưu trưởng.
-3 Tham mưu phó: -TMP Tổ chức và Nhân
viên, -TMP Hành quân và Huấn luyện, -TMP Tiếp vận.
-Chỉ huy trưởng Viễn Thông.
-4 Phòng Tham mưu chính: Phòng 1, Phòng
2, Phòng 3, Phòng 4. (Sau này theo tổ chức Quân đội Hoa Kỳ,
Phòng 4 cải tổ thành Tổng cục Tiếp vận.)
-Nha An ninh quân đội. (Sau này là
Cục An ninh quân đội, trực thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị.)
-Ban Không quân.
-Ban Hải quân.
-Trung tâm công văn và công điện (trong
đó có 1 Trung tâm Truyền tin).
-4 Nha trực hệ: -Nha Nhân Viên, -Nha
Quân Nhu, -Nha Quân Y, -và Nha Quân Cụ (trong đó có Sở Vật
liệu Truyền Tin).
-Ngoài các tổ chức trên, còn có Bộ Chỉ
huy Tổng hành dinh, và Đại đội Tổng hành dinh để lo các dịch vụ
yểm trợ Hành chánh, Tiếp liệu và An ninh cho Bộ TTM.
Ít tháng sau lại có thêm một số cơ sở
nữa là:
-Ban
tác động Tinh thần (Section Morale Action), sau đó cải
danh thành Phòng 5, và sau cùng P5 tách ra khỏi Bộ TTM sát nhập
vào Bộ Quốc Phòng với danh xưng “Nha Chiến Tranh Tâm Lý”.
-Ban Tổng nghiên cứu (Section
Études Générales).
-Nha Quân Trường (Direction des
Écoles). Về sau Nha Quân trường và Ban Tổng nghiên cứu nhập
làm một với danh hiệu Phòng Quân Huấn, và sau cùng lại cải danh
thành Tổng Cục Quân Huấn.
-Phòng 6 (Sixième Section) lo
về Gián điệp.
-Các Ban Không quân, Ban Hải quân, được đổi thành Phòng Không
quân, Phòng Hải quân để chuẩn bị thành lập các Bộ Tư lệnh Không
quân và Bộ Tư lệnh Hải quân sau này.
Chỉ huy trưởng Viễn Thông Bộ TTM là
Thiếu tá Richard, có nhiệm vụ phối hợp với Chỉ huy trưởng Truyền
Tin Bộ Tư lệnh Quân đội Viễn chinh Pháp về mọi vấn đề liên quan
tới dịch vụ Truyền Tin trong QĐQGVN, chỉ huy các Bộ Chỉ huy Viễn
thông tại các Bộ Tư lệnh Quân khu Việt Nam, và một số Đơn vị
Truyền Tin đã chuyển thuộc quyền quản trị của Quân Đội Quốc Gia
Việt Nam.
Ngày
Bộ TTM mới thành lập, Sở Mật Mã tại Bộ TTM và các Ban Mật Mã Quân
khu không nằm trong hệ thống chỉ huy của các Bộ Chỉ huy Viễn
thông (BCH/VT). Tôi không quan tâm tìm hiểu nên không biết trong
BCH/VT có những ai là sĩ quan VN? Chỉ nghe nói có Trung úy Lương
Thế Soái, nhưng chưa bao giờ có dịp gặp, kể cả trong giờ giải
khát nửa buổi sáng tại Câu Lạc Bộ Sĩ quan, ngay sát cạnh trụ sở
Bộ TTM, nơi mà các sĩ quan Việt, Pháp thường tới ăn uống, trò
chuyện, làm quen nhau. Ở Trung tâm Truyền Tin thì có Thiếu úy
Quới, Tôi thường có dịp gặp. Riêng bên Nha Quân Cụ, Tôi biết có
Trung úy Lê văn Hiền Trưởng Phòng Vật liệu Truyền Tin, chúng tôi
đã quen nhau từ hồi Tôi mới ở Pháp về vào giữa năm 1951, làm việc
chung tại Bộ Quốc phòng.
Sở Mật Mã Bộ TTM, là một bộ phận độc
lập trực thuộc Văn phòng Tổng Tham mưu trưởng, nên Tôi phải tham
dự các buổi họp Tham mưu hàng ngày dưới sự Chủ tọa của Tham mưu
trưởng. Nhờ vậy, Tôi có dịp quen Thiếu tá Richard Chỉ huy trưởng
Viễn Thông, và biết được ông này tốt nghiệp Trường Polytechnique
Versailles, trước khi làm sĩ quan Truyền Tin, nên ông ta có thái
độ kiêu ngạo, coi thường các Chỉ huy trưởng Viễn Thông tại các Bộ
Tư lệnh Quân khu, cũng là sĩ quan Pháp nhưng chỉ tốt nghiệp
Trường Truyền Tin Montargis. Ông ta rất thích truyện trò tâm sự
với Tôi, để tìm hiểu về chiến trường Việt Nam, vì ông ta biết Tôi
mới học Montargis về, và trước kia Tôi đã từng chỉ huy đơn vị Bộ
binh tham gia hành quân tại vùng Trung Du và Đồng bằng Bắc Việt.
Cuối năm 1952 qua đầu 1953, các Tiểu
đoàn Bộ binh, Trung đoàn Vệ binh, Liên đoàn Bộ binh, Sư đoàn VN,
các Đơn vị Hành chánh, Tiếp vận, Trung Tâm Huấn luyện được xúc
tiến thành lập ồ ạt, Tôi phải thường xuyên theo dõi để cải tiến
gia tăng các Hệ thống Mật Mã, cho hợp nhu cầu. Nhờ thế biết được
đại khái về truyền Tin như sau:
1. Về Khai thác, ở Bộ TTM có BCH/VT Bộ
TTM và tại mỗi Quân khu có một BCH/VT Quân khu. Trực thuộc mỗi
BCH/VT này đều có một Trung tâm Truyền Tin, làm việc trong Hệ
thống Truyền Tin Diện địa của các Bộ Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp
tại Sài Gòn và các Địa phương, cùng một số Đại đội Truyền Tin do
sĩ quan Pháp chỉ huy hoạt động tại các miền Việt Nam như sau:
-QK I (miền Nam) có ĐĐ6TT ở Gia định,
và ĐĐ1TT ở Cần Thơ.
-QK II (miền Trung)
có ĐĐ2TT ở Huế.
-QK III (miền Bắc) có
ĐĐ5TT ở Hà Nội, và ĐĐ3TT ở Nam Định.
-QK
IV (Cao nguyên Trung phần) có ĐĐ4TT ở Ban mê thuột.
Qua năm 1953, có thêm 5 Đại đội TT cho
5 Sư đoàn mới thành hình (mỗi Đại đội có khoảng 150 người). Đến
năm 1954 lại lập thêm một số Phân đội Truyền Tin (Détachement
de Transmissions). Mỗi Phân đội có khoảng 60 người, do sĩ
quan Việt Nam chỉ huy, trực thuộc các Bộ Chỉ huy Trung đoàn Ngự
Lâm quân, Liên đoàn Bộ binh (Groupement d’Infanterie = G.I),
Liên đoàn Bộ binh Sơn Cước (Groupement d’Infanterie de
montagne = G.M.I), Liên đội Vệ binh, Trung đoàn Vệ binh, và
Liên đoàn Nhảy Dù (G.A.P= Groupement aéroporté). Các
loại máy Truyền tin thông dụng là: SCR 399, SCR 193, SCR 694, SCR
300, SCR 536, AN/VRC/1 (để liên lạc với máy bay).
2. Về Tiếp liệu và Sửa chữa Vật liệu
Truyền Tin, thì mọi đơn vị và cơ sở đều nằm trong Hệ thống chỉ
huy của Quân Cụ y như tổ chức bên quân đội Viễn chinh Pháp. Tại
Trung ương Sài Gòn, có Phòng Vật liệu TT nằm trong Sở Quân Cụ (Service
du Matériel), và tại các Quân khu có các thành phần phụ
trách về Vật liệu TT nằm trong các Trung tâm Tổ chức Quân Cụ (Centre
d’organisation du service du matériel). Đến đầu năm 1953,
Phòng Vật liệu TT thuộc Sở Quân Cụ tại Sài Gòn được tách ra và
cải tổ thành Nha Vật liệu TT Trung ương (Direction centrale
du service du matériel des transmissions). Tại các địa
phương các thành phần phụ trách về Vật liệu TT trong các Trung
tâm Quân Cụ cũng được tách ra để cải biến thành các Cơ Sở Vật
liệu Truyền Tin địa phương (Etablissement régional du service
du matériel des transmissions). Qua năm 1954 có thêm 4 Chi
nhánh Cơ xưởng Sửa chữa và Tiếp liệu Tồn trữ Vật liệu TT, tại 4
nơi: Nam Định, Hải Phòng, Đà Nẵng và Nha Trang, để nới rộng tầm
yểm trợ. Trung tá Lê văn Hiền được chỉ định làm Giám đốc Nha Vật
liệu TT đầu tiên, từ khi Pháp bàn giao cho Việt Nam.
Cuối năm 1955, sau khi anh Nguyễn
Khương được chỉ định về làm Chỉ huy trưởng Viễn thông Bộ TTM, thì
anh Hiền bị thuyên chuyển ra khỏi Binh chủng TT. Thiếu tá Khổng
văn Tuyển, phụ trách tiếp liệu TT tại Huế được đưa vào thay thế
anh Hiền. Đến sau cuộc Nhảy Dù đảo chính Tổng thống Diệm vào ngày
11-11-1960 không thành, anh Tuyển được đưa sang chỉ huy Nha Viễn
thông Bộ Nội vụ, cho đến 30-4-1975 cộng sản Bắc Việt xâm chiếm
miền Nam, bị đi học tập cải tạo, rồi chết trong trại tập trung
ngoài miền Bắc Việt Nam.
3. Về Huấn luyện chuyên viên TT, tại
mỗi Quân trường và Trung tâm Huấn luyện, đều có Ban phụ trách
hướng dẫn cho khóa sinh biết cách sử dụng các máy Truyền Tin loại
nhỏ, thông dụng trong các đơn vị Bộ binh như: SCR 694, SCR 300,
SCR 536, AN/VRC/1, các máy điện thoại và Tổng đài Dã chiến. Riêng
phần đào tạo các chuyên TT như: Hiệu thính viên, Viễn ấn tự, Tổng
đài viên, trải dây... (cho cả Binh đoàn lẫn Binh chủng TT)
đều do các Trung tâm Huấn luyện Kỹ thuật Truyền Tin (TTHL/KTTT)
đảm trách.
Tính đến tháng 9 năm 1952, có cả thảy 4 TTHL/KTTT được thành lập,
tại Gia Định CITTR1, Huế CITTR2, Hà Nội CITTR3, và Ban mê thuột
CITTR4. Qua năm 1955, các CITTR3 và CITTR4 bị giải tán. Sau cùng
vào cuối năm 1956 các CITTR1 và CITTR2 lại bị giải tán nốt để
thành lập một Trung tâm Huấn luyện TT duy nhất tại Vũng Tầu, phụ
trách việc đào tạo hạ sĩ quan và binh sĩ chuyên TT cho các đơn vị
TT thuộc Binh đoàn Bộ binh (không thuộc quân số Binh chủng TT),
và đơn vị TT thuộc Binh chủng TT. Các chuyên viên sửa chữa và
tiếp liệu và tồn trữ các Vật liệu TT, được đào tạo tại Trường
Truyền Tin, trong Liên trường Võ khoa Thủ Đức.
Việc đào tạo sĩ quan Truyền Tin Binh
đoàn và Binh chủng TT tại Việt Nam được khởi đầu từ năm 1953 tại
Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức. Vì nhu cầu sĩ quan bổ sung cho các
đơn vị Bộ binh và các đơn vị Binh chủng Truyền Tin, Thiết Giáp,
Pháo Binh, Công Binh, Quân Cụ, Thông Vận Binh, và Hành chánh Tài
Chánh cho toàn Quân đội đang được thành lập ồ ạt, nên bắt đầu từ
Khóa 2 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức trở đi, chương trình huấn luyện
được chia thành 2 giai đoạn:
-Giai đoạn 1, sinh viên sĩ quan học căn
bản về Bộ binh;
-Giai đoạn 2, những sinh viên sĩ quan
được dự trù bổ sung cho Binh chủng chuyên môn nào thì học chuyên
biệt chuyên môn của ngành đó.
Vì thế, nhân viên thuộc Khoa Huấn luyện
TT tại Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức được tăng cường, để lo việc
huấn luyện chuyên nghiệp Giai đoạn 2 về TT cho các Sinh viên sĩ
quan sẽ được bổ dụng về Binh chủng TT sau khi mãn khóa. Đồng thời
cũng phụ trách luôn việc tổ chức các khóa bổ túc căn bản TT cho
các sĩ quan đang phục vụ trong các đơn vị thuộc Binh chủng TT, để
điều chỉnh chuyên nghiệp, và các khóa căn bản TT cho sĩ quan TT
Binh đoàn (không thuộc quân số riêng của Binh chủng TT).
Năm 1957, tại đồi Tăng Nhân Phú, Thủ
Đức, vốn là cơ sở riêng của Trường Sĩ quan Trừ bị, được biến
thành Liên trường Võ khoa Thủ đức. Ngoài Trường Sĩ quan Trừ bị Bộ
binh vốn có từ ngày thành lập năm 1952, nay có thêm các Trường
Chuyên nghiệp của các Binh chủng trong Quân đội. Nhân viên nòng
cốt dậy các khoa chuyên môn của Trường Sĩ quan Trừ bị được tách
ra, tăng cường thêm quân số để thành lập các Trường Truyền Tin,
Trường Công Binh, Trường Pháo Binh, Trường Thiết Giáp, Trường
Quân Cụ, và Trường Hành chánh Tài chánh.
Trường Truyền Tin phụ trách tổ chức
huấn luyện các khóa:
-Sĩ quan TT Binh chủng Truyền Tin,
-Sĩ quan TT Binh đoàn,
-Sĩ quan Tiếp
liệu và Tồn trữ các Vật liệu TT, và
-Chuyên viên sửa chữa các loại vật liệu TT.
Vào giữa năm 1958, sau khi Tôi theo học
liên tiếp 2 khóa: -Sĩ quan TT cao cấp, và Sĩ quan Yểm trợ Tồn trữ
Vật liệu TT cấp Chiến trường, tại Trường truyền Tin Lục quân Hoa
Kỳ ở Fort Mounmouth, Tiểu bang New Jersey về nước, được chỉ định
làm Giám đốc Trường Truyền Tin Liên Trường Võ khoa Thủ Đức cho
tới cuối năm 1960, bàn giao lại cho Đại úy Võ Trịnh Trọng, phó
của Tôi lên thay. Tôi về làm Chỉ huy phó Viễn Thông cho đến sau
đảo chánh Tổng thống Diệm 1-11-1963 thì ra khỏi Binh chủng Truyền
Tin.
Đầu năm
1961, Liên trường Võ Khoa Thủ Đức giải tán, các Trường chuyên môn
Binh chủng được tách riêng, và thống thuộc 2 hệ thống chỉ huy,
với Tổng Cục Quân huấn Bộ Tổng Tam Mưu về kế hoạch huấn luyện và
ngân khoản huấn luyện, với các Chỉ huy trưởng Binh chủng liên hệ
về quân số, kỷ luật và chuyên môn. Trường Truyền Tin di chuyển
xuống Vũng Tầu, nhập chung với Trung tâm Huấn luyện TT Vũng Tầu,
để cải biến thành một Trường Truyền Tin duy nhất, trách nhiệm
huấn luyện tất cả các loại khóa chuyên môn về Khai thác và Tiếp
liệu, Sửa chữa vật liệu TT cho sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ thuộc
Binh chủng TT và thuộc các Binh đoàn trong toàn quân đội. Các
khóa Mật Mã cũng được đào tạo tại đây.
Thiếu tá Nguyễn đình Tài, nguyên Chỉ
huy trưởng Trung tâm Huấn luyện TT Vũng Tầu giải tán, được thuyên
chuyển đến Trường Đại học Quân sự tại Đà Lạt, phụ trách khóa
hướng dẫn các sĩ quan khóa sinh học các khóa Tham mưu và Chỉ huy,
làm Phụ bản Truyền Tin của các loại Lệnh Hành Quân cấp Trung đoàn
và Sư đoàn. Thiếu tá Nguyễn văn Chuân được chỉ định làm Giám đốc
Trường Truyền Tin cho đến sau biến cố đảo chánh 1-11-1963, bị
thuyên chuyển ra khỏi Binh chủng TT cùng một lượt với Tôi.
Kể từ năm 1953, ngoài số sĩ quan TT
được đào tạo ở trong nước, Bộ chỉ huy Viễn thông Bộ TTM còn được
tổ chức thi tuyển một số sĩ quan đang phục vụ trong các đơn vị TT
thuộc Binh chủng TT, hoặc mới tốt nghiệp các Trường Võ bị Quốc
gia Đà Lạt, và Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, có khả năng và Văn
bằng chuyên môn Điện tử, Vô tuyến điện... gửi đi tu nghiệp tại
Trường Truyền Tin Montargis bên Pháp, để về làm huấn luyện viên
và chuyên viên nòng cốt cho các lãnh vực chuyên nghiệp trong Binh
chủng TT.
Hồi
đó ngành Mật Mã không lệ thuộc Bộ Chỉ huy Viễn thông, nên Tôi
không quan tâm tiếp xúc với các sĩ quan TT, mặc dù anh Nguyễn
Khương và Tôi là 2 người được Bộ Quốc phòng Việt Nam gửi đi học
về TT tại Montargis niên khóa 1950-51, từ khi Bộ TTM chưa ra đời.
Nhưng đến cuối năm 1953, rập khuôn theo tổ chức mới của Bộ Tư
lệnh Tối cao quân Viễn chinh Pháp tại Đông Dương, Sở Mật Mã do
Tôi trách nhiệm sát nhập vào Bộ Chỉ huy Viễn thông Bộ TTM với
danh hiệu mới là Phòng Mật Mã Trung ương, nhu cầu liên kết hoạt
động với các sĩ quan TT, buộc Tôi phải tìm đến với các bạn đồng
môn từ Montargis về. Nhờ thế Tôi biết được những ai đã theo học
Montargis và vào những niên khóa nào? Tổng số không đông lắm so
với tập thể sĩ quan TT trong Binh chủng. Nếu trí nhớ già nua cằn
cỗi hiện tại không phản bội Tôi, thì:
-Niên khóa 1950-1951, có Thiếu úy
Nguyễn Khương và Tôi (Thiếu úy Nguyễn-Huy Hùng).
-Niên khóa 1951-1952, chỉ có một mình
Trung úy Nguyễn Khương học thêm năm nữa về chuyên môn gì không ai
biết, vì anh Khương không tiết lộ về tên khóa học này.
-Niên khóa 1952-1953 có các Thiếu úy
Nguyễn tài Lâm, Lê Phú Phúc, Nguyễn Hữu Mai, Nguyễn văn Bình, và
Trần Xuân Đức.
-Niên khóa 1953-1954, có các Thiếu úy
Nguyễn hữu Chi, và Nguyễn cao Quyền (tốt nghiệp Khóa 1 Sĩ
quan Trừ bị Thủ Đức-Nam Định, được gửi qua Pháp theo học bổ túc
năm thứ 2 (ESMIA) tại Trường Võ bị Lục quân Saint Cyr, rồi theo
học năm thứ 3 về chuyên môn TT trước khi về phục vụ trong các cơ
sở hoặc đơn vị TT, như các thiếu úy Pháp vừa tốt nghiệp),
Ngô văn Minh, Paul Huê, và một người nữa không nhớ tên.
-Niên khóa 1954-1955, có các bạn Ngô
qúy Thiều, Phạm ngọc Gia, Dương thiệu Hiểu, và Nguyễn văn Toàn.
-Niên Khóa 1955-1956, có các bạn Đặng
văn Phi, Lữ phúc Bá, Châu ngọc Xuân, Mai viết Triết, Nguyễn văn
Liêm, Trần phát Ngọc, Lê văn Trọng, và 4 bạn theo học khóa Kiểm
tra viên công trình điện khí cơ hành (Contrôleur des
installations électromécaniques) tại Paris, là Nguyễn hải
Châu, Phan hy Dung, Cổ tấn Hổ, và Lê xuân Sơn.
Từ cuối năm 1952 qua năm 1953, được coi
là thời bộc phát mạnh của QĐQGVN. Ngoài số 30 Tiểu đoàn đã có,
phải tổ chức thêm 80 Tiểu đoàn các loại: Bộ binh, Khinh binh,
Nhảy Dù, Ngự Lâm quân, Pháo binh, Công binh, Vận tải (Thông
vận binh), Thám Thính, và khoảng 6 Bộ chỉ huy Liên đoàn Bộ
binh, và 7 Bộ Tư lệnh Sư đoàn VN. Do đó ngành Mật Mã cũng phải
chuyển mình bành trướng theo để đáp ứng cho kịp nhu cầu đòi hỏi.
Nhân số Sĩ quan, Hạ sĩ quan Mật Mã được gia tăng và cần huấn
luyện cấp tốc. Các Văn kiện Căn bản quy định rõ ràng chi tiết về
tổ chức, điều hành, huấn luyện, tiếp vận, ấn loát, an ninh liên
quan tới nhân viên, phương tiện và cơ sở làm việc của các Mật Mã
viên, cần được xúc tiến ban hành khẩn cho mọi cấp Chỉ huy đơn vị
Quân đội thi hành, đồng nhất, nhằm bảo đảm sự an toàn cho các Hệ
thống Mật Mã được toàn hảo trong toàn Quân đội.
Mọi việc đã được xúc tiến mau lẹ, tốt
đẹp, và mùa Xuân năm 1953 Tôi đã được thăng cấp đại úy đặc cách.
Ngày ấy Tôi vừa tròn 23 tuổi, là đại úy trẻ tuổi nhất trong Bộ
TTM. Sau khi gắn cấp hiệu đại úy (3 vạch kim tuyến vàng chói)
lên 2 cầu vai áo của Tôi, Thiếu tướng Nguyễn văn Hinh Tổng Tham
mưu trưởng nhoẻn miệng cười, quay sang nhìn Trung tá Trần văn
Minh Tham mưu trưởng, và nói: “Oh, Mon Dieu! Qu’il est si
jeune! Je veux le voir aux premiers Cours Tactiques le mois
prochain à Hanoi, pourqu’il deviendra Commandant d’un de nos
nouveaux Bataillons.” (Trời ơi, Anh ta trẻ quá! Tôi muốn
thấy anh ta ở khóa Chiến thuật đầu tiên tại Hà Nội vào tháng tới,
để anh ta trở thành Chỉ huy trưởng của một trong các Tiểu đoàn
mới.) Trung tá Minh đã hăng hái trả lời: “Bien, mon
Général.” (Vâng, xin tuân lệnh thiếu tướng.) Nhưng
vì nhu cầu tối cần của Ngành Mật Mã đang bành trướng, nên Tôi đã
không được gửi theo học khóa Chiến thuật tại Hà Nội. Nếu Trung tá
Minh Tham mưu trưởng cho Tôi theo học khóa Chiến thuật như lời
chỉ thị của Thiếu tướng Tổng Tham mưu trưởng, thì chắc chắn đời
binh nghiệp của Tôi đã khác hẳn, và hôm nay chẳng có gì để viết
về “Duyên nợ Truyền Tin” cho các bạn đọc.
Nhưng có điều an ủi bất ngờ đã đến với
Tôi là, mùa Xuân 1954 Tôi được đền bù bằng thăng cấp thiếu tá đặc
cách. Bốn vạch kim tuyến bóng loáng nằm dài trên 2 vai áo của
Tôi, đã làm cho uy thế của Ngành Mật Mã được mọi cấp Chỉ huy
trong toàn Quân đội quan tâm, ưu tiên lo lắng trợ giúp kịp thời
mọi đòi hỏi cần thiết.
Vào năm 1954, Quân Đội Quốc Gia VN có 3
vị tướng: Trung tướng Nguyễn văn Hinh (Tổng Tham mưu trưởng
tại Sài Gòn), Thiếu tướng Nguyễn văn Vỹ (Chánh Võ phòng Quốc
trưởng Bảo Đại, trên Đà lạt), và Thiếu tướng Nguyễn văn Vận
(Tư lệnh Quân khu 3, tại Hà Nội); 10 đại tá; 12 trung tá; và
khoảng 30 thiếu tá (Tôi là 1 trong 30 vị này).
Một Lịch trình Thanh tra Chỉ huy Mật
Mã, đến mọi cấp đơn vị nằm trong các Hệ thống Mật Mã trong toàn
Quân đội, được thực hiện liên tục trong mùa Hè 1954. Mục đích thứ
nhất là để giải thích cho các vị Tư lệnh và Chỉ huy trưởng các
đơn vị, hiểu rõ về vai trò quan trọng của Mật Mã, kiểm soát tại
chỗ và yêu cầu hoàn chỉnh ưu tiên những biện pháp bảo vệ an ninh
vật chất cần thiết cho nhân sự và cơ sở Mật Mã trực thuộc. Mục
đích thứ hai để hướng dẫn bổ túc về kỹ thuật, tổ chức điều hành
các xưởng Mã cho các Sĩ quan Mật Mã và Mật Mã viên. Đợt thanh tra
quy mô này được thực hiện với danh nghĩa Đại diện Tổng Tham mưu
trưởng, được minh thị bằng một Sự vụ văn thư do chính Tổng Tham
mưu trưởng ký tên ban hành. Nhờ thế, Tôi đã được tất cả các cấp
Chỉ huy Lãnh thổ và Đại đơn vị hỗ trợ đặc biệt. Kết quả thâu đạt
rất mỹ mãn, khiến Tôi rất phấn khởi, và hăng say tổ chức, điều
hành, cải tiến ngành Mật Mã ngày một tốt hơn.
Dĩ nhiên sau đợt thanh tra, có những
Đơn vị trưởng nhận được Giấy Khen của Tổng Tham mưu trưởng, nhưng
cũng có người nhận được Giấy Khiển trách hoặc Giấy Phạt kỷ luật.
Tôi đã làm việc với công tâm không hề thiên vị, và cũng không e
ngại những trường hợp lẻ tẻ trả thù sau này. Nhờ vậy, Tôi đã tạo
cho Sĩ quan Mật Mã và Mật Mã viên niềm vinh dự và hãnh diện về
nghiệp vụ mà họ được giao phó, cũng như làm cho tất cả các cấp
Chỉ huy trong Quân đội thấy rõ sự quan trọng, và cần phải làm gì
để bảo vệ Ngành Mật Mã, vì đây là Huấn lệnh Quân đội bắt buộc mọi
người phải triệt để tuân hành.
Qua đợt thanh tra này, Tôi cũng rút
được nhiều kinh nghiệm chiến trường, để cải tiến tổ chức cho
Ngành Mật Mã ngày một hữu hiệu hơn. Tôi đã trình Tổng Tham mưu
trưởng cho phép tiếp xúc mật thiết hơn với Sở Mật Mã Bộ Tư lệnh
Tối cao Quân viễn chinh Pháp ở Sài Gòn, để yêu cầu trợ giúp về
phương diện huấn luyện, và tiếp trợ các phương tiện kỹ thuật Mật
Mã (máy Mã Converter). Do đó Sở Mật Mã Pháp đã hỗ trợ mở
khóa huấn luyện Sĩ quan Mật Mã VN học chương trình của Mật Mã
Pháp tại Bộ TTM QĐQGVN ở Sài Gòn. Khóa học đầu tiên này gồm có
các anh: Lý Thái Vượng, Nguyễn Bỉnh Thiều, Trịnh Xuân Minh,
Nguyễn Thành Nghiệp, Triều Lương Chế, Đỗ văn Thân, Văn hữu Trạng,
Huỳnh văn Cảnh, Phan Xuân Thế, Nguyễn Ngọc Phan, Trương văn Tàng.
(Không biết Tôi nhớ có thiếu ai không? Nhờ các bạn ghi trên
đây bổ túc giùm nếu có.) Mãn khóa học anh em được bổ nhiệm
đi các nơi như sau: Nguyễn Thành Nghiệp (Trưởng Phòng Mật Mã
QK1, tại Sài Gòn), Lý Thái Vượng (Trưởng Phòng MM/QK2,
tại Huế), Nguyễn Bỉnh Thiều (Trưởng Phòng MM/QK3, tại Hà
Nội), Nguyễn Ngọc Phan (Trưởng Chi nhánh MM khu Nam QK3, tại
Nam Định), Triều Lương Chế (Trưởng Phòng MM/QK4, tại Ban mê
thuột), Trương văn Tàng (Trưởng Chi nhánh MM khu Duyên
hải QK4, tại Nha Trang), số còn lại phục vụ tại Phòng Mật Mã
Trung ương tại Sài Gòn.
Đến đầu năm 1955, anh Thế có nhu cầu
cần chăm sóc cha mẹ già tại Huế, nên Tôi đưa ra thay anh Lý Thái
Vượng đang ở Huế, cũng có nhu cầu cần vào Sài Gòn, ổn định gia
đình đông con và Cha già phải di cư từ Bắc vào cuối năm 1954
không hợp phong thổ miền Huế, mùa Đông lạnh, mùa Hè mưa và lụt
lội. Anh Vượng là sĩ quan Trừ bị tốt nghiệp Khóa 1 Nam Định, làm
Phó trưởng phòng giúp Tôi cho đến đầu năm 1957 được thăng cấp đại
úy, rồi giải ngũ vì gia đình đông con. Anh Trương văn Tàng Trưởng
Chi nhánh MM tại Nha Trang, cũng mới được thăng cấp đại úy, được
điều động về thay thế anh Vượng. Đến giữa năm 1957, Tôi đi Hoa Kỳ
học Khóa Truyền Tin tại Fort Mounmouth, Tiểu bang New Jersey, thì
anh Tàng lên thay Tôi làm Trưởng Phòng MMTU Bộ Chỉ huy Viễn thông
Bộ TTM.
Sau
khóa sĩ quan MM nêu trên, Sở Mật Mã Pháp yểm trợ cho QĐQGVN các
máy Mã (Converter) sản xuất bên Đức, và phụ giúp Phòng
MMTU mở các khóa huấn luyện hạ sĩ quan chuyên viên sửa chữa máy
Mã. Ngoài ra Nha Mật Mã và Mã Thám Pháp tại Paris, cũng dự trù
cấp 2 học bổng cho Sĩ quan Mật Mã VN đi học khóa Mã Thám 2 năm
tại Paris vào niên Khóa 1955. Tổng Tham mưu trưởng đã chấp thuận
cho anh Lý Thái Vượng và Tôi tham dự khóa này. Nhưng “mưu sự tại
nhân, thành sự tại thiên”, Hiệp định Genève đình chiến ra đời vào
tháng 7 năm 1954, vai trò của Pháp chấm dứt kể từ 1955 để Mỹ
chuẩn bị thay thế làm Cố vấn, nên học bổng nêu trên bị hủy bỏ.
Mộng lớn về tương lai hình thành một ngành Mật Mã Mã Thám quy mô,
cho QĐQGVN và hệ thống Tùy viên Quân sự bên các Tòa Đại sứ VN nơi
hải ngoại của Tôi gặp trục trặc.
Đợt Thanh tra Chỉ huy Mật Mã năm 1954,
đã là dịp cho Tôi đặt những viên đá đầu tiên, xây dựng nền móng
vững chắc cho niềm hãnh diện của ngành Mật Mã trong QĐQGVN, cho
“tình huynh đệ chi binh” thắm thiết giữa các chuyên viên Mật Mã
trong toàn Quân đội (không phân biệt Binh Chủng, Binh Đoàn), cho
nghĩa tình Mật Mã keo sơn, ngay từ trong thời kỳ mới thành hình
của ngành Mật Mã trong QĐQGVN.
Hôm nay, 42 năm sau ngày rời ngành Mật
Mã, đọc đoạn văn mở đầu bài “Ân tình Mật Mã” của chiến hữu Nguyễn
văn Riễm, nguyên Trưởng Phòng MM Lục quân Cục Truyền Tin, trong
Bản Tin Trần Nguyên Hãn số 2, Tôi rất xúc động, sung sướng và
hãnh diện, vì không ngờ cái việc làm mộc mạc, chân tình, thiện
chí ban đầu của Tôi đối với ngành Mật Mã quân đội Việt Nam, đã
được các chiến hữu đến sau duy trì, và làm tăng trưởng lũy tiến
hiện đại theo kỹ thuật của quân đội Hoa Kỳ mặc dầu không còn sự
hiện diện của Tôi.
Sự kiện này cũng làm Tôi nhớ lại một kỷ
niệm về “Ân tình Mật Mã” trong một cuộc vui Xuân của nhóm anh em
Phòng Mật Mã Trung ương và Quân khu 1, tại chợ Thủ Đức vào đầu
năm 1956. Hôm đó có Lý Thái Vượng, Nguyễn Bỉnh Thiều, Trịnh Xuân
Minh, Trịnh văn Phát (sau sang Không quân), Trịnh Xuân
Lạng (sau là Trung tá Chỉ huy trưởng đơn vị 15), Nguyễn Thành
Nghiệp (Trưởng Phòng MM/QK1) và Tôi. Chúng tôi thường
lợi dụng những buổi họp vui thân thiện như vậy, để bàn luận và
chia sẻ với nhau những kinh nghiệm, sai lầm cần sửa chữa, những
dự án trong tương lai, những khó khăn gia đình của riêng mỗi anh
chị em trong đơn vị, để mọi người cùng tham gia hỗ trợ giúp đỡ
nhau vượt qua cách nào êm dẹp, thực tế và hữu hiệu nhất. Vì chúng
tôi quan niệm rằng gia đình có được chăm lo đầy đủ, ổn định, thì
tinh thần mới được thơ thới minh mẫn để hết lòng lo nhiệm vụ,
cũng như không bị mua chuộc rơi vào cạm bẫy phản bội Quân Đội và
Dân Tộc. Buổi vui đó có rượu, có gà quay, có xôi chiên phồng, có
nem chua... và men nồng hứng khởi đã khiến anh Thiều, anh Vượng
và Tôi, làm một bài thơ “liên ngâm, tứ tuyệt” lưu niệm. Riêng Tôi
vẫn nhớ chẳng bao giờ quên. Xin ghi lại ra đây để các bạn cùng
thưởng thức.
Men nồng sưởi ấm những lòng son,
Việc nước chung lo khó chẳng sờn.
Dâu
biển Thế thời dù biến đổi,
Nghĩa tình
Mật Mã vẫn keo sơn.
Ghi chú: 2
câu đầu do Tôi khởi xướng, 2 câu sau do các anh Thiều và Vượng
tiếp thêm cho trọn vẹn ước mong của anh em.
CHƯƠNG 4
CHIẾN CUỘC XOAY CHIỀU, PHÁP RA KHỎI
MIỀN NAM VIỆT NAM
Vì
tính cách Kỹ thuật chuyên biệt, các sĩ quan và hạ sĩ quan đã theo
học khóa
chuyên môn Mật Mã, và đang phục vụ tại các cơ sở Mật Mã, được
phép đeo nơi phía trên túi áo ngực bên phải bộ quân phục, một
chuyên hiệu Mật Mã bằng kim khí, do Phòng Mật Mã Trung ương
(MMTU) thực hiện và cấp phát. Mẫu chuyên hiệu Mật Mã do một Trung
sĩ (họa sĩ) thuộc Phòng MMTU phác thảo, trình và được Bộ Tổng
Tham Mưu chấp thuận, cấp ngân khoản cho phép tiếp xúc với hãng
DRAGO chuyên sản xuất các huy hiệu quân đội ở bên Pháp, hoàn
chỉnh và thực hiện. Chủ đề cấu tạo chuyên hiệu Mật Mã, gồm 3 hình
tượng:
-NHÂN
SƯ, con vật thần thoại Ai Cập (SPHINX), tượng trưng cho
trí thông minh và bảo toàn bí mật.
-Vành (sắt lót)
móng ngựa, dấu hiệu mang lại may mắn theo truyền thuyết của người
Âu Châu, đồng thời cũng tượng trưng cho tòa án lương tâm.
-Kiếm, tượng trưng cho
danh dự, lòng ngay thẳng, và ý chí can đảm bất khuất của người
Hiệp sĩ.
Mầu sắc của chuyên hiệu cũng
rất đơn giản mộc mạc, chỉ dùng có 2 mầu: Vàng và Bạc, 2 loại quý
kim mà mọi người trên Thế giới từ Cổ chí Kim đều quý trọng. Trong
dân gian Việt Nam có nhiều ca dao, ngạn ngữ nói đến uy lực vô
hình của Vàng và Bạc, chẳng hạn: “Chữ
trinh đáng giá ngàn vàng”, “Lá ngọc cành vàng”, “Tham
vàng bỏ ngãi”, “Nén bạc đâm toạc tờ giấy”... Một
bức ảnh mẫu chuyên hiệu Mật Mã được phóng lớn, treo tại giữa các
văn phòng làm việc của Mật Mã viên, để nhắc nhở mọi người luôn
nhớ tới trách nhiệm quan trọng mình đang đảm nhiệm. Không biết kể
từ giữa năm 1957 trở về sau, Tôi không còn ở trong Ngành Mật Mã,
chuyên hiệu riêng của ngành Mật Mã có còn được tiếp tục công nhận
nữa không?
Đến
đây, trước khi tiếp tục câu truyện về Truyền Tin và Mật Mã, Tôi
nghĩ cũng nên lược qua về những sự kiện và lý do nào đã khiến cho
Pháp, phải sốt sắng dồn mọi nỗ lực xây dựng Quân đội riêng cho
các Quốc gia Liên kết Đông Dương, trong đó có Việt Nam của chúng
ta. Những ghi nhận và suy luận sẽ trình bày dựa theo Chủ quan
hiểu biết của Tôi, có thể phiến diện và thiển cận nếu đem so sánh
với nhận định của các bậc cao minh. Vậy xin các Bạn vui lòng miễn
chấp và chỉ giáo thêm cho, Tôi cám ơn vô cùng.
Giữa năm 1949, Trung Cộng thắng thế ở
Trung Hoa Lục địa, do đó tình hình chiến trận tại Đông Dương giữa
Pháp và Việt Minh, đặc biệt là tại Bắc Việt trở nên rất sôi động.
Tháng 5 năm 1949, Chính phủ Pháp phải cử Tướng Revers sang thanh
sát tình hình, và nghiên cứu trình một Kế hoạch đối phó. Sau khi
công cán về nước, Tướng Revers đề nghị rút bỏ Cao Bằng (Tỉnh
cực Bắc ở biên giới Việt Nam-Trung Hoa) để:
1. Gom quân phòng thủ Quốc lộ 4 từ Lạng
Sơn, Đồng Đăng, Đình Lập, đến Tiên Yên;
2. Củng cố bình định vùng đồng bằng Bắc
Việt;
3. Lấn
chiếm cô lập khu Việt Bắc của Chủ lực Việt Minh gồm các tỉnh Thái
Nguyên, Lào Kay, Tuyên Quang, và Yên Bái.
Chủ định thâm sâu của Pháp là tái lập
Thuộc địa Đông Dương dưới hình thức mới, nên không được sự hỗ trợ
của Hoa Kỳ. Do đó Pháp e ngại Trung Cộng (chủ nhân ông mới
của Trung Hoa Lục địa) xua quân can thiệp hỗ trợ cho Việt
Minh cộng sản, nên phải thun về thủ vùng đồng bằng để bảo toàn
lực lượng, và tìm phương kế mới.
Kế hoạch của Tướng Revers đề nghị, được
Chính phủ Pháp chấp thuận cho thi hành vào cuối năm 1949. Nhưng
vì tại Đông Dương lúc đó, đang có sự bất đồng ý kiến giữa Tướng
Carpentier (Tổng Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp) tại Sài
Gòn và Tướng Alexandri (Tư lệnh đoàn quân tại Bắc Việt),
nên mãi tới cuối tháng 8 năm 1950 mới thực hiện, mặc dù qua tin
tức tình báo, Chính phủ Pháp, Cao ủy Đông Dương Pignon, và Tướng
Carpentier, đều biết rằng Kế hoạch Revers đã bị tiết lộ.
Phía Việt Minh, không biết bằng cách
nào đã dò biết được Kế hoạch Revers, nên Tướng Võ Nguyên Giáp,
với sự trợ giúp trang bị vũ khí đạn dược, huấn luyện quân sĩ, và
cố vấn hành quân của Trung Cộng, đã ráo riết chuẩn bị mở màn thử
thách khả năng chiến đấu của bộ đội Việt Minh.
Ngày 18-9-1950, các đơn vị Việt Minh
được sự yểm trợ của Pháo binh và súng cao xạ bắn máy bay, đã khởi
tấn công và chiếm được đồn Đông Khê, rồi bao vây cô lập Cao Bằng.
Sau đó thừa thế tiếp tục khai triển mặt trận Cao Bằng-Lạng Sơn,
kéo dài cho tới ngày 7-10-1950. Pháp thất bại nặng nề, phải rút
bỏ Cao Bằng, Thất Khê, Na Chầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, và Lao Kay.
Trận đánh này đã làm tăng uy thế cho
Việt Minh, rúng động tinh thần quân sĩ Pháp tại Đông Dương, cũng
như các giới Chính trị Pháp và Hoa Kỳ. Dân chúng Pháp bắt đầu gọi
cuộc chiến tại Đông Dương là “Chiến tranh sa lầy”, các
Đảng phái chính trị Pháp cấu kết với nhau làm áp lực chính trị,
khiến các Chính phủ Pháp thay phiên nhau xụp đổ liên tục, làm cho
tình hình tại cả bên chính quốc lẫn tại Đông Dương ngày một rối
rắm thêm. Để gỡ rối, Chính phủ Pháp cố gắng tìm một tướng làm
Tổng Tư lệnh mới thay thế Tướng Carpentier tại Đông Dương. Các
Tướng Juin và Tướng Koenig được tham khảo, nhưng 2 ông này từ
khước, sau khi đòi hỏi nhiều điều kiện quá đáng Chính phủ Pháp
không thể thoả mãn được. Sau cùng, Tướng Jean Marie Gabriel De
Lattre De Tassigny được lựa chọn. Ông này nhận lời ngay với một
điều kiện duy nhất là phải cho ông ta rộng quyền chỉ huy.
Ngày 7-10-1950, Đại tướng De Lattre
được đề cử làm Cao ủy kiêm Tổng Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp tại
Đông Dương. Đúng 10 ngày sau, Tướng De Lattre lên đường nhậm
chức, mang theo cả một Bộ Tham Mưu hùng hậu để làm trụ cột giúp
ông ta hoàn thành sứ mạng lớn lao đã nhận lãnh. Trong suốt 9
tháng trời ròng rã tiếp theo, ông ta đã chứng tỏ tài lãnh đạo chỉ
huy và hành quân táo bạo của mình, qua các trận Vĩnh Yên giữa
tháng 1-1951 (chết mất người con trai duy nhất là Trung úy
Bernard), trận Mạo Khê cuối tháng 3-1951, trận “Bờ Sông Đáy”
cuối tháng 5-1951, và đặc biệt là kế hoạch xây dựng “Phòng
tuyến Bê tông De Lattre” để bảo vệ đồng bằng Bắc Việt trong
Vùng Tam Giác: Moncay, Việt Trì, Ninh Bình, và “Phòng Lũy Hải
Phòng”. Tướng De Lattre đã làm cho tinh thần Quân Sĩ được
phục hồi, đồng thời tạo được sự tin tưởng của Chính phủ Pháp và
các Đồng minh Hoa Kỳ, Anh Cát Lợi...
Giữa tháng 9-1951, Tướng De Lattre được
Chính phủ Pháp cho đi công cán bên Hoa Kỳ xin viện trợ. Có lẽ nhờ
trận Việt Minh tấn công quân Pháp tại vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, có
sự hiện của quân Trung Cộng trong hàng ngũ quân Việt Minh, y như
trận Bắc Hàn tấn công Nam Hàn mà Mỹ và Đồng minh phải can thiệp,
cũng có sự hiện diện của quân Trung Cộng trong hàng ngũ quân Bắc
Hàn, nên Hoa Kỳ thay đổi thái độ đối với Pháp. Nhờ thế, Tướng De
Lattre đã xin được Mỹ viện trợ cho Pháp tiếp tục cuộc chiến tại
Đông Dương, dưới nhiệm vụ mới là “Ngăn chặn sự bành trướng
của Quốc tế cộng sản ở vùng Đông Nam Á Châu”, mà Việt Minh
là tay sai tiền phương của Liên Sô và Trung Cộng. Viện trợ chỉ
được chấp thuận với một điều kiện tiên quyết kèm theo là: “Pháp
phải thành thực trao trả quyền Độc Lập, Tự do, cho các Chính phủ
Quốc gia không cộng sản tại Đông Dương, và xúc tiến nhanh chóng
việc thành lập, huấn luyện, và trang bị quân sự cho các Quốc gia
này có đủ khả năng tự vệ, tiêu diệt cộng sản địa phương, bảo đảm
an ninh cho dân chúng phát triển kinh tế. Đặc biệt phải để cho
các Quốc gia này có quyền Tự do Giao thương trực tiếp với tất cả
các nước Tư bản, ngoài khối Liên Hiệp Pháp, không phải qua trung
gian của Pháp.”
Ngày 28-9-1951, hai ngày sau chuyến
công du của Tướng De Lattre chấm dứt, chiếc tầu biển Eartham Bay
của Hoa Kỳ đã từ Manilla chở tới Sài Gòn, rất nhiều vũ khí nhẹ và
đạn dược đủ loại. Đồng thời, 30 Phóng pháo cơ B-26 do phi công
Hoa Kỳ lái từ Phi Luật Tân qua, đáp xuống phi trường Cát Bi (Hải
Phòng), trao cho Pháp trong âm thầm không kèn không trống. Mười
hai (12) chiếc trong số phi cơ này đã được Hoa Kỳ biến cải thành
loại máy bay soi sáng (Luciole), dùng để thả hỏa châu
soi sáng chiến trường ban đêm, trong thời gian liên tục 1 tiếng
đồng hồ cho mỗi phi cơ.
Hy vọng những sự kiện vừa kể trên, đã
giúp cho những ai ít quan tâm đến thời cuộc đất nước Việt Nam
trước đây, không còn thắc mắc tại sao mãi đến cuối năm 1951 Quốc
hội Pháp mới chấp thuận việc thành lập Quân đội Quốc gia Việt
Nam. Tiếp theo đó, ông Trần văn Hữu Thủ tướng Chính phủ Việt Nam
mới công bố việc thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam (QĐQGVN)
chống cộng sản, ban hành Lệnh Tổng Động Viên, thành lập Bộ Tổng
tham mưu QĐQGVN, các Trường Võ bị Địa phương (Ecole Militaire
Régionale) đào tạo các Chuẩn úy Trung đội trưởng, Trường Sĩ
quan Trừ bị Nam Định và Thủ Đức, để đào tạo thiếu úy trừ bị cung
cấp cho Quân đội, ngoài số thiếu úy hiện dịch do Trường Võ Bị
Liên Quân Đà Lạt đang đào tạo. (Trường VBLQ Đà Lạt được thành
lập từ năm 1948). Các Trung tâm Huấn luyện Tân binh và Hạ sĩ
quan cũng lần lượt được thành lập, và hoạt động náo nhiệt để
thành lập các đơn vị cấp Tiểu đoàn, Trung đoàn Bộ Binh và các đơn
vị Binh chủng, Nha, Sở chuyên môn.
Phía Quân đội Viễn chinh Pháp, ồ ạt xây
dựng các doanh trại và cơ sở rất lớn rộng cho các Cơ quan Chỉ huy
và Đơn vị Hành chánh Tiếp vận Trung ương, tại các vùng Tân Sơn
Nhứt, Gò Vấp, Bình Lợi, Cát Lái (Gia Định), Khánh Hội (Sài
Gòn), và Biên Hòa... Theo dự tính của Tướng De Lattre, các
Cơ sở này phải đủ tầm vóc có thể biến thành các Cơ sở Chỉ huy và
Tiếp vận cho các Lực lượng Liên Hiệp Quốc, đến điều khiển chiến
tranh ngăn cản cộng sản Quốc tế xâm lăng các nước thuộc Đông Nam
Á Châu, sử dụng khi cần.
Tháng 12-1951, Tướng De Lattre qua đời,
Tướng Raoul Salan được cử thay thế làm Tổng Tư lệnh, để tiếp tục
giải quyết cuộc “Chiến tranh sa lầy” không lối thoát của
Pháp tại Đông Dương. Nội tình nước Pháp tiếp tục lục đục, chính
phủ Queuille bị đổ vào tháng 2-1952. Tại Bắc Việt, Tướng Salan
rút bỏ Hòa Bình vào cuối tháng 3-1952. Thủ tướng mới của Chính
phủ Pháp là Pinay, vẫn giữ chính sách cũ đối với Đông Dương. Ông
Letourneau được bổ nhiệm làm Bộ trưởng các Quốc gia Liên kết,
kiêm nhiệm chức Cao Ủy Đông Dương kể từ tháng 4-1952, và Tướng
Salan được chỉ định làm Tổng Tư lệnh Quân đội Viễn chinh Pháp tại
Đông Dương. Bộ trưởng Letourneau phải thường xuyên hoạt động tại
chính quốc, làm gì có thời giờ chạy qua chạy lại giữa Pháp và
Đông Dương, nên Tướng Salan vô hình chung có được toàn quyền
quyết định y như cố Đại tướng De Lattre thuở còn sinh thời.
Sở dĩ Tướng Salan được lựa trám chỗ
trống của De Lattre, vì ông ta đã từng ở Việt Nam lâu năm, tham
dự nhiều trận chiến với Việt Minh từ hồi 1947, đã cộng tác mật
thiết với Tướng De Lattre trước khi ông này qua đời, nên thông
thạo lối đánh của Việt Minh. Ngoài ra, ông ta còn có được cái trí
khôn của người Á Đông vì lấy vợ người Việt Nam, hút thuốc phiện,
theo vợ đi lễ các Đền, Chùa, am tường các phong tục tập quán của
các Sắc dân Đông Dương. Chiến công của Tướng Salan từ sau ngày
thay thế De Lattre, chỉ là cuộc hành quân rút lui khỏi Hòa Bình
trong an toàn không bị sứt mẻ, và xây dựng “Pháo lũy NaSản”
giữ được mặt trận vùng Bắc Thái (phía Tây, Bắc Việt)
vững vàng trong suốt 3 tháng (10, 11, và 12-1952). Còn
tình hình toàn diện Đông Dương chẳng có gì khả quan hơn.
Qua tháng 5-1953, Tướng Navarre được cử
thay thế Tướng Salan làm Tổng Tư lệnh Quân Liên Hiệp Pháp tại
Đông Dương. Ông này xào xáo lại các kế hoạch của các Tướng tiền
nhiệm, rút tỉa các kinh nghiệm, để hệ thống hóa thành kế hoạch
chiến thuật mới của mình là:
1. Phòng thủ miền Bắc;
2. Bình định miền Nam;
3. Lập một Binh đoàn Chủ lực lưu động,
để có thể đánh ở bất cứ nơi nào có sự tập trung quân của Địch (Việt
Minh).
Kế
hoạch được mở màn bằng cuộc hành quân “Castor” vào cuối
tháng 11-1953, để hỗ trợ việc xây dựng “Tập đoàn Cứ điểm Điện
Biên Phủ”, với mục đích:
a. Buộc Việt Minh phải chấp nhận một
trận công kiên chiến, mà Pháp tin rằng họ sẽ thắng vì có ưu thế
hơn về Không quân và Tiếp liệu.
b. Cầm chân Chủ lực quân Việt Minh tại
miền Bắc để chúng không thể tiếp sức cho miền Nam, nhờ thế Pháp
sẽ bình định Liên Khu V gồm các Tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình
Định và Phú Yên, tại miền trung tâm của Trung Việt Nam một cách
dễ dàng.
c.
Dùng Điện Biên Phủ làm “Căn cứ Bàn đạp” đánh vào Hậu
tuyến Việt Bắc, nếu Việt Minh di quân khỏi nơi này để tấn công
vùng đồng bằng sông Hồng.
Tiếc thay, Bộ tham mưu của Tướng
Navarre ước tính sai lệch quá nhiều. Việt Minh đã tập trung được
quanh Điện Biên Phủ, một lực lượng nhiều tới 100,000 quân. Với sự
yểm trợ của Trung Cộng, Việt Minh còn kéo được cả súng Đại pháo
qua đỉnh núi, đào hầm bố trí ngay trên sườn núi nhìn thẳng xuống
thung lũng Điện Biên Phủ. Thế mà Pháp cho rằng, Việt Minh chỉ có
thể tập trung quanh Điện Biên Phủ khoảng 20,000 quân là tối đa,
và lòng chảo Điện Biên Phủ không thể bị uy hiếp bằng Pháo binh,
vì các Đại pháo chỉ có thể bố trí phía bên kia các dãy núi quanh
lòng chảo, xa quá tầm tác xạ của súng.
Cuối tháng 11-1953, tình hình chiến sự
bỗng chuyển biến đột ngột. Bốn (4) Sư đoàn Việt Minh kéo lên áp
lực miền Bắc Thái (Tây Bắc, Bắc Việt). Qua tháng
12-1953, Tướng Navarre phải cho lệnh rút quân bỏ Lai Châu và toàn
vùng Bắc Thái, để tập trung về Điện Biên Phủ, đồng thời mở nhiều
cuộc hành quân ở vùng thượng lưu sông Mê-kông để củng cố phòng
thủ miền Bắc Lào (nước Ai Lao).
Đầu năm 1954, tình hình lắng dịu tại
khắp các chiến trường phụ trên toàn cõi Đông Dương. Riêng tại
Điện Biên Phủ tình hình coi như đang có nhiều điều thuận lợi cho
quân Pháp. Nhưng, vào trung tuần tháng 2-1954, Hội nghị Bá Linh (Berlin,
Đức) được mở ra để thảo luận về việc thành lập một Hội nghị
chính thức tại Genève, bàn thảo tìm giải pháp cho vấn đề đình
chiến tại Đông Dương, đã khiến tình hình chiến sự trở nên bất lợi
cho quân Pháp, và làm cho Tướng Navarre bị ngỡ ngàng.
Đầu tháng 3-1954, Việt Minh rút Sư đoàn
308 đang uy hiếp Luang-Prabang (Lào), đem về tăng cường
bao vây Điện Biên Phủ. Đến ngày 13-3-1954, Việt Minh mở đầu các
cuộc tấn công trên khắp các mặt trận Đông Dương (kể cả Điện
Biên Phủ), nhằm mục đích phô trương khả năng quân sự mới để
áp đảo tinh thần quân Liên Hiệp Pháp và các Quốc gia Liên kết
Đông Dương, đồng thời tạo điều kiện thượng phong tại Hội nghị
Genève. Quân Pháp bị cầm chân tại tất cả mọi nơi, nên không còn
quân số tiếp ứng cho nhau, nhất là cho “Tập đoàn Cứ điểm Điện
Biên Phủ”.
Đến cuối tháng 4-1954, Bộ Tư lệnh Pháp
cho mở cuộc hành quân “Atlante” đánh vào Liên Khu V của
Việt Minh tại trung Việt, nhưng chẳng đem lại kết quả gì, nếu
không muốn nói là uổng công vô ích. Ngày 7 tháng 5-1954, sau 55
ngày đêm tự lực cầm cự, “Tập đoàn Cứ điểm Điện Biên Phủ”
đã phải xin đầu hàng vô điều kiện. Dư luận Pháp rất hoang mang,
chia rẽ, tranh cãi trầm trọng, khiến Chính phủ Pháp phải đưa
Tướng Paul Ely Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Pháp sang Đông Dương
thay thế Tướng Navarre, với quyền hạn rộng rãi là Cao Ủy kiêm
Tổng Tư lệnh quân đội viễn chinh tại Đông Dương, như đã dành cho
Tướng De Lattre hồi trước. Nhưng, Tướng Ely cũng chẳng làm được
gì hơn, là tiếp tục nhận lãnh những thất bại chua cay, trong âm
mưu tái lập thuộc địa lỗi thời của Pháp sau Thế chiến II.
Mấy tuần lễ sau vụ Pháp thất trận Điện
Biên Phủ, chiến cuộc Đông Dương được giải quyết ngã ngũ, chấm dứt
bằng giải pháp chính trị tại Hội nghị Genève với một Hiệp Định
đình chiến, ký kết vào lúc 0100 giờ ngày 21 tháng 7 năm 1954 tại
Genève giữa Pháp và Việt Minh. Đại diện Hoa Kỳ và Đại diện Chính
phủ Quốc gia Việt Nam từ khước không ký vào bản Hiệp định. Theo
Hiệp định này, nước Việt Nam bị phân làm 2 phần Nam, Bắc, tại Vĩ
tuyến 17, và dòng sông Bến Hải được dùng làm ranh giới giữa 2
miền. Từ giữa lòng con sông trở lên phía Bắc thuộc quyền kiểm
soát cai trị của cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh cầm đầu. Phần
từ giữa lòng con sông trở xuống phía Nam thuộc trách nhiệm của
Chính quyền Pháp và Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Quốc trưởng
Bảo Đại lãnh đạo.
Thi hành Hiệp định Genève, Bộ Tư lệnh
quân Viễn chinh Pháp của Tướng Ely phối hợp cùng Chính phủ Quốc
gia Việt Nam do ông Ngô Đình Diệm làm thủ tướng, tổ chức một cuộc
di tản vĩ đại ngoạn mục trong vòng 300 ngày, cho hơn một triệu
Dân Quân Cán chính không thích sống dưới Chế độ cộng sản rời miền
Bắc vào Nam tái lập nghiệp, và hàng chục ngàn Cán Binh cộng sản
từ miền Nam buộc phải tập kết ra Bắc. Thời hạn triệt thoái quân
Pháp và quân Quốc gia ra khỏi Bắc Việt theo lối cuốn chiếu quy
định như sau: phải ra hết khỏi Hà Nội trong thời hạn 80 ngày kể
từ ngày ký Hiệp Định Genève, do đó ngày chót được ấn định cho Hà
Nội là ngày 11-10-1954; 100 ngày cho Hải Dương do đó ngày chót
được ấn định là ngày 1-11-1954; và 300 ngày cho Hải Phòng do đó
ngày chót được ấn định là ngày 19-5-1955.
Đến ngày 28-4-1956, Bộ Tư lệnh quân
Pháp tại Đông Dương giải tán, tất cả các Cơ sở và Căn cứ trước
đây do Pháp xây dựng chiếm đóng, đều trao hết cho Chính phủ và
Quân đội Quốc gia Việt Nam thừa hưởng. Dinh Norodom tọa lạc tại
trung tâm Thủ đô Sài Gòn trước kia dành cho Cao Ủy Pháp tại Đông
Dương, nay đổi tên thành Dinh Độc Lập dành cho Quốc trưởng Bảo
Đại. Camp Chanson to lớn bên cạnh phi trường Tân Sơn Nhất trước
kia là nơi làm việc của Bộ Tư lệnh quân viễn chinh pháp tại Đông
Dương, nay thuộc quyền sử dụng của Bộ Tổng Tham Mưu (Bộ TTM) Quân
đội Quốc gia Việt Nam (QĐQGVN) và đổi tên là Trại Trần Hưng Đạo.
Hospital Rocques rộng lớn của đoàn quân Viễn chinh Pháp xây dựng
tại Gò Vấp sát bên Bộ TTM và phi trường Tân Sơn Nhất, nay thuộc
quyền QĐQGVN và đổi tên là Tổng Y Viện Cộng Hòa. (Không biết
cái tên Roques Tôi nhớ có đúng không, bạn nào biết là sai xin vui
lòng chỉnh giùm, Tôi vô cùng cám ơn). Còn rất nhiều Doanh
trại, Căn cứ, và Cơ sở khác tại Sài Gòn và tại các Tỉnh trên toàn
lãnh thổ miền Nam Vĩ tuyến 17, được Pháp trao lại cho Chính quyền
Quốc gia miền Nam Việt Nam, nhưng Tôi thấy không cần liệt kê hết
ra đây.
Vào
tháng 8-1956, Chính phủ Pháp loan báo việc đề cử ông Henri
Hoppenot làm Cao Ủy Đông Dương. Nhưng, Thủ tướng Ngô Đình Diệm
của Chính quyền Quốc gia Việt Nam, đã dựa theo các điều khoản của
Hiệp định Genève không chấp nhận, nên Chính phủ Pháp phải đổi lại
chức vụ là Đại sứ Pháp tại Việt Nam. Sau khi quân Pháp rút ra
khỏi miền Nam Việt Nam, ảnh hưởng Pháp tan biến dần để thay thế
bởi ảnh hưởng Hoa Kỳ. Bởi vì, ngay từ khi mở Hội nghị Bá Linh bàn
thảo việc thành lập Hội nghị Genève giải quyết vấn đề chiến tranh
Đông Dương, Hoa Kỳ đã ngầm vận động thúc đẩy Quốc trưởng Bảo Đại
mời ông Ngô Đình Diệm (đang ở Mỹ) về làm thủ tướng, thay
thế Thủ tướng Bửu Lộc được coi là thân Pháp.
Ngày 7-7-1954 ông Ngô Đình Diệm về tới
phi trường Tân Sơn Nhất Sài Gòn vào một buổi trưa trời nắng đẹp,
được sự tiếp đón theo nghi thức thường lệ của Chính phủ tại phòng
Khách Danh Dự của phi trường, gồm một số nhân viên đại diện các
Bộ trong Chính phủ Bửu Lộc, một số sĩ quan cấp tá Việt và Pháp
thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ TTM/QĐQGVN (trong đó có Tôi), vài thân
quyến dòng họ Ngô-Đình (có vợ chồng ông Ngô Đình Nhu),
cùng mấy Nhân sĩ ở ngoài Huế vào. Quốc trưởng Bảo Đại loan báo
việc chỉ định ông Ngô Đình Diệm làm thủ tướng thay thế Thủ tướng
Bửu Lộc trở về Pháp.
Ít ngày sau, thành lập và trình diện
Chính phủ xong, Thủ tướng Diệm bắt đầu gặp nhiều khó khăn về mọi
mặt đối nội cũng như đối ngoại. Chẳng hạn:
1. Đại diện Chính phủ Quốc gia Việt Nam
không ký trên Hiệp định Genève, nhưng vẫn phải chấp nhận và cộng
tác với Bộ Tư lệnh quân đội Viễn chinh Pháp tại Đông Dương thi
hành, đặc biệt phải chấp nhận cho các cơ sở kiểm soát đình chiến
do Ấn Độ (Trung Lập) làm Chủ tịch, với các thành viên Ba
Lan (cộng sản) và Canada (thuộc Thế giới Tự do Tư
bản) đặt cơ sở hoạt động tại nhiều nơi trên lãnh thổ miền
Nam, ngay cả tại giữa Thủ Đô Sài Gòn. Trong các cơ sở kiểm soát
đình chiến này có cả sự hiện diện của những người đại diện của
Việt Cộng.
2.
Phải vận động nhờ Chính quyền Pháp tại Đông Dương hỗ trợ phương
tiện để di tản cả triệu người (Dân, Quân, Cán chính)
không thích sống dưới sự cai trị của Chính quyền Việt Cộng tại
miền Bắc Vĩ tuyến 17, di cư vào miền Nam.
3. Tổ chức tiếp đón cứu trợ ban đầu,
tái định cư, và tạo công ăn việc làm, ổn định đời sống cho những
người này. Vì họ đã phải bỏ tất cả của cải đất đai hương hỏa của
Tổ tiên Ông Cha tại miền Bắc, ra đi vào miền Nam với 2 bàn tay
trắng.
4. Hợp
nhất các Lực lượng Võ trang Giáo phái vào hàng ngũ Quân đội Quốc
gia Việt Nam, để tiêu hủy nạn “phe phái hùng cứ địa phương” do
Pháp tạo dựng lên trước đây, với mục đích Thực dân thâm độc “chia
để trị”.
5.
Điều chỉnh cải tiến hệ thống hành chánh, để chấm dứt tệ nạn “Xứ
Quân, Vua một cõi” thao túng áp bức quần chúng bằng quy luật
“Phép Vua thua Lệ Làng”, hậu quả dư âm Quan lại của thời Pháp còn
vương rớt lại, tại các tỉnh và ngay cả tại các Quận hành chánh
giữa Sài Gòn Chợ Lớn.
6. Loại bỏ các tổ chức reo rắc tệ đoan
xã hội (khu bài bạc, các ổ chứa gái mãi dâm công khai hoạt
động có nộp thuế), do các tay Chính trị hoạt đầu, Doanh gia
bất chính, lợi dụng nước đục thả câu, với sự bảo trợ khích lệ của
Thực dân Pháp đã tổ chức kinh doanh từ nhiều năm qua.
7. Đặc biệt là phải đề ra phong trào
chống Cộng, với một Chính sách dựa theo Chủ thuyết Nhân bản có
thể bẻ gẫy được Chủ thuyết cộng sản, để làm kim chỉ Nam hướng dẫn
quần chúng hăng say tham gia công cuộc tố cáo và loại trừ các
hoạt động của cán bộ cộng sản nằm vùng tại miền Nam. Để dân được
sống an toàn tại khắp mọi nơi, an tâm tham gia xây dựng phát
triển Kinh tế phồn vinh, và hưởng cuộc sống ấm no hạnh phúc trong
thanh bình.
Vì
thế mới có Chủ thuyết NHÂN VỊ, và PHONG TRÀO CÁCH MẠNG QUỐC GIA
ra đời. Mọi người sống tại miền Nam Việt Nam đều biết và cũng đã
từng phải tham gia, tùy theo vị trí hoàn cảnh riêng của mỗi cá
nhân và gia đình. Phong trào này nhằm mục đích đánh bóng lãnh tụ
Ngô Đình Diệm, chỉ trích tinh thần bạc nhược của Quốc trưởng Bảo
Đại trong việc điều hành Quốc gia, để tiến tới việc tổ chức cuộc
“Trưng cầu Dân ý truất phế Bảo Đại” vào ngày 23 tháng 10 năm
1955.
Sau đây
là hình ảnh kỷ niệm anh em Hội Ái hữu Truyền Tin tham gia hoạt
động xã hội tại quận Orange, Nam California, Hoa Kỳ. Các Bồ Câu
già và anh chị em gia đình Hội Ái hữu Truyền Tin Nam California,
tham gia cuộc “ĐI BỘ CHO QUYỀN TỴ NẠN” gây qũy giúp đồng bào Việt
Nam tại các trại tỵ nạn Hồng Kông, do nhóm luật sư trẻ thuộc tổ
chức LAVAS tổ chức tại Mile Square Park, thành phố Fountain
Valley, quận Orange, Nam California, Liên Bang Hoa Kỳ, ngày
19-11-1994.
CHƯƠNG 5
ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VỚI NHỮNG KHÓ KHĂN
TRONG KẾ HOẠCH CẢI TIẾN XÃ HỘI TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM SAU HIỆP
ĐỊNH GENÈVE 21-7-1954
Trước
khi Hiệp định Genève tháng 7 năm 1954 được ký kết, Quốc trưởng
Bảo Đại đã rời Đà Lạt (Việt Nam) sang Pháp cư ngụ cùng vợ và các
con tại biệt thự riêng ở vùng Cannes miền Nam nước Pháp, gọi là
để tiện giao tiếp vận động Thế giới Tự do Tư bản yểm trợ cho Việt
Nam tái thiết sau chiến tranh. Thủ tướng Ngô Đình Diệm được ủy
thác toàn quyền giải quyết mọi vấn đề nội trị, và đương đầu với
tình hình chính trị mới của Quốc gia đối với Pháp và Hoa Kỳ.
Với thành tâm thiện chí, kiên cường
nhẫn nại, và tinh thần yêu nước quyết xả thân vì Quốc gia Dân tộc
Việt Nam, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã can đảm giải quyết lần hồi
tất cả mọi khó khăn, để tạo cho miền Nam Việt Nam hậu chiến tranh
có được một bộ mặt mới, một vị trí quan trọng trong Thế giới đang
khởi đầu một cuộc tranh chấp mới: “Chiến tranh Lạnh” giữa hai Thế
lực chính trị quốc tế, Tư bản do Hoa Kỳ đứng đầu và Cộng sản do
Liên Xô Nga lãnh đạo.
Việc cải tổ hệ thống Hành chánh từ
Trung ương xuống Địa phương, và thay đổi nhân sự không gặp nhiều
khó khăn. Nhưng, việc bài trừ các tổ chức gieo rắc tệ đoan xã
hội, các con buôn bất lương thao túng nền kinh tế quốc gia, và
đặc biệt việc giải tán các Lực lượng võ trang Giáo phái để sát
nhập vào Quân đội Quốc gia, đã gặp nhiều rối rắm. Phải mất cả năm
trời thương thuyết ôn Hòa vẫn không xong. Sau cùng phải sử dụng
biện pháp bạo lực, dùng Quân đội đánh dẹp mới giải quyết được êm
xuôi. Các ông Dương văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh,
Trần văn Đôn, Đỗ Cao Trí, và một số người khác đã thi hành đắc
lực các kế hoạch hành quân dẹp yên Bình Xuyên tại Sài Gòn Chợ
Lớn, vùng Rừng sát, và Hòa Hảo tại miền Tây Nam phần.
Riêng phần Quốc trưởng Bảo Đại, chắc
cũng đã tiên đoán được việc gì sẽ xảy ra cho tương lai tước vị
Quốc trưởng của mình, nên đã tinh khôn lánh sang Pháp chờ coi
tình hình chính trị Quốc gia chuyển biến ra sao, và điều hành đất
nước bằng điện văn và văn bản trao đổi qua hệ thống đặc sứ liên
lạc viên chớ không ở trong nước để đích thân giải quyết tức thời
tại chỗ.
Sau
thời gian 300 ngày tiếp theo việc ký kết Hiệp định đình chiến tại
Genève lúc 0100 giờ ngày 21-7-1954, việc thi hành Hiệp định được
cả 2 bên Pháp và Việt Minh hoàn tất suôn sẻ. Hơn 1 triệu người (Quân,
Dân, Chính) đang cư trú tại Bắc Việt không muốn sống dưới
quyền cai trị của cộng sản, được di cư vào miền Nam. Và khoảng
hơn vài chục ngàn quân Việt Cộng đang hoạt động tại miền Nam phải
tập trung di chuyển tập kết ra Bắc. Thủ tướng Diệm mới chính thức
khởi sự yêu cầu Pháp chuyển giao các quyền hành về quân sự, từ
trước tới nay vẫn do Pháp nắm giữ trên toàn cõi miền Nam Việt
Nam. Nhưng, Pháp trì hoãn bằng cách chỉ chuyển giao lần lần theo
kế hoạch riêng của họ, với âm mưu mua thời gian để có cơ hội xúi
giục tạo những chống đối gây lủng củng nội bộ Việt Nam, nhằm mục
đích loại ông Diệm ra khỏi chức vị thủ tướng.
Nhưng ông Diệm nhờ có hậu thuẫn mạnh mẽ
của Hoa Kỳ, và sự yểm trợ đắc lực của “Đảng Cần lao Nhân vị” và
một số Chính khách Nhân sĩ miền Trung tạo dựng được “Phong trào
Cách mạng Quốc gia”, thâm nhập vào Quân đội, vào các Cơ quan Hành
chánh, vào quảng đại quần chúng để hậu thuẫn, nên không những
chức vị thủ tướng không bị lung lay mà còn được củng cố mạnh mẽ
hơn bao giờ hết.
Ngoài viện trợ của Hoa Kỳ, hậu thuẫn
của Đảng Cần lao và Phong trào Cách Mạng Quốc gia, Thủ tướng Diệm
còn cần phải nắm được toàn quyền chỉ huy Quân đội đang do Quốc
trưởng nắm giữ, thì mới có đầy đủ sức mạnh, thực hiện ước vọng to
lớn là vận động toàn dân truất phế Quốc trưởng Bảo Đại, để xây
dựng một nước Việt Nam mới theo một Chính thể Dân chủ mô thức Hoa
Kỳ tại miền Nam Việt Nam, dưới sự lèo lái của chính mình với chức
vị Tổng thống, vào ngày 23 tháng 10 năm 1956.
Do đó, Thủ tướng Diệm bắt đầu bằng
quyết định loại Trung tướng Nguyễn văn Hinh (người của Quốc
trưởng Bảo Đại và Pháp đặt để) đang làm Tổng Tham mưu trưởng
QĐQGVN, và thay đổi một số cấp Chỉ huy Đại đơn vị tác chiến, Quân
khu, Tiểu khu, và Chỉ huy trưởng các đơn vị chuyên môn tại Sài
Gòn bằng những người được “Đảng Cần lao Nhân vị” tin tưởng tiến
cử. Việc làm này đã gây nhiều bất mãn trong Quân đội, và là tiền
đề cho hậu quả làm băng hoại kỷ cương quân đội bằng chính trị, và
làm suy giảm tinh thần phục vụ của nhiều quân nhân có tâm huyết
tình nguyện gia nhập Quân đội từ bấy lâu nay, để bảo vệ Quốc gia
Dân tộc trước nạn xâm lăng của cộng sản. Binh chủng Truyền Tin là
một thành phần của Quân đội, nên cũng không thoát khỏi thảm trạng
này trong một thời gian dài.
Trong lúc đó, tại Hoa Kỳ, từ ngày 27
đến 29-9-1954, Ngoại trưởng Mỹ và Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại
họp bàn, thảo luận về viện trợ và huấn luyện quân sự cho các Quốc
gia Đông Dương, đã đi đến kết luận là kể từ đầu năm 1955, Hoa Kỳ
sẽ viện trợ thẳng cho các Quốc gia Đông Dương, không qua trung
gian của Pháp như trước nữa. Phái bộ M.A.A.G. (Military
Assistance Advisory Group) ra đời tại Đông Dương từ ngày
23-12-1950, được đổi tên thành Phái bộ T.R.I.M. (Training
Relation Instructiom Mission) kể từ 20-1-1955.
Ngày 9-10-1954, Thủ tướng Diệm ký Nghị
định cử Trung tướng Nguyễn văn Hinh đương kim Tổng Tham mưu
trưởng QĐQGVN sang Pháp công cán trong thời gian 6 tháng. Tướng
Hinh biết là mình bị hất cẳng, nên đã viện cớ là chức vụ của ông
ấy do Quốc trưởng bổ nhiệm, hiện nay tình hình đất nước đang
nghiêm trọng, ông ta không thể vắng mặt để Quân đội không ai chỉ
huy, nên không thể thi hành lệnh của thủ tướng. Rồi dựa vào hậu
thuẫn của Pháp, Tướng Hinh thường xuyên liên lạc thẳng với Quốc
trưởng Bảo Đại xin can thiệp (lúc đó Tôi là Thiếu tá Chánh Sở Mật
Mã của Bộ TTM, được Tướng Hinh chỉ thị phải đích thân đặc trách
việc Mã hóa và Giải Mã những điện tín “Tối mật” trao đổi
giữa Tướng Tổng tham mưu trưởng Nguyễn văn Hinh và Quốc trưởng
Bảo Đại). Đồng thời, Tướng Hinh giao cho Trung tá Trần Đình Lan (Trưởng
Phòng 6, Cơ quan phản gián điệp của Bộ Tổng Tham Mưu) tập
họp một số sĩ quan Cao cấp thân tín tại Bộ TTM và các Đơn vị
Trung ương, lập một nhóm chống đối, dùng đài phát thanh Quân đội
phản kích lại Thủ tướng Diệm. Nhưng Tướng Hinh đã không dám mạo
hiểm làm đảo chánh lật đổ Thủ tướng Diệm, vì không được sự ủng hộ
của đại diện Hoa Kỳ đang có mặt tại Sài Gòn. Đồng thời Tướng Hinh
nhận được lời cảnh cáo là, nếu cứ làm liều thì Quân đội Quốc gia
Việt Nam sẽ không nhận được viện trợ trang bị vũ khí đạn dược như
Hoa Kỳ đã hứa.
Tình hình căng thẳng giữa Tướng Hinh và
Thủ tướng Diệm kéo dài tới ngày 29-11-1954, thì có sự dàn xếp ổn
thoả từ bên Pháp. Quốc trưởng Bảo Đại ra Sắc lệnh ngưng chức Tổng
Tham Mưu Trưởng của Tướng Hinh, triệu ông này qua Pháp công cán,
đồng thời chỉ định Thiếu Tướng Nguyễn văn Vỹ (đã từng làm
Chánh Võ phòng của Quốc trưởng tại Đà Lạt) đang làm Tổng
Thanh tra Quân đội lên đảm trách chức Tổng Tham Mưu Trưởng thay
thế Tướng Hinh.
Tướng Vỹ nhận được lệnh đến yết kiến
Thủ tướng Diệm tại Dinh Độc Lập để nhận chức. Nhưng khi tới nơi,
thì gặp lúc Thủ tướng Diệm đang tiếp mấy tướng thuộc Lực lượng
Giáo phái Cao Đài ủng hộ ông Diệm, cũng đang có mặt tại đó. Mấy
tướng này làm áp lực, nên Tướng Vỹ đã phải rút lui, ra về cùng
với người đã hộ tống ông vào Dinh Độc Lập là Trung tá Trần Đình
Lan (Trưởng Phòng 6-phản gián điệp của Bộ TTM), rồi đáp
máy bay rời Việt Nam qua Pháp.
Nhờ thế, Thủ tướng Diệm đã cấp tốc chỉ
định Thiếu tướng Lê văn Tỵ (đang làm Tư lệnh Quân khu I tại
Sài Gòn) làm Tổng Tham Mưu Trưởng, đem Đại tá Trần văn Minh
(đang làm Chỉ huy trưởng Phân khu Tiền Giang tại Mỹ Tho)
về làm Tư lệnh Quân khu I thay thế Tướng Tỵ. Về sau, ông Trần văn
Minh được lần lượt vinh thăng thiếu tướng, rồi trung tướng đi làm
Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại các nước bên Phi Châu.
Cũng trong khoảng thời gian này, tại
miền Nam Trung Việt, Thiếu tá Thái Quang Hoàng Tiểu khu trưởng
Ninh Thuận (Phan Rang), đã đem khoảng 700 quân (phần lớn
thuộc Tiểu đoàn 83 VN của ông ấy, số còn lại thuộc các Tiểu khu
Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, và khoảng 50 Bảo Chính Đoàn, cùng
một số Công An của ông Nguyễn văn Hay Trưởng Ty Công An Phan
Rang) rút vào vùng rừng núi cách thành phố Phan Rang khoảng 10
cây số để lập chiến khu chống Tướng Hinh, ủng hộ Thủ tướng Diệm.
Về sau, ông Thái Quang Hoàng được Thủ tướng Diệm tin dùng, cất
nhắc thăng cấp nhanh chóng lên đến trung tướng.
Khi Thiếu tá Hoàng tại Phan Rang rút
quân ra lập chiến khu chống Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng, Đại tá
Trương văn Xương Tư lệnh Quân khu II ở Huế, ra lệnh cho Chỉ huy
trưởng Phân khu Duyên hải Nha Trang phải mở cuộc hành quân để
chiêu hồi Thiếu tá Hoàng. Phân khu trưởng Nha Trang đã tổ chức
điều hành cuộc hành quân, không những chẳng đem lại kết quả nào,
mà đa số nhân viên thuộc Bộ chỉ huy hành quân còn bỏ hàng ngũ
chạy theo Thiếu tá Hoàng (trong đó có Thiếu tá Nguyễn Khương sĩ
quan Truyền Tin của Bộ Chỉ huy Phân khu Duyên Hải Nha Trang, và
một số quân nhân thuộc Đại đội 7 Truyền Tin). Về sau, Thiếu tá
Nguyễn Khương được đem về Sài Gòn làm Chỉ huy trưởng Viễn Thông
Bộ TTM, và được thăng lên đến cấp đại tá. Sau vụ Nhảy Dù đảo
chánh Tổng thống Diệm hụt vào ngày 11-11-1960, Đại tá Khương có
dính líu nên bị cất chức Chỉ huy trưởng Viễn Thông. Không rõ nhờ
đâu, lại được đưa đi làm Tùy viên Quận Lực tại Tòa Đại sứ Việt
Nam Cộng Hòa bên Hoa Kỳ.
Lúc đó Thiếu tá Đỗ Mậu đang làm Chỉ huy
phó Phân khu Duyên hải Nha Trang, tỏ ý chống đối lệnh của Quân
Khu và bí mật lập một Phong trào ủng hộ Thủ tướng Diệm, nên về
sau được Thủ tướng Diệm đem về làm Giám đốc Nha An ninh Quân đội
tại Sài Gòn, và được thăng lên đến cấp đại tá. Ngày 1-11-1963,
Quân đội lật đổ Tổng thống Diệm thành công, Đại tá Đỗ Mậu là
người đã tích cực tham gia và được coi như có công lớn trong Hội
đồng đảo chánh, nên được Tướng Dương văn Minh người cầm đầu cuộc
đảo chánh thăng cho lên cấp thiếu tướng.
Đầu tháng 12-1954, một sự kiện khác lại
xảy ra tại miền Nam Trung Việt (cũng thuộc lãnh thổ Quân khu
II), Trung tá Nguyễn Quang Hoành Tiểu khu trưởng Bình Thuận
kiêm Tỉnh trưởng Phan Thiết, đã dùng quân thuộc quyền, ngăn cản
không cho một đoàn xe bọc thép của Pháp, di chuyển ngang qua lãnh
thổ Tiểu khu về Sài Gòn theo lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu QĐQGVN.
Khi Bộ TTM biết tin này, gửi điện văn hỏi thì Trung tá Hoành trả
lời là: “Thi hành lệnh của Chính phủ, không được để bất cứ
đoàn quân nào di chuyển qua lãnh thổ do ông phụ trách về Sài Gòn,
nếu không phải là lệnh của chính Thủ tướng Diệm”.
Thúc thủ, Bộ TTM chỉ còn cách trình lên
Bộ trưởng Quốc Phòng xử lý. Nhưng vô ích, vì chẳng bao giờ được
hồi âm, vì Bộ Trưởng Quốc Phòng là người thân tín của Thủ tướng
Diệm đang nắm giữ. Kể từ đó Bộ Tư lệnh Pháp và Bộ TTM/QĐQGVN cảm
nhận được rằng, Thủ tướng Diệm đã thực sự nắm được một số cấp chỉ
huy trong Quân đội, đặc biệt tại miền Trung Việt Nam.
Sau vụ này, Trung tá Nguyễn Quang Hoành
được Thủ tướng Diệm thăng cho cấp đại tá, đồng thời bổ nhiệm lên
làm Tư lệnh Quân khu II, thay thế Đại tá Trương văn Xương bị
ngưng chức và giải ngũ. (Ông Xương gốc thuộc Lực lượng Giáo
phái Cao Đài, được Pháp gắn cấp bậc đại úy và giao cho làm Tiểu
đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 VN tại Bặc Liêu, Nam Việt, một trong 3
Tiểu đoàn VN đầu tiên của Chính phủ Việt Nam Quốc gia thành lập
vào ngày 1-10-1949. Tất cả quân sĩ thuộc Tiểu đoàn 1 này cũng gốc
Lực lượng Giáo phái Cao Đài như ông Xương.)
Vào cuối năm 1954, Chỉ huy trưởng Viễn
Thông Bộ TTM/QĐQGVN (Thiếu tá Richard) bắt chước theo sự cải tổ
các cơ cấu chỉ huy TT của Bộ Tư lệnh Quân đội Viễn chinh Pháp tại
Đông Dương, đề nghị sát nhập Sở Mật Mã Bộ TTM do Tôi phụ trách
vào Bộ Chỉ huy Viễn Thông Bộ TTM, với danh hiệu mới là PHÒNG MẬT
MÃ TRUNG ƯƠNG. Nhưng Phòng MMTU chỉ trực thuộc Chỉ huy trưởng
Viễn thông (lúc đó là Thiếu tá Richard, sau này được thay thế
bởi Trung tá Platwet Roundil) về phương diện quản trị Quân
số và Hành chánh mà thôi, còn về phương diện Tổ chức, Kỹ thuật,
và Chỉ huy điều hành các Hệ thống Mật Mã, Trưởng Phòng MMTU vẫn
trực thuộc thẳng Tổng Tham Mưu Trưởng. Do đó hai vụ việc kể trên
tại miền Trung có ảnh hưởng quan trọng đến các Hệ thống Mật Mã
trong toàn Quân đội, nên Đại tá Trần văn Đôn Tham mưu trưởng Bộ
TTM, đã chỉ thị Tôi phải đích thân ra Nha Trang thanh tra để có
những biện pháp tức thời tại chỗ. Đồng thời, ông cũng chỉ thị Tôi
thâu lượm các tin tức chính xác về tinh hình và tinh thần quân sĩ
trong các đơn vị tại địa phương, về báo cáo lên Trung tướng
Nguyễn văn Hinh Tổng Tham Mưu Trưởng.
Khoảng tháng 3-1955, khi Pháp khởi sự
chuyển giao các Chức vụ Chỉ huy các Cơ quan đầu não Trung ương và
Địa phương cho sĩ quan Việt Nam đảm nhận, thì tại Bộ Chỉ huy Viễn
Thông Bộ TTM, Trung tá Platwet Roundil đang làm Chỉ huy trưởng
Viễn Thông. Ông Platwet Roundil nguyên là Huấn luyện viên ngành
Hữu tuyến tại Trường Truyền Tin Montargis hồi năm 1950 (năm
mà anh Khương và Tôi cùng theo học khóa sĩ quan Truyền Tin, cùng
với các thiếu úy Bộ binh Pháp mới tốt nghiệp Trường Võ bị Lục
quân Saint Cyr “Khóa Général Frère” từ Coetquidan chuyển đến).
Do đó đối với Tôi, ông Platwet Roundil có cảm tình nhiều vì là
Thầy Trò cũ, nên trong việc điều hành Ngành Mật Mã bị sát nhập
vào Bảng Cấp số các đơn vị Truyền Tin, Tôi không phải vất vả đấu
tranh để bảo vệ quyền lợi cho nhân viên Mật Mã, như hồi còn Thiếu
tá Richard làm Chỉ huy trưởng Viễn thông trước ông Platwet
Roundil.
Trước
khi Sở Mật Mã Bộ TTM bị sát nhập vào Bộ Chỉ huy Viễn thông, Tôi
đã được Bộ Quốc Phòng yêu cầu giúp Nha Đổng lý, thiết lập một Hệ
thống Mật Mã đặc biệt để liên lạc giữa Bộ Quốc Phòng và các Tùy
viên Quân lực tại các Tòa Đại sứ Việt Nam trên toàn Thế giới, và
hướng dẫn cho các Tùy viên Quân lực biết cách sử dụng. Nhân đó,
Tôi đã trình Tổng Tham Mưu Trưởng một Dự án thành lập Sở Mật Mã
và Mã Thám (MM và MT) trực thuộc Bộ Quốc Phòng. Theo dự án này,
tương lai sẽ có các Phòng Mật Mã riêng biệt cho: -Tùy viên Quân
lực, -Lục quân, -Không quân, -Hải quân, và các Phòng này sẽ nằm
thẳng dưới quyền Chỉ huy trực tiếp về kỹ thuật, và tuyển dụng
huấn luyện chuyên viên, của Sở MM và MT Bộ Quốc Phòng. Trước khi
Dự án chuyển trình lên Bộ Quốc Phòng, Trung tá Platwet Roundil
Chỉ huy trưởng Viễn thông Bộ TTM đã được Tham mưu trưởng Bộ TTM
hỏi ý kiến, và ông ta đã nhiệt liệt hỗ trợ Dự án của Tôi. Nhận
được Dự án, ông Đổng lý Bộ Quốc Phòng đã mời Tôi lên để trình bày
và thảo luận chi tiết về lập Bảng Cấp Số cho Sở MM và MT đề nghị
này. Sau này, ngay khi anh Khương được chỉ định làm Chỉ huy
trưởng Viễn thông (thay Trung tá Giả định (grade fictif)
Lương Thế Soái) cũng đã được Bộ Quốc Phòng yêu cầu cùng với
Tôi lên trình bày thêm chi tiết về Dự án. Trước mặt ông Đổng lý
Bộ Quốc Phòng, anh Khương cũng đã nhiệt liệt tán thành Dự án do
Tôi đệ trình từ trước. Rất tiếc không hiểu vì sao, về sau Dự án
bị lãng quên trong im lặng.
Để chuẩn bị bàn giao chức vụ Chỉ huy
trưởng Viễn thông Bộ TTM cho sĩ quan Việt Nam, trước nhất ông
Platwet Roundil tìm lựa một người giữ chức Tham mưu trưởng cho Bộ
Chỉ huy.
Làm
như mỗi người đều có những chu kỳ vận hạn cơ may riêng run rủi
sao đó, nên đúng thời gian ấy, anh Nguyễn Hữu Chi vừa mãn khóa sĩ
quan Truyền Tin ở Montargis bên Pháp về trình diện, Tôi có dịp
tiếp xúc trao đổi chuyện trò, thấy anh ấy người cao ráo đẹp trai,
dáng bộ tinh thần hăng hái tốt bạn. Nhờ thế, trong một dịp tiếp
xúc bàn thảo công việc với Trung tá Platwet Roundil tại văn
phòng, ông ấy hỏi ý kiến Tôi về việc muốn chỉ định anh Chi làm
Tham mưu trưởng, Tôi nhiệt liệt tán thành ngay.
Về chức vụ Chỉ huy trưởng Viễn Thông,
Trung tá Platwet Roundil có đưa ý kiến muốn giao cho Tôi, nhưng
Tôi đã từ chối không nhận, và đề nghị giao cho Thiếu tá nhiệm
chức (Commandant fonctionnel) Lương Thế Soái đang làm
việc tại Bộ Chỉ huy Viễn thông bấy lâu nay. Hai lý do khiến Tôi
từ chối không nhận là:
1. Vụ các đơn vị tại miền Nam Quân khu
II, họp nhau ly khai chống Tướng Hinh Tổng Tham Mưu trưởng, Tôi
đã được cử ra Thanh tra về Mật Mã và tìm hiểu tình hình tại chỗ,
đã ghi nhận được là Phong trào ủng hộ Thủ tướng Diệm do Thiếu tá
Đỗ Mậu cầm đầu, có dự tính đề bạt Thiếu tá Nguyễn Khương (sĩ
quan Truyền Tin Phân khu Duyên Hải Nha Trang, trong cuộc hành
quân chiêu hồi Thiếu tá Thái Quang Hoàng, đã bỏ hàng ngũ đi theo
Thiếu tá Hoàng vào chiến khu) về làm Chỉ huy trưởng Viễn
Thông. Ngoài ra, tin tức của Trưởng Ban Mật Mã Phân khu Duyên Hải
Nha Trang (Trung úy Trương văn Tàng) còn cho biết thêm
là, anh Khương sẽ đem theo một số sĩ quan và chuyên viên Truyền
Tin thuộc Đại đội 7 Truyền Tin về làm việc với mình tại Sài Gòn.
2. Tôi đã trình Dự án thành lập Sở Mật
Mã và Mã Thám tại Bộ Quốc Phòng, đang có nhiều triển vọng thuận
lợi thành tựu, nên muốn tiếp tục phát triển cái Ngành Chuyên Môn
mà mình đã có công xây dựng cho Quân đội bấy lâu nay.
Do đó, Tôi không nhận lời, nên Trung tá
Platwet Roundil đã đề nghị cho Thiếu tá Lương Thế Soái được mang
cấp bậc trung tá Giả định (Lieutenant Colonel fictif, mang
lon nhưng không được ăn lương và thâm niên của cấp bậc) và
nhận lãnh chức Chỉ huy trưởng Viễn Thông Bộ TTM đầu tiên cho
Ngành Truyền Tin của QĐQGVN.
Đúng như ước đoán của Tôi, sau khi vụ
Trung tướng Nguyễn văn Hinh được giải quyết xong, Tổng Tham Mưu
Trưởng mới (Tướng Lê văn Tỵ) được an vị, Thiếu tá Nguyễn
Khương được đưa về Bộ TTM, và mang theo về Sài Gòn một số sĩ
quan, hạ sĩ quan, binh sĩ Truyền Tin bấy lâu nay ủng hộ anh
Khương tại Nha Trang.
Trong thời gian chưa có lệnh chính thức
bổ nhiệm, anh Khương ghé tới nhà thăm xã giao Vợ Chồng tôi, với
tư cách bạn cũ tốt nghiệp cùng khóa sĩ quan, lại được qua Pháp
học Truyền Tin cùng một niên khóa. Trong câu truyện tình cảm bạn
bè, anh Khương ngỏ lời nhờ Tôi hướng dẫn đến thăm Cơ sở Phòng 6 (6ème
Section), do Trung tá Trần Đình Lan chỉ huy, ở gần chợ Bà
Chiểu (Gia Định). Tôi có hỏi tại sao? Thì anh ấy trả lời là “Ở
Trên” muốn anh ấy làm Trưởng Phòng 6, nên muốn có cơ hội đến
thăm thú trước. Tôi hỏi thêm, là sĩ quan Truyền Tin tại sao không
làm Chỉ huy trưởng Viễn Thông, mà lại đi nhận làm công tác “phản
gián điệp”? Anh ấy cũng trả lời là “Ở Trên” chỉ thị
nên phải thi hành. Hồi đó từ lóng “Ở Trên” thường được mấy anh
theo nhóm ủng hộ Thủ tướng Diệm dùng để ám chỉ Thủ tướng Diệm,
sau này lại đổi là “Cụ dạy, Cụ chỉ thị, Cụ muốn...” Tôi
đã giúp anh ấy thực hiện được ý muốn, bằng cách dẫn anh ấy đi
theo Tôi trong đoàn thanh tra cơ sở Mật Mã tại Phòng 6.
Nhưng trong thâm tâm, Tôi nghi rằng anh
ấy muốn nhờ Tôi giúp sức, để làm lạc hướng “đối thủ” chính của
anh ấy tại Bộ Chỉ huy Viễn Thông yên tâm không đề phòng, sẽ bị
bất ngờ không xoay sở kịp để phá rối làm trì hoãn việc ban hành
lệnh bổ nhiệm anh ấy về làm Chỉ huy trưởng Viễn thông mà thôi.
Sự nghi ngờ của Tôi quả không sai. Mấy
ngày sau, khi lệnh bổ nhiệm Thiếu tá Nguyễn Khương làm Chỉ huy
trưởng Viễn thông Bộ TTM được chính thức ban hành, thì Trung tá (Giả
định, fictif) Lương Thế Soái bị bắt giam điều tra và cho
giải ngũ. Chắc hẳn đây là miếng đòn phủ đầu, anh Khương muốn dùng
để dằn mặt những ai, trong tương lai có ý không chịu tuân phục uy
quyền của anh ấy trong chức vụ Chỉ huy trưởng Binh chủng Truyền
Tin QĐQGVN.
Sau khi chính thức ngồi vào ghế Chỉ huy trưởng Viễn thông Bộ TTM,
anh Khương lập tức đề nghị bổ nhiệm Trung úy Hà Quang Giác từ Đại
đội 7 TT ở Nha Trang về làm Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy, thay anh
Nguyễn Hữu Chi mới được đặt ngồi vào ghế này chưa bao lâu. Trong
khi chờ đợi đi nhận lãnh nhiệm vụ khác, anh Chi được lưu dụng tại
Bộ Chỉ huy để giúp cho anh Giác làm quen với chức vụ quan trọng
mới của mình. Một số Trưởng Phòng trong Bộ Chỉ huy cũng được thay
thế, bằng những sĩ quan do anh Khương và anh Giác đem về theo.
Sau khi được mang cấp bậc trung tá
nhiệm chức (grade fonctionnel) và ngồi vào ghế Chỉ huy
trưởng Viễn thông, anh Khương mới chính thức mời Tôi diện kiến
tại văn phòng Chỉ huy trưởng, để hỏi thăm về tình hình công việc
và nhân sự Mật Mã tại Trung ương và các Địa phương. Trong dịp
này, anh Khương cho biết là sẽ dẫn đoàn tham mưu của Bộ Chỉ huy
thực hiện một vòng Thăm viếng Chỉ huy các Cơ quan và Đơn vị
Truyền Tin trên toàn Quốc, và yêu cầu Tôi cùng tháp tùng. Dĩ
nhiên Tôi không có lý do gì để từ chối. Vì đây là dịp tốt duy
nhất, để Tôi giới thiệu các Sĩ quan Mật Mã tại các Đơn vị Truyền
Tin với Tân Chỉ huy trưởng Viễn Thông, và bản thân Tôi có dịp gặp
gỡ làm quen với các Đơn vị trưởng Truyền Tin trong toàn Quân đội,
một sự tiếp xúc xã giao vô cùng cần yếu cho những quan hệ giao
dịch tham mưu trong tương lai.
Qua cái gương của Trung tá Giả định
Lương Thế Soái, nên trong lần gặp gỡ chính thức công vụ đầu tiên
này, Tôi đã thực lòng nói với anh Khương là Tôi có ý định nộp đơn
xin ra khỏi Ngành Truyền Tin, để tránh cho anh Khương những
trường hợp khó xử sau này có thể làm sứt mẻ tình bạn đồng khóa,
vì những hành động không đẹp có thể xảy ra, do các cộng sự viên
đàn em của anh ấy trong công vụ hàng ngày đối xử với Tôi.
Anh Khương đã nghiêm trang nói rằng, là
Chỉ huy Trưởng anh ấy sẽ không bao giờ dung túng đàn em làm bạy,
do đó chắc chắn sẽ không thể nào có những trường hợp như vậy xảy
ra. Anh Khương còn khẩn khoản yêu cầu Tôi, vì tình anh em đồng
khóa, lại từng được xuất ngoại du học cùng một Ngành Chuyên môn
với nhau, cùng có những ưu tư của tuổi trẻ muốn xây dựng trẻ
trung hóa Quân đội... nên hãy ở lại trong Binh chủng để anh em
tiếp tay nhau củng cố vun đắp cho Ngành Truyền Tin mau vững mạnh.
Anh ấy cũng nói là sẽ trình qua hệ thống Quân ủy riêng của Phong
trào, để xin trình lên “Cụ” về kế hoạch lập Sở Mật Mã và
Mã Thám tại Bộ Quốc Phòng do Tôi đệ trình, sớm được duyệt xét
thành lập. Anh ấy có dẫn Tôi vào thăm xã giao Thiếu tá Huỳnh văn
Cao, đang làm việc tại Võ phòng Phủ Thủ tướng. Ngoài ra, Anh ấy
còn nhắc lại những kỷ niệm cũ, anh em đồng khóa đã chia sẻ suốt
thời gian sống trong Trường Võ bị bên bờ sông Hương, và những
buổi chiều Thu Đông xa xứ ngồi bên nhau ngắm lá vàng rơi bàn luận
về thời cuộc đất nước tại Montargis bên Pháp... để muốn gián tiếp
chứng minh rằng, anh ấy không thuộc loại người “giầu đổi vợ,
sang đổi bạn”. Tôi yêu cầu cho thời gian 2 ngày để suy nghĩ
lại, trước khi trả lời dứt khoát.
Tôi đã về thảo luận với anh em trong
Phòng MMTU. Ai cũng muốn Tôi ở lại để tiếp tục bảo vệ và phát
triển Ngành Mật Mã và Mã Thám, mà chúng tôi đã cùng nghiên cứu
trình lên Bộ Quốc Phòng, đang có nhiều triển vọng được thành tựu.
Chiều thứ bảy không làm việc, nghỉ ở
nhà, Tôi mở Album gia đình xem các ảnh kỷ niệm về thời gian ở
Trường Võ bị. Những bức ảnh đen trắng ghi các sinh hoạt trong lớp
học, trong nhà ăn, trong những khu rừng làng xóm nơi thao luyện
tác chiến, những pha tranh đấu thể thao tại sân trường, bơi lội
tắm giặt trong dòng sông Hương... Có anh Khương, có Tôi cùng hơn
sáu chục bạn khác cùng khóa. Ngoài những tấm hình này, còn có mấy
tấm chỉ có anh Khương và Tôi chụp chung, trên chiếc tầu biển
Cyrénia của Hy Lạp chở chúng tôi đi từ Sài Gòn qua Marseille
Pháp, trên bến cảng Pyrée và bên các lâu đài cổ xây bằng đá khối
của Thủ đô Athène nước Hy Lạp (nhờ tầu Cyrénia ghé cho thủy
thủ đoàn thăm gia đình 48 tiếng, nên chúng tôi có may mắn được
thăm viếng, ngoài chương trình dự trù cho cuộc hải hành chính
thức), tại sân trường Truyền Tin Montargis đứng bên các
chồng bia đá hoa cương vuông ghi tên và năm của từng khóa sĩ quan
Saint Cyr tốt nghiệp đã theo học.
Ngoài những tấm ảnh, còn có một trang
giấy nhỏ ghi bài thơ, có chữ ký của anh Khương và chữ ký của Tôi.
Đây là những vần thơ cảm tác liên ngâm, và ghi lại lúc chúng tôi
cùng ngồi bên nhau trong phòng ngủ, nhìn qua khung cửa sổ kính
rộng, ngắm cảnh thác lá vàng lià cành, theo từng đợt gió, trút
xuống phủ đầy mặt đất, vào một buổi chiều Thu sang Đông cuối năm
1950, tại khu Cư xá Sĩ quan độc thân của Trường Truyền Tin, xây
dựng bên rừng cây phía sau nhà Ga xe hỏa Montargis.
Bây giờ những vật lưu niệm quý giá đó
không còn trong tay Tôi nữa, vì 30-4-1975 cộng sản Bắc Việt xâm
chiếm miền Nam, gia đình Tôi cư ngụ trong Cư xá Sĩ quan Bộ Tổng
Tham Mưu QLVNCH, nên tất cả gia sản, giấy tờ, hình ảnh đều bị
tước đoạt hết chẳng còn gì. Nhưng trí nhớ của Tôi thì không ai có
thể tước đoạt được, ngoại trừ tình trạng lẩm cẩm của tuổi già
bệnh hoạn. Lúc này Tôi vẫn còn nhớ rõ mấy vần thơ đó, xin ghi ra
đây để các Bạn cùng chia sẻ.
Tựa bài thơ là “Chiều
viễn xứ”. Tôi khởi xướng 4 câu đầu, anh Khương
làm tiếp 4 câu sau:
Thác lá
vàng rơi một bóng ngồi,
Nắng Thu tàn
rụng vạn tia trôi.
Ngổn ngang trăm nỗi
sầu non nước,
Canh cánh ngàn thương nhớ
bạn đời...
*
Bạn
ơi, có nuối tiếc chớ nhớ người cô phụ.
Dặm đường dài đang còn lắm chông gai.
Hăng hái lên Ta xây dựng tương lai.
Dệt
mộng lớn thanh niên huy hoàng rực rỡ...
(Xin lưu ý là hồi đó Tôi mới
cưới vợ chưa đầy một năm thì phải đi du học, còn anh Khương đã
lập gia đình từ trước thời gian theo học khóa sĩ quan tại Trường
Võ bị tại Huế năm 1948-1949.)
Sau bữa cơm tối, Tôi thủ thỉ nói chuyện
với Vợ tôi về những thay đổi trong Sở làm, và hỏi ý kiến xem nên
ở hay nên ra khỏi Ngành Truyền Tin. Vì khi mới vào Sài Gòn, anh
Khương có đến nhà thăm chúng tôi, và Tôi quan niệm rằng các Bà
thường được Trời phú cho cảm tính bén nhậy về việc nhận xét người
đối diện chính xác hơn đàn ông. Vợ tôi đã góp ý rằng: “Cái
anh bạn người Trung mới tới thăm bữa trước, thấy qua cung cách cử
chỉ và lời nói, thì không phải là người không biết trọng tình
nghĩa bạn bè đâu. Có thể tin cậy cộng tác được.”
Do đó, sáng thứ Hai, sau buổi chào cờ
sáng đầu tuần tại Bộ Tổng Tham Mưu (mọi người phải tham dự), Tôi
đã vào văn phòng Chỉ huy trưởng gặp anh Khương để trả lời bằng
lòng ở lại trong Binh Chủng cộng tác với anh ấy. Ngay dịp này,
anh Khương đã đưa ý kiến, yêu cầu Tôi dùng nhân viên Phòng Mật Mã
Trung ương giúp anh ấy thực hiện một số công việc ngoài kỹ thuật,
gồm:
1. Tiếp
tay vận động lập “Phong trào Cách Mạng Quốc gia” trong
các Đơn vị Truyền Tin tại Trung ương.
2. Phụ trách thực hiện giờ “Tiếng
nói Truyền Tin” hàng tuần trên làn sóng Đài Phát thanh Quân
đội.
3. Thực
hiện một bản Thông tin Nội bộ Truyền Tin định kỳ, gồm đủ các mục
kỹ thuật, chính trị, văn hóa xã hội, để phổ biến đến các đơn vị
Truyền Tin và các Binh chủng khác trong Quân đội nhằm giới thiệu
về ngành Truyền Tin. Bản Thông Tin này đã được đặt cho một cái
tên rất hay “SÓNG VIỆT”.
Dĩ nhiên là Tôi phải nhận, vì hầu như
mọi người tại Bộ Chỉ huy Viễn thông Bộ TTM cũng như các BCH Viễn
thông Quân khu đều biết rằng, Phòng MMTU lúc bấy giờ là một khối
“đoàn kết huynh đệ chi binh thiệt tình” trong công vụ
cũng như ngoài công vụ, và gồm một số anh em có ít nhiều khả năng
về đủ mọi bộ môn cần yếu, để tiếp tay trong các dự án cách mạng
to lớn của anh ấy. Việc học tập chính trị trong Quân đội, trong
các Cơ quan Hành chánh, trong quảng đại quần chúng, lúc bấy giờ
được thực hiện theo chỉ thị của Thủ tướng Diệm, muốn thực hiện
một cách đại quy mô chương trình giáo dục cho toàn dân tinh thần
“chống Cộng bài Phong” để cách mạng hóa xã hội, chuẩn bị
thay đổi thể chế chính trị tại miền Nam Việt Nam.
Anh Khương cũng đã giới thiệu với Tôi,
3 người cộng sự mà anh ấy đem theo từ Nha Trang về, thường xuyên
tiếp xúc với Tôi để giải quyết những việc cần yếu, đặc biệt là
việc thành lập “Phong trào Cách mạng Quốc gia” và làm sao cho mọi
người hăng say tham gia ý kiến trong các buổi “học tập chính
trị xây dựng tinh thần chống Cộng bài Phong” hơn các Binh
chủng khác.
1.
Người thứ nhất được anh Khương giới thiệu với Tôi và anh em thuộc
Phòng MMTU, là Trung úy Nguyễn văn Thành (cháu gọi Trung úy
Nguyễn Bỉnh Thiều đang làm việc tại Phòng MMTU bằng Chú).
Anh Thành là một người trẻ trung, hăng say nhiệt huyết, cho đến
bây giờ Tôi vẫn còn có cảm tình đặc biệt. Sau này, mặc dù Tôi đã
ra khỏi Binh chủng Truyền Tin, mỗi lần gặp Tôi anh Thành vẫn có
thái độ quý mến thân thiện như người vẫn còn trong cùng Binh
chủng. Một kỷ niệm không bao giờ Tôi quên được về anh Thành là,
sau 30-4-1975 anh Thành và Tôi cùng phải đi học tập cải tạo nhưng
khác nơi. Mãi đến năm 1983, chúng tôi mới gặp nhau tại Trại Hàm
Tân Z30C, trong tỉnh Thuận Hải thuộc miền Đông Nam phần. Chúng
tôi ở 2 Đội khác nhau, nhưng ở chung một dãy nhà giam nên gặp
nhau hàng ngày, và anh Thành lại nấu cơm ăn chung với Chú của anh
ấy là Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh, người cùng một Đội cải tạo với
Tôi. Anh Thành được tha ra khỏi Trại giam trước chúng tôi. Qua
đầu năm 1984, anh Quỳnh và cả Đội Tù đại tá chúng tôi bị chuyển
sang Trại Thủ Đức Z30D. Vợ anh Quỳnh đến trại thăm nuôi anh ấy,
có chuyển cho Tôi 200 đồng bạc Cụ Hồ, do anh Thành nhờ đem vào
tiếp tế cho Tôi “bồi dưỡng”, vì trong thời gian đó Ban
Chỉ huy Trại giam làm ngơ cho Cán bộ Quản giáo mua giùm Tù các
loại thực phẩm ngoài chợ như: đậu phụ, lạc (đậu phộng), trứng
sống. (Từ bồi dưỡng là của cộng sản dùng cho cả người và súc
vật, có nghĩa là ăn uống thêm các thực phẩm để bồi bổ sức khỏe.)
2. Người thứ hai, là Thiếu úy Đỗ như
Luận (thân thích của Đại tá Đỗ Mậu mới được Thủ tướng Diệm
đem từ Nha Trang về làm Giám đốc Nha An ninh Quân đội) chẳng
xa lạ gì đối với Tôi. Vì hồi năm 1953 anh Luận làm sĩ quan Truyền
Tin kiêm Sĩ quan Mật Mã tại Khu Truồi tỉnh Thừa Thiên (khoảng
giữa đường từ Huế đi Đèo Hải Vân), Tôi đã có dịp đến thanh
tra để hướng dẫn về kỹ thuật, về các quy luật an ninh nhân viên,
bảo vệ tài liệu và cơ sở Mật Mã.
Cái kỳ gặp gỡ anh Luận lần đầu tiên ấy,
đã lưu lại trong Tôi một kỷ niệm khó quên. Anh Luận hướng dẫn
chúng tôi đi thăm một đơn vị đóng sát bờ biển vùng Lăng Cô, nhân
đó ghé thăm căn Nhà Mát dành riêng cho quý vị cao cấp trong Chính
quyền Sài Gòn mỗi lần ra công tác nghỉ ngơi đổi không khí. Thường
Quý vị ấy ra bằng trực thăng, nhưng chúng tôi thì đi bằng xe jeep
quân đội. Đường đi thật là vất vả, phải băng qua vùng cát trắng
nóng như sa mạc. Xe phải gài cần hiệu chỉnh dùng cả 4 bánh, và
tốc độ chạy không quá 4 dặm (miles) 1 giờ. Không khí bốn bề quanh
xe, bị mặt trời đốt cháy hiện ra long lanh như một lồng kính bao
quanh xe chúng tôi. Máy xe nóng và bốc khói. Chúng tôi phải cố
gắng chịu đựng lết mãi mới tới một khu nhà có người ở (tu
viện nhỏ của các Nữ Tu Công giáo) giữa vùng sa mạc nhỏ. Qua
cung cách cư xử, cho thấy hình như các Dì phước ở đây quen thân
với anh Luận, đã vồn vã tiếp đón và cho chúng tôi uống những ly “hột
ké” ngâm nước mưa. Cổ họng đang khô rang, được nuốt một hơi
những “hột ké” trắng đục nở tròn xoe trong nước như
những hột thạch, với cái vị chua chua nhơn nhớt man mát, làm cho
sảng khoái tinh thần hết chỗ nói. Thật là tuyệt diệu, lúc đó
tưởng chừng trên trái đất này không có món giải khát nào ngon hơn
thế.
Một sự
kiện thứ hai, xảy ra vào cuối năm 1960, đã khiến tình “huynh đệ
chi binh” giữa anh Luận và Tôi trở nên thắm thiết hơn. Số là vào
đêm 11-11-1960, nhóm các ông Nguyễn chánh Thi, Vương văn Đông mưu
lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm không thành, lúc đó Tôi đang là
Thiếu tá Giám đốc Trường Truyền Tin tại Liên trường Võ khoa Thủ
Đức. Đến sáng ra, Tướng Lê văn Nghiêm vu cho Tôi là tiếp tay với
Tiểu đoàn Nhảy Dù đóng tại Quận lỵ Thủ Đức vào chiếm Liên trường,
để ngăn cản không cho quân Liên trường do ông ấy chỉ huy đem về
Sài Gòn cứu nguy Tổng thống Diệm. Tướng Nghiêm đã phạt Tôi 10
ngày trọng cấm, trả về Bộ Tổng Tham mưu với yêu cầu đưa ra Hội
đồng kỷ luật Bộ Quốc Phòng xét xử cùng lượt với những người trong
nhóm đảo chánh đã bị bắt. Đồng thời Tướng Nghiêm cử ngay Đại úy
Võ Trịnh Trọng (Phó Giám đốc, đã từng là tay em tại miền
Trung trước kia của Tướng Nghiêm) lên thay Tôi. Lễ bàn giao
phải được tổ chức cấp tốc dưới sự chủ tọa của Tướng Nghiêm trong
vòng 24 giờ. Ngay sau buổi lễ bàn giao chức vụ, nhân viên của
Phòng 1 Bộ chỉ huy Liên trường đến trao Sự vụ lệnh cho Tôi phải
trình diện Bộ Chỉ huy Viễn Thông Bộ Tổng Tham Mưu vào ngày hôm
sau.
Tướng
Nghiêm trước kia làm Tư lệnh Quân Khu II, bị Tổng thống Diệm thất
xủng cất chức Tư lệnh Quân Khu đưa về coi Liên trường Võ khoa Thủ
Đức từ mấy năm qua. Nay nhờ dịp Nhảy Dù làm đảo chính, Đại úy
Trọng (người thân tín của Tướng Nghiêm từ hồi còn ở Quân Khu,
vì Thiếu úy Trọng được Tướng Nghiêm gọi đến nhà hàng ngày để kèm
ngoại ngữ cho các con ông ấy) đang làm việc tại Trường
Truyền Tin nhưng vì Liên Trường chưa có cư xá gia binh để cấp cho
cư ngụ trong Liên Trường, nên hằng đêm Tôi ký giấy cho phép cho
về Sài Gòn ở với gia đình thay vì buộc phải ngủ tại phòng các sĩ
quan độc thân của Liên trường, nhờ thế theo dõi được tình hình
thực tế của cuộc đảo chánh tại Sài Gòn đang gặp khó khăn, nên nửa
đêm đã vội vã chạy lên Liên Trường vào báo cáo thẳng cho Tướng
Nghiêm biết. Tướng Nghiêm lập tức giao cho Đại úy Trọng làm sĩ
quan Truyền Tin phụ trách việc dùng hệ thống truyền tin của Liên
Trường liên lạc với Phủ Tổng thống để bày tỏ lòng trung thành với
Tổng thống. Nhờ thế nên sau vụ đảo chính hụt này của phe các ông
Thi và Hồng Nhảy Dù, Tướng Nghiêm được tin dùng trở lại, cho lên
làm Tư lệnh Biệt khu Thủ đô Sài Gòn để bảo vệ Tổng thống.
Trong Binh chủng Truyền Tin, ai cũng
biết tiếng anh Võ Trịnh Trọng là vua đảo chánh tại các đơn vị
Truyền Tin miền Trung, khi Tướng Nghiêm còn làm Tư lệnh Quân Khu.
Sau khi theo học khóa Truyền Tin tại Hoa Kỳ trở về, không ai chịu
nhận vào đơn vị của họ, lại không có chỗ cho anh Trọng làm đơn vị
trưởng, nên anh Khương Chỉ huy trưởng Viễn Thông đã điện thoại về
Trường mời Tôi lên gặp, trình bày sự thật và khẩn khoản nhờ Tôi
nhận về Trường làm huấn luyện viên. Để giúp anh Khương giải quyết
khó khăn, Tôi đồng ý nhận, và khi Đại úy Trọng về trình diện tại
Trường, Tôi đã đề nghị lên Tướng Lê văn Nghiêm Chỉ huy trưởng
Liên trường cử anh Trọng làm Phó Giám Đốc.
Tôi đến trình diện Bộ Chỉ huy Viễn
thông vào đúng lúc đang diễn ra tiệc rượu do anh em tổ chức để
chia tay Đại tá Nguyễn Khương bị cất chức, bàn giao cho Trung tá
Khổng văn Tuyển đang làm Chánh Sự vụ Sở Vật liệu Truyền Tin kiêm
nhiệm. Đại úy Nguyễn Bá Di, Phụ tá tại Sở Vật liệu TT cũng được
Trung tá Tuyển mang sang làm Tham mưu trưởng thay thế Thiếu tá Hà
Quang Giác cũng bị cất chức đưa ra khỏi Binh chủng Truyền Tin như
Đại tá Khương. Thiếu tá Nguyễn văn Tiến Chỉ huy phó Viễn thông
thì bị An ninh Quân đội bắt giữ điều tra.
Trong buổi tiệc chia tay đơn sơ này, có
cả sự tham gia của Đại úy Đỗ Như Luận, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn
TT Bộ TTM. Thấy Tôi, anh Luận mừng rỡ hỏi thăm vồn vã, tưởng Tôi
cũng được mời về cùng anh em tham dự tiệc chia tay Đại tá Khương
và gặp mặt Chỉ huy trưởng mới. Tôi đã thì thầm kể riêng cho anh
Luận nghe vụ việc của Tôi. Sau khi hiểu rõ đầu đuôi, anh ấy đã
hứa là sẽ tiếp xúc với Đại tá Đỗ Mậu coi ngay hồ sơ của Tôi, để
giải nạn giùm nếu đúng thật là bị vu khống oan trái. Vài ngày
sau, anh Luận cho Tôi biết không có gì phải lo, những người ngay
thẳng sẽ có Trời giúp.
Quả đúng vậy, ít ngày sau, Đại úy Võ
Đại Khôi Chánh Sự vụ Sở Viễn Thông Bảo An (em rể Trung tá Kỳ
quang Liêm con cưng của Cụ, đang làm Giám đốc Nha Nhân viên Bộ
Quốc Phòng) sau vụ đảo chánh hụt được thăng cấp thiếu tá
nhiệm chức, được bổ nhiệm về làm Chỉ huy trưởng Viễn Thông với
cấp bậc trung tá Giả định. Trung tá Tuyển chấm dứt sự kiêm nhiệm,
tiếp tục làm Chánh Sở Vật liệu. Đại úy Đỗ Như Luận (thân
thích của Đại tá Đỗ Mậu Giám đốc Nha An ninh Quân đội) làm
Tham mưu trưởng, vẫn kiêm nhiệm cả chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu
đoàn TT Bộ TTM, thay Đại úy Nguyễn Bá Di đi làm Quận trưởng Gò
Vấp. Tôi cũng được Bộ Quốc Phòng ban hành Nghị định bổ nhiệm làm
Chỉ huy phó Viễn Thông.
Tôi giữ chức vụ này (năm 1961 đổi
là Cục Phó Cục Truyền Tin) cho đến Cách mạng 1-11-1963 vừa
xong, thì bị loại ra khỏi ngành Truyền Tin cùng một lượt với
Thiếu tá Phan văn Chuân Giám đốc Trường Truyền Tin Vũng Tầu.
Năm 1961 có cuộc cải tổ lớn trong Quân
lực. Ngành Truyền Tin thành lập các Phòng 6 phụ trách điều hành
việc khai thác các Hệ thống liên lạc TT từ Trung ương xuống địa
phương. Bộ Chỉ huy Viễn thông Bộ TTM và Sở Vật liệu TT sát nhập
thành Cục Truyền Tin. Các Bộ Chỉ huy Viễn thông Quân khu cải
thành Phòng 6. Các Tiểu đoàn Khai thác Truyền Tin và các Tiểu
đoàn Yểm trợ Tiếp liệu TT tại các địa phương họp thành các Liên
đoàn Truyền Tin. Tại Gò Vấp có Căn Cứ 60 Tiếp vận TT do Đại úy
Phùng Ngọc Sa làm Chỉ huy trưởng, và Trung tâm điện ảnh nằm trong
doanh trại kế bên do anh Sương (Tôi không nhớ Họ) chỉ
huy. Liên trường Võ khoa Thủ Đức giải tán, trả các Trường chuyên
môn đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tổng Cục Quân Huấn Bộ TTM,
nhưng trực thuộc các Binh chủng Nha sở liên hệ về kỹ thuật và bổ
sung nhân viên. Trường Truyền Tin tại Thủ Đức di chuyển xuống
Vũng Tầu, giải tán Trung Tâm Huấn luyện TT giao các phần trách
nhiệm của Trung tâm phụ trách xưa nay cho Trường Truyền Tin luôn,
Thiếu tá Phan văn Chuân làm Chỉ huy trưởng.
Tháng 12 năm 1963, anh Chuân và Tôi gặp
nhau tại Khóa 9 Chỉ huy và Tham mưu tại Trường Đại học Quân sự Đà
Lạt. Lúc đó Thiếu tá Nguyễn Đình Tài đang là Huấn luyện viên
hướng dẫn làm Phụ bản Truyền Tin cho các loại Lệnh Hành Quân. Mãn
khóa vào đầu năm 1964, Tôi đậu Thủ khoa, Tướng Nguyễn Khánh Thủ
tướng Chính phủ đến Chủ tọa buổi lễ, trao bằng tốt nghiệp cho
Tôi. (Anh Nguyễn Đình Tài nguyên là Chỉ huy trưởng Trung tâm
huấn luyện Truyền Tin Vũng Tầu phải đổi lên đây, sau khi Trung
tâm bị giải tán để nhập với Trường Truyền Tin.)
3. Người thứ ba được giới thiệu tiếp
xúc với Tôi, là một Hạ sĩ tên Hà (Tôi không nhớ Họ của anh ấy).
Anh Hà tuy thuộc hàng binh sĩ nhưng có khả năng văn hóa khá, rất
thông minh và xông xáo. Theo nhận định của Tôi, thì anh Hà là
người có vai vế và rất được tin dùng trong hệ thống Cán bộ chính
trị “Cần Lao Nhân vị” và “Phong trào Cách mạng Quốc
gia”, đưa về theo anh Khương để hoạt động tại Sài Gòn. Trong
khoảng thời gian 1957, Tôi đi học 2 khóa Truyền Tin liên tiếp (sĩ
quan TT cao cấp, và sĩ quan Tiếp liệu bảo trì Vật liệu TT)
tại Trường Truyền Tin Fort Monmouth, Tiểu Bang New Jersey, có
nghe nói anh Hà được thăng lên hàng hạ sĩ quan, rồi sau đó lại
được học khóa sĩ quan đặc biệt, theo kế hoạch đào tạo cấp tốc của
Bộ Tổng Tham Mưu, nhằm giải quyết nhu cầu thiếu hụt sĩ quan cho
các Binh chủng chuyên môn.
Những ngày kế theo buổi gặp mặt chính
thức giữa anh Khương Chỉ huy trưởng Viễn Thông mới nhậm chức và
Tôi đề cập trên đây, mọi kế hoạch chương trình thực hiện những
ước vọng của anh Khương đã được toàn thể anh em thuộc Phòng Mật
Mã Trung ương chúng tôi lo toan rất chu đáo toàn hảo. Anh Khương
và nhóm thân tín về theo anh ấy rất vui mừng và hãnh diện vì được
“Ở Trên” tin tưởng khen thưởng rất hậu hĩ về tinh thần
đi tiên phong quảng bá rầm rộ hoạt động của Binh chủng Truyền Tin
cả về kỹ thuật lẫn chính trị.
Nhưng một điều đáng buồn là chỉ mấy
tháng sau, từ khi tạo được uy tín vững vàng xong, thì anh Khương
và nhóm đàn em bắt đầu có những hành động độc đoán, cài người để
bắt đầu thanh lọc những người giỏi chuyên môn nhưng không chịu
cong lưng ngoan ngoãn tuân theo mệnh lệnh của anh ấy. Từ đó trong
Binh chủng Truyền Tin bắt đầu có sự rạn nứt “tình huynh đệ
chi binh”.
CHƯƠNG 6
THẾ LỰC CHÍNH TRỊ BẮT ĐẦU XÂM NHẬP
KHUYNH LOÁT LÀM ĐẢO LỘN NẾP SỐNG KỶ CƯƠNG CỦA QUÂN ĐỘI
Cuộc “Thanh tra Chỉ huy” đầu tiên của
Tân Chỉ huy trưởng Viễn Thông QĐQGVN, Trung tá Nguyễn Khương,
khởi sự đi về miền cát trắng Nha Trang bằng đường bộ. Hành trình
phát khởi từ Sài Gòn, qua Biên Hòa, Phan Thiết, Phan Rí, Phan
Rang (nơi có chiến khu của Thiếu tá Thái Quang Hoàng chống Tướng
Nguyễn văn Hinh Tổng Tham Mưu trưởng, ủng hộ Thủ tướng Ngô Đình
Diệm, và cũng là điểm xuất phát giúp cho con đường tiến thân thời
Đệ Nhất Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam của Thiếu tá Nguyễn
Khương, và nhiều sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ thuộc Đại đội 7
Truyền Tin đóng tại Nha Trang), rồi qua Ba Ngòi, Diên Khánh, để
vào thành phố Nha Trang. Một thành phố biển sầm uất tại miền Nam
Trung phần Việt Nam, có Tháp Bà cổ kính xa xưa của dân tộc Chàm
vẫn sừng sững “trơ gan cùng tuế nguyệt”, có Hòn Chồng, có viện
nghiên cứu Hải Dương học, có Viện Pasteur thiết lập từ năm 1895
của cố Bác sĩ Emile Yersin (1863-1943) người đã phát hiện ra vi
khuẩn Dịch Hạch, có Hòn Tre (giống như núi Ngự Bình nổi trên biển
cả làm bình phong che cho thành phố), và có hàng dừa cao thơ mộng
mọc dài theo bãi tắm dọc đường phố bên bờ Biển Đông.
Sau ngày đình chiến 21-7-1954, Tôi đã
lái xe jeep đi đường bộ Thanh tra Mật Mã tại các đơn vị, đóng rải
rác trên khắp các nẻo đường đất nước tại miền Nam Vĩ tuyến 17.
Suốt từ Sài Gòn đi khắp các tỉnh miền Tây: Long An, Mỹ Tho, Gò
Công, Bến Tre, Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng,
Bặc Liêu, Cà Mâu (Tại đây Tôi được thấy khá đông bộ đội Việt Minh
mặc đồng phục tác chiến mầu ô-liu, na ná như của binh lính chúng
ta, đang lố nhố trong một khu tập trung chờ phương tiện chuyển
vận ra Bắc tập kết). Rồi quay trở lại Cần Thơ để đi Long Xuyên,
Châu Đốc, Rạch Giá, Hà Tiên. Sau đó đi qua các tỉnh miền Đông:
Biên Hòa, Xuân Lộc, Long Thành, Bà Rịa, Vũng Tầu, Thủ Dầu Một,
Tây Ninh.
Sau
đợt thanh tra tại các tỉnh miền Nam, Tôi tiếp tục đi Thanh tra
tại các tỉnh miền Cao nguyên Trung phần Việt Nam: từ Sài Gòn đi
qua Thủ Dầu Một, Chơn Thành, Đồng Xoài, Bù Đăng, Ban mê thuột,
Buôn Hô, Pleiku, Kontum, An Khê (Tại đây Tôi lái xe đâm xập vào
nhầm phải một doanh trại đang tập trung bộ đội Việt Minh chờ
phương tiện chuyển vận tập kết ra Bắc, ngay giữa phố Quận lỵ. Vào
nhầm vì Tiểu đoàn mà Tôi dự trù Thanh tra trước kia đóng tại đó,
nhưng sau ngày đình chiến đã di chuyển sang khu rừng cao su cách
nơi đó chừng 1 cây số, mà Tôi không được thông báo trước).
Rồi nhân tiện đường, Tôi lái xe đi
thẳng xuống các tỉnh duyên hải miền Nam Trung phần Việt Nam: Bình
Định, Qui Nhơn, Sông Cầu, Tuy Hòa, Ninh Hòa, Nha Trang, Ba Ngòi,
Phan Rang, rẽ lên Đà Lạt, Blao (sau này gọi là Bảo Lộc nơi sản
xuất trà), rồi đổ xuống Định Quán băng qua sông La Ngà (nơi có
khúc đường vòng “Trận Cua C” do Tướng Việt Cộng Trần văn Trà dàn
quân phục kích đoàn “Công voa” quân Pháp sau ngày tái lập Nam kỳ
Tự trị gần cuối Thập niên 1940), và sau cùng qua Túc Trưng, Dầu
Giây, Trảng Bom, Biên Hòa để trở về lại Sài Gòn.
Phạm vi miền Bắc Trung phần Việt Nam,
thì đi máy bay ra Huế, rồi từ đó đi đường bộ lên phía Bắc thăm:
Quảng Trị, Đông Hà, xuống phía Nam thăm: Phú Vang, Truồi, Lăng
Cô, qua Đèo Hải Vân vào Đà Nẵng, Quảng Nam. Riêng Tam Kỳ và Quảng
Ngãi thì chưa đi, vì lúc ấy đường chưa được hoàn toàn an ninh.
Đoạn đường bộ thuộc miền Đông Nam phần,
từ Xuân Lộc qua Gia Rai đi Phan Thiết, Phan Rí, Tôi chưa có dịp
lăn bánh xe tới. Nên cuộc hành trình đường bộ kỳ này từ Sài Gòn
đi Nha Trang, đối với Tôi là một cuộc du ngoạn rất thú vị, không
thể bỏ qua. Đặc biệt chuyến du hành này, Tôi được cái vinh dự mời
ngồi chung trong xe Peugeot 203 của Chỉ huy trưởng Viễn Thông,
chớ không phải dùng xe Jeep riêng của Phòng Mật Mã Trung ương.
Người tài xế lái xe cho anh Khương, là
một hạ sĩ quan đứng tuổi, đã từng theo anh ấy bôn ba ra “khu
chiến Phan Rang của Thiếu tá Thái Quang Hoàng”. Có thể nói anh
tài xế người miền Trung này là một kho truyện sống. Anh ấy vừa
lái xe vừa kể hết chuyện vui này đến chuyện giật gân khác, suốt
dọc đường. Vì thế, tâm óc mọi người ngồi trên xe bị khích động
liên tục, chẳng có một khoảng thời gian nào trống yên tịnh để mà
buồn ngủ.
Cảnh
vật dọc đường xe chạy qua, đẹp và biến đổi đột ngột, vô cùng hấp
dẫn. Xe không trang bị máy điều hòa khí mát, nên phải mở he hé
các cửa kính để thoáng hơi thay đổi khí trời từ ngoài vào, lùa
hơi nóng trong xe ra cho khỏi ngột ngạt khó chịu. Mùi vị không
khí cũng thay đổi đột ngột, tùy theo vùng xe băng ngang. Lúc
xuyên rừng mát dịu, thơm thơm mùi hoa dại hoặc mông mốc mùi lá
thối ủng. Lúc băng đồng trống cây cỏ cằn cỗi, không khí nóng hun
khô lỗ mũi. Lúc dọc theo bờ biển giữa những đồng muối, phản chiếu
ánh mặt trời chói chang, bốc hơi nồng nặc mùi tanh tanh của cá
biển.
Đặc biệt
từ đoạn đường giữa Phan Rang và Phan Rí, thấy rải rác đó đây vài
Mộ Tháp của người Chàm với kỹ thuật kiến trúc đặc biệt. Các Mộ
Tháp này nổi bật sừng sững bên đường, trông như những người khổng
lồ đội Vương miện nhô lên từ lòng đất. Thời gian phong sương đã
làm loang lỗ, sứt mẻ, mầu nâu xậm, với đôi chùm cỏ dại, rêu
phong, lòi ra từ các kẽ tường nứt chung quanh, trông như những
đụn tóc quăn cằn cỗi già nua. Chúng phất phơ trước gió, như muốn
chứng tỏ rằng trong khối đất nung gần hóa thạch đó, vẫn còn sinh
khí tàng ẩn của những con người thời oanh liệt xa xưa của dân tộc
xứ sở Chàm.
Lúc xe đang bon bon ngon trớn, lao đi như mũi tên xuyên đoạn rừng
rậm rạp trong khoảng đường giữa Gia Rai và Hàm Thuận, thì bỗng
nhiên tài xế bất thần đạp thắng gấp, và lách xe đảo qua đảo lại,
tạo ra tiếng xiết “Két! Két! Két!!!” dài ghê rợn vang dội cả khu
rừng. Mọi người trong xe bị trọng lực dồn chúi về phía trước,
đụng đầu vào lưng ghế trước và mặt kính bên hông xe, xô qua phải,
lắc qua trái, theo thế đảo qua lại của xe (vì không có dây nịt an
toàn như các xe chúng ta đang dùng tại Hoa Kỳ hiện nay). Xe lết
đảo qua đảo lại như thế cả hơn nửa cây số mới ngừng hẳn lại được.
May mà các xe Jeep tháp tùng, tốc lực có hạn không chạy kịp để
bám sát đít xe Peugeot, nếu không thì cảnh một đoàn xe húc đít
nhau dồn cục, văng lộn xà ngầu ra tứ phía và bốc cháy, chắc chắn
đã xảy ra vô cùng thê thảm.
Thật là hú viá! Anh Khương và Tôi ngồi
ghế sau, mê mải thả tầm mắt ngắm cảnh hai bên đường vùn vụt chạy
lui, tai lắng nghe truyện kể, giật mình ngơ ngác chẳng biết
truyện gì xảy ra cho xe. Cơn sửng sốt chợt qua đi, anh tài xế với
giọng hổn hển nhát gừng, kể rằng: “Bỗng dưng, thấy có một khối
đen đen thật to, cao chừng nửa mét, rộng cả mét đường kính, xuất
hiện thủng thẳng bò qua mặt lộ, phía trước cách xe khoảng mấy
trăm mét. Chắc chắn không phải mô ụ đắp trên mặt lộ, nên bằng mọi
giá phải thắng gấp lách tránh hắn, chớ để xe đụng nhằm hắn thì xe
sẽ lộn vòng móp bẹp tan tành nguy hiểm. Đến gần mới biết là con
rùa khổng lồ.”
Lý do thật chính đáng, anh tài xế đã
phản ứng kịp thời, giữ được vững tay lái một cách tài tình thiện
nghệ. Nếu không, với tốc độ nhanh cả 120 cây số/giờ mà đâm xầm
vào khối mu rùa cao nửa mét rộng 1 mét đó, chắc chắn xe sẽ lật
nhiều vòng, nát rúm, rồi bốc cháy, thì hôm nay Tôi chẳng còn ngồi
đây viết lại truyện cũ cho các Bạn đọc. Và, bên lề đường Quốc lộ
1 xuyên Việt giữa khu rừng già âm u rậm rạp, nơi ranh giới 2 tỉnh
Biên Hòa-Phan Thiết ấy, bây giờ chắc chắn có một Miếu nhỏ bỏ lây
lất, để hàng ngày các tài xế xe đò chở khách qua lại, dừng xe
xuống thắp mấy nén nhang, cúng vài chiếc bánh ít, bánh ngọt, trái
cây tươi, để vái lạy cầu xin các vong hồn uổng tử phù hộ cho họ
“thượng lộ bình an, đi đến nơi về đến chốn được an lành vô sự”.
Thoát nạn, hoàn hồn, anh tài xế còn
định đề nghị lùi xe lại, rinh con rùa nhốt vào hòm sau xe để tối
xả thịt nhậu cho giải xui, nhưng không ai đồng ý. Anh ấy bèn đến
bên con rùa đang bò bên lề đường, lật cho nó nằm ngửa trên mu. Nó
chịu trận chổng 4 cẳng lên trời, ngo ngoe đầu và chân tìm cách
lật xấp trở lại nhưng vô hiệu. Chắc là anh tài xế muốn phạt nó,
vì tội băng qua đường không chịu ngó trước ngó sau để làm cản trở
lưu thông nguy hiểm. Thấy mà tội nghiệp, chẳng biết đến lúc nào
con rùa khổng lồ đó mới tự lật úp xuống được, hay cứ phải nằm đó
chờ đến khi có một “hiền nhân” nào đó đi ngang thấy giải cứu cho.
Sau khi kiểm soát lại tình trạng các
bánh xe và máy móc, xe tiếp tục cuộc hành trình. Các câu truyện
chống buồn ngủ được chuyển hướng, xoáy vào đề tài nói về các điềm
hên xui dự báo trước, cho người đi xa thường gặp lúc mới bước
chân ra khỏi nhà. Gặp gái, gặp mèo, gặp đám cưới thì xui. Gặp
trai, gặp chó, gặp đám ma thì hên, vân vân và vân vân. Chẳng biết
xe chở chúng tôi, sáng hôm đó ra khỏi cổng nhà của Chỉ huy trưởng
Viễn Thông, bắt đầu lăn bánh trên đường phố, gặp phải triệu chứng
dự báo nào?
Nhờ cái hên bất ngờ vừa xảy ra, nên anh tài xế không còn dám ỷ
vào cái tài lái xe nhanh, xung mãn máu anh hùng phản ứng mau lẹ
của mình nữa. “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”, “Cẩn tắc vô
ưu”, tốc độ xe được giữ ở mức trung bình đều đều trên dưới 60 cây
số/giờ cho được an toàn, đồng thời đợi các xe Jeep chạy tốc độ
chậm, theo kịp để họp đoàn đi cho vui, và có thể giúp đỡ nhau mỗi
khi chẳng may gặp trục trặc máy móc trên đường trường, vắng bóng
xe qua lại.
Vào sâu trong địa phận Phan Thiết, đoàn xe chạy ngang một khu
làng có cây cối um tùm. Xa xa có ngọn đồi mang trên đỉnh nó mấy
dãy nhà gạch kiến trúc theo kiểu Âu Tây, trông oai vệ cổ kính
sừng sững nổi bật trên nền trời, như một lâu đài tân thời của một
Vương Tước cận đại nào đó. “Đồi Ông Hoàng”! Đúng là “Đồi Ông
Hoàng”, nơi ngày xưa các quan Tây đô hộ và các yếu nhân của Triều
đình nhà Nguyễn thời Vua Bảo Đại, thường lui tới nghỉ xả hơi
tránh không khí ngột ngạt của phố phường chật hẹp ô nhiễm, đầy
khói thải từ các nhà máy điện và xe lửa phun ra hàng ngày. Thời
còn Pháp thuộc, thi sĩ Hàn Mạc Tử cũng đã có lần được là khách cư
ngụ trong các dinh thự sang trọng này ít lâu, và đã có dịp cảm
tác những vần thơ bất hủ, nói ra tâm tư của người mắc căn bệnh
ngặt nghèo nan y đang chờ chết, gửi cho người yêu.
Sau này, vào khoảng đầu năm 1969, Tôi
là Đại tá Chánh Sự vụ Sở Khai thác Nha Tổng Thanh tra Quân lực,
được lệnh của Tổng Tham Mưu trưởng dẫn Đoàn Điều tra hỗn hợp
Việt-Mỹ, ra Phan Thiết tìm hiểu về vụ lính P.R.U. Do Mỹ quản trị
chỉ huy, có hành động ức hiếp tra khảo dân lành vô tội tại địa
phương xa thành phố. Lúc đó, Đại tá Đàng Thiện Ngôn làm Tỉnh
trưởng kiêm Tiểu khu trưởng, đã lấy trực thăng đưa phái đoàn
chúng tôi lên “Đồi Ông Hoàng” thăm viếng và ăn trưa tại chỗ, xả
hơi trước khi chấm dứt cuộc điều tra trở về Sài Gòn. Tại đỉnh
“Đồi Ông Hoàng”, các bạn đồng hành và Tôi đã được chiêm ngưỡng
một cổ vật chiến lợi phẩm quân sự. Đó là khẩu súng cao xạ thật
lớn của quân Phiệt Nhật, đặt tại đây từ hồi Đệ Nhị Thế chiến
(1939-1945) để bắn máy bay Đồng Minh Hoa Kỳ, tham gia cuộc chiến
chống Nhật tại Đông Dương.
Hồi cuối 1965, Đại tá Đàng Thiện Ngôn
còn là trung tá, làm Tham mưu phó cho Tôi tại Bộ Chỉ huy Trung
ương Địa phương quân và Nghĩa quân, cơ sở đóng tại đường Hùng
Vương, Chợ Lớn. Qua năm 1967, BCH TU ĐPQ&NQ giải tán biến thành
Tổng Cục ĐPQ&NQ (Đại tá Xương làm Tổng Cục Trưởng, Tôi làm Tổng
Cục Phó, Trung tá Ngôn làm Trưởng Khối Tiếp vận) di chuyển vào
trong Trại Trần Hưng Đạo, Tân Sơn Nhất, nên doanh trại của Địa
phương quân đã được Tôi bàn giao cho Cục Truyền Tin theo lệnh của
Bộ Tổng Tham Mưu. Kể từ đó, bảng hiệu “Trại Trần Nguyên Hãn” đã
được treo lên thay cho bảng hiệu của BCH TU ĐPQ&NQ. Cơ sở này,
nguyên thuộc quyền sở hữu của Nha Tổng Giám đốc Bảo An thuộc Bộ
Nội Vụ, gồm toàn những nhà trệt chật hẹp, không có trần nhà nên
rất nóng nực. Sau cách mạng 1-11-1963, ĐPQ&NQ được chuyển từ Bộ
Nội Vụ sang thuộc quyền Bộ Quốc Phòng, mới đổi thành Bộ Tư lệnh
Địa phương quân và Nghĩa quân, do Trung tướng Trần Ngọc Tám làm
Tư lệnh. Tướng Tám đã trình xin ngân khoản để phá hủy toàn bộ nhà
cũ, xây dựng lại những nhà 2 tầng khang trang rộng rãi, đủ tầm
vóc cho một Bộ Tư lệnh Lực lượng Diện địa (như Bộ Tư lệnh
National Guard của 1 Tiểu Bang trên Lục địa Hoa Kỳ). Dự án được
MACV (Hoa Kỳ) hỗ trợ và thực hiện ngay trong tài Khóa 1964-1965.
Nhưng tiếc thay, sau khi Tướng Khánh
(bạn chí thân của Tướng Tám) bị Đại Hội đồng Quân lực áp lực buộc
phải rời nước ra đi vào ngày 24 tháng 2 năm 1965, Hội đồng Tướng
Lãnh Việt Nam đang nắm quyền điều hành đất nước, không muốn Tướng
Tám giữ một trọng trách lớn như vậy. Nên đã giải tán Bộ Tư lệnh
ĐPQ&NQ, thay bằng Bộ Chỉ huy Trung ương Địa Phương quân và Nghĩa
quân, chỉ lo chuyên trách về quản trị hành chánh, tiếp vận, tuyển
mộ, yểm trợ công tác xã hội, thanh tra theo dõi tinh thần và ghi
nhận các ước vọng quân sĩ để trình Bộ TTM giải quyết mà thôi. Còn
việc tổ chức, huấn luyện, chỉ huy và sử dụng, thuộc quyền của các
Bộ Tư lệnh Vùng Chiến thuật và Tiểu khu trưởng kiêm Tỉnh trưởng.
Đại tá Trương văn Xương nguyên là Tư
lệnh phó của Tướng Tám, nay được chỉ định làm Chỉ huy trưởng BCH
TU ĐPQ&NQ, Trung tá Nguyễn Duy Hinh nguyên Tham mưu trưởng lên
làm Chỉ huy phó, Tôi nguyên là Tham mưu phó Tổ chức Huấn luyện
lên làm Tham mưu trưởng, và Trung tá Đàng Thiện Ngôn nguyên là
Tham mưu phó Tiếp vận trở thành Tham mưu phó cho Tôi. Thiếu tá
Nguyễn Hữu Chi, tiếp tục phụ trách Phòng Truyền Tin, nguyên thuộc
quân số Bộ Tư lệnh ĐPQ&NQ giải tán chuyển sang Bộ Chỉ huy TU
ĐPQ&NQ. Cuối năm 1967, Bộ Chỉ huy TU ĐPQ&NQ giải tán, thì anh Chi
và các nhân viên Truyền Tin thống thuộc được thuyên chuyển trả về
Cục Truyền Tin.
Trong thời gian Tôi làm Tham mưu
trưởng, Bộ Chỉ huy TU ĐPQ&NQ chúng tôi đã làm được một việc rất
quan trọng, đem lại lợi ích lớn cho anh em thuộc Lực lượng Địa
phương quân. Chúng tôi đã đề nghị và được Tướng Thiệu Chủ Tịch Ủy
ban Lãnh đạo Quốc gia chấp thuận cho ban hành Quy chế riêng cho
Địa phương quân.
Sự việc được diễn tiến như sau: Tướng
Thiệu họp đại diện các Phòng thuộc Bộ TTM và Bộ Chỉ huy ĐPQ&NQ,
tại tư dinh trong Cư xá Sĩ quan Trại Trần Hưng Đạo, để nghiên cứu
việc sửa đổi hình thức của các mẫu Cấp hiệu Úy và Tá, sao cho đeo
lâu ngày các bông mai bị bạc mầu, người ta không bị lẫn lộn giữa
cấp hiệu Úy (mầu vàng) và cấp hiệu Tá (mầu bạc), và chuẩn úy (nút
tròn vàng trên có ký hiệu alpha) với thượng sĩ nhất (nút tròn
vàng) và thượng sĩ (nút tròn trắng). Nhờ thế, sau này chúng ta
mới thấy cấp hiệu Tá ngoài các bông mai trắng có thêm một khung
chữ nhật có nhánh lá trúc ở sát dưới, để phân biệt với cấp hiệu
Úy chỉ có các bông mai vàng mà thôi. Cấp hiệu chuẩn úy giữ nguyên
không thay đổi. Nhưng mẫu Cấp hiệu các Thượng sĩ nhất và Thượng
sĩ thuộc hàng hạ sĩ quan, được sửa lại và không đeo trên cầu vai
như trước nữa, mà đưa xuống tay áo trái y như quy định cho các
cấp từ trung sĩ nhất trở xuống. Mẫu cấp hiệu được sửa lại là:
Thượng sĩ nhất thì thêm 2 vạch ngang ngay trên 3 chữ V (mẫu cấp
hiệu Trung sĩ nhất), và Thượng sĩ chỉ thêm 1 vạch ngang thôi.
Lúc đó, Tôi thay mặt Chỉ huy trưởng Bộ
Chỉ huy TU ĐPQ&NQ tham dự buổi họp, đã đề nghị và đã được chấp
thuận cho Địa phương quân được mang cùng một mẫu cấp hiệu sĩ
quan, hạ sĩ quan, và binh sĩ, y như của Chủ lực quân, chỉ khác là
nền cầu vai mầu ô-liu, thay vì đen như của Chủ lực quân (mẫu cấp
hiệu sĩ quan Bảo An cũ là các bông hoa thị có 8 cánh nhọn mầu
bạc). Vải mũ casquette cũng bằng dạ mầu ô-liu, dùng chung cho cả
2 loại quân phục Tiểu Lễ và Đại Lễ.
Riêng huy hiệu trên mũ casquette, Địa
phương quân vẫn dùng mẫu riêng được quy định bởi Bộ Nội Vụ từ
trước Cách mạng 1-11-1963 (Áo mũ giáp, thanh gươm và khẩu thần
công bắt chéo, và phía dưới có 2 chùm các bông lúa, đúc bằng kim
khí mầu bạc).
Khác với huy hiệu Chủ lực quân (Con Ó
đang xoè cánh bay, mang nơi ngực khiên Quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa,
hai chân quắp 2 thanh gươm, vòng hai bên đằng sau con ó là 2
nhánh nguyệt quế, phía dưới có băng ghi 3 chữ “Danh dự, Tổ Quốc,
Trách nhiệm, đúc bằng kim khí mầu vàng).
Doanh trại của Bộ Chỉ huy ĐPQ&NQ giải
tán được bàn giao cho Cục Truyền Tin,
Tổng cục ĐPQ&NQ mới thành
lập, được đổi lại bằng một dãy nhà trong Bộ TTM. Dãy nhà chúng
tôi nhận lãnh là dãy nhà trước kia do Sở Vật liệu TT và Phòng Mật
Mã Trung ương sử dụng, nằm ngay bên kia đường đối diện với dãy
nhà của Bộ Chỉ huy Viễn Thông cũ. Hằng ngày ngồi trong văn phòng
Tổng Cục Phó của Tôi ở trên lầu, nhìn sang sân bên kia đường vẫn
thấy Kỳ đài Huy hiệu Binh chủng Truyền Tin (Thanh gươm có 3 vòng
điện tử xoay quanh, do anh Thiếu úy Tước đôn đốc việc xây dựng
vào năm 1961, thời Anh Khôi làm Chỉ huy trưởng Viễn Thông, anh
Luận Tham mưu trưởng và Tôi Chỉ huy phó Viễn Thông) và 2 sân bóng
rổ và bóng chuyền rất đẹp vẫn còn trơ trơ ra đó. Làm Tôi nhớ lại,
những buổi chiều trước Cách mạng 1-11-1963 lật đổ Tổng thống
Diệm, anh em sĩ quan Bộ Chỉ huy Viễn Thông và Sở Vật liệu TT, rủ
nhau chia thành 2 nhóm đánh Volley đến nhá nhem tối không còn
thấy đường mới ngưng. Và đêm đêm vào hồi đầu năm 1963, trong suốt
thời gian cấm trại 100%, Trung tá Khổng văn Tuyển (Cục trưởng)
cùng Tôi (Cục Phó) sang chơi Domino với anh em trong Khối Vật
liệu gồm có Vũ Xuân Hoài, Đỗ Linh Quang... ngay tại căn phòng Tôi
đang ngồi. (Hồi đó, Anh Tuyển đang làm Chánh sự vụ Sở Viễn Thông
Bộ Nội Vụ, được đưa về thay anh Võ Đại Khôi bị đưa ra khỏi Ngành
Truyền Tin, vì anh Khôi tin dùng Trung úy Thông (bị An ninh quân
đội phát giác là Việt Cộng nằm vùng) trong số nhân viên nhóm
nghiên cứu sát nhập Sở Vật liệu và Bộ Chỉ huy Viễn Thông Bộ TTM
thành Cục TT, thành lập các Phòng 6 tại Bộ TTM và các Quân khu
thay cho các Bộ Chỉ huy Viễn Thông, đang do anh Nguyễn Tài Lâm
được anh Khôi đem về giao cho trách nhiệm làm trưởng nhóm.)
Quả thật là oái oăm, cái DUYÊN NỢ
TRUYỀN TIN nó cứ lẽo đẽo theo Tôi hoài không chịu dứt. Nãy giờ
dông dài hơi xa quá hóa lạc đề, vậy xin quay trở lại câu truyện
du hành đi Nha Trang đang bỏ dở nửa chừng. Đoàn xe tiếp tục chạy
qua một vùng đất cao bên hông phi trường Phan Thiết, rồi đổ xuống
thung lũng có thành phố nhà san sát bên nhau, đường xá chật hẹp,
nằm giữa 2 nhánh sông (Tôi không biết tên) phát nguồn từ cuối dãy
Trường Sơn chảy ra Biển Đông. Không cần nhìn bảng hiệu, người ta
cũng nhận ra ngay là thành phố Phan Thiết, nhờ mùi không khí khăm
khẳm của nước mắm, toả ra từ những xưởng sản xuất nước mắm cổ lỗ
thiếu hệ thống thanh lọc tân tiến bảo vệ môi sinh.
Mùi vị toả ra trong không khí thì gây
ngột ngạt khó chịu cho khứu giác như vậy, nhưng nước mắm lại là
món gia vị đem lại chất bổ dưỡng cao, và làm tăng hương vị đậm đà
cho các món ăn hàng ngày của dân tộc Việt Nam. Mùi của nước mắm
tiết ra cũng khăm khẳm, y như mùi của loại phó-mát rất quý và đắt
tiền của Pháp “Camember”, Tôi đã có dịp được thưởng thức nhiều
lần trong thời gian du học tại Trường Truyền Tin Montargis bên
Pháp.
Trong
các loại nước mắm, chúng ta được biết có loại thượng hảo hạng là
“nước mắm Nhĩ”, mùi vị dịu ngọt chớ không hắc khẳn mặn chát, giá
cả bán cũng rất đắt so với các loại thường. Nhưng “nước mắm Nhĩ”
thứ cốt thiệt rất quý, dân nhà nghề chài lưới thường dành để dùng
trong những chuyến ra khơi. Họ uống một ly nhỏ để hâm nóng cơ
thể, chống lạnh cóng lúc hoạt động buông kéo lưới ngoài khơi.
Thành ra loại “nước mắm Nhĩ” mà chúng ta mua được ngoài chợ là
loại “nước Nhĩ nhì” hoặc “Nhĩ pha trộn”, chớ không phải thứ “Nhĩ
thiệt cốt nhất”, thế mà ăn vẫn ngon hơn các loại thường rõ ràng
như “một trời một vực”. Theo chỗ Tôi biết thì Việt Nam có 3 nơi
sản xuất nước mắm nhiều và nổi tiếng. Miền Trung có Phan Thiết,
miền Nam có đảo Phú Quốc thuộc tỉnh Rạch Giá, và miền Bắc là vùng
Cát Hải thuộc tỉnh Quảng Yên.
Ra khỏi thị xã Phan Thiết, xe phải vặn
hết các cửa kính 2 bên hông xuống cho thoáng gió, chạy cả tiếng
đồng hồ sau vẫn còn thấy phảng phất mùi nước mắm. Đưa tay áo lên
mũi ngửi, mới biết là hơi nước mắm đã bám và thấm vào vải, chỉ
còn có cách cởi ra bỏ giặt thì mới hết. Xe tiếp tục chạy qua vùng
không khí oi nóng. Dọc bên trái đường, tầm mắt bị hạn chế bởi dải
núi Trường Sơn cây rừng rậm rạp, cao vút lên trời xanh. Bên phải
quang đãng, bằng bằng, nhấp nhô những đụn cát dài ra tận bờ biển,
thưa thớt đó đây những hàng cây cao lẫn cả dừa. Có đoạn nhìn thấy
cả mặt biển long lanh mầu xanh lam hiền dịu, nhập chung với đường
chân trời xa tít, với những nhóm cột buồm khẳng khiu túm tụm nghỉ
ngơi sau chuyến ra khơi nhiều ngày trở về.
Qua Phan Rí, Phan Rang, đến Ba Ngòi,
đoàn xe ngừng cho máy móc nghỉ ngơi, người xuống vận động cho thư
giãn các cơ bắp và ăn uống lấy lại sức, trước khi đi nốt đoạn
đường còn lại để vào thành phố Nha Trang.
Các đơn vị Truyền Tin được ghi trong
lịch trình “Thanh tra Chỉ huy” lần này gồm: Đại đội 7 TT, cơ sở
Truyền Tin Phân khu Duyên hải Nha Trang, và Đơn vị Tồn trữ, Tiếp
liệu và Sửa chữa Vật liệu TT. Riêng việc thăm Đơn vị Tồn Trữ Tiếp
Liệu và Sửa Chữa Vật liệu TT, phải gọi là “thăm viếng xã giao”
thì đúng hơn là “Thanh tra Chỉ huy”, vì đơn vị này vẫn đang còn
nằm trong hệ thống Chỉ huy của Nha Quân Cụ (Direction du
Matériel) ở Sài Gòn, không thuộc quyền chỉ huy của Chỉ huy trưởng
Viễn Thông. Đơn vị trưởng lịch sự muốn tiếp và cho thăm viếng
cũng được, ngược lại theo “nguyên tắc chỉ huy” từ chối không cho
cũng chẳng làm gì được.
Theo nhận xét riêng của Tôi, kỳ “Thanh
tra Chỉ huy” này chỉ là cái dù hợp pháp, để anh Khương thực hiện
2 công tác ngoài kỹ thuật Truyền Tin là:
1. Tiếp xúc với nhóm ủng hộ Thủ tướng
Diệm, bàn luận các kế hoạch hành động và nhận những nhiệm vụ sẽ
phải thực hiện trong tương lai tại Sài Gòn.
2. Cho anh em sĩ quan tham mưu thuộc Bộ
Chỉ huy Viễn Thông trong Sài Gòn, thấy tận mắt hình thức “sinh
hoạt chính trị của Phong trào Cách mạng Quốc gia” trong hàng ngũ
Quân đội như thế nào, tại Đại đội 7 Truyền Tin để mà học hỏi và
áp dụng sau này.
Sở dĩ Tôi dám khẳng định như vậy, vì
lịch trình chính thức thực hiện chỉ là đi phớt qua các đơn vị y
như ta đi xem triển lãm vậy thôi, chớ không phải thanh tra tìm
hiểu kỹ để giải quyết những vấn đề của đơn vị. Thời gian làm như
vậy chỉ cần một ngày là xong, thế mà chúng tôi phải ở Nha Trang
tới 3 ngày 3 đêm lận. Dĩ nhiên là có những buổi anh Khương họp
riêng với Phong trào Chủ chốt tại Nha Trang, thì chúng tôi được
rảnh rang dạo chơi coi phố phường, chợ, hoặc đi tắm biển dọc ngay
bên thành phố.
Hoạt động nổi bật nhất trong dịp “Thanh
tra Chỉ huy” này, là đêm lửa trại tổ chức tại doanh trại của Đại
đội 7 Truyền Tin. Tất cả đơn vị, sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ,
không phân biệt cấp bậc, ngồi xệp xuống đất, lẫn lộn quây quần
bên nhau, quanh một đống củi lớn ở giữa sân của đơn vị. Thủ tục
khai mạc, mọi người đứng lên hát bài Quốc Ca Việt Nam xong, anh
Khương Chủ tọa châm mồi lửa vào đống củi bùng cháy, mọi người vỗ
tay reo hò và ngồi xuống. Diễn tiến kế theo là “Chủ tọa đoàn của
Phong trào Cách mạng Quốc gia” của đơn vị điều khiển mọi người
công khai đóng góp ý kiến nhận xét về các hoạt động của đơn vị,
đặc biệt nêu ra những điểm sơ xuất và thiếu Dân chủ để các cấp
chỉ huy tùy trách nhiệm phải trình bày giải quyết. Xen kẽ cuộc
“phê bình và giải quyết” là những mục trình diễn văn nghệ ca,
kịch... Sau 2 tiếng đồng hồ sinh hoạt, đống lửa bắt đầu tàn thì
bế mạc.
Đêm
Lửa Trại có hình thức y hệt sinh hoạt của Hướng đạo sinh tổ chức
cuối tuần bên thiên nhiên. Thuở niên thiếu, Tôi đã từng tham gia
hoạt động trong các Đoàn Hướng Đạo Sinh Đông Dương thời Pháp
thuộc, nên không bị bất ngờ hay lạ lùng gì. Còn đối với các bạn
khác từ Sài Gòn ra chưa từng tham gia các sinh hoạt Hướng đạo hay
Thanh niên ngoài trời, thì hẳn thấy là lạ, vui vui, thích thú.
Nhưng, sau giờ tàn Lửa Trại ra về, đêm nằm ngủ chắc chắn sẽ phải
suy tư hoang mang lo âu không ít. Có lẽ hồi ở trong “chiến khu
của Thiếu tá Thái Quang Hoàng” thường tổ chức sinh hoạt chính trị
như vậy, nên anh Khương và mấy anh em thuộc Đại đội 7 đi theo
thấy hay, bắt chước đem về áp dụng trong “sinh hoạt chính trị”
của đơn vị. Cũng có thể lối sinh hoạt chính trị này là kiểu mẫu
do Phong trào chỉ thị phải thực hiện như vậy tại đơn vị.
Riêng cá nhân Tôi, sau khi tham dự buổi
“Lửa trại sinh hoạt chính trị” này, cảm thấy không có thiện ý
nhưng không dám nói ra. Vì Phong trào dùng hình thức lửa trại
(giải trí xây dựng tình đồng đội có vẻ thân thiết này) để thực
hiện việc “phê bình đòi biết mọi truyện trong đơn vị, và buộc cấp
chỉ huy phải sửa đổi lề lối làm việc”, y như các Đảng ủy cộng sản
đối với các cấp trong đơn vị Bộ đội của họ. Trong ngày thì các
cấp chỉ huy tùy theo chức vị ra lệnh đôn đốc thuộc cấp hoàn thành
nhiệm vụ của đơn vị. Tối đến đơn vị sinh hoạt chính trị, một binh
sĩ, một hạ sĩ quan, hay một sĩ quan cấp nhỏ nào đó, làm “Chủ tịch
Phong trào” ngồi điều khiển cuộc “phê bình đàn hạch” các cấp chỉ
huy, về những lệnh hay hành động mà Phong trào cho là không hợp
lý, thiếu Dân chủ, chưa Cách mạng... Nhất là trong buổi sinh hoạt
này, anh em trong đơn vị lại không xưng hô với nhau bằng cấp bậc,
mà gọi nhau là “Đồng chí với Họ Tên người được đề cập tới”. Chẳng
lẽ, Đại đội trưởng bị phê bình, lúc trả lời lại nói: “Thưa Hạ sĩ
X, Chủ tịch...” thì nó khôi hài quá, nên mọi người đành thoả
thuận là trong những giờ công vụ thì “Thưa Đại úy!”, nhưng trong
buổi sinh hoạt chính trị thì chỉ nên gọi đơn giản “Thưa đồng chí
X, đồng chí Y...” cho nó thuận tai và vui vẻ cả làng. Cách mạng
là bình đẳng mà!!!
Chắc hẳn rằng, cái loại “sinh hoạt chính trị
phê bình xây dựng công khai” mới mẻ này là phương tiện gây áp lực
làm nản lòng những người Chỉ huy nào mà “cấp lãnh đạo cao của
Phong trào” thấy cần phải thay thế, vì nghi vấn thân Pháp Thực
dân, thuộc phe nhóm cũ của Cựu Hoàng Bảo Đại, hoặc ngang bướng
không chịu luồn lách uốn mình theo thời đại, khiến cho họ chịu
đựng không nổi phải tìm cách xin rút lui, nhường chỗ cho những
người của “Phong trào” lên thay thế. “Mỗi cái tóc là một cái
tội”, nếu ai không thông minh hiểu ra được để mà từ nhiệm cứ cố
gắng bám trụ, thì trước sau gì cũng sẽ bị hạ bệ bằng nhiều hình
thức, nặng nhẹ khác nhau khó mà lường trước được.
Từ khi “Phong trào Cách mạng Quốc gia”
bắt đầu nở rộ trong toàn Quân đội, biết bao cảnh các cấp chỉ huy
đơn vị có khả năng chuyên môn giỏi, có tinh thần phục vụ hăng
say, có kỷ luật tư cách ngay thẳng, bị thay đổi bằng những người
kém khả năng chuyên môn và thiếu tài lãnh đạo chỉ huy, nhưng có
được đặc tính khả năng duy nhất là, luôn luôn tỏ ra trung thành,
tận tụy hăng hái, tuyệt đối tuân theo chỉ thị đường lối của “Cấp
cao lãnh đạo Phong trào” không cần biết thuận lý hay không.
Cái phương thức “Sinh hoạt chính trị
lửa trại” này đem vào Sài Gòn, đã phải biến đổi theo hình thức
khác. “Học tập chính trị đả Thực bài Phong” trong Hội trường, vì
doanh trại các đơn vị và cơ sở tham mưu trong thành phố (Thủ
Đô) không có điều kiện tổ chức lửa trại. Cái phương thức
sinh hoạt cách mạng (cá mè một lứa, binh sĩ và cấp Chỉ huy
đàn hạch nhau công khai), tưởng sẽ đem lại sự đổi mới tinh thần Quân
đội và Hành chánh thoát khỏi nếp sống ù lì quan lại cũ, lại là
mầm mống làm băng hoại tinh thần Kỷ luật Quân đội, và làm nản
lòng những người có thiện chí, đã hăng hái hy sinh gia nhập Quân
đội để phục vụ Quốc gia Dân tộc với “tinh thần bất vụ lợi”, trong
suốt thời Đệ Nhất Cộng Hòa kéo dài sang cả Nền Đệ Nhị Cộng Hòa
vẫn chưa dứt. Nhiều người đã bị cho giải ngũ với những hình phạt
hoặc lý do không chính đáng, hoặc phải tự ý tìm cách chạy chọt để
được giải ngũ vì không muốn thấy cảnh “trái tai gai mắt” “Kỷ
luật là sức mạnh Quân đội” bị phá sản như vậy. Thật đáng
tiếc!
Phụ Chú
Tiếp dưới đây là 2 tấm hình chụp nhân
lễ kỷ niểm NGÀY QUÂN LỰC 19 THÁNG 6 tại thành phố Midway City,
quận Orange, Nam California, Hoa Kỳ, do Hội Cựu Chiến binh Quân
lực Việt Nam Cộng Hòa Nam California tổ chức.
Trong
hình dưới đây, Nguyễn–Huy Hùng, Chủ tịch Khu hội Cựu tù nhân
Chính trị, đồng thời cũng là Hội Trưởng Hội Cựu sinh viên sĩ quan
Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam Nam California, được mời trình bày
ý nghĩa NGÀY QUÂN LỰC 19 THÁNG 6, trong buổi lễ.
CHƯƠNG 7
BẦU CHỦ TỊCH PHONG TRÀO CÁCH MẠNG
QUỐC GIA CỦA BINH CHỦNG TRUYỀN TIN
Những trận
mưa đầu mùa, ào ào đổ nước xuống miền Nam Việt Nam, thường khởi
sự vào buổi tối. Nó kéo dài khoảng 1, 2 tiếng đồng hồ, tạm ngưng
chừng 2, 3 chục phút, rồi tiếp tục trút nước trở lại cho đến sáng
mới tạnh hẳn. Và cứ theo chu kỳ như hàng năm, nó lùi dần giờ khởi
đầu vào đêm, vào buổi sáng, vào trưa, vào xế chiều, rồi vào nửa
đêm là tới thời kỳ chấm dứt mùa mưa tại miền Nam.
Thật là phiền hà cho những ai phải đi
sinh hoạt vào buổi tối. Lái xe trong mưa gió mịt mờ, mặt đường
trơn trợt, ánh đèn đường và đèn xe chạy ngược chiều làm chóa mắt,
dễ gây tai nạn. Lại còn cái nạn phải đợi chờ những người đến trễ,
khai mạc không đúng giờ, kéo dài thêm thời gian họp, hoặc rút
ngắn bớt chương trình, và chẳng lần nào có đủ thì giờ để thảo
luận kỹ càng mọi vấn đề cần yếu như dự định.
Ban Chấp hành Phong trào Cách mạng Quốc
gia Trung ương của Binh chủng Truyền Tin, được ra đời vào cái
thời gian phiền hà mưa gió này tại Đại đội 8 TT. Đại đội do anh
Đại úy NGUYỄN ĐÌNH SÁCH làm Đại đội trưởng, thay thế vị sĩ quan
người Pháp, bàn giao theo kế hoạch rút quân Pháp ra khỏi Việt Nam
quy định bởi Hiệp định Genève tháng 7 năm 1954. Doanh trại ĐĐ8TT
nằm trong khu Xóm Gà, Bà Chiểu, phía sau Vận động trường của Thị
xã Gia Định. Đường dẫn vào Đại đội là đường đất hẹp trong ngõ
xóm, chỉ đủ cho một xe GMC chạy. Mỗi khi gặp xe chạy ngược chiều,
1 trong 2 xe phải ngừng lại, tìm chỗ đậu sát vào sân của một nhà
nào đó trong xóm, nhường cho xe kia đi qua rồi mới nhô ra chạy
tiếp. Hai bên đường không có rãnh thoát nước, mỗi lần gặp trận
mưa lớn thì ôi thôi mênh mông là nước, ngập đường, ngập sân. Tạnh
mưa, nước ngập rút hết thì là nạn xình lầy trơn trợt.
Tối hôm đó, Tôi không nhớ rõ ngày
tháng, một số sĩ quan thuộc BCH Viễn thông và các đơn vị TT Trung
ương, đã ký đơn tình nguyện gia nhập Phong trào Cách mạng Quốc
gia (PTCMQG), được mời tới họp tại ĐĐ8TT, lúc 8 giờ. Thật là xui,
Trời đổ mưa từ 7 giờ tới 9 giờ mới tạm dứt. Tuy vậy tất cả anh em
đều đã đến đúng giờ quy định. Từ chỗ đậu xe vào phòng họp chỉ
cách xa khoảng 50 mét, nhưng ai nấy phải lội bì bõm, nước đầy
giầy y như đang đi dưới ruộng. Vào đến trong nhà, cởi áo mưa,
trút sạch nước trong giầy ra, anh em tụm nhau phì phèo thuốc lá
Con Mèo hoặc 555 cho ấm lòng. Riêng Tôi, thuốc điếu coi là quá
nhẹ, phải bầm bập chiếc Tẩu Dunhill, đốt thuốc tobacco Seventy
nine trộn lẫn với Half and Half do dân nước Cờ Hoa sản xuất.
Chúng tôi ngồi đợi anh Trung tá Khương và anh Đại úy Giác chưa
đến. Khoảng 9 giờ, vừa tạnh mưa được một chốc thì Nhị Vị chủ chốt
tới. Bước vào phòng với câu mào đầu thật lịch thiệp và đầy ý
nghĩa quan trọng: “Xin lỗi, làm anh em phải đợi, mắc kẹt ở văn
phòng của Ông Cố vấn lâu quá nên trễ, mong anh em thông cảm...”.
Sau lớp lang thủ tục khai mạc buổi hội,
anh Khương bắt đầu trình bày. Đại ý đề cập tới tình hình đất
nước, và mức quan trọng mà Cấp Trên quan tâm là cần phải có một
Phong trào để hướng dẫn xây dựng cho toàn Dân toàn Quân có được ý
thức chống cộng sản vững chắc, chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử
trên cả 2 miền đất nước vào năm 1956, quy định bởi Hiệp định
Genève tháng 7-1954. Do đó Quân đội cũng phải tham gia sinh hoạt
học tập chính trị như đồng bào. Binh chủng TT của chúng ta, được
Cấp Trên ghi nhận là Binh chủng tiên phong trong mọi sinh hoạt
chính trị giai đoạn vừa qua, nên được chỉ thị phải tiếp tục đi
trước, thành lập PTCMQG trong tất cả các Đơn vị TT, để rút ưu
khuyết điểm làm bài học kinh nghiệm cho các Binh chủng khác. Vì
thế hôm nay chúng ta họp ở đây, để bầu ra 1 người đảm trách chức
vị Chủ tịch Phong trào. Rồi vị này sẽ mời những người có khả
năng, nhất là có tinh thần dấn thân, để thành lập Ban chấp hành
Trung ương PTCMQG cho Binh chủng Truyền Tin.
Cuộc bầu cử sẽ được thực hiện theo thể thức Dân chủ, và rất đơn
giản. Chúng ta
bầu ra một Chủ tọa đoàn, để ghi nhận danh sách những người tình
nguyện ứng cử. Nếu không ai chịu xung phong ứng cử, chúng ta sẽ
cùng góp ý đề cử, các người xét có khả năng đảm trách chức vụ ra
tranh cử. Việc bỏ phiếu bầu sẽ theo thể thức công khai trực tiếp,
nghĩa là dơ tay bầu cho người nào mình tín nhiệm. Mỗi người chỉ
được dơ tay bầu 1 lần, cho 1 người mà thôi. Cuối cùng ai được
nhiều phiếu nhất được coi là thắng cử. Không ai chịu xung phong
ứng cử, nên phải áp dụng phương thức đề cử. Tôi dơ tay trước tiên
đề cử Trung tá Nguyễn Khương, vì anh đang làm Chỉ huy trưởng Binh
chủng, nhận trách vụ này là hợp lý hợp tình nhất. Anh Khương đề
cử Trung tá Lê văn Hiền Chánh sự vụ Sở Vật liệu Truyền tin, mới
tách ra khỏi Nha Quân Cụ chưa thuộc quyền chỉ huy trực tiếp của
Chỉ huy trưởng Viễn Thông. Trung tá Hiền xin đề cử Đại úy Hà
quang Giác Tham mưu trưởng BCH/VT. Cuối cùng anh Giác đề cử Tôi (Thiếu
tá Nguyễn-Huy Hùng) thêm vào danh sách tranh cử.
Không ai có ý kiến gì thêm, cuộc bỏ
phiếu dơ tay bắt đầu cho từng người một, theo thứ tự trước sau
ghi trên bảng danh sách đề cử. Chung cuộc, Tôi là người được
nhiều phiếu nhất. Điều này khiến Tôi rất ngạc nhiên. Sau một giây
suy nghĩ, Tôi nghi là có sự sắp xếp vận động ngầm từ trước của
Ban tham mưu chính trị của anh Khương, để buộc Tôi phải lãnh
trách vụ này theo ý định của anh Khương. Bởi vì trong lúc anh em
dơ tay bầu, Tôi đưa mắt quan sát xem những ai bầu cho Tôi, thấy
rõ ràng ngoài anh Giác và đoàn tùy tùng theo anh Khương từ Nha
Trang về bỏ phiếu cho Tôi, còn một số người khác thuộc các Đơn vị
TT Trung ương Tôi chưa hề quen biết. Dĩ nhiên anh em thuộc phòng
MMTU có mặt trong buổi họp và cá nhân Tôi, đều dồn phiếu cho anh
Khương. Còn anh Khương thì dơ tay bầu cho Trung tá Hiền.
Sau buổi hội, Tôi yêu cầu anh Khương và
anh Giác giới thiệu cho Tôi, những người am tường về Phong trào
gốc, để giúp Tôi và anh em Phòng MMTU, hoàn thành tốt trách vụ mà
tập thể mới giao phó cho Tôi. Hai anh ấy đã hứa và đã làm theo
lời hứa. Anh em thuộc Phòng MMTU chúng tôi lo Ban thông tin báo
chí, thực hiện giờ phát thanh Tiếng nói Binh chủng Truyền tin
hàng tuần 30 phút trên làn sóng của Đài phát thanh Quân đội, biên
soạn và sưu tập tài liệu bài vở hình ảnh để lên khuôn Nguyệt san
SÓNG VIỆT của Binh chủng, việc in và phát hành sẽ do anh Giác
trách nhiệm liên lạc với Trung tâm Ấn loát Quân đội trong Bộ Tổng
tham mưu thực hiện.
Khoảng 2 tuần lễ sau, Tôi và anh em
Phòng MMTU được Trung úy Nguyễn văn Thành (Ủy viên trong BCH
PTCMQGTU TT) thông báo là, một phiên họp kín của Ban Chấp Hành
PTCMQGTU của Binh chủng TT sẽ được triệu tập tại một tư gia (kiểu
Villa, Tôi không nhớ số nhà) trên đường Thevenet, vùng Quận
1 Sài Gòn, vào lúc 9 giờ tối. Tôi đích thân lái xe đón anh em sĩ
quan phòng MMTU đưa đến điểm hẹn, gặp anh Thành chờ đón chúng tôi
tại sân. Đợi ít phút sau thì anh Khương và anh Giác tới. Chúng
tôi được hướng dẫn vào một căn phòng mờ ảo, dưới ánh sáng của đôi
ngọn nến chập chờn trên một bàn thờ. Trên tường phía sau bàn thờ,
treo một tấm cờ lớn 2 mầu vàng và đỏ. Cờ của PTCMQG, Tôi đã có
dịp thấy treo đầy đường ở miền Huế. Cờ gồm 2 sọc đỏ nhỏ ở 2 bên
nền vàng lớn nằm giữa, trên nền vàng có ngôi sao đỏ 5 cạnh. Trước
hương án trên bàn thờ, thấy có 1 khẩu súng lục, 1 nón sắt, và 1
chén kiểu đựng rượu trắng.
Sau khi làm xong các thủ tục lễ tiết (Tôi
không nhớ rõ gồm những gì), anh Khương tiến đến trước bàn
thờ, cằm chiếc kim chích thuốc, châm vào đầu ngón tay của mình và
nặn cho mấy giọt máu đào rơi xuống bát rượu. Mọi người hiện diện
cũng được yêu cầu làm như vậy. Sau đó Hạ sĩ Hà Tổng thơ ký đọc
bản liệt kê lời tuyên thệ, mọi người cùng nói xin thề. Sau cùng,
anh Khương tiến lên trước bàn thờ chắp tay cúi đầu vái mấy vái,
rồi bưng chén rượu lên uống một ngụm, mọi người lần lượt theo
nhau uống mỗi người một ngụm. Người sau chót, không nhớ là ai,
uống cạn chỗ rượu còn lại rồi vỗ tay, mọi người xúm lại bên nhau
bắt tay khắng khít, cười thân thiện và bắt đầu đổi cách xưng hô,
gọi nhau là ĐỒNG CHÍ. Lúc đó, Tôi mới biết là chúng tôi được gọi
đến làm thủ tục “trích máu ăn thề đồng sinh đồng tử”, để
chính thức trở thành một trong các mắt xích của Phong Trào Cách
mạng Quốc gia.
Kể từ ngày đó trở đi, trong các buổi
sinh hoạt riêng của Phong trào, chúng tôi đều gọi nhau bằng Đại
danh từ Đồng chí. Trên mọi giấy tờ tài liệu thuộc phạm vi Phong
trào, chúng tôi dùng Bí danh chớ không dùng tên thật của mình. Bí
danh của Tôi là QUỐC TUẤN. Nếu bạn nào đã có dịp đọc các tài liệu
hành chánh của PTCMQG/TT hồi đó, không biết Quốc Tuấn là anh
chàng nào, thì bây giờ được biết, hẳn là cũng chưa muộn phải
không?
Để gây qũy cho BCH Phong trào có tiền
chi dụng lặt vặt, Tôi đã cố gắng học hỏi sự chỉ dẫn của 1 Trung
sĩ Họa sĩ trong Phòng MMTU, hoàn thành một bức tranh mầu “Cây
thông” theo thể loại lập thể của Danh họa Picasso, để bán
đấu giá theo kiểu Hoa Kỳ, trong một buổi học tập chính trị tổ
chức tại Đơn vị sửa chữa Vật liệu TT Địa phương (ERMT) gần trường
đua Phú Thọ. Hình như giá sau cùng được cử tọa đưa ra là 1 ngàn
rưởi, và do một nữ lưu, không nhớ tên, đại diện Căn cứ Tiếp vận
TT Trung ương đồn trú tại vùng Gò Vấp mua được. Sau này trong
những dịp xuống Căn cứ tham dự học tập với tư cách Đại diện Trung
ương, Tôi thấy bức tranh treo trên tường trong phòng làm việc của
Đại úy Trần văn Bình Chỉ huy phó Căn cứ.
Cũng kể từ ngày PTCMQGTU/TT được thành
lập, trong tất cả các buổi học tập chính trị đều có xen vào một
mục ngoại chương trình, đề cao tinh thần ái quốc hy sinh vì Dân
tộc Việt Nam của Chí sĩ Ngô đình Diệm và dòng họ Ngô đình, vạch
trần những yếu kém nhu nhược ham vui, không sốt sắng chăm lo việc
Quốc gia của Cựu Hoàng Bảo Đại, để chuẩn bị cho cuộc TRƯNG CẦU
DÂN Ý sẽ tổ chức vào tháng 10 năm 1955.
“Hăm ba
tháng mười là ngày trưng cầu dân ý,
Hăm
ba tháng mười là ngày xoá tan ngai vàng.
Đứng lên toàn quốc, viết trang sử mới,
...”
(còn một câu nữa Tôi quên không nhớ...)
Thế rồi ngày trưng cầu dân ý đã đến.
Toàn dân miền Nam nô nức đi bỏ phiếu, để lựa chọn xem giữa ông
NGÔ ĐÌNH DIỆM đương kim Thủ tướng và ông BẢO ĐẠI đương kim Quốc
trưởng, ai sẽ là người được toàn dân tín nhiệm lèo lái con thuyền
Quốc gia Việt Nam tại miền Nam, xây dựng một Chế độ chính trị Dân
chủ không cộng sản.
Theo thống kê ghi trên Công báo Việt
Nam thời bấy giờ, cho thấy kết quả thắng bại chênh lệch rõ rệt.
Ông Ngô đình Diệm được 98.2% trên tổng số phiếu 5,784,842 của cử
tri đi bầu vào ngày 23 tháng 10 năm 1955. Còn ông Bảo Đại chỉ
được có 1.1% bằng 63,107 phiếu.
Ba ngày sau, tức ngày 26 tháng 10 năm
1955, qua làn sóng điện của cả 2 Đài phát thanh Sài Gòn và QUÂN
ĐỘI, ông Ngô đình Diệm ngỏ lời cám ơn toàn thể đồng bào đã tín
nhiệm ông trong cuộc trưng cầu dân ý vừa qua. Ông hứa là sẽ cấp
tốc chuẩn bị việc tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến, để soạn thảo
một Hiến pháp thật Dân chủ, theo mô thức Tây phương kiểu Tổng
thống chế cho Việt Nam, vào đầu tháng 3 năm 1956. Cũng kể từ ngày
ấy, mỗi khi ban hành các Sắc lệnh ông Diệm ký tên với tước hiệu
Tổng thống, nhưng chưa công khai “đăng quang”, nên ngoài
dân gian người ta chỉ gọi là Cụ Diệm, hoặc Chí sĩ Ngô đình Diệm,
và các giới chức trong Quân đội và Hành chánh, mọi người đều gọi
bằng một Đại danh từ rất thân thương và kính cẩn là CỤ. Chỉ sau
ngày 26 tháng 10 năm 1956, ông Ngô đình Diệm chính thức công bố
HIẾN PHÁP VIỆT NAM CỘNG HÒA và TUYÊN THỆ NHẬM CHỨC Tổng thống
trong một buổi lễ tổ chức rất quy mô trọng thể tại Đại lộ Trần
Hưng Đạo, chỗ ngã tư đường Nguyễn Thái Học dẫn xuống chợ Cầu Muối
Sài Gòn, mọi người mới gọi là Tổng thống Diệm. Và cũng kể từ đó
mới thấy Lãnh tụ Quốc khách từ các nước thuộc Thế giới Tự Do Tư
Bản, lần lượt tới thăm miền Nam Việt Nam.
Giáng sinh năm 1955, mọi đơn vị Quân
đội đều lo tổ chức liên hoan rầm rộ. Mục đích chính là để mọi
người mừng Chúa Ki-tô giáng trần, đem Tình thương đến cho nhân
loại. Nhưng nhiều vị chỉ huy thời đại, mặc dù là người theo Phật
Giáo, đã lợi dụng dịp này để tạo cơ hội chứng tỏ cho CỤ thấy
rằng, mình đang có rất đông thuộc hạ kính mến ủng hộ nhiệt tình.
CỤ và các giới chức thân cận Cụ, có thể yên tâm tin tưởng giao
phó những chức vụ Chỉ huy quan trọng, không sợ lầm.
Trung tâm huấn luyện Truyền tin di
chuyển từ ngoài Bắc vào, đang tạm đồn trú tại cơ sở của trường
Tiểu học Gia định, bên cạnh Tòa Hành chánh Tỉnh và Khám giam Tù
hình sự, được giao trách nhiệm tổ chức Đêm Dạ Hội kiểu Lửa trại,
để toàn thể khóa sinh của Trung tâm Huấn luyện, nhân viên thuộc
BCH Viễn Thông, cùng các đơn vị TT Trung ương, tham dự mừng Giáng
sinh 1955. Nếu Tôi nhớ không lầm, thì Anh Nguyễn đình Tài được
Chỉ huy trưởng TTHL chỉ định làm Trưởng Ban phối hợp thực hiện.
Buổi Dạ hội được coi là thành công mỹ mãn. Có sự hiện diện của
một Vị thượng khách ngoài Binh chủng là Thiếu tá Huỳnh văn Cao
làm việc tại Võ phòng của CỤ. (Sau này Thiếu tá Cao được Tổng
thống Diệm ưu ái cho đi làm Sư đoàn trưởng và thăng lên cấp thiếu
tướng.) Chương trình mừng Giáng sinh của Truyền Tin gồm rất
nhiều mục đặc sắc, đơn ca, hợp ca, nhạc cảnh, kịch, hề riễu, ảo
thuật... Do khóa sinh và nhân viên thuộc các đơn vị TT chuẩn bị
trình diễn, liên tục suốt 2 tiếng đồng hồ liền, từ 8 giờ đến 10
giờ đêm. Ít ngày sau TTHL phải di chuyển ra Vũng Tầu, anh Nguyễn
đình Tài được đưa về làm Chỉ huy phó Viễn Thông, thăng cấp thiếu
tá nhiệm chức. Một thời gian sau, anh Tài lại được đưa đi làm Chỉ
huy trưởng TTHL Truyền Tin Vũng Tầu, và anh Thiếu tá Nguyễn văn
Thụ về làm Chỉ huy phó Viễn thông thay anh Tài.
Hồi còn nhỏ, là Hướng đạo sinh của Đoàn
Thiếu sinh Mẫu Sơn ở thị xã Lạng Sơn, một tỉnh giáp ranh với
Trung Hoa (nơi có Ải Nam Quan, theo lịch sử Việt Nam thì cha
con Cụ Nguyễn phi Khanh và Nguyễn Trãi khóc tiễn biệt nhau, con
là Nguyễn Trãi trở về lo phục hận, cha là Nguyễn Phi Khanh theo
quân xâm lược dẫn đi đày biệt xứ ở bên Tầu), Tôi cũng đã
được tham dự rất nhiều Dạ hội lửa trại vào dịp Noel, do chức
quyền Hành chánh và Quân đội thuộc địa Pháp tổ chức rất quy mô,
nhưng chưa lần nào thấy vui nhộn sống động, đầy ý nghĩa khích
động lòng yêu non sông tổ quốc Việt Nam, như đêm Dạ hội quanh
vòng lửa lần này.
Chắc chắn ngày hôm sau, thế nào Thiếu
tá Huỳnh văn Cao cũng đệ trình lên CỤ một bản phúc trình đầy đủ
chi tiết, với các hình ảnh chứng minh do Trung Tâm Điện ảnh TT
Trung ương cung cấp, để CỤ thấy được sự tập họp một lúc 6, 7 trăm
quân sĩ Truyền Tin, không phân biệt thứ tự cấp bậc, ngồi sát cánh
bên nhau trên nền đất, rộng chừng 5,000 mét vuông, mừng Chúa
Ki-tô Giáng Trần tại sân Trường Tiểu học Gia Định, để chứng minh
cái khả năng lãnh đạo chỉ huy Binh chủng TT của Trung tá Nguyễn
Khương hiệu quả như thế nào.
Thành quả ban đầu tốt như vậy, nhưng
chắc là anh Khương cũng như những người có trách nhiệm tổ chức
đêm Dạ hội, không thể nào quên được Ông Trời đã bỗng dưng làm
thay đổi thời tiết đột ngột, và một thiếu sót quan trọng trong
giai đoạn dự thảo kế hoạch, đã tạo ra khó khăn tối hôm đó làm mọi
người lo lắng không ít.
Một là, chương trình dự trù khai mạc
vào lúc 8 giờ, thế mà vào lúc 8 giờ đúng, nhân viên các đơn vị
đến tham dự chưa xuống được xe để vào sân trường. Vì phía trước
Trung tâm không còn chỗ cho xe đậu, phải chạy lòng vòng qua các
khu phố xa hơn nửa cây số, mới có chỗ đậu cho nhân viên xuống xe,
rồi dắt nhau đi bộ tới địa điểm Dạ hội.
Hai là, Trời cả ngày quang đãng, bỗng
dưng từ lúc 7 giờ 30 lại đùng đùng nổi cơn gió bụi, mây kéo mịt
mù đen nghịt cả trời đất, tưởng như một trận Hồng thủy sắp đổ
xuống trần gian, để phá hỏng công trình chuẩn bị Dạ hội từ một
tháng qua. Nhưng may thay, Trời chỉ thử đảm lượng con người hay
tin tướng số chút đỉnh chơi thôi. Trời đã không mưa trong suốt
thời gian Dạ hội. Mãi đến gần lúc chót, Ông Trời mới nhẹ nhàng
tưới xuống ít hột làm duyên, như mưa Xuân để chia vui với Binh
chủng Truyền Tin. Thật đúng là “Sông có khúc, người có lúc”,
như các Cụ thường nói.
Phụ Chú
Thật là mối tình “Huynh đệ chi binh”
thắm thiết quý vô giá, dù có tới bạc tỷ cũng không mua được.
CHƯƠNG 8
HỘI CHỢ MỪNG NGÀY CHẾ ĐỘ VIỆT NAM
CỘNG HÒA TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM CHÍNH THỨC RA ĐỜI, VỚI ÔNG NGÔ
ĐÌNH DIỆM LÀM TỔNG THỐNG ĐẦU TIÊN
Sáng ngày 26 tháng 10 năm 1956, một
buổi lễ ban Hành Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa và đăng quang tuyên
thệ nhậm chức Tổng thống của ông Ngô Đình Diệm, được tổ chức rất
trọng thể tại ngã tư Đại lộ Trần Hưng Đạo và đường Nguyễn Thái
Học, gần công viên trước chợ Bến Thành và ga xe hỏa Sài Gòn. (Sau
này ga xe hỏa được dời ra khỏi trung tâm thành phố, đến vùng Hòa
Hưng, Chí Hòa, cuối đường Nguyễn Thông, gần Tu viện Dòng Chúa Cứu
Thế đường Kỳ Đồng.)
Tiếp ngay sau lễ nhậm chức, có một cuộc
duyệt binh rất quy mô của Hải, Lục, Không quân Việt Nam Cộng Hòa
thực hiện. Lần đầu tiên, dân chúng ở 2 bên đường Trần Hưng Đạo
dài suốt từ Sài Gòn sang tận Chợ Lớn, và các vùng phụ cận đổ về
xem, được chứng kiến một cuộc biểu dương lực lượng Quân đội Việt
Nam thật là rầm rộ oai phong hùng dũng.
Hôm đó là ngày Quốc Lễ, các Cơ quan
công quyền, và trường học đều được nghỉ. Riêng chỉ có Cảnh sát là
phải làm việc 100% suốt ngày đêm, nghe chừng còn vất vả hơn ngày
thường gấp bội. Các đơn vị Quân đội cũng cấm trại 50%.
Buổi chiều, Tổng thống Diệm đến khai
mạc khu triển lãm của Quân đội, tổ chức mừng nền Cộng Hòa đầu
tiên của miền Nam Việt Nam, tại khu ngã tư đường Pasteur và Đại
lộ Thống Nhất phía trước Dinh Độc Lập. Trên mặt lộ ngay giữa ngã
tư, Công binh Việt Nam dựng một Khải Hoàn Môn rất đồ xộ và đẹp
mắt, kiểu giống như Arc de Triumph của Pháp tại thủ đô Paris. Các
gian hàng trưng bày vũ khí và quân dụng của các Quân Binh Chủng
quân đội, được dựng trên các bồn cỏ chung quanh ngã tư.
Cuộc triển lãm được chấm điểm tranh đua
xếp hạng. Để có sự công bằng, mỗi Quân Binh Chủng được chia một
căn nhà tiền chế khung sắt mái tôn như nhau. Việc trang trí bên
trong và chung quanh gian hàng sẽ tùy sáng kiến của mỗi Quân Binh
Chủng, làm sao cho thật hấp dẫn để lôi cuốn được nhiều khách thăm
viếng, thì mới mong giật giải Nhất.
Gian hàng của Binh Chủng Truyền Tin
được Sở Vật liệu truyền Tin do Trung tá Lê văn Hiền làm Chánh sự
vụ, phối hợp với các sĩ quan thuộc Phòng kỹ thuật của Bộ chỉ huy
Viễn Thông dự thảo đề án thực hiện. Mọi người đã cố gắng hết sức
vận dụng óc sáng tạo mỹ thuật của mình, nhưng máy móc vật liệu
Truyền Tin khô khan quá nên không làm sao chiếm được giải nhất.
Hình như giải Nhất được trao cho Công Binh, nhờ cái kiến trúc
Khải Hoàn Môn hùng vĩ nổi bật ngay giữa ngã tư, trung tâm của khu
triển lãm.
Gian hàng Truyền Tin trình bày 4 trò ảo thuật điện tử đặc biệt,
để thu hút sự tò mò của quảng đại quần chúng, đó là:
1. Thiết trí một giàn máy mẫu đơn giản
trên xa bàn, để giới thiệu Hệ thống tổng đài điện thoại tự động
của hãng OKI (Nhật) mới thiết trí tại Bộ Tổng Tham Mưu, có khả
năng cung cấp hàng ngàn đường dây nối các máy điện thoại liên lạc
suốt 24/24 giờ, quanh năm ngày tháng, giữa các Cơ quan Đơn vị
Quân lực tại Thủ đô Sài Gòn. Hai người xem đứng bên nhau, một
người nhấc máy điện thoại lên, quay số máy điện thoại của người
kia, trong khi quay đĩa số có thể nhìn thấy các tầng relay
selector tự động vận hành để tìm số và nối cuộc điện đàm giữa 2
máy với nhau, không cần đến chuyên viên tổng đài ngồi nghe để
tiếp nối đường dây như loại tổng đài thường dùng xưa nay ai cũng
biết.
2. Thiết
lập một hệ thống chuyển vận hỗn hợp dây (CF1, CF2) và vô tuyến
(siêu tần số) ngay trong gian hàng, để giới thiệu cho người xem
thấy được hiệu năng cao của phương tiện truyền tin hiện đại đang
được Quân lực Việt Nam Cộng Hòa sử dụng. Người ta có thể cho 4
máy viễn ấn tự và 3 máy điện thoại cùng hoạt động để trao đổi tin
tức giữa các đơn vị đóng xa nhau hàng trăm cây số, trên cùng một
đường dây, chuyển qua cùng một tần số vô tuyến, trong cùng một
thời gian.
Tổng thống Diệm tỏ lộ sự hài lòng, khi thấy một trong các máy
viễn ấn tự đang hoạt động liên tục không người điều khiển, in ra
lần lần hình của Tổng thống xếp bằng những hàng chữ X trên trang
giấy, khi ông dừng chân nghe Trung tá Khương Chỉ huy trưởng Viễn
Thông trình bày về công dụng và lợi ích của loại phương tiện
truyền tin tối tân quân đội đang sử dụng (thời 1956).
3. Một giàn máy trưng bày kỹ thuật Vô
tuyến truyền hình thu phát tại chỗ (close circuit TV), được đặt
ngay giữa gian hàng cho khách thăm viếng chiêm ngưỡng. Quang cảnh
các người đang đứng xem trước máy thu hình, được ghi nhận, chuyển
qua hệ thống điện tử và hiện ngay lên trên màn ảnh nhỏ của chiếc
máy TV để bên cạnh.
Lúc đó Sài Gòn chưa có hệ thống Vô
tuyến Truyền hình, nên mọi người rất thích thú đứng coi và trầm
trồ ca ngợi. Họ trông thấy chính họ cùng các bạn đứng bên đang
làm gì, nói gì, máy cũng thu vào và chuyển ngay lên màn ảnh trước
mặt cho họ coi. Thật lạ lùng ngạc nhiên đối với các vị cao tuổi,
không có hoàn cảnh tìm hiểu những phát triển của khoa học kỹ
thuật hiện đại, và những người chưa có dịp đi nước ngoài, chưa
được thấy Vô tuyến Truyền hình. Theo tin tức do anh Trịnh Xuân
Lạng cho biết thì hệ thống Truyền Hình Cable trình bày trong gian
hàng của Binh chủng TT này là do hãng Nippon Electric Company
(NEC) đem từ Nhật sang cho mượn và thiết trí trưng bày. Lúc đó
anh Lạng là thiếu úy thuộc Phòng MMTU, nhờ sinh trưởng bên Hồng
Kông nên có khả năng anh văn rất vững, nên đã được BCH Viễn thông
yêu cầu cho biệt phái sang Phòng Kỹ thuật để làm việc giao dịch
với các Công ty OKI, Nippon Telegraph Telephone Public
Corporation (NTTPC), và Nippon Electric Company (NEC) của Nhật
Bản đang thực hiện các công tác thực hiện dự án nghiên cứu thiết
trí hệ thống điện thoại tự động tại Sài Gòn và hệ thống Siêu tần
số và Vi ba đa mạch cho Quân đội VNCH đặt dọc theo duyên hải miền
Nam Việt Nam từ Sài Gòn đến Gio Linh (Quảng Trị).
4. Một màn biểu diễn thí nghiệm khoa
học bằng mấy chiếc bóng đèn néon treo tòng teng giữa không gian,
gần một cần ăng-ten của chiếc máy vô tuyến điện SCR 694, để chứng
minh cho người xem nhìn thấy được lúc nào có làn sóng vô tuyến
được phát ra trong không khí. Cứ mỗi khi có người quay bộ phát
điện cho máy vô tuyến hoạt động thì người ta thấy mấy bóng đèn
néon, không gắn trên giá cắm vào dòng tiếp điện nào cả, bỗng dưng
sáng lên. Lúc đó người xem cũng có thể tự tay mình cầm một bóng
đèn néon khác để ngay trên bàn, đưa qua lại gần cần ăng-ten để
thấy được bóng đèn sáng lên, và lại tắt khi bóng néon dang xa cần
ăng-ten. Thật là một trò chơi lý thú. Nhiều người được mời cầm
bóng đèn néon thí nghiệm thử, không dám làm vì sợ bị điện giật.
Sau này người ta thấy rất nhiều gia
đình trong xóm lao động, cư ngụ tại vùng sát quanh đài phát sóng
gần khu rừng cao su Phú Thọ, đã dựng những cây sào dài có mắc
mảng lưới sắt, nhô cao phía trên nóc nhà, và nối dây tiếp xuống
đốt sáng đèn néon trong nhà, mà họ gọi là dùng điện trời. Chẳng
biết ai đã bày cho họ cái trò tiết kiệm liều lĩnh nguy hiểm này.
Sau biến cố Tết Mậu Thân 1968, Việt Cộng Tổng tấn công các thành
phố tại Nam Việt Nam, khu rừng cao su Phú Thọ được phá đi để xây
dựng thành khu phố Chợ Tân Bình rất sầm uất, suốt từ ngã tư Bảy
Hiền đến tận bên Trường Nữ Quân Nhân và đài phát sóng gần trường
đua ngựa Phú Thọ.
Phòng Mật Mã Trung ương cũng được yêu
cầu góp mặt trong gian hàng của Binh chủng Truyền Tin. Máy Mật Mã
thuộc loại cơ mật đâu có thể đem ra trưng bày cho quảng đại quần
chúng xem chơi được. Tôi đã từ chối, nhưng Trung tá Khương Chỉ
huy trưởng, lấy tình cảm bạn cùng khóa cố ép buộc phải góp mặt,
đặc biệt để tỏ tình Đại Đoàn Kết giữa các thành phần chuyên biệt
chính trong Binh chủng (Khai thác, Mật Mã, Vật liệu), nhất là
trong hoàn cảnh Binh chủng vừa mới được chuyển giao từ tay người
Pháp sang người Việt Nam. Lúc đó, Sở Vật liệu Truyền Tin, trực
thuộc hệ thống Chỉ huy của Tổng cục Tiếp vận, nên Chỉ huy trưởng
Viễn Thông không có quyền điều động chỉ huy trực tiếp. Muốn yêu
cầu Sở Vật liệu thực hiện điều gì, phải làm văn thư gửi Tổng cục
trưởng Tiếp vận xét định chỉ thị. Có nhiều việc làm vì nhu cầu
ngoại lệ, đâu có thể ghi trên văn thư giấy trắng mực đen được,
thật là khó khăn.
Để chiều lòng Trung tá Khương, Tôi đã
phải tiếp xúc với Trung tá Hiền, để nhờ ra lệnh cho Cơ quan Tiếp
liệu Sửa chữa Vật lịệu Truyền tin Trung ương tại Phú Thọ, giúp
thực hiện một hộp gỗ hình chữ nhật, ngang 1 mét 50, cao 1 mét,
dầy 30 phân, có giá chân đứng cao hơn mặt đất 1 mét 20, ghi các
câu đố chữ bằng hình vẽ, để trưng bày trong gian hàng cho bà con
đoán đọc mua vui. Không gặp khó khăn nào, vì Trung tá Hiền và Tôi
đã biết nhau, từ cuối năm 1951 tại Bộ Quốc Phòng ở đường Gia
Long, khi Tôi từ Pháp hồi hương được Trung tá Nguyễn văn Vận Đổng
lý Bộ Quốc phòng bổ nhiệm phụ trách Ban Mật Mã tại văn phòng Đổng
lý. Lúc đó, anh Hiền và Tôi cùng mang cấp bậc trung úy. Anh Hiền
đang làm Trưởng Trung tâm Truyền Tin, duy trì liên lạc giữa Bộ
Quốc phòng với Bộ tham mưu Pháp (EMIF), với các Bộ Tham mưu quân
sự Việt Nam (Etat Major Régional) tại các miền, và các Tiểu đoàn
Việt Nam.
Trên
mặt hộp gỗ chỉ có đủ chỗ để ghi 2 câu đố:
1. Câu đố thứ nhất dài sáu chữ: “ĂN QUẢ
NHỚ KẺ TRỒNG CÂY”. Chúng tôi vẽ 6 hình, cảnh khác nhau, để người
đọc dựa vào đó mà đoán, như sau:
1. Chữ ĂN, là cảnh một người đang ngồi
cầm bát cơm với đôi đũa dơ lên ngang miệng.
2. Chữ QUẢ, thì vẽ một đĩa đựng đủ loại
trái cây.
3.
Chữ NHỚ, là một chùm nho, có thêm dấu móc và dấu sắc phía trên
cuống chùm nho.
4. Chữ KẺ, thì vẽ một cậu học trò ngồi
bên bàn học, tay trái đè trên cây thước dài, tay phải cầm bút để
vẽ một vạch trên tờ giấy.
5. Chữ TRỒNG, là cảnh một người đang
cầm xẻng đào lỗ xuống đất, bên cạnh lỗ có một cây nhỏ với gốc và
rễ đang được bọc trong bao.
6. Chữ CÂY, là con chó đang dẫn một
người mù cầm chiếc gậy chỉ về phía trước trên đầu con chó, với
một gạch chéo đỏ nơi cây gậy. Thịt chó thường được bà con miền
Bắc ưa chuộng gọi là thịt CẦY. Như vậy, chữ CẦY bỏ dấu huyền đi
thì còn lại chữ CÂY.
Sau khi đoán xong, người đoán muốn biết
mình đúng hay sai, chỉ việc ấn nút bật đèn điện ngay bên khung
kính mờ phía dưới câu đố, sẽ nhìn thấy câu trả lời hiện ra.
2. Câu đố thứ 2, liên quan đến một câu
truyện cổ Ai Cập, rất hóc búa, ít người đoán được. Đó là: AI? VÀO
THỜI NÀO? TẠI ĐÂU? ĐÃ ĐẶT RA CÂU ĐỐ SAU ĐÂY: “Vật gì sáng bốn
chân đi, trưa hai chân bước, chiều về thì ba?” VÀ CON VẬT NÓI
TRONG CÂU ĐỐ LÀ CON GÌ?
Câu trả lời là: Vào thời đại cổ bên Ai
Cập. Có một con Nhân Sư (Sphinx) thông minh bí mật nhất trần
gian, nằm ngay giữa sa mạc, ai đi qua cũng bị nó đặt câu hỏi:
“VẬT GÌ SÁNG BỐN CHÂN ĐI, TRƯA HAI CHÂN BƯỚC, CHIỀU VỀ THÌ BA?”,
nếu trả lời được thì nó cho đi qua, bằng không thì bị nó giết
chết. Con vật đề cập trong câu đố là CON NGƯỜI, và được giải
thích như sau: Buổi sáng được coi như thời ấu thơ chưa đứng được,
phải di chuyển bằng cách bò với cả 2 tay và 2 chân. Đến trưa là
thời lớn khôn di chuyển bằng 2 chân. Chiều về là lúc tuổi già nua
lụ khụ lưng còng, di chuyển phải chống gậy, tức là 3 chân.
Nhân Sư là một con vật thần thoại Ai
Cập, mình Sư tử đầu Người có chít chiếc khăn vằn ngang, buông
thõng xuống phía sau ót và hai bên má tới ngang vai. Chuyên viên
Mật Mã đã qua một lớp huấn luyện chuyên nghiệp, anh nào cũng biết
truyện này, vì hình tượng NHÂN SƯ được lựa làm biểu tượng cho
Ngành Mật Mã của Quân đội Việt Nam. Ngành Mật Mã và Mã Thám của
Pháp cũng dùng biểu tượng là đầu con Nhân Sư mặt nhìn thẳng, ngồi
sau khung lưới ô vuông.
Hiện nay bên Ai Cập vẫn còn những tượng
Nhân Sư nằm sừng sững bên các Kim Tự Tháp đồ sộ vĩ đại giữa sa
mạc. Trên màn ảnh TV tại Hoa Kỳ, mỗi khi quảng cáo về thành phố
Cờ Bạc Las Vegas, Tiểu Bang Nevada, vẫn thường thấy người ta
chiếu hình con Nhân Sư to tướng trước một nhà hàng xây theo kiểu
Kim Tự Tháp, và những vũ công ăn mặc trang phục Ai Cập nhảy múa.
Giới thiệu ngành Mật Mã của cả một Quân
đội, mà chỉ có thể dùng một bảng hộp gỗ ghi các câu đố chữ đơn
giản mộc mạc, trưng bày giữa những máy móc vật dụng điện tử hiện
đại, trông thật lạc lõng chẳng giống ai. Nhưng vẫn phải cố gắng
thực hiện, để biểu hiện tình Đại Đoàn Kết trong Binh chủng Truyền
Tin gồm 3 ngành chuyên biệt: Khai thác, Mật Mã, Vật liệu, và đáp
ứng lời yêu cầu của Chỉ huy trưởng Viễn Thông.
Lụi hụi tổ chức mừng ngày Cộng Hòa mới
ra đời, chưa được bao lâu đã đến Noel 1956, rồi đầu năm Dương
Lịch 1957 và Tết Nguyên đán Đinh Dậu. Người ta, già trẻ lớn bé
giắt nhau đi mua bán dạo phố, đầy nghẹt chặt cứng như nêm, quanh
chợ Bến Thành, dọc đường Lê Lợi, trước Tòa Đô chánh Sài Gòn xuống
tận Bến Bạch Đằng, dọc đường Tự Do, lên đến quanh nhà Thờ Đức Bà
(Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn).
Mồng Một Tết Đinh Dậu 1957, tại Dinh
Độc Lập có buổi tiếp tân Ngoại Giao đoàn, với sự hiện diện của
các vị Đại diện Quốc hội, các Tổng Bộ trưởng, và các sĩ quan cấp
tướng, tá, Chỉ huy trưởng Binh chủng, Tư lệnh Đại đơn vị, nên
Tổng thống Diệm không thực hiện được câu: “Mồng Một thì Tết Mẹ
Cha, Mồng Hai Tết Bạn, Mồng Ba Tết Thầy.” theo tục lệ cổ truyền
Việt Nam. Phải qua ngày mồng Hai Tết, Tổng thống Diệm mới về Huế
chúc thọ Thân mẫu, để tỏ lòng tôn kính hiếu nghĩa đối với bậc
sinh thành dưỡng dục cho mình nên người, vì coi trọng câu châm
ngôn “Việc nước trước việc nhà”.
Tổng cục Tiếp vận Bộ Tổng Tham mưu phải
hoạch định một kế hoạch không vận quy mô, để đưa các Tổng Bộ
trưởng và các sĩ quan cao cấp thuộc hàng Tư lệnh Đại đơn vị, tháp
tùng Tổng thống đi chúc Tết Cụ Cố và thăm chào ông Cậu Ngô Đình
Cẩn, Cố vấn tối cao tại miền Trung, quyền hành không kém gì ông
Cố vấn Ngô Đình Nhu trong Chính phủ tại Sài Gòn.
Sau đó, suốt từ mồng Ba Tết cho đến
mồng Bảy hạ Cây Nêu, Tổng thống đích thân dẫn phái đoàn Chính phủ
gồm vài Bộ trưởng, Tướng Tổng Tham mưu trưởng, cùng đôi ba vị
Trưởng phòng thuộc Bộ Tổng Tham mưu được lựa chọn, đi đến các địa
phương xa Sài Gòn, thăm Dân Quân Cán Chính, để tỏ lòng ưu ái của
vị Nguyên thủ Quốc gia đối với quảng đại quần chúng, đã tín nhiệm
bầu mình đứng ra gánh vác công việc chung của đất nước. Giới chức
Tỉnh trưởng, Quận trưởng tại mỗi nơi được Tổng thống ưu ái viếng
thăm, đều phải lo vận động dân chúng, học trò ra đứng 2 bên đường
đón chào vẫy cờ hoan hô đón mừng vị Nguyên thủ Quốc gia.
Sau Tết Con Gà (Đinh Dậu), vùng Cao
nguyên miền Nam Trung phần vẫn còn mưa lai rai. Sáng ngày 22
tháng 2 năm 1957, Tổng thống Ngô Đình Diệm và phái đoàn Chính phủ
cùng Ngoại Giao đoàn lên khai mạc Hội Chợ Kinh Tế Ban mê thuột.
Sau khi Tổng thống cắt băng khai mạc, đang cùng đoàn tùy tùng
tiến vào khán đài thì bị một cán bộ Việt Cộng mặc áo mưa đứng lẫn
trong quần chúng, xả súng ám sát. Mạng số Trời định Tổng thống
mới lên đang còn vượng, nên ông Tổng trưởng Cải cách Điền Địa đã
lãnh đạn thay, nhưng không chết.
Đến buổi chiều, phái đoàn tháp tùng
Trung tá Khương Chỉ huy trưởng Viễn Thông lên thanh tra Chỉ huy
các đơn vị Truyền Tin tại Ban mê thuột, đi bằng đường bộ mới lên
tới nơi. Anh em thuộc Phòng Mật Mã Trung ương tháp tùng, kỳ này
có tới 3, 4 người kể cả Tôi. Tôi không nhớ rõ gồm những ai, nhưng
chắc chắn có anh Lý Thái Vượng sắp giải ngũ đi thăm bạn bè. Chúng
Tôi đi trên một xe jeep riêng. Khách sạn Bungalo đông khách quá,
chỉ còn độc nhất một phòng cho anh Khương, nhóm chúng tôi được
xếp ngủ tại nhà khách riêng của Tỉnh.
Buổi tối phái đoàn chúng tôi được anh
em Truyền Tin địa phương hướng dẫn ghé thăm khu Hội Chợ, đèn điện
mầu sắc sáng trưng, trông rất đẹp mắt. Đặc biệt chúng tôi được
dẫn đến thăm gian hàng của Cơ quan đại diện các Sắc Tộc Thượng,
do Thiếu tá Nguyễn Quốc Quỳnh Thanh Tra Đại Diện Chính phủ bên
đồng bào Thượng thực hiện. Sau kỳ Hội Chợ này, anh Quỳnh được
Tổng thống Diệm bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu khu trưởng
Quảng Trị ngoài miền Trung.
Đây là một gian hàng nhà sàn rất độc
đáo, trang trí theo kiểu Nhà Ròng Thượng. Muốn lên nhà sàn, mọi
người phải bước theo những nấc thang nhỏ đẽo vào thân một cây gỗ,
dựng đứng nơi đầu nhà. Ai đi không quen hoặc không cẩn thận có
thể bị trượt chân lăn nhào xuống đất. Các nấc thang này làm cho
những người đi chân không lên xuống. Chúng tôi mang giầy lính cao
cổ, đế da cứng ngắc, nên gặp nhiều trở ngại dễ bị trợt, vừa leo
vừa phải lấy 2 tay bám vào thân cột thang, như khỉ đang leo cây,
trông y như những chú khỉ leo cây thật buồn cười. Cũng may, ban
đêm ánh sáng quanh nhà Ròng mờ mờ ảo ảo, nên không ai nhìn thấy
để mà cười.
Chúng tôi được tiếp đón theo tục lệ đồng bào Sắc Tộc. Thoạt đầu
là màn hòa tấu nhạc Thượng với các nhạc cụ riêng của đồng bào Sắc
tộc gồm:
-Khèn
(loại kèn có vòi ngậm vào miệng để thổi qua một vỏ trái bầu tròn
khô, trên có mấy ống trúc ngắn dài khác nhau để thoát hơi phát ra
các âm thanh khác nhau),
-Đàn Thrưng (gồm nhiều đoạn trúc lớn
nhỏ khác nhau, hai đầu cột dính vào 2 sợi dây thành một hàng dài
sát bên nhau như mành mành cửa, treo nằm ngang như chiếc võng,
nhạc công dùng 2 chiếc dùi bằng tre vót tròn dài gõ lên, y như
đánh đàn Xylophone của người Âu gọi là đàn phiến gỗ hay mộc cầm),
và mấy chiếc
-Cồng với khổ lớn nhỏ khác nhau phát ra những âm thanh khác nhau
(giống như chiêng bằng đồng của người Kinh).
Sau màn hòa tấu nhạc Thượng chào đón
khách xong, Anh Quỳnh và mấy đồng bào Sắc Tộc phụ trách gian hàng
mời mọi người dùng Rượu Cần, đựng trong những chiếc Ché cao với
mấy chiếc cần bằng trúc nhỏ rỗng ruột. Anh Khương trưởng đoàn
đương nhiên là khách quan trọng nhất, được mời thưởng thức trước
tiên. Rồi cứ theo thứ tự lần lượt tiếp theo nhau, ngậm đầu cần
giữa 2 môi mà hút rượu vào miệng. Ai muốn hút mấy ngụm tùy thích,
cứ việc liên tục mút nuốt liên tục từng ngụm một, khi nào không
muốn dùng nữa thì chuyển sang cho người khác. Người này vừa ngậm
đầu cần mút rượu xong, là chuyển ngay cho người khác ngậm tiếp.
Tôi thấy ngài ngại, không biết từ sáng đến giờ, có bao nhiêu trăm
hay ngàn cái miệng đã ngậm vào đầu cần, nhưng vì xã giao lịch sự
vẫn phải cố gắng liều thử một phen cho biết mùi Thượng.
Loại rượu này, nghe giải thích được ủ
bằng men và cơm nguội sao đó, nên uống nó lạt lạt chua chua.
Nhưng, nếu cứ ngâm nghi hút liên tục hết ngụm này đến ngụm khác,
thì cũng lư đư như đang ngồi trên con tầu đi biển, chẳng khác nào
nhắm rượu Đế của người Kinh cất bằng gạo nếp lức ủ men vậy. Theo
kinh nghiệm của những người đã từng vào Buôn Thượng, tham dự các
kỳ lễ hội cho biết thì cái say của Rượu Cần không làm nhức đầu
như rượu Đế của người Kinh.
Sau khi Thiếu tá Quỳnh chủ gian hàng,
bắt tay niềm nở đón tiếp Trung tá Khương Chỉ huy trưởng Viễn
Thông xong, không cần ai giới thiệu anh Quỳnh quay qua nắm tay
Tôi vồn vã chào hỏi thăm sức khỏe Vợ và các Con của Tôi, làm anh
Khương và mọi người tháp tùng rất ngạc nhiên. Đâu có ai biết rằng
anh Quỳnh tốt nghiệp Khóa 4 Võ Bị Đà Lạt, là anh ruột của Trung
úy Nguyễn Bỉnh Thiều, đã từng đến nhà riêng thăm chúng tôi tại Bà
Chiểu Gia Định, ngay từ ngày anh Thiều di cư theo Quân khu 3
ngoài Hà Nội vào Nha Trang năm 1954, để xin Tôi điều động cho anh
Thiều được vào Sài Gòn làm việc với Tôi tại Phòng Mật Mã Trung
ương.
Hai ngày
kế theo, thanh tra các đơn vị Truyền Tin tại Ban mê thuột xong,
chúng tôi được dẫn đi thăm khu dinh thự, trước kia dành riêng cho
Quốc trưởng Bảo Đại ngự mỗi lần Ngài lên Ban mê thuột, gọi là
Dinh Le Lac ở giữa một thung lũng rất nên thơ, cách thị xã Ban mê
thuột khoảng mươi cây số.
Sau một đêm mưa tầm tã, chúng tôi rời
Ban mê thuột đi Nha Trang bằng đường bộ, theo ngả xuống đèo
M-Drac, qua Trung tâm Huấn Luyện Dục Mỹ, Ninh Hòa... Khi đoàn xe
chúng tôi xuống hết đèo M-Drac, chạy tới chiếc Kè Đá dài hơn trăm
thước xây ngang dòng suối, thấy nước lũ trên nguồn đổ xuống tràn
ngập mênh mông. Chúng tôi không dám liều băng ngang, vì giữa dòng
đã có 2 chiếc G.M.C. đang nằm thi gan cùng nước lũ ngập cao hơn
bánh xe, và anh Khương lại đi bằng xe Peugeot 203. Không thấy
bóng người nào trên các xe GMC, cũng chẳng thấy ai ở trên bờ phía
bên kia.
Theo
đề nghị của anh em có kinh nghiệm tại vùng này, chúng tôi phải
chờ ít tiếng đồng hồ sau, mực nước hạ thấp, bớt dồn dập mới hy
vọng cho xe chầm chậm băng qua đập an toàn được. Đợi mãi tới xế
chiều nước vẫn chưa thuyên giảm, không lẽ quay trở lại Ban mê
thuột? Anh Luận có vẻ thông thạo địa phương, cho biết gần nơi
chúng tôi đang đậu xe có một Buôn Thượng nhỏ, hãy quay xe đến đó
xin tá túc qua đêm, sáng mai đi tiếp. Nếu đến sáng nước vẫn chưa
rút đi không được, thì đành phải quay trở lại Ban mê thuột tìm
phương cách khác đi Nha Trang. Mươi phút sau, đoàn xe chúng tôi
tới được Buôn Thượng xin tá túc. May sao tại Buôn này có một bà
đứng tuổi, người Kinh cư ngụ buôn bán nói được tiếng Thượng, giúp
thông dịch cho chúng tôi mua gạo, gà và măng tươi luộc, chấm muối
ớt Mọi cay buốt tận mang tai, để ăn bữa tối. Một cặp vợ chồng
người Thượng thật tốt bụng, chồng trung niên, vợ trẻ măng, cho
chúng tôi ngủ nhờ qua đêm trong căn nhà sàn rộng rãi của họ.
Cơm nước xong, trời còn sáng, nghe nói
tại Buôn có người mới chết, mả chôn ngay tại khu đất cỏ mọc um
tùm phía sau các dãy nhà sàn, trang trí rất lạ mắt. Chúng tôi
giắt nhau ra xem. Anh Chi và anh Luận đi giầy da thấp cổ, bị nước
bùn đen thui, nồng nặc mùi thum thủm ngập ướt cả giầy và 2 chân,
phải rửa hong bên lửa cho khô. Nhà sàn chỉ có một cửa nhỏ ra vào,
ngay nơi đầu giàn thang bước từ dưới đất lên. Mọi người nằm xếp
hàng sát bên nhau, quanh 2 bên bếp củi rừng cháy liu riu suốt đêm
giữa sàn, toả khói để xua đuổi muỗi. Không mùng, không mền, không
gối kê đầu, nằm trên sàn cây hơi đau lưng, nhiều người vừa đặt
mình nằm đã ngủ ngáy say sưa ngon lành. Riêng Tôi, sau cả giờ
trằn trọc mới chìm được vào giấc ngủ cho qua đêm. Cũng may, cơn
mưa hôm trước đã ngưng hẳn từ buổi chiều và suốt đêm không quay
trở lại.
Sáng
sớm hôm sau, lúc những tia nắng vàng bình minh vừa bắt đầu chiếu
xuyên cành lá rừng, thì chúng tôi thức giấc để tiếp tục lên
đường. Đến bên bờ suối thấy nước lũ đã rút hết, chỉ còn rỉ rả
hiền hòa tràn qua mặt Kè Đá như thường lệ, chúng tôi vui mừng
được thoát nạn. Hai chiếc xe GMC mắc kẹt hôm qua, bị nước đẩy
băng nằm nghiêng giữa dòng suối, cách mặt Kè Đá cả trăm mét. Qua
khỏi Kè Đá một đoạn xa, trước khi tới Trung tâm Huấn luyện Dục
Mỹ, chúng tôi ghé vào khu suối nước nóng gần chân núi, để ngâm
mình trong các hồ hứng nước nóng từ lòng các khe đá tràn ra, đang
bốc hơi nghi ngút và nồng nặc mùi diêm sinh. Người ta nói ngâm
mình trong loại nước này, trị được phong thấp và ghẻ lác ngứa
ngáy rất hữu hiệu. Tại đây có những túp nhà nhỏ với nhân viên phụ
trách phục dịch khách lấy tiền. Họ cũng bán thức ăn, đặc biệt có
trứng gà sống, cho khách mua đem để trên những hõm đá đang có
nước phun ra, một lúc trứng chín như luộc bằng nước sôi vậy.
Tới Nha Trang, sau khi thanh tra các cơ
sở đơn vị Truyền Tin, phái đoàn còn được ghé thăm xã giao đơn vị
Tiếp liệu Sửa chữa Vật liệu Truyền Tin, tôi không nhớ do ai chỉ
huy. Sở dĩ không gọi là thanh tra, vì đơn vị này thống thuộc Sở
Vật Liệu Truyền Tin Sài Gòn, theo tổ chức Quân đội lúc bấy giờ
chưa nằm trong hệ thống chỉ huy trực tiếp của Chỉ huy trưởng Viễn
Thông. Nên vui thì đơn vị trưởng tiếp và dẫn thăm, còn theo quy
luật hệ thống chỉ huy không muốn cho thăm cũng chẳng làm gì được.
Xong công tác tại Nha Trang, chúng tôi
tiếp tục đi thanh tra Truyền Tin tại Đà Lạt. Trên đường đi có ghé
qua Tiểu khu Phan Rang, anh Khương được các bạn đã từng cùng vào
nằm trong chiến khu của Thiếu tá Thái Quang Hoàng chống Tướng
Hinh nguyên Tổng Tham mưu trưởng năm nào, tiếp đón rất nồng hậu.
Con đường xe hơi dẫn lên Đà Lạt chạy
vòng vèo theo triền núi, leo lên đỉnh đèo Belle Vue. Con đường
thật là khúc khuỷu nguy hiểm hơn đường đèo Hải Vân giữa Huế và Đà
Nẵng nhiều. Nhưng thích thú vì được thấy cảnh nên thơ hùng vĩ của
núi rừng thông Việt Nam, chẳng khác nào như mình đang đi trong
bức tranh thủy mạc, ghi cảnh 4 ông Ngư, Tiều, Canh, Độc của Tầu
vậy.
Con đường
sắt có dọc móc sắt nằm dài chính giữa 2 đường rầy, giúp cho các
đoàn xe hỏa móc vào leo lên tụt xuống, đưa đón khách từ vùng đồng
bằng lên thăm Đà Lạt, cũng được thiết lập dọc theo triền núi,
trông thấy mà sợ. Tôi chưa bao giờ có dịp đi thử, để thưởng thức
cái hồi hộp lo sợ khi ngồi trong các toa xe lửa, từ từ leo lên
tụt xuống dốc núi của vùng đèo Belle Vue này như thế nào.
Tại Đà Lạt, sau khi thanh tra các cơ sở
Truyền Tin Tiểu khu, Trường Võ Bị Quốc gia, đài tiếp vận siêu tần
số trên đỉnh Lang Biang lúc nào cũng gió và lành lạnh, chúng tôi
có dịp đi thăm Trung tâm nghiên cứu nguyên tử, trại Hầm nơi có
Chùa Tầu (Nam Nữ tu sĩ ở chung), những vườn trái mận (plumb),
thác Bren, thác Gouga, trước khi trở về Sài Gòn.
Cuộc thanh tra Ban mê thuột, Nha Trang,
Đà Lạt kỳ này có một chuyện kỳ thú, đặc biệt đối với 2 anh Nguyễn
Hữu Chi và Đỗ Như Luận, chắc chắn phải nhớ đời không thế nào quên
được. Đó là, truyện xảy ra khoảng 2 tuần lễ sau khi phái đoàn đã
về Sài Gòn. Vào một đêm Trời âm u không trăng sao, sĩ quan trực
Bộ Chỉ huy Viễn Thông nhận được điện thoại gọi, yêu cầu cung cấp
xe chở anh Chi, rồi anh Luận vào nhà Thương cấp cứu vì sốt cao mê
man và đổ máu mũi. Ngày hôm sau biết tin, anh em đi thăm, 2 anh
đã bớt và đang phải nằm điều trị tại khu riêng biệt dành cho các
người mắc bệnh truyền nhiễm, trong nhà Thương Chợ Rẫy bên Chợ
Lớn. Nhà thương này mới được Quân đội Viễn chinh Pháp trao lại,
theo đòi hỏi của Chính phủ Ngô Đình Diệm.
Những người cùng đi trong đoàn thanh
tra (trong đó có Tôi), ai nấy cũng ngay ngáy lo lắng chờ đợi tới
phiên mình. Nhưng một tuần rồi hai tuần qua đi, chẳng ai làm sao,
mới thở phào nhẹ nhõm. Đinh ninh rằng, trước kia mình cũng đã
từng có lần bị sốt rét vật, đã được chữa trị dứt nọc, và nhờ
trong cơ thể mình đã từng có dịp tạo kháng thể chống trùng sốt
rét quen rồi, nên nay mới được hưởng trường hợp miễn nhiễm. Vì
không phải là Bác sĩ nên đoán đại vậy thôi, chớ sự thực không
phải vậy.
Số
là, hồi còn nhỏ hoạt động Hướng Đạo trong Đoàn Mẫu Sơn, sau khi
đi dự trại Hè năm 1942 ở trên đỉnh núi Mẫu Sơn (thuộc quận Lộc
Bình cách thị xã Lạng Sơn chừng 20 cây số, nơi có một trong các
cột mốc ấn định ranh giới giữa 2 nước Việt Nam Trung Hoa) về, Tôi
đã bị sốt rét cách nhật, phải uống thuốc Quinine chữa cả năm trời
mới khỏi hẳn. Mãi sau này, vào cuối tháng 4 năm 1984, bị cộng sản
Việt Nam chuyển từ Trại cải tạo lao động khổ sai Thanh Phong,
Thanh Hóa, Trung Việt, về tiếp tục cải tạo tại trại Z30C vùng
Rừng Lá, Hàm Tân, Thuận Hải, Tôi vẫn bị sốt rét Hàm Tân vật như
thường, mặc dù gia đình đã tiếp tế thuốc Chloroquine cho uống
phòng ngừa trước, đúng theo liều lượng quy định mà vẫn không
thoát.
Lúc đó,
Tôi mới nhớ ra rằng, hồi trước 30-4-1975, vào khoảng năm 1969,
một Liên đoàn Thủy quân lục chiến vào vùng Rừng Lá Hàm Tân hành
quân, cũng đã bị sốt rét Hàm Tân vật ngã. Cố vấn Hoa Kỳ báo cáo
là vì quân sĩ không chịu uống thuốc Chloroquine do Quân đội cấp
phát để phòng ngừa. Đại tướng Cao văn Viên Tổng tham mưu trưởng
QLVNCH, đã chỉ thị Thiếu tướng Nguyễn văn Mạnh Tổng Thanh tra
Quân Lực chỉ định Tôi, lúc đó đang là đại tá giữ chức vụ Chánh Sự
Vụ Sở Khai Thác Nha Tổng Thanh tra, dẫn đoàn điều tra hỗn hợp
Việt-Mỹ đi tìm hiểu sự thật để phúc trình. Chúng tôi đến lấy lời
khai các nhân chứng trong đơn vị tại doanh trại Liên đoàn đóng ở
quận lỵ Thủ Đức, rồi đến Quân Y viện nằm trong doanh trại của Bộ
Tư lệnh Thủy Quân Lục chiến bên Thị Nghè để lấy lời khai của sĩ
quan binh sĩ bị sốt rét đang nằm điều trị. Lúc đó Tướng Lê Nguyên
Khang là Tư lệnh Thủy quân Lục chiến. Tôi không nhớ tên và cấp
bậc của vị Liên đoàn trưởng và các Tiểu đoàn trưởng. Các lời khai
cho thấy là mọi người đều uống thuốc phòng ngừa, đúng liều lượng
và đúng thời gian hướng dẫn, mà vẫn bị sốt rét Hàm Tân vật như
thường.
Chúng
tôi phải đợi kết quả thử nghiệm của các chuyên viên Y khoa hỗn
hợp Việt-Mỹ, mới quả quyết trình lên Tổng tham mưu QLVNCH và Tư
lệnh MacV là: vì thuốc Chloroquine không công hiệu đối với loại
vi khuẩn Phansiparum [falciparum], do muỗi Hàm Tân truyền vào cơ
thể người ta khi chúng hút máu, chớ không phải quân sĩ không uống
thuốc phòng ngừa như Cố vấn báo cáo. Kết quả huề cả làng, cấp Chỉ
huy Việt Nam không bị rầy rà gì cả, nhưng Cố vấn thì hơi “quê”
chút đỉnh. Cũng may, ông Đại tá Thanh tra người Hoa Kỳ đồng
Trưởng đoàn hỗn hợp với Tôi, là người rất thẳng thắn công minh,
đã từng cộng tác với Tôi trong nhiều cuộc điều tra hỗn hợp
Việt-Mỹ khác trước đó, nên chúng tôi không gặp khó khăn phiền hà
nào trong suốt thời gian lấy lời khai của cả 2 bên quân nhân Việt
Nam và Cố vấn Hoa Kỳ, cũng như sau khi đã trình kết quả lên 2 vị
Tư lệnh cao nhất trong Quân đội của cả 2 bên Việt Nam và Hoa Kỳ.
Dưới đây là hình ảnh, Họp mặt Truyền
Tin mùa Thu 1995, và bầu Ban Chấp Hành nhiệm kỳ 1994-1996, tại
Hội quán Lạc Hồng trong trường Tâm’s Beauty College của Bồ câu
Hải quân Nguyễn văn Diễm, thành phố Garden Grove, khu Little
Saigon, Nam California, Hoa Kỳ ngày 19-11-1995.
CHƯƠNG 9
MỘT CÔNG ĐÔI VIỆC: CÔNG VỤ THANH TRA
VÀ “VINH QUY BÁI TỔ” CỦA CHỈ HUY TRƯỞNG VIỄN THÔNG BỘ TỔNG THAM
MƯU QLVNCH
Noi gương Tổng thống Ngô Đình Diệm (ngày Mồng Một Tết tiếp
Ngoại giao đoàn, ngày Mồng Hai về Huế chúc Tết Thân mẫu, mấy ngày
Tết còn lại kể từ Mồng Ba đi thăm các đơn vị Quân đội và Dân
chúng ở các tỉnh xa Thủ Đô), nên ngày mồng Ba Tết Bính Thân 1956,
Trung tá Nguyễn Khương Chỉ huy trưởng Viễn Thông Bộ Tổng Tham
mưu, cũng dẫn phái đoàn tham mưu của Bộ Chỉ huy và Phòng Mật Mã
Trung ương đi thăm viếng các đơn vị Truyền Tin tại Quân khu I,
gồm Huế, Quảng trị, Đà Nẵng và Quảng Nam.
Chuyến đi này, ngoài mục đích công vụ
ra, anh Khương còn thực hiện được mấy việc riêng tư khác, như
“vinh quy bái tổ” về quê thăm khoe với họ hàng bà con thân quyến
nhân dịp Tết về sự kiện được thăng quan tiến chức quan trọng
trong Quân đội, và đến trình diện chúc Tết ông Ngô Đình Cẩn (Cố
vấn của Tổng thống Diệm, Lãnh tụ Phong trào chính trị của Cần Lao
Nhân Vị tại miền Trung, thường được quần chúng gọi là ông Cậu) để
Cậu biết mặt nhớ Tên, như thông lệ các Chỉ huy trưởng Binh Chủng,
Nha Sở Trung ương, Đại Đơn vị khác trong Quân đội từng làm.
Máy bay Air Việt Nam rời Sài Gòn, đưa
chúng tôi cùng hành khách dân sự đi thẳng một lèo ra Huế, không
ghé nơi nào cả. Đến khoảng gần trưa, phi cơ hạ thấp cao độ rồi
đáp xuống phi trường Phú Bài. Phái đoàn chúng tôi được Thiếu tá
Phan văn Chuân Chỉ huy trưởng Viễn Thông Quân Khu, và một số sĩ
quan Truyền Tin đang phục vụ tại Huế ra đón rất niềm nở.
Trên đường từ phi trường Phú Bài về
Huế, một sự kiện làm Tôi rất ngạc nhiên là, trước cửa nhà dân
chúng ở dọc 2 bên đường suốt từ xóm nhà quanh chân núi Ngự Bình,
qua chợ An Cựu, vào thành phố Huế, treo toàn một loại cờ Phong
trào Cách Mạng Quốc gia (một sọc vàng to chính giữa với ngôi sao
5 cạnh đỏ, và hai sọc đỏ nhỏ hơn dọc 2 bên suốt bề dài cờ). Các
trụ sở cơ quan Hành chánh và Quân đội chỉ treo Cờ Quốc gia (cờ
quẻ Càn, nền vàng 3 sọc đỏ) chớ không treo cờ của Phong trào Cách
mạng Quốc gia.
Tại các tỉnh miền Nam, cũng như tại
vùng Cao nguyên Trung phần, Tôi đã có nhiều dịp đi qua, không
thấy có hiện tượng này. Thảo nào tại Sài Gòn, trong thời gian
chuyển tiếp từ Chế độ Quốc gia Việt Nam sang Việt Nam Cộng Hòa,
sau ngày trưng cầu Dân ý truất phế Quốc trưởng Bảo Đại (23 tháng
10 năm 1955), người ta đã đưa ra công luận bàn cãi về việc thay
đổi hình thức lá Quốc kỳ, bài Quốc Ca, cùng một lượt với việc
soạn thảo bản Hiến Pháp và Chế độ Chính trị mới cho miền Nam Việt
Nam.
Hiện
tượng này khiến Tôi mông lung suy nghĩ, phải chăng đây là mẫu
Quốc kỳ mà người ta đã muốn vận động hợp thức hóa nhưng không
thành? Vì Hiến Pháp đã ban hành vào ngày Tổng thống Ngô Đình Diệm
tuyên thệ nhậm chức 26 tháng 10 năm 1956, Cờ Việt Nam Cộng Hòa
vẫn là “Cờ Vàng 3 Sọc Đỏ” (Quẻ Càn), Quốc Ca vẫn là bài “Tiếng
gọi Công Dân”, có từ thời ông Bảo Đại làm Quốc trưởng Quốc gia
Việt Nam thống nhất cả 3 miền Bắc Trung Nam. Chỉ có một điều khác
là, trong các buổi lễ lạc, và ngay cả trong các rạp hát, chiếu
bóng, sau khi mọi người đứng nghiêm chỉnh nghe hòa tấu bài “Quốc
Ca VNCH” để chào Cờ, phải tiếp tục đứng nghe bài hát tuyên dương
lãnh tụ Ngô Đình Diệm: “...Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng
thống. Ngô Tổng thống, Ngô Tổng thống muôn năm!...” rồi mới được
ngồi xuống bắt đầu xem trình diễn tuồng hay chiếu phim.
Trong thời gian công tác tại Huế, chúng
tôi được sắp xếp ở trong khách sạn Morain sang trọng nhất Huế,
trước kia chỉ dành riêng cho người Pháp và quan chức Việt Nam
quan trọng có dịp ghé Huế. Anh Khương về nhà riêng không ở khách
sạn với chúng tôi. Ngay buổi tối ngày chúng tôi vừa tới Huế, cả
phái đoàn được mời sang ăn cơm Tầu tại nhà hàng danh tiếng bên
Gia Hội, do toàn thể anh em Truyền Tin làm việc tại Huế đóng góp
khoản đãi rất trọng hậu.
Sáng sớm hôm sau ngày tới Huế, đang
lang thang trong hành lang trên lầu Khách sạn đợi xe đến đón, Tôi
gặp một cô dáng vẻ nữ sinh rất duyên dáng xinh xinh. Vốn tuổi trẻ
hào phóng lãng mạn, Tôi nhoẻn miệng cười nghiêng mình lịch thiệp
chào làm quen. Vừa lúc đó thì Thiếu úy Phan Xuân Thế, Trưởng
Phòng Mật Mã Bộ Chỉ huy Viễn Thông Quân khu tới. Anh Thế chào Tôi
và ghé tai nói nhỏ: “Em vợ Thiếu tá Lam Sơn Chỉ huy trưởng Khu
Truồi, mới bị cất chức và giữ điều tra liên quan đến an ninh quốc
gia sao đó. Thiếu tá không nên gần và làm quen, e rằng an ninh
theo dõi ngó thấy có thể gặp chuyện không hay sau này cho mình.”
Anh Thế người gốc Huế, nguyên là công
chức Tòa Án bị động viên theo học khóa sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, ra
trường được tuyển lựa cho về tăng cường nhân số ngành Mật Mã. Vì
hoàn cảnh gia đình có Cha già yếu cần săn sóc đặc biệt, nên sau
khi học khóa Sĩ quan Mật Mã tại Phòng Mật Mã Trung ương, Tôi đề
nghị cho về Huế, thay cho anh Lý Thái Vượng đã phục vụ tại Huế
trên 2 năm, cũng đang có nhu cầu đưa Cha già và gia đình đông con
di cư từ Hà Nội vào không hợp với phong thổ Huế, muốn được vào
Sài Gòn để ổn định việc định cư vĩnh viễn.
Buổi công tác đầu tiên của phái đoàn là
tham dự thuyết trình tại Bộ Chỉ huy Viễn Thông Quân khu. Qua các
điều trình bày của địa phương và thảo luận thắc mắc của phái đoàn
Trung ương, Tôi cảm nhận được rằng tại đây, giữa cấp chỉ huy Khai
thác Truyền Tin (Thiếu tá Phan văn Chuân) và chỉ huy trưởng đơn
vị Tiếp liệu sửa chữa Vật dụng Truyền Tin (Thiếu tá Khổng văn
Tuyển) cũng đang có các khó khăn tương tự như tại Sài Gòn, giữa
Trung tá Khương Chỉ huy trưởng Viễn Thông Bộ Tổng Tham mưu QĐQGVN
và Trung tá Lê văn Hiền Chánh Sự vụ Sở Vật liệu truyền Tin trực
thuộc Nha Quân Cụ trong hệ thống chỉ huy của Tổng Cục Tiếp vận.
Vài tháng sau, anh Khổng văn Tuyển được
anh Khương đề nghị Bộ Tổng Tham Mưu điều động vào Sài Gòn, làm
Chánh Sở Vật liệu Truyền Tin thay thế Trung tá Lê văn Hiền bị
thuyên chuyển ra khỏi ngành TT, không biết vì lý do gì? Sau này
anh Hiền hoạt động ngoài Bộ binh cũng đã được thăng lên cấp đại
tá. Thời kỳ sau 30-4-1975 phải đi tập trung cải tạo, Tôi lại có
dịp gặp anh Hiền mặc dù anh ấy đã giải ngũ sống tại quê vùng
trồng bưởi có tiếng của tỉnh Biên Hòa, nhưng cũng phải đi tập
trung cải tạo như những người đang còn tại ngũ [như] chúng tôi.
Đến giữa năm 1976, Tôi bị chuyển ra cải tạo tại vùng Yên Bái,
Hoàng Liên Sơn, miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa, anh Hiền được ở lại
Trại Suối Máu, Biên Hòa, cùng với một số Bác sĩ Quân Y, không
biết lúc nào thì được tha.
Rời Bộ Chỉ huy Viễn Thông, toàn thể
đoàn thanh tra chúng tôi được hướng dẫn vào Thành Mang Cá, nơi
đồn trú của Đại đội TT, chờ anh Khương ghé vào Cung Nội (nơi có
Bộ Tư lệnh Quân Khu để yết kiến vị Tư lệnh Quân Khu) để trình vị
Tư lệnh Quân Khu (hình như lúc đó là Đại tá Lê văn Nghiêm) biết
là mình đang dẫn đoàn thanh tra TT công tác tại miền Trung. Đến
khi anh Khương xong công việc trình diện Tư lệnh Quân Khu về tới
Đại đội, cuộc thanh tra Đại đội mới bắt đầu. Tại cơ sở Đại đội TT
chẳng có gì liên quan đến Mật Mã, nên Trung úy Trịnh Xuân Minh và
Tôi không được mời tham dự. Thiếu úy Võ Trịnh Trọng được giao phó
trách nhiệm dẫn chúng tôi xuống Câu lạc bộ của Đại đội giải khát
chờ, phái đoàn làm việc xong sẽ cùng lên đường đi thăm Trung tâm
Truyền Tin Khu Truồi. Thiếu úy Trọng (đến năm 1959 mang lon đại
úy du học TT tại Hoa Kỳ về, được anh Khương đưa về làm Phó Giám
đốc cho Tôi tại Trường Truyền Tin Liên trường Võ Khoa Thủ Đức,
Tôi đã nhắc đến trong đoạn Duyên Nợ Truyền Tin-5) kêu nhân viên
Câu lạc bộ đãi chúng tôi, nem chua nướng, tỏi sống, nhắm với Bia
hâm nóng bỏ đường, rất ngon và làm ấm lòng người vào buổi sáng
mồng 4 Tết. Thời tiết của Huế vẫn còn lạnh cóng, trong khi tại
Sài Gòn và các tỉnh miền Nam đã nóng đổ mồ hôi.
Buổi tối ngày thứ 2 làm việc tại Huế,
ông Cụ Trần Thái Kỉnh (một nhân sĩ Chính trị của Cần Lao hầu như
ai ở Huế cũng biết tiếng, là thân phụ của Hạ sĩ Trần Chí Trung
Mật Mã viên làm việc với Tôi tại Sài Gòn) nhờ Thiếu úy Thế Trưởng
Phòng Mật Mã Quân khu, mời anh Minh, Tôi, anh Khương và cả anh
Thế đến nhà dùng cơm tối. Trong lúc ăn uống, ông Cụ vồn vã nói
truyện với Tôi rất mực thân tình về cả các hoạt động chính trị
tại miền Trung, và nhắc Tôi nhớ chiều ngày Mồng Tám Tết ra phi
trường Tân Sơn Nhất đón con gái của Cụ đưa tới nhà Bác sĩ Trần
Kim Tuyến tại Sài Gòn giùm. Sự kiện này làm anh Khương ngạc nhiên
vô cùng, không hiểu vì sao Tôi là người Bắc sống trong Sài Gòn,
mà lại có sự liên lạc quen biết thân thiện với một nhân vật như
vậy tại Huế. Cũng nhờ thế, sau cuộc thanh tra Huế về Sài Gòn, Tôi
cảm nhận được rằng mấy “đồng chí” có vai vế trong Phong trào Cách
mạng Quốc gia của Binh chủng TT, không ai còn tỏ vẻ quan trọng
kênh kiệu khi tiếp xúc với Tôi như trước nữa.
Sau 2 ngày làm việc ở Huế và Quảng Trị
xong, chúng tôi dùng xe hỏa từ ga Bạch Hổ Huế chạy qua An Cựu,
Phú Bài, Truồi, Lăng Cô, rồi leo núi và chui qua hầm Đèo Hải Vân
để vào Đà Nẵng, vào buổi chiều tối ngày mồng 5 Tết. Một gặp gỡ
“kỳ ngộ” đã xảy ra trên chuyến xe hỏa đầu năm Con Khỉ này, cũng
ghi lại cho Tôi và anh em Phòng Mật Mã Trung ương một kỷ niệm vui
vui. Số là, khi anh Trung úy Trịnh xuân Minh và Tôi vừa bước vào
phòng hạng nhất trên toa xe hỏa, thấy có 2 nữ sinh cỡ tuổi đôi
mươi, xinh xinh dễ thương đang ngồi trong đó. Chúng tôi sắp xếp
hành lý rồi ngồi vào chỗ xong, mới bắt đầu khơi truyện làm quen 2
người đẹp. Nhờ Huệ Chi và Kim Lan đều là thân quyến của gia đình
lính, nên câu truyện hàn huyên trở nên thân thiện dễ dàng nhanh
chóng. Huệ Chi có anh rể thuộc đơn vị Thiết giáp đóng ở Thủ Dầu
Một. Còn Kim Lan có thân quyến thuộc Không quân làm việc ở Tân
Sơn Nhất. Hai người cùng là bạn học Gia Long cũ, nhân dịp Tết rủ
nhau đi thăm Huế, lúc ra về thì gặp chúng tôi đi cùng chuyến tầu
đêm vào Đà nẵng. Sau này về tới Sài Gòn, anh em Phòng Mật
[Mã]
Trung ương chúng tôi (Vượng, Thiều, Minh, Lạng và Tôi) có nhiều
dịp lại nhà riêng Huệ Chi thăm, nên biết Huệ Chi cũng là một “nữ
thi sĩ tài tử” của trường Trung học Gia Long. Để làm cho sự quen
biết ngày một thêm thắm thiết, anh Lý Thái Vượng đã làm 2 câu thơ
để yêu cầu Huệ Chi phụ họa, “Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm
biết có duyên gì hay không?” Huệ Chi không phụ họa ngay, nói để
lần khác sẽ trả lời. Trước lạ sau quen, nhờ những kỳ thăm như
vậy, nên chúng tôi đã mời được Huệ Chi tham gia Ban Hợp Ca của
Phòng MMTU (Ban Hợp ca M2, có cả Vợ của Tôi), lên trình diễn giúp
vui trong các buổi học tập Chính trị Tố Cộng bài Phong do Bộ Chỉ
huy Viễn Thông tổ chức. Những ngày Chủ nhật mọi người thường tới
nhà Tôi để tập dượt hợp ca, và lần nào cũng được Vợ Tôi đãi trà
bánh hoặc xôi chè đậu.
Tại Đà
Nẵng, Quảng Nam, sau khi thanh tra các đơn vị khai thác TT xong,
cũng có cuộc “thăm viếng xã giao” đơn vị Yểm trợ Tiếp liệu Sửa
chữa Vật liệu TT (hình như lúc đó do anh Dương Hồng Cẩm chỉ huy).
Hoàn tất công tác tại miền Bắc Trung Việt, chúng tôi dùng máy bay
trở về Sài Gòn, chuẩn bị cho đợt công tác khác tại miền Cao
Nguyên Trung phần (Ban mê thuột, Pleiku, và Kontum).
Kỳ thanh tra miền Cao nguyên Trung
phần, chúng tôi cũng được Tổng cục Tiếp vận cấp vé đi máy bay Air
Việt Nam lên Ban mê thuột, chớ không phải dùng “Air Kaki”
tức là máy bay chuyển vận liên lạc của Không Quân như những quân
nhân đi công tác thường lệ. Sau khi thanh tra các đơn vị TT tại
Ban mê thuột xong, chúng tôi dùng xe Jeep đi đường bộ lên Pleiku,
rồi xuống Kontum.
Đặc biệt tại Pleiku, chúng tôi gặp
Trung úy Nguyễn văn Thúy (nhà văn Kỳ Văn Nguyên, tác giả cuốn
truyện “Tìm về sinh lộ” được giải thưởng văn chương của miền Nam
Việt Nam) đang thuộc quân số đơn vị TT hoạt động tại đây.
Anh Khương tiếp xúc nói truyện thấy có vẻ như 2 người đã quen
biết nhau từ trước. Ít ngày sau cuộc thanh tra, anh Thúy được
điều động về Bộ Chỉ huy Viễn Thông để làm việc bên Trung tâm TT
Bộ Tổng Tham mưu, và nhận lãnh việc tiếp tục thực hiện cuốn đặc
san “Sóng Việt” và giờ phát thanh của Binh chủng TT trên
làn sóng Đài Phát Thanh Quân đội, thay Tôi và anh em Phòng Mật Mã
Trung ương từ nhiệm. Chúng tôi từ nhiệm vì anh Giác ỷ thế Tham
mưu trưởng của Bộ Chỉ huy, xen lấn vào quyền Chủ bút tờ đặc san “Sóng
Việt” của Binh chủng do anh Khương phó thác cho Tôi phụ
trách.
Từ cuối
năm 1956 qua đầu năm 1957, toàn Bộ Tổng Tham Mưu di chuyển hết
vào Camp Chanson (cơ sở cũ của Bộ Tư lệnh tối cao Quân viễn
chính Pháp giải tán trao lại cho Việt Nam) ngay sát phi
trường Tân Sơn Nhất thuộc quận Phú Nhuận, tỉnh Gia Định. Từ ngày
đó Camp Chanson được đổi tên là Trại Trần Hưng Đạo. Bộ Chỉ huy
Viễn Thông và Sở Vật liệu TT, được cấp 2 dãy nhà song song bên
nhau, ngay gần bồn chứa nước (water tower) giữa khu các
Văn phòng làm việc, khu Câu lạc bộ và cư xá dành cho gia đình sĩ
quan thuộc Bộ Tổng Tham Mưu.
Cơ sở cũ của Bộ Tổng Tham Mưu tại đường
Trần Hưng Đạo giao lại cho Cơ quan Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ sử
dụng. Sau này, tất cả sĩ quan, hạ sĩ quan QLVNCH được cho đi du
học bổ túc chuyên nghiệp tại Hoa Kỳ, đều phải tới đây làm thủ tục
trắc nghiệm anh văn và phỏng vấn trước khi được chính thức cho
lên đường. Về sau nữa, cơ sở này lại trở thành nơi làm việc của
Bộ Tư lệnh Quân Đại Hàn (Nam Hàn) vào giúp Việt Nam Cộng Hòa
chống cộng sản Bắc Việt xâm lăng miền Nam.
Dọn vào Trại Trần Hưng Đạo, Phòng Mật
Mã Trung ương được cấp 3 căn phòng chính giữa nơi tầng dưới,
trong dãy nhà dành cho Sở Vật liệu TT. Chúng tôi đề nghị phải xây
tường ngăn các hành lang, và làm lưới sắt an toàn quây chung
quanh thành một khu biệt lập, không ai được đi ngang hoặc đứng
ngoài sân có thể nhìn thấy bên trong, rồi mới dọn vào. Sự kiện
này, ban đầu cũng làm cho một số anh chị em làm việc tại các văn
phòng ở 2 bên đầu nhà tầng dưới của Sở Vật liệu phiền lòng. Vì
nắng hay mưa, anh chị em ở đầu nhà bên này muốn sang gặp anh chị
em ở đầu nhà bên kia, đều phải đi vòng ra ngoài sân hoặc dùng cầu
thang leo lên lầu, đi ngang hàng hiên rồi lại xuống cầu thang,
mệt mỏi diệu vợi.
Nhưng về sau, khi thấy Tướng Trần văn
Đôn Tham mưu trưởng Liên Quân và Đại tá Nguyễn Khương Chỉ huy
trưởng Viễn Thông, mỗi lần đến thăm viếng Phòng Mật Mã Trung ương
cũng vẫn phải bấm chuông và đợi người ra nhận diện rồi mới mở cửa
mời vào. Không như những văn phòng khác, Quý vị này thích thăm
đâu là cứ tự nhiên đến và ra vào tự do bất cứ lúc nào, không cần
phải chờ đợi người nhận diện kiểm soát rồi mới được đón vào. Nhờ
thế, anh chị em hiểu được rằng đó là Quy luật Quân đội áp dụng để
bảo vệ cơ mật cho Cơ sở làm việc của Mật Mã, nên từ đó trở đi
không còn ai (nhất là các cô dân chính trẻ đẹp đi giầy cao
gót) phiền lòng đối với anh em Phòng Mật Mã Trung ương chúng
tôi nữa.
Từ
ngày dọn về cơ sở mới này, và cũng nhờ ông Ngô Đình Diệm đã trở
thành Tổng thống, nên việc học tập chính trị của các đơn vị TT
vào ban đêm không còn nữa. Hoạt động của Phong trào Cách mạng
Quốc gia Binh chủng TT cũng tự động chìm vào quên lãng, chỉ còn
các thành viên nòng cốt theo anh Khương từ Nha Trang về tiếp tục
bí mật công tác mà thôi.
Theo lệnh của Tổng thống, các buổi học
tập “Chính trị Tố Cộng” chính thức được tổ chức hàng
tuần trong giờ làm việc, áp dụng chung cho cả Hành chánh và Quân
đội trên toàn miền Nam Việt Nam. Do đó Bộ TTM tổ chức hàng tuần
một buổi học tập “Chính trị Tố Cộng”, chung cho tất cả
mọi đơn vị đồn trú trong Trại Trần Hưng Đạo, tại sân cờ trước tòa
nhà lớn, dưới sự Chủ tọa của Trung tướng Lê văn Tỵ Tổng Tham Mưu
trưởng. Cục Tâm lý chiến phải đưa Đoàn Văn nghệ Trung ương, gồm
toàn nam nữ ca kịch sĩ nổi danh đương thời, đến phụ trách chương
trình ca nhạc kịch để giúp vui cho buổi học tập được hào hứng.
Từ sau ngày có sự trục trặc giữa anh
Đại úy Hà Quang Giác Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy Viễn Thông và
Tôi, về vụ tờ đặc san “Sóng Việt” phải giao cho anh Thúy
phụ trách, có vài chiếc thư rơi đến Tướng Trần văn Đôn Tham Mưu
trưởng Liên quân, và Tướng Lê văn Tỵ Tổng Tham Mưu trưởng, tố cáo
về tác phong của Tôi. Không biết có cái nào gửi đến “Hộp thư
dân ý nơi Phủ của Cụ” không? Có lẽ các “thư dân ý”
này được gửi đi với mục đích làm cho Tôi bị mất tín nhiệm đối với
2 vị tướng cầm đầu Bộ Tổng Tham Mưu, mà theo quy định Tôi vẫn
trực thuộc thẳng Quý vị ấy về phương diện tổ chức điều hành kỹ
thuật các Hệ thống Mật Mã trong Quân đội.
Tôi không nghĩ rằng anh Giác làm việc
này, chắc là các em út của anh ấy vì lý do nào đó, hoặc do lệnh
của Phong trào buộc phải làm việc này, để loại Tôi ra khỏi Phong
trào sau khi việc vận động ủng hộ ông Ngô Đình Diệm đã hoàn
thành. Vì nhiều lần, có người đã đề cập khuyến khích Tôi gia nhập
đảng Cần Lao Nhân Vị, nhưng Tôi đã lịch sự từ trối, vì Tôi đã
thấy có sự chia bè phái kèn cựa nhau trong hàng ngũ ấy, nên không
muốn gia nhập làm chi thêm mệt. Có lẽ đây cũng là nguyên do vì
sao suốt thời gian 8 năm ông Ngô Đình Diệm làm Tổng thống, Tôi
không được thăng lên một cấp nào. Vẫn đeo một “Hoa Mai Bạc”
thay cho “4 vạch kim tuyến vàng” Tôi đã có từ trước ngày
Song Thất 1954, ra phi trường Tân Sơn Nhất cùng các sĩ quan cấp
tá thuộc Bộ Tổng Tham Mưu đón ông Ngô Đình Diệm về làm thủ tướng.
Thư tố cáo thuộc loại “ruồi bu”
nên đã không làm hại được Tôi. Câu truyện này được ghi lại không
có mục đích “xả oán cũ”, mà chỉ muốn chứng minh những
“cái Duyên Nợ Truyền Tin” vui buồn đã đến với Tôi, trong khoảng
thời gian mười một năm ngắn ngủi phục vụ trong Binh chủng TT, so
với 27 năm Quân vụ của Tôi (tính đến 30-4-1975) để các Bạn đọc
chơi cho vui trong lúc tuổi già thôi.
Trong khoảng Đệ Nhất Tam cá nguyệt
1957, Tôi đang làm Chánh chủ khảo khóa Mật Mã Viên tại Trung tâm
Huấn luyện TT Vũng Tầu, do Thiếu tá Nguyễn Đình Tài Chỉ huy, Đại
tá Khương gọi điện thoại từ văn phòng Bộ Chỉ huy Viễn Thông xuống
nhắn Tôi sớm trở về Bộ Tổng Tham Mưu, trình diện Thiếu tướng Tham
Mưu trưởng Liên Quân gấp. Bình thường thì sau khi chấm thi xong,
đoàn giám khảo chúng tôi thế nào cũng nghỉ xả hơi vài ngày rồi
mới trở về Sài Gòn. Lần này vừa xong công việc, chúng tôi phải
vội vã rời ngay Vũng Tầu vào buổi chiều, để sáng hôm sau Tôi kịp
trình diện Tướng Tham mưu trưởng, xem có việc gì mà gấp vậy.
Chín giờ sáng anh Khương mới tới văn
phòng, Tôi nhờ báo với Chánh văn phòng Tướng Tham Mưu trưởng cho
giờ hẹn lên trình diện thiếu tướng. Mấy phút sau, Chánh văn phòng
trả lời cho anh Khương biết là Tôi không cần phải trình diện nữa.
Cả 2 người chúng tôi cùng ngạc nhiên và lo lắng thắc mắc. Anh
Khương đề nghị Tôi cứ lên gặp thẳng Chánh văn phòng, xin yết kiến
thiếu tướng như Tôi vẫn thường làm trong những lần trình công vụ
riêng về Mật Mã, để tìm hiểu xem sao.
Tôi đã lên gặp Chánh văn phòng, sau khi
ngồi chờ 5 phút, Tướng Đôn gọi qua Interphone cho mời Tôi vào gặp
mặt. Sau khi chào và xưng danh xong, Tôi trình bày là đang đi
công tác tại TTHL Truyền Tin Vũng Tầu, được điện thoại của Chỉ
huy trưởng Viễn Thông báo là phải về trình diện thiếu tướng gấp,
sáng nay Tôi nhờ xin lấy giờ hẹn trình diện thì thiếu tướng chỉ
thị không cần nữa. Tôi thắc mắc e ngại không biết có điều gì quan
trọng không, nên cố tình đến đây xin gặp thiếu tướng. Tướng Đôn
chỉ tay mời Tôi ngồi xuống ghế rồi nói: “Con người ta có lúc
nghĩ thế này, nhưng cũng có lúc bình tĩnh nhận ra lại nghĩ thế
khác, vì thế Tôi thấy không cần gặp anh nữa.”
Tôi trình bày là, Tôi đã được thường
xuyên tiếp xúc và làm việc với thiếu tướng, từ những năm 1952
thiếu tướng mới ở Pháp về làm Chánh Sở An Ninh Quân đội cho đến
nay. Chắc thiếu tướng biết rõ tác phong của Tôi hơn ai hết, do
vậy Tôi khẩn khoản xin Thiếu tướng vui lòng cho Tôi biết việc đó
được không, để Tôi thấy cái sai nếu có mà tự sửa mình cho tốt
hơn. Tướng Đôn nói: “Trước đây mấy bữa có lá thư gửi đến ‘hộp
thư dân ý’ của Tôi, kể rằng trong lúc ăn uống tại Câu Lạc Bộ Sĩ
quan (nơi gần cổng Một) anh nói với mọi người rằng, Tôi là người
ăn chơi thích nhảy đầm... Tôi không biết Thiếu tá Nguyễn-Huy Hùng
nào ở Bộ Chỉ huy Viễn Thông mà lại tệ như vậy, nên Tôi muốn gặp
ngay cho biết mặt. Nhưng sau khi cho truy tầm hồ sơ Thiếu tá
Nguyễn-Huy Hùng trình lên, Tôi mới biết là anh nên đã đổi ý kiến,
không thấy cần phải gặp nữa, vì Tôi biết anh từ lâu, anh không
phải là người ăn nói bừa bãi như vậy. Thôi mọi việc bỏ qua coi
như không có gì đừng thắc mắc nữa.”
Tôi ngỏ lời cám ơn, rồi chào giã từ trở
về Bộ Chỉ huy Viễn Thông, kể lại cho anh Khương nghe những gì vừa
xảy ra giữa Tôi và Thiếu tướng Tham Mưu trưởng. Đồng thời Tôi
cũng nói với anh Khương là nếu em út của anh không chấm dứt những
việc rơi thư như thế này, Tôi sẽ nộp đơn xin ra khỏi Binh chủng
Truyền Tin. Anh Khương giả lả khuyên Tôi nên bình tĩnh để anh ấy
coi lại.
Khoảng một tháng sau, vào một buổi sáng, anh Khương lại gọi điện
thoại qua văn phòng của Tôi, báo cho biết là Trung tướng Tổng
Tham Mưu trưởng muốn gặp Tôi ngay. Tôi tức tốc lên trình diện
liền. Chánh văn phòng (vốn là người quen thân từ lâu)
vừa thấy mặt Tôi liền ghé tai nói nhỏ cho biết, là có tên nào ở
Bộ Chỉ huy Viễn Thông báo cáo là anh phá hoại học tập chính trị,
chuẩn bị tinh thần mà gặp Trung tướng. Chánh văn phòng vào trình,
2 phút sau quay ra mở cửa mời Tôi vào gặp Trung tướng Tổng Tham
Mưu trưởng.
Tôi bước vào, đến trước bàn giấy, đứng nghiêm chào, xưng danh và
đợi lệnh. Tướng Tỵ thấy Tôi, khoan dung nói: “Cấp bậc lớn
rồi, sao không giữ gìn cho nghiêm chỉnh trong giờ học tập Chính
trị làm gương cho em út, mà lại nhảy nhót làm mất trật tự như vậy?”
Tôi chợt nhớ ra ngay, trong buổi học tập 2 tuần lễ trước, trong
lúc nữ ca sĩ Ánh Tuyết (nhưng da lại hơi bánh mật) hát
bài “Trăng sáng vườn chè”, đến câu “...Anh chưa thi đỗ thì
chưa, thì chưa, thì chưa...” Tôi lớn tiếng hỏi: “thì
chưa làm gì?”, mọi người cùng khoái chí hùa nhau nhắc lại
câu hỏi của Tôi. Rồi đến lượt Thái Thanh hát bài “Dòng sông
Danube”, Tôi ngồi dãy ghế sau cùng không cản vướng ai, nên
đứng lên nhún nhảy theo điệu nhạc. Mấy bạn Mật Mã ngồi bên cạnh
cũng nhún nhảy theo, làm mấy “đồng chí” nòng cốt của Phong trào
nhìn chúng tôi có vẻ không đồng ý. Tôi cho rằng sự hòa nhịp làm
cho tinh thần ca sĩ hứng khởi thêm trong khi trình diễn, chẳng có
gì đáng quan tâm, thế mà đã bị báo cáo là “kém tác phong, làm
mất trật tự phá hoại học tập”. Thật hết chỗ nói.
Tôi thủng thẳng trình bày lại các sự
việc trên, và thưa với Tướng Tỵ rằng: “Buổi học tập đó Trung
tướng cũng có mặt, và nhân viên Bộ Chỉ huy Viễn Thông được cái
vinh dự ngồi các hàng ghế kế ngay bên cánh trái của khu ghế dành
cho Trung tướng và Quý vị phục vụ trong văn phòng Trung tướng và
Tướng Tham Mưu trưởng, nếu Tôi làm huyên náo mất trật tự hẳn là
Trung tướng và Quý vị khác đã thấy ngay, làm sao tránh được. Nhất
là chung quanh các khu ghế đều có Quân Cảnh đứng canh nghiêm
ngặt. Nếu Tôi làm bạy gây mất trật tự, chắc chắn đã bị Quân Cảnh
giữ và trình lên Trung tướng ngay, đâu phải đợi tới mấy tuần sau
mới có thư tố cáo gửi đến tay Trung tướng.” Rồi, lợi dụng
dịp này Tôi trình bày để ông biết luôn về việc, một tháng trước
Tướng Đôn Tham mưu trưởng cũng gọi Tôi lên gặp, vì người ta đã
gửi thư đến vu cáo là Tôi nói xấu ông ấy tại Câu Lạc Bộ Sĩ quan,
nơi mà Tôi chưa bao giờ tạt ngang chứ nói chi đến việc vào ăn
uống ở trong đó.
Nghe xong, Tướng Tỵ khuyên: “Từ nay
phải cẩn thận, thư tố cáo gửi đến Tôi thì không sao. Nếu lỡ thư
tới tay Tổng thống thì anh nghĩ làm sao?” Tôi thưa: “Trước
đây, Tôi đã từng có thời gian phục vụ bên Trung tướng tại Tham
mưu Biệt bộ Bộ Quốc phòng, từ hồi Tôi mới ở Pháp về. Chắc Trung
tướng biết rõ tính tình của Tôi. Nếu chẳng may Tổng thống có hỏi,
xin Trung tướng trình bày giùm. Nếu không xong thì Tôi đành chịu
hàm oan chớ biết làm sao. Chắc kỳ này Tôi phải nộp đơn xin Trung
tướng cho Tôi ra khỏi Truyền Tin, để phục vụ tại một đơn vị Bộ
Binh nào đó là hơn.” Tướng Tỵ nói: “Được rồi, về nói với
Trung tá Khương lo mà làm kỹ thuật, chứ cứ làm chính trị như vầy
người nào cũng xin ra hết thì lấy ai làm việc!”
Tôi chào và rời văn phòng Tổng Tham mưu
trưởng trở về Bộ Chỉ huy, kể lại mọi việc cho anh Khương nghe, và
nói: “Ngày mai Tôi sẽ nộp đơn, xin anh ghi ý kiến thuận, và
chuyển lên cho Tôi ra khỏi Binh chủng TT. Tôi không thể tiếp tục
làm việc trong tình trạng như thế này nữa, rất nguy hiểm cho Tôi.”
Anh Khương khuyên Tôi bớt giận, để anh ấy tính lại.
Sáng hôm sau, Tôi cầm đơn sang văn
phòng anh Khương, nhưng anh ấy không có mặt vì mới được Trung
tướng Tổng Tham Mưu trưởng kêu lên gặp. Tôi phải đợi đến ngày hôm
sau, anh Khương mời Tôi sang, và đề nghị: “Liên Trường Võ
khoa Thủ Đức sẽ được thành lập trong năm nay. Các Khoa chuyên môn
Binh chủng đang thuộc thành phần tổ chức của Trường Sĩ quan Trừ
bị trong hiện tại, sẽ được tách ra lập thành Trường chuyên môn
riêng cho từng Binh chủng. Khoa TT hiện tại của Trường Sĩ quan
Trừ bị sẽ biến thành Trường Truyền Tin. Vậy Tôi đề nghị anh chịu
khó xa nhà ít lâu, đi học 2 khóa TT liên tiếp tại Fort Monmouth
bên Hoa Kỳ (khóa sĩ quan TT cao cấp, và khóa sĩ quan Tiếp liệu
Bảo trì Vật liệu TT). Năm tới trở về, Tôi sẽ trình bổ nhiệm anh
làm Giám đốc Trường TT, trong hệ thống của Liên Trường thuộc Tổng
cục Quân Huấn, như vậy không một ai còn có thể đụng chạm đến anh
nữa. Hôm qua, Trung tướng Tổng Tham Mưu trưởng gọi Tôi lên hỏi:
“bộ Anh đánh anh em dưới quyền giữ lắm hay sao mà ai cũng muốn
xin ra khỏi Binh chủng vậy?”. Để tránh cho Binh chủng những tăm
tiếng không thuận lợi này, Tôi đề nghị anh ở lại trong Binh
chủng, anh em mình hỗ trợ nhau xây dựng cho Binh chủng ngày một
tốt hơn.”
Sau một thoáng suy nghĩ, Tôi cũng muốn
có cơ hội sang thăm nước Hoa Kỳ, học hỏi về tổ chức TT của Quân
đội Hoa Kỳ, cũng như tìm hiểu thêm về xã hội Hoa Kỳ xem nó khác
với xã hội Âu Châu như thế nào, nên bằng lòng nhận lời đề nghị
của anh Khương. Anh Đại úy Lý Thái Vượng, Phó của Tôi đã có lệnh
giải ngũ nên Tôi chuẩn bị bàn giao Phòng Mật Mã Trung ương lại
cho anh Đại úy Trương văn Tàng. Tôi được đề cử theo học một khóa
Anh văn Thực hành Cấp tốc, tại Trường Sinh ngữ Việt-Mỹ (VAA =
Vietnamese American Association) tại khu Bàn Cờ Sài Gòn. Sau
này trường VAA được khuếch trương lớn hơn, trường sở rất đồ sộ
được xây dựng tại đường Mạc Định Chi thuộc Quận I, Sài Gòn.
Tôi được học chung một khóa Anh văn
Thực hành với rất nhiều sĩ quan mọi cấp, thuộc mọi Binh chủng Nha
Sở và Bộ binh, cũng sắp được gửi đi tu nghiệp bên Hoa Kỳ. Trường
chia ra thành nhiều lớp sáng và chiều. Mỗi lớp học chỉ gồm 12 học
viên, do một Giáo sư người ngoại quốc phụ trách hướng dẫn riêng.
Lớp của Tôi do Bà Hà văn Vượng (người Anh) hướng dẫn.
Mỗi cuối tuần đều có giờ thi trắc nghiệm, xếp hạng để kiểm tra
mức độ tiến triển của từng học viên. Sau 3 tháng, lễ mãn khóa
trao bằng tốt nghiệp, được tổ chức tại Phòng Hội lớn của Trung
tâm Hành quân Bộ TTM, dưới quyền chủ tọa của Tướng Tổng Tham Mưu
trưởng với sự hiện của các Trưởng nhiệm sở trong Bộ TTM và các Cố
vấn Hoa Kỳ cùng tham dự.
Khoảng tháng 8-1957, Tôi và các bạn sắp
đi học khóa Truyền Tin tại Fort Monmouth, ở Tiểu bang New Jersey,
Hoa Kỳ, được đưa đi làm thủ tục, may cắt mỗi người 1 bộ lễ phục
mùa Hè và 1 bộ lễ phục mùa Đông cùng với áo choàng nỉ dài, đồng
thời cũng được may (trả tiền riêng với giá rẻ hơn ngoài phố) một
bộ âu phục nỉ mầu xanh nước biển xậm nếu ai muốn. Chúng tôi không
phải qua kỳ thi trắc nghiệm anh văn, vì các khóa học mà chúng tôi
sẽ tham dự, đã dự trù có thông dịch viên phụ giúp các Huấn luyện
viên trong giờ học.
Các bạn cùng đi học 2 khóa Truyền Tin
một lượt với Tôi gồm 12 người, thuộc cả bên khai thác lẫn bên
Tiếp liệu Sửa chữa. Bên khai thác có Nguyễn văn Lành, Nguyễn như
Hổ, Nguyễn Đình Hòa, Tôn Thất Tâm, Chu văn Trung, Ngô văn Doanh,
Võ Tấn Ngải, và Tôi. Bên Tiếp liệu có Vũ Xuân Hoài, Phạm Xuân
Mai, Nguyễn Đình Thế, và Robert Việt.
CHƯƠNG 10
CHUYẾN DU HỌC THÍCH THÚ TẠI
TRƯỜNG TRUYỀN TIN LỤC QUÂN HOA KỲ, FORT MONMOUTH, TIỂU BANG NEW
JERSEY BÊN BỜ ĐẠI TÂY DƯƠNG, MIỀN ĐÔNG HOA KỲ
Khoảng
cuối tháng 9 năm 1957, chúng tôi gồm 12 sĩ quan (8 người bên Khai
thác và 4 người bên Tiếp liệu) được Phòng Huấn luyện MACV gọi
trình diện làm thủ tục lên đường sang Hoa Kỳ theo học 2 khóa
Truyền Tin liên tiếp (khóa sĩ quan Truyền Tin Cao cấp, và khóa
Tiếp liệu Bảo trì vật liệu Truyền Tin cấp Chiến trường) tại
Trường Truyền Tin Lục quân Hoa Kỳ ở Fort Monmouth, Tiểu bang New
Jersey, bên bờ Đại Tây Dương miền Đông Hoa Kỳ. Chúng tôi không
phải qua kỳ sát hạch Anh văn, vì chương trình các khóa học có dự
trù thời gian sử dụng thông dịch viên.
Tôi là người duy nhất mang cấp bậc
thiếu tá nên được đề cử làm Trưởng đoàn phối hợp anh em trong khi
di chuyển. Đi đường chúng tôi mặc quân phục nỉ mầu xanh olive xậm
bốn túi, mũ casquette đồng mầu với quần áo, và khoác thêm áo
choàng dài ba phần tư (trois quart) cũng bằng nỉ dùng cho mùa
Đông. Ngoài quần áo dân sự, chúng tôi phải mang theo đồng phục
ka-ki để dùng trong mùa Hè, vì thời gian học kéo dài tới tháng 5
năm 1958 mới chấm dứt.
Chúng tôi đi bằng máy bay của một hãng
hàng không dân sự Hoa Kỳ (không nhớ tên, hình như TWA) ký hợp
đồng vận chuyển nhân sự cho quân đội Hoa Kỳ, rời phi cảng Tân Sơn
Nhất Sài Gòn vào buổi sáng. Nhờ thế trên máy bay có chiêu đãi
viên cung cấp thức ăn và nước uống cho hành khách, chớ không phải
mua thực phẩm hộp như di chuyển trên các máy bay vận tải của hệ
thống chuyển vận quân đội.
Chiếc máy bay đưa chúng tôi đi, từ
Bangkok Thái Lan ghé Tân Sơn Nhất Sài Gòn lấy thêm khách là chúng
tôi. Trên chuyến bay, ngoài những hành khách quân sự Hoa Kỳ và
thân quyến, còn có một toán sĩ quan Thái Lan cũng mặc quân phục
mùa Đông như chúng tôi, do một đại tá làm trưởng đoàn.
Một chuyện vui kỳ thú đã xảy ra, làm
Tôi chẳng bao giờ quên được, khi máy bay đáp xuống phi trường
quân sự trên đảo Guam vào lúc nửa khuya cùng ngày. Sau khi máy
bay đáp xuống, rời đường bay vào ngừng lại tại bến đậu, mở cửa
bên hông, và chiếc thang xuống máy bay được đẩy sát tới cửa, thì
thấy một hạ sĩ quan Hoa Kỳ mặc quân phục làm việc mầu ka-ki lên
máy bay. Anh ta đi tới đi lui rồi tự nhiên đến trước mặt Tôi,
nghiêm chỉnh dơ tay chào và mời Tôi làm khách Danh Dự xuống trước
mọi người. Tôi đang ngạc nhiên chưa biết phải làm gì, thì các anh
Đại úy Vũ Xuân Hoài và Phạm Xuân Mai ngồi kế bên Tôi, hối: “Major
được mời là khách Danh Dự xuống trước, Major đi theo anh ta xuống
trước đi!”
Từ
cửa máy bay bước xuống hết cầu thang, đi được thêm mươi thước, có
một trung úy đang đứng nghiêm đợi chào Tôi, rồi chỉ tay hướng dẫn
Tôi vào Phòng Danh Dự của phi cảng để ký tên lưu niệm vào Sổ Vàng
dành cho các khách Danh Dự đặt chân lên đảo Guam. Xong thủ tục
anh ta dẫn Tôi qua phòng giải khát, thấy mọi người cùng đi đang
có mặt tại đó. Tôi đến cùng mọi người, và kể cho anh em nghe câu
truyện vừa xảy ra với Tôi từ sau khi xuống máy bay.
Đến giờ loa phóng thanh mời hành khách
ra cửa lên máy bay đi tiếp, viên trung úy lúc nãy đến mời ông Đại
tá Thái Lan ra lên máy bay trước mọi người, chứ không mời Tôi ra
trước như lúc xuống máy bay. Lúc đó Tôi mới vỡ nhẽ và cười thầm
trong bụng, nhận ra rằng mình đã được mời lầm vì chiếc mũ
casquette đội trên đầu. Cái lưỡi trai của mũ casquette dành cho
sĩ quan cấp tá Quân lực Việt Nam Cộng Hòa và cấp tá Quân đội Hoa
Kỳ đều có thêu 2 nhành nguyệt quế kim tuyến, nhưng quân đội Thái
Lan thì không. Cái lưỡi trai mũ casquette của sĩ quan cấp Úy và
cấp tá Thái Lan để trơn như nhau không thêu gì cả. Do đó khi anh
hạ sĩ quan lên máy bay tìm trong số sĩ quan người Á Đông, thấy
Tôi đội mũ casquette có lưỡi trai thêu 2 nhành Nguyệt quế kim
tuyến thì yên chí Tôi là người có cấp bậc cao nhất trong chuyến
bay, nên trịnh trọng chào và mời xuống. Đến khi Tôi ký tên trên
Sổ Vàng dành cho khách Danh Dự của Phi cảng với danh bậc Major
Nguyễn-Huy Hùng Republic of Viet Nam Armed Forces, anh trung úy
mới biết không phải là ông Đại tá Thái Lan ghi trên bản danh sách
khách du hành trên chuyến bay, nên anh ta đã đi tìm và gặp được
ông Đại tá Thái Lan để mời lên máy bay trước mọi người với tư
cách là khách Danh Dự của phi trường thuộc Căn Cứ Quân đội Hoa Kỳ
tại đảo Guam.
Thật đúng là dịp hên “ngàn năm một thuở” trong đời binh nghiệp
của Tôi. Nhưng lại là cái không may cho anh hạ sĩ quan Hoa Kỳ
trực đêm hôm ấy, chắc chắn sẽ bị quở phạt vì tội không chu toàn
trách nhiệm, nếu ông Đại tá Thái Lan biết ra và gửi thư phiền
trách. Nhưng theo suy nghĩ của Tôi, chắc chắn ông Đại tá Thái Lan
không nghĩ ra, hoặc có hiểu ra thì cũng chẳng muốn làm cái việc
gửi thư than phiền không thi hành nghiêm chỉnh quy lệ ngoại giao
địa phương ấy làm gì.
Trạm dừng chân kế theo của chuyến bay
là phi trường quốc tế Honolulu, trên đảo O’AHU thuộc Tiểu bang
Hawaii Hoa Kỳ. Phi cơ chúng tôi đáp xuống đây vào khoảng gần nửa
đêm ngày hôm sau, nghỉ 2 tiếng đồng hồ để chờ đổi máy bay khác đi
tiếp vào lục địa Hoa Kỳ. Khung cảnh phi cảng đẹp vô cùng, thời
khí mát mẻ trong lành, nhà ga phi cảng rộng thênh thang khang
trang sáng sủa tân kỳ, có nhà hàng ăn uống bán đồ tặng phẩm như
một siêu thị nhỏ. Trong khi chờ đợi, các anh Phạm Xuân Mai, Vũ
Xuân Hoài và Tôi, lảng vảng đi đến trước thềm cửa ra vào phi cảng
để ngắm cảnh, gặp mấy cô gái thổ dân Hawaii mặc xiêm lá nhiều mầu
đẹp mắt, cười hỏi chúng tôi mới từ Viễn Đông tới à, chúng tôi gật
đầu và các cô ấy choàng vào cổ cho một dây hoa lài trắng toát
thơm ngát, miệng nói “Welcome to Honolulu”. Chúng tôi gật đầu
cười nói cám ơn rồi đi vào nhà hàng giải khát gọi nước uống. Thật
là một thông tục hiếu khách rất nồng hậu, thảo nào người ta nói
quần đảo Hawaii của Liên Bang Hoa Kỳ là Thiên đường Hạ giới, ai
cũng nao nức được có dịp du lịch vui hưởng ít ngày cho thoả
thích.
Trong
lúc ngồi gọi nước uống chúng tôi quan sát thấy các cô gái lại
choàng hoa vào cổ một người da trắng, ông này móc túi đưa cho các
cô ấy tiền (chẳng biết bao nhiêu). Thấy cảnh đó chúng
tôi chợt giật mình, định ra gặp các cô ấy để tặng tiền, nhưng suy
đi nghĩ lại sợ mắc cỡ nên thôi.
Sau này, trong thời gian học, vào cuối
tuần lễ nghỉ đi chơi dọc phố trong khu Times square Plaza ở thành
phố New York, thấy có mấy cô xinh xinh đang độ tuổi nữ sinh Trung
học đứng trên lề phố chào khách bộ hành qua lại, trước ngực các
cô đeo tấm bảng nhỏ ghi chữ “Kiss me!” và tay cằm hộp
quyên tiền ghi tên tổ chức xã hội thiện nguyện. Thấy có người ôm
hôn rồi bỏ tiền vào thùng, có người cho tiền nhưng không hôn. Lúc
đó Tôi mới hiểu ra rằng, việc làm này cũng giống như việc choàng
dây hoa của các cô ở phi trường Honolulu, đều nhằm mục đích quyên
tiền giúp các cơ sở xã hội thiện nguyện tư nhân, để tiếp tay giúp
đỡ những người không may nhất thời gặp phải hoàn cảnh hoạn nạn
túng thiếu không nơi cư trú. Bây giờ là công dân Hoa Kỳ cư ngụ
thường trực trên đất Mỹ, hàng ngày Tôi thường nhận được những thư
quyên tiền của nhiều tổ chức xã hội thiện nguyện khác nhau gửi
đến tận nhà, mặc dù mình chẳng quen biết ai làm ở những tổ chức
này cả.
Ngồi
gọi nước giải khát tại phi cảng Honolulu, Tôi bị hố một cái buồn
cười tức cả bụng. Tôi muốn ăn nho tươi, nhìn trong bảng liệt kê
trái cây không thấy raisin hay grape, mà chỉ có grape fruit, nghĩ
rằng là nho nên gọi grape fruit. Đến lúc người hầu bàn mang ra
một đĩa đựng trái chấp (giống như bưởi) cắt đôi, với
chiếc muỗng để múc ăn, mới biết là mình đoán nhầm. Chua ôi là
chua, lỡ kêu rồi đành phải rắc muối lên múc ăn hết cho đỡ tiếc 1
Đô-La chớ phải ít đâu!
Lên máy bay rời Honolulu, sau nhiều giờ
bay chúng tôi đáp xuống phi trường quốc tế San Francisco vào một
buổi chiều thứ Sáu. Có nhân viên tiếp vận Quân đội Hoa Kỳ đợi đón
đưa chúng tôi về trung tâm chuyển vận trong khu Presidio, đóng
tiền phòng nghỉ 3 ngày tại BOQ dành cho sĩ quan, đợi làm thủ tục
giấy tờ đi tiếp qua Fort Mounmouth, New Jersey bằng phương tiện
xe hỏa.
Sáng
hôm sau là ngày Thứ Bảy, chúng tôi sang Câu lạc bộ (Day room)
hỏi thăm đường ra phố chơi, thì may sao gặp ngay anh Trung úy Võ
Xum, trước cùng làm việc tại Bộ Chỉ huy Viễn Thông với Tôi trong
những năm đầu Thập niên 1950, sau được thuyên chuyển qua Truyền
Tin tại Bộ Tư lệnh Hải quân, nay đang học về Truyền Tin tại Căn
Cứ Hải quân bên Treasure Island, tìm đến thăm mừng chúng tôi mới
đến. Anh ấy có xe riêng to rộng đủ chỗ cho 4 hành khách, nên rủ
các anh Hoài, Mai, Hổ và Tôi xuống phố Tầu (China town)
ăn mì rồi sang thăm Căn Cứ Hải quân nơi anh ấy đang học.
San Francisco là một thành phố xây trên
đồi núi, nên các đường phố dốc gần như thẳng đứng, khi đậu xe
phải bẻ quặt 2 bánh trước móc vào vỉa xi măng bên lề đường để giữ
cho xe không bị trôi tuột xuống dốc. Đường phố khu China town
cũng hẹp, nhà san sát y như ở Chợ Lớn Sài Gòn vậy, chỉ khác là có
nhiều tầng cao, và tầng hầm thường là những tiệm ăn bình dân, giá
bán rẻ hơn những nhà hàng ăn trên mặt đường. Tô mì to gấp đôi tô
phở xe lửa tại Sài Gòn, vừa nhiều mì nhiều thịt đủ thay cho bữa
cơm người ăn khỏe, giá 75 xu. Nếu 5 người gọi món ăn chung cho
bữa cơm, gồm canh rau nấu thịt, rau xào thịt, cá hấp hoặc gà vịt
quay làm món mặn, và đồ tráng miệng trái cây tươi, cộng thêm tiền
“típ” cho hầu bàn, chia ra mỗi người chỉ phải góp khoảng 1 Đô-La
50 xu đến 2 Đô-La là nhiều. Nếu cũng gọi món ăn cơm chung như vậy
trong các nhà hàng trên mặt đường, ít nhất mỗi người cũng phải
tốn 5 Đô-La.
Sau khi ăn sáng, anh Xum chở chúng tôi qua cầu treo Bay Bridge
dài cả chục dặm, băng ngang vịnh San Francisco nối liền San
Francisco và Oakland. Cầu treo cao có hai tầng cho xe qua lại 2
chiều riêng biệt, bề ngang mặt cầu có vạch sơn trắng phân ra
nhiều đường xe chạy song song. Cầu được bắc ngang qua Treasure
Island (nằm ở giữa vịnh) nên chúng tôi chỉ phải chạy hơn
nửa chiều dài cầu thì có đường rẽ dẫn xuống đảo. Ở khúc này có
chỗ cho xe đậu lại ngắm cảnh, nên chúng tôi xuống xe nhìn quang
cảnh vịnh và các thành phố dọc dài 2 bên bờ vịnh. Nhất là nhìn về
hướng cửa biển, có chiếc cầu treo khác chỉ dài khoảng hơn 2 miles
gọi là Golden Gate Bridge, dưới ánh sáng trong của mặt trời đang
lên ngang vai, cảnh vịnh bao quát với những chiếc tầu và thuyền
buồm mầu sắc sặc sỡ nhẹ nhàng lướt sóng, đẹp như một bức tranh
hấp dẫn vô cùng.
Vào buồi chiều trước khi vào tiệm ăn
cơm tối, chúng tôi tản bộ dọc Columbus Avenue, đến góc đường
Broadway gặp một người da trắng trông có vẻ hung hăng giận dữ
chặn chúng tôi và nói một thôi những gì không ai hiểu anh ta muốn
nói gì, chỉ nghe được tiếng Pearl Harbor. Mọi người đang lúng
túng chưa biết xử trí ra sao, thì may sao anh Xum trờ tới đối đáp
với anh kia. Sau vài câu trao đổi anh ta bỏ đi. Lúc đó anh Xum
mới giải thích cho chúng tôi biết rằng anh kia ngỡ chúng tôi là
người Nhật, nên muốn nhắc chuyện quân Nhật đánh Pearl Harbor ra
gây sự. Anh Xum đã giải thích cho anh ấy biết chúng tôi là người
Việt Nam từ Đông Dương qua, không phải người Nhật nên anh ta xin
lỗi bỏ đi. Nếu không có anh Xum, thì chẳng biết truyện gì đã có
thể xảy ra vì ngôn ngữ bất đồng không hiểu nhau.
Chiều Thứ Hai chúng tôi lên tầu hỏa đi
sang miền Đông Hoa Kỳ theo “Tuyến Bắc”, đến Chicago phải
đổi sang tầu khác đi đến ga Red Bank thuộc hạt Monmouth Tiểu bang
New Jersey. Hệ thống chuyển vận xe lửa xuyên Lục địa Hoa Kỳ được
chia thành 2 tuyến, “Tuyến Bắc” (North bound)
chạy vòng băng ngang các Tiểu bang phía Bắc, và “Tuyến Nam”
(South bound) vòng băng ngang các Tiểu bang phía Nam.
Tầu chạy liên tục suốt đêm ngày. Chúng tôi được cấp vé đi hạng
nhất có giường ngủ, lúc nào đói chỉ việc tìm đến toa hàng ăn bán
suốt 24 giờ. Ban ngày muốn xem phong cảnh 2 bên đường, thì đến
toa có vòm kính cao hơn các toa thường, ngồi ghế nệm hút thuốc
đọc sách ngắm cảnh thoải mái. Tầu tới trạm ga Trung ương Chicago
vào một buổi sáng, chúng tôi phải mang hành lý xuống vào phòng
đợi cả 4 tiếng đồng hồ sau mới lên chuyến khác đi tiếp cuộc hành
trình. Chúng tôi gửi vali hành lý vào một ngăn tủ sắt phải trả
tiền, rồi giắt nhau đi quan sát các cơ sở thương mại.
Chúng tôi đi quanh xem các cửa hàng ăn
uống, bán kỷ vật, quần áo, sách báo, phòng hớt tóc (beauty
salon)... trong nhà ga rộng lớn gồm 2 tầng ngầm dưới đất như
một siêu thị. Đặc biệt có những chỗ đánh bóng giầy thuê làm chúng
tôi ngạc nhiên. Khi khách ngồi lên chiếc ghế bành to tướng có chỗ
tựa tay như ghế văn phòng, anh da đen đạp đạp bơm cho ghế cao lên
ngang mặt để anh ta đứng thẳng lưng đánh giầy, chớ không ngồi
chồm hổm xuống đất cho khách kê chân lên hộp đồ nghề như các em
đánh giầy bên Việt Nam. Khi lên đến tầng trên mặt đất, tìm ra khu
trước cửa ga nhìn phố xá xe người qua lại tấp nập, thấy đã có
tuyết rơi phủ trắng mặt đường. Thời khí làm chúng tôi tê mặt lạnh
cóng chân tay, vậy mà những người địa phương mua cà rem ăn ngon
lành, như chúng ta thường ăn vào mùa hè tại Việt Nam vậy.
Tầu rời Chicago vào lúc xế chiều, phăng
phăng chạy tiếp qua đêm, đến chiều hôm sau tới ga Red Bank. Chúng
tôi xuống tầu đang đảo mắt tìm người để hỏi thăm đường về trường
Truyền Tin, thì thấy một sĩ quan Hoa kỳ và 2 sĩ quan Việt Nam
(Trung úy Trường, Thiếu úy Thông thông dịch viên), từ trong nhà
ga bước ra chào mừng đón chúng tôi. Có xe buýt đưa chúng tôi về
Fort Monmouth, chạy đến khu hành chánh để làm thủ tục đóng tiền
thuê phòng ngủ trong BOQ dành cho khóa sinh, nhận tập hồ sơ hướng
dẫn các thủ tục khác về chương trình hàng ngày và các cơ sở sinh
hoạt cung cấp tiện nghi phục vụ khóa sinh trong trường.
Bảy anh đại úy và Tôi được cấp 3 phòng
trên lầu một BOQ, ở chung với một số đại úy khóa sinh người Hoa
Kỳ và Đồng minh đang theo học các khóa khác. Anh Đại úy Phạm Xuân
Mai và Tôi được xếp ngủ chung phòng dành cho 2 người. Anh Nguyễn
văn Lành và Võ Tấn Ngải ngủ chung một phòng. Còn 4 anh Vũ Xuân
Hoài, Nguyễn Như Hổ, Nguyễn Đình Thế, Ngô văn Doanh ở chung phòng
dành cho 4 người. Mấy anh Nguyễn Đình Hòa, Tôn Thất Tâm, Chu văn
Trung, và Robert Việt ở chung trong BOQ có mấy sĩ quan thông dịch
viên Việt Nam, cách BOQ của chúng tôi bởi một bãi đậu cả trăm
chiếc xe hơi riêng của khóa sinh và thông dịch viên.
Sáng hôm sau chúng tôi được dẫn đến tập
trung tại một phòng học trong khu Myer Hall. Đại tá Giám đốc huấn
luyện đại diện Tướng Chỉ huy trưởng Trường tới ngỏ lời chào mừng,
giới thiệu một trung úy Hoa Kỳ làm sĩ quan liên lạc giữa chúng
tôi và nhà trường, rồi thuyết trình tổng lược về các khóa học mà
chúng tôi sẽ thụ huấn trong những ngày kế tiếp. Chúng tôi cũng
được thông báo cho biết là đang có 2 khóa khác gồm toàn sĩ quan
cấp úy Truyền Tin Việt Nam đang theo học tại Trường, như vậy tổng
số sĩ quan Việt Nam được khoảng 50 người. Sau đó, sĩ quan liên
lạc dẫn chúng tôi đi thăm các phòng học và các văn phòng hành
chánh trong Myer Hall, rồi ra xe buýt đi thăm viếng làm quen với
tất cả các cơ sở hành chánh, siêu thị, ngân hàng, bưu điện, các
câu lạc bộ, nhà hát và khu giải trí khác dành phục vụ cho toàn
thể khóa sinh, và nhân viên làm việc tại Fort Monmouth cùng thân
nhân của họ đang cư ngụ trong lãnh thổ của Fort hay ở nhà riêng
quanh vùng lân cận.
Một tuần lễ sau ngày khai giảng khóa
học, chúng tôi và một số sĩ quan Đồng minh khóa sinh đang theo
học một khóa khác, được hướng dẫn đến văn phòng Trung tướng Chỉ
huy Trưởng Fort Monmouth, và Thiếu tướng Chỉ huy trưởng Trường
Truyền Tin, để thực hiện cuộc thăm chào xã giao chính thức theo
thông lệ đã quy định. Nhân dịp thăm chào Thiếu tướng Chỉ huy
trưởng Trường, chúng tôi được đưa thăm viếng luôn khu huấn luyện
sửa chữa các loại máy đo điện tử, faximile, máy quay phim, máy
chiếu phim, và máy Vô tuyến truyền hình, ở trong cùng khu vực đặt
văn phòng Thiếu tướng Chỉ huy trưởng Trường Truyền Tin, nơi gần
cổng phía Đông vào Fort Monmouth. Tại khu này đang có mấy sĩ quan
khóa sinh Việt Nam thuộc Binh chủng Truyền Tin theo học.
Trước khi đi du học Hoa Kỳ, Tôi đã được
theo học một khóa Anh ngữ Thực hành 3 tháng tại Trường Sinh ngữ
Vietnamese American Association tại Sài Gòn, do toàn giáo sư Hoa
Kỳ, Anh (England), và Úc Đại Lợi (Australia)
chỉ dạy, nhưng chẳng giúp cho Tôi được bao nhiêu. Vì Bà giáo
chuyên trách dạy lớp Tôi học là người gốc Anh chính tông (Bà
vợ ông Hà văn Vượng), âm ngữ nhịp điệu phát ra thuần túy Anh
Cát Lợi, nên khi nghe các giảng viên Hoa Kỳ nói tiếng Anh theo
giọng nhịp Mỹ lại nuốt vần nhiều quá, nên gặp khó khăn trong
tháng đầu của học trình. May nhờ có các Thông dịch viên được chia
nhau mỗi người chuyên trách về một môn riêng trong chương trình,
nên giúp ích chúng tôi rất nhiều trong tháng học đầu.
Qua tháng thứ 2, chương trình phối hợp
nhiều môn căn bản lại với nhau, thông dịch viên hơi bị lúng túng
vì nhiều từ kỹ thuật thuộc môn khác không am tường, may mà chúng
tôi đã quen nghe quen nói theo âm điệu của các Huấn luyện viên,
nên tự đối đáp thẳng với huấn luyện viên không cần tới thông dịch
viên nữa. Do đó số giờ học theo chương trình chỉ dùng hết có phân
nửa. Chẳng hạn bài học dự trù giảng dạy có thông dịch viên phải
mất 4 tiếng đồng hồ, nay vì huấn luyện viên và khóa sinh trao đổi
thẳng không phải qua thông dịch viên nên chỉ cần có 2 giờ, còn 2
giờ dư Huấn luyện viên cho chúng tôi về nghỉ (free time).
Do đó anh em yêu cầu Tôi đề nghị với sĩ quan liên lạc của khóa,
trình lên Giám đốc Huấn luyện xin xếp lại chương trình để dồn các
giờ trống vào một ngày nào đó, và hoạch định cho chúng tôi những
cuộc thăm viếng các cơ sở giáo dục Đại học, các cơ xưởng sản xuất
lớn, các trung tâm cung cấp dịch vụ thông tin liên lạc cho quảng
đại quần chúng, các tòa soạn, nhà in, phát hành sách báo, và các
trại chăn nuôi trồng tỉa theo lối công nghiệp... để tìm hiểu và
học hỏi kinh nghiệm hoạt động kinh tế của xã hội Hoa Kỳ, hòng
mang về khai triển tại Việt Nam. Chúng tôi bằng lòng tự đóng góp
tiền để chi trả tổn phí thuê xe vận chuyển đi thăm viếng.
Đề nghị của chúng tôi xét thấy hợp lý,
nên nhà trường đã duyệt lại chương trình dồn giờ và tổ chức cho
chúng tôi đi thăm rất nhiều nơi, không có dự trù trong chương
trình căn bản của khóa học. Chúng tôi được đưa đi thăm viếng
chung với khoảng mươi sĩ quan Đồng minh khác đang theo học tại
trường. Nhà trường cung cấp xe buýt chuyển vận miễn phí, và cho
ông trung úy liên lạc của khóa tăng cường thêm một thiếu úy nữa
đi theo hướng dẫn chúng tôi. Ngoài ra, mỗi ngày đi xuất du thăm
viếng ngoài trường như vậy, mỗi người được lãnh “perdiem” $7
Đô-la thay vì $5 Đô-la như thường lệ. Nhưng giờ ăn trưa chúng tôi
được dẫn đến dùng bữa tại nhà hàng ăn hạng nhất, giá thực phẩm
cung cấp cũng đắt hơn nơi bình dân, hóa nên đâu cũng hoàn đó.
Theo chương trình chính của khóa học,
chỉ dự trù cho chúng tôi đi thăm có 2 nơi: Kho Truyền Tin
Tobyhanna ở Tiểu bang Pennsylvania, và Trung tâm sản xuất phim
ảnh Quân đội tại Newark gần New York mà thôi. Nay nhờ thay đổi
thời lượng các bài học, chúng tôi được đưa đi thăm thêm nhiều nơi
khác rất hấp dẫn sau đây:
-Trường Đại học Rutgers ngay gần
trường;
-Cơ sở
hành chánh và Trung tâm Tổng đài điện thoại tự động rất lớn phục
vụ cho cả triệu khách hàng của hãng Pacific Bell,
-Tòa soạn nhà in nhật báo New Jersey
phát hành cả triệu bản một ngày, ở thị trấn Long Branch sát bờ
biển Đại Tây Dương, cách xa trường cả mấy chục dặm đường;
-Trại nuôi và gây giống ngựa đua;
-Trại nuôi bò sữa và vắt sữa tươi, lọc
bỏ bơ, đóng chai, toàn bằng dây chuyền máy tự động theo lối công
nghiệp;
-Xưởng
lắp ráp và sơn từng chiếc xe hơi hoàn chỉnh theo dây chuyền của
hãng General Motor Corporation;
-Hãng Philco và xưởng sản xuất dây
chuyền máy thu thanh bán dẫn (radio transistor), máy Vô
tuyến truyền hình, và Chuông Tự do (Independent Bell)
tại Thành phố Philadelphia;
-Trường Võ bị Lục quân Hoa Kỳ West
Point tại tiểu bang New York;
-Công ty CAN thăm các phòng thiết kế và
xưởng sản xuất dây chuyền các loại hộp kim loại dùng cho việc
đóng gói các thực phẩm chín như thịt, cá, rau, trái cây;
-Tượng
[Nữ]
Thần Tự do,
-Tòa nhà cao cả trăm tầng trụ sở Liên Hiệp quốc, và
-Empire State Building tại New York.
Thời gian học hàng ngày từ 9 giờ sáng
đến 12 giờ trưa, nghỉ 1 tiếng đồng hồ dùng bữa rồi lại học tiếp
đến 4 giờ chiều là hết lớp, thứ bảy Chủ nhật nghỉ. Do đó ngoài
những giờ lo “gạo và soạn bài”, chúng tôi có dư rất nhiều giờ
chẳng biết làm gì ngoài việc sang “Day room” chơi và đi xem phim.
May nhờ nhà trường có một tổ chức lo toan về tâm lý xã hội rất
toàn hảo, nên đã lập ra những xưởng hướng dẫn thủ công nghiệp
miễn phí. Khóa sinh nào muốn tiêu thời giờ rảnh rỗi một cách hữu
ích hơn cho cá nhân mình, có thể đến đó mầy mò học nghề không tốn
tiền bằng tư liệu do xưởng cung cấp miễn phí, lại có chuyên viên
rành nghề chỉ dẫn kỹ thuật. Có nhiều loại xưởng hướng dẫn các
nghề khác nhau: làm đồ mộc, rửa phim in ảnh, sửa chữa máy móc...
Các anh thông dịch viên làm việc tại
trường theo mỗi hạn kỳ là 2 năm, nên mỗi người đều tìm cho mình
một thú tiêu khiển riêng ngoài giờ làm việc. Có người đi học bán
thời gian các lớp học văn hóa tại trường Đại học Rutgers. Có
người tìm đến các xưởng học nghề, hoặc đến khu luyện tập thể dục
thể thao, bơi lội học võ thuật. Anh Trung úy Trường thích vào hồ
tắm và tập thể dục dụng cụ, để duy trì sức khỏe dẻo dai và thân
hình nảy nở cân đối vững chắc đẹp trai. Các Thiếu úy Phượng và
Thông (anh em cột chèo) thì thích nhiếp ảnh. Thấy Tôi
thích xem tranh hội họa nên rủ Tôi đến xưởng hướng dẫn về rửa
phim in ảnh, xin phim đi chụp phong cảnh, rồi đem về xưởng tự
thực hiện việc rửa phim, in, phóng đại, và xấy ảnh.
Các anh Phượng và Thông còn bỏ tiền mua
máy phóng đại và các dụng cụ, hóa chất... về lập một “phòng tối”
(dark room) nhỏ ngay tại góc phòng ngủ riêng, để trau
dồi thêm tay nghề vào ban đêm. Có lần Tôi thấy các anh ấy chụp
từng trang các sách hướng dẫn kỹ thuật về máy Truyền Tin trường
phát cho khóa sinh tham khảo, vào những cuốn phim. Tôi thắc mắc
và nhắc khéo là các tài liệu này được cung cấp cho tủ sách kỹ
thuật tại các đơn vị Truyền Tin đầy đủ, việc gì phải chụp lỡ an
ninh nhà trường thấy chắc là sẽ gặp khó khăn phiền hà, và hậu quả
có thể gây khó khăn chung cho tất cả anh em trong tương lai, chớ
không riêng gì mình các anh. Các anh ấy trả lời chỉ chụp thử
những loại trang khác nhau, để trau dồi khả năng kỹ thuật và rút
kinh nghiệm về hiệu chỉnh ống kính và ánh sáng phù hợp cho các
loại phim cùng máy chụp và khuếch đại ảnh, để khi có thời cơ được
giải ngũ sẽ mở tiệm ảnh làm nghề kinh doanh.
Sau này, hình như vào cuối năm 1962,
các anh Thông, Phượng bị An ninh Quân đội bắt vì phát giác ra cả
2 người thuộc gốc Cán binh cộng sản nằm vùng. Theo tin tức ghi
nhận hồi đó thì, Thông và Phượng được tổ chức Việt Cộng nằm vùng
lo cho theo học Trường Võ bị Liên quân Đà lạt. Sau khi tốt nghiệp
thiếu úy, lại được lo cho đi làm thông dịch viên tại Trường
Truyền Tin Fort Monmouth. Hết hạn 2 năm về nước, Thông làm việc
tại Bộ Chỉ huy Viễn Thông, và Phượng được bổ nhiệm về làm Huấn
luyện viên tại Trường Truyền Tin Liên trường Võ Khoa Thủ Đức. Ít
lâu sau Phượng được lo cho đổi về Trường Sinh ngữ Quân đội tại Bộ
Tổng Tham mưu. Lúc họ bị bắt, Tôi đang làm Cục phó cho Trung tá
Võ Đại Khôi Cục trưởng đang được Bộ Tổng Tham mưu giao cho trách
nhiệm thành lập Phòng Sáu. Đến lúc đó Tôi mới nhớ ra và hiểu
rằng, hồi ở Fort Monmouth Thông và Phượng đã chụp các sách kỹ
thuật máy truyền tin vào phim, không phải để trau dồi tay nghề
làm phim ảnh mà để cung cấp tài liệu cho Việt Cộng.
Trong thời gian tháng 10 năm 1957, số
sĩ quan Việt Nam đang theo học tại trường rất đông khoảng 50
người. Để cho các bạn Đồng Minh của Hoa Kỳ đang theo học tại
trường biết đến nước Việt Nam Cộng Hòa, Tôi đã xin nhà trường cho
phép tập họp tất cả mấy chục anh em Truyền Tin Việt Nam đang có
mặt tại trường, bàn thảo kế hoạch tổ chức Tiếp Tân trình bày lai
lịch tổ quốc Việt Nam, và ý nghĩa ngày Quốc Khánh Việt Nam Cộng
Hòa 26 tháng 10. Trong buổi họp, tất cả anh em đều tán thành, và
chúng tôi thoả thuận đóng góp mỗi người $5 Đô-la để tổ chức tiệc
Tiếp Tân vào buổi tối tại Câu Lạc Bộ Sĩ quan của Fort Monmouth,
bên khu vực sân Golf cách trường chừng mươi phút lái xe. Khách
được mời là hai vị Tướng Chỉ huy trưởng Fort, Chỉ huy trưởng
Trường và phu nhân, tất cả sĩ quan cao cấp và phu nhân thuộc 2 bộ
tham mưu, và tất cả các sĩ quan các nước Đồng minh đang theo học
trong thời gian đó. Chúng tôi mời ông Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa
tại Hoa Thịnh Đốn đến chủ tọa, nhưng ông ấy đã ủy nhiệm Trung tá
Nguyễn Ngọc Khôi Tùy viên Quân sự đại diện đến tham dự.
Nhà trường rất tán thành ý kiến của
chúng tôi, và giúp chúng tôi mọi phương tiện cần thiết để việc tổ
chức được toàn hảo, có ban nhạc của Fort tham dự giúp vui trong
bữa tiệc ăn theo lối “self serve” (tự đi lấy đồ ăn đã bày sẵn
trên bàn dài). Đặc biệt các bạn sĩ quan Đồng Minh được mời
rất hân hoan tham dự, nhưng nhất định yêu cầu phải để họ được
đóng góp tiền phần ăn của họ, chứ không chịu để chúng tôi gánh
vác hết.
Buổi
Tiếp Tân đã thành công tốt đẹp nhờ sự tích cực lo toan mẫn tiệp
của 5 anh thông dịch viên là: Trung úy Trường (sau này về làm
việc tại Phòng 1 Bộ Tổng Tham mưu, trước 30-4-1975 mang cấp bậc
đại tá), các Thiếu úy Thông, Phượng và 2 trung úy nữa, nhưng
lâu quá nên Tôi không nhớ ra tên các anh ấy. Chúng tôi hy vọng
các bạn Đồng minh trong Thế giới Tự do đang theo học tại trường,
sau buổi Tiếp Tân đã biết rõ hơn về nước Việt Nam Cộng Hòa tại
miền Nam Việt Nam sau Hiệp định Genève tháng 7 năm 1954. Không
biết những năm kế theo, anh em theo học tại trường sau chúng tôi,
có được thời cơ thuận lợi để thực hiện hay không?
Chúng tôi ăn cơm ngày 3 bữa tại Field
Mess dành riêng cho khóa sinh ngay bên khu nhà ngủ. Nếu ai muốn
đến ăn tại Câu Lạc Bộ Sĩ quan trong Fort cũng được, dĩ nhiên phải
trả tiền đắt hơn Field Mess. Bữa ăn sáng tại Field Mess giá 50
xu, bữa trưa và bữa tối giá 75 xu. Nếu ăn ở Câu Lạc Bộ Sĩ quan
thì mỗi bữa ăn phải tốn từ 2 đến 5 Đô-la tùy theo món ăn mình
gọi.
Các anh
Thiếu úy Phượng và Thông (thông dịch viên) mua được
chiếc xe hơi cũ chạy cũng còn tốt, thường rủ anh Mai, Hoài, Thế,
Hổ, Doanh, và Tôi đi ăn cơm Tầu tại Red Bank hay Eatontown, rất
ngon và rẻ. Sáu người gọi các món ăn chung và chi tiền xăng cho
xe, mỗi người chỉ phải góp khoảng 2 Đô-la mỗi lần. Có khi chúng
tôi rủ anh đại úy khóa sinh người Nam Dương ở chung BOQ, đưa
chúng tôi đi ăn bằng xe riêng của anh ấy. Những dịp này thì chúng
tôi trả tiền đổ xăng và bao anh ấy ăn không phải góp. Sau này vào
năm 1970, Tôi là đại tá theo học Khóa 3 Cao đẳng Quốc phòng Việt
Nam, có dịp qua thăm viếng trao đổi kinh nghiệm với Trường Cao
đẳng Quốc phòng và Bộ Quốc phòng chính phủ Nam Dương, Tôi có may
mắn gặp lại anh ấy đã mang cấp bậc thiếu tướng.
Nhà trường cấm không được nấu nướng ăn
trong phòng ngủ, nhưng được phép dùng nồi điện đun sôi nước pha
trà, cà phê để uống. Trong mỗi BOQ còn có một tủ lạnh to tướng để
khóa sinh tồn trữ sữa tươi, các hộp nước giải khát, trái cây
riêng để ăn dần suốt ngày đêm tùy ý. Do đó, thỉnh thoảng chúng
tôi lén làm bò nhúng ăn vào những ngày Chúa Nhật nào không ra
phố. Dĩ nhiên là phải canh chừng để khỏi bị bắt quả tang. Những
dịp như vậy, chúng tôi đến Commissary vào chiều thứ bảy, mua thịt
bò tươi nhờ quầy dùng dao máy thái mỏng giùm, mua sà-lách, hành
tươi, tỏi, nước chấm Maggi, dấm, bánh mì dòn (French bread),
gạo hộp, cánh và mề gà sống đông lạnh, đem về cất vào tủ lạnh,
sáng sớm hôm sau hiệp nhau mỗi người một việc, sửa soạn bữa chén
và thanh toán cho xong trong vòng khoảng 2 tiếng đồng hồ.
Những ngày nghỉ, ai không muốn nằm ì
trong trường để “gạo bài”, đến Day room xem TV, thụt
bi-da, đánh bóng bàn, đá banh bàn, đi xem phim rất rẻ chỉ tốn 25
xu (toàn phim mới chưa chiếu ngoài phố), thì có thể đi
xe buýt lên New York hoặc Long Branch chơi ngắm phố buôn bán rất
vui, và tìm đến các khu giải trí thắng cảnh tiêu khiển. Vé xe
buýt đi từ Fort Monmouth lên New York chỉ tốn có 2 Đô-la. Nhiều
khóa sinh người Hoa Kỳ có xe riêng đi New York, họ thường đậu tại
cổng Đông của Fort để chờ có ai muốn đi ké lên New York thì chở
đi chung một lượt, dĩ nhiên là phải đóng góp tiền xăng 1 Đô-la
cho mỗi người.
Mỗi khi lên New York, chúng tôi thường
đến thuê phòng ngủ tại Coulidge Hotel ở Fifth Avenue, gần khu
Times Square Plaza, Manhattan, do nhà trường giới thiệu, vừa rẻ
sạch sẽ thoải mái, từ phòng riêng khách có thể nhấc điện thoại
liên lạc với nhân viên tổng đài tại văn phòng Hotel kêu “call
girl” nếu muốn, và an ninh cá nhân được bảo đảm không sợ kẻ
lưu manh xâm nhập phòng quấy rầy.
Vào dịp Noel 1957 và đầu năm Dương lịch
1958 được nghỉ cả chục ngày, các anh Thiếu úy Phượng và Thông
thông dịch viên rủ các anh Mai, Thế, Hổ và Tôi góp tiền xăng cùng
đi bằng xe riêng đến thăm thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Sáng sớm lên
đường xẩm tối thì tới nơi. Chúng tôi chỉ ở Hoa Thịnh Đốn có 2 đêm
1 ngày, nên không đi thăm được nhiều nơi. Chúng tôi chỉ đủ thì
giờ đến thăm Nghĩa trang Arlington, Đài kỷ niệm các cố Tổng thống
Washington, Jefferson, Abraham Lincoln rồi phải trở về Trường
ngay, vì chương trình TV loan báo các bản tin thời tiết dự đoán
là bão tuyết có thể đến trong vài ngày kế theo.
Mùa Đông năm Tôi theo học tại Fort
Monmouth có bão tuyết thật lớn. Chỉ qua có một đêm, mà tuyết đổ
xuống nhiều đến nỗi phủ ngập đến ngang mui các xe đang đậu trong
bãi. Giờ đi ăn cơm chúng tôi phải lội tuyết dầy ngập cao tới đầu
gối. Nhà trường đóng cửa 2 ngày không hoạt động, vì trở ngại lưu
thông ngoài đường phố nhân viên không đi làm được. Người địa
phương nói rằng từ nhiều năm nay mới có lần bão tuyết lớn như
vậy. Có lẽ tại cái số của Tôi vất vả “đi đâu chết trâu đó”
như các Cụ thường nói chăng! Hồi du học bên Pháp, vào cuối năm
1950 Tôi cũng bị gặp trận bão tuyết rất lớn, trường học cũng phải
đóng cửa không hoạt động trong 2 ngày liền.
Tháng 4 nắng đẹp, chung quanh công viên
trước Bản doanh của Bộ Chỉ huy Fort, đỏ rực những tàng cây dầy
đặc hoa anh đào. Các loại hoa khác cũng đua nhau nở, khoe đủ mầu
sắc sặc sỡ riêng rất đẹp mắt. Chúng tôi tha hồ đi chụp phong cảnh
bằng phim mầu, thuê rửa ráp thành slide để chiếu lớn lên màn ảnh
xem và giữ lưu niệm. Nhưng sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, Việt
Cộng chiếm Sài Gòn, gia đình Tôi bị trục xuất ra khỏi Cư xá Sĩ
quan Bộ Tổng Tham mưu trại Trần Hưng Đạo với 2 bàn tay trắng, nên
tất cả những hình ảnh kỷ niệm vô cùng quý giá này đã mất hết.
Cuối tháng 5 năm 1958 mãn khóa, nhà
trường cho biết sẽ cho chúng tôi đi bằng xe hỏa sang San
Francisco. Do đó chúng tôi yêu cầu cho đi theo “Tuyến Nam”
(South bound) để có dịp quan sát thắng cảnh của các Tiểu
bang miền Nam Hoa Kỳ trên suốt dọc cuộc hành trình từ Fort
Monmouth đến San Francisco.
Về tới San Francisco, chúng tôi lại có
dịp nghỉ tại khu Presidio một tuần lễ để chờ làm giấy tờ về Việt
Nam bằng máy bay. Lúc này đã coi như thông thạo Anh ngữ và quen
với nếp sống của người bản xứ, nên chúng tôi ra phố chơi mua bán
thoải mái không bỡ ngỡ gì cả. Mọi thứ cần mua về làm quà đã mua ở
New York và gửi về Việt Nam trước cả rồi, nên tha hồ đi thăm Sở
thú San Francisco, Golden Gate Park cho biết, và ra Chinatown ăn
ngày 2 bữa chờ đợi thôi.
Việc rời Hoa Kỳ về Việt Nam không nhất
thiết phải đi cả toán cùng một lúc, nên cơ quan chuyển vận đã sắp
chúng tôi đi thành 2 toán theo 2 chuyến bay khác nhau. Toán một
gồm 5 người trong đó có Tôi. Toán 2 gồm 7 người đi sau chúng tôi
một ngày. Tuy chúng tôi được đi trước, nhưng lại về đến Sài Gòn
chậm hơn toán 2 cả tuần lễ. Chuyện trục trặc như thế này: “Bà
nhân viên phụ trách lúc trao vé máy bay cho chúng tôi tại
Presidio dặn rõ ràng là, chúng tôi sẽ tới Clark Field Air Base
vào buổi trưa, phải dùng xe buýt của Căn cứ không quân lên ngay
phi trường quốc tế Manila để ‘book in’ ngay máy bay của hãng
Panam, chuyến dự trù cất cánh vào lúc 9 giờ tối đi tiếp về Sài
Gòn. Chuyến bay sẽ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất vào khoảng
10 giờ đêm cùng ngày. Bà ấy đã điện báo các nơi biết như vậy rồi.
Sổ Thông Hành của chúng tôi không cần phải có Visa của Phi Luật
Tân, vì chỉ di chuyển từ Clark Field sang phi trường Manila như
trường hợp tranfer, không cư ngụ lâu trên đất Phi quá 12 tiếng
nên luật không đòi hỏi phải có Visa. Hành trình di chuyển từ
Clark Field Air Base đến phi trường Manila bằng xe Quân đội Hoa
Kỳ nên không trở ngại gì.”
Nhưng thật là xui, khi xuống máy bay
tại Clark Field, lấy lại hành lý xong, chúng tôi ra xe buýt của
Căn cứ để đi phi trường Manila, thì nhân viên Quân Cảnh xem Sổ
Thông Hành của chúng tôi, thấy không có Visa của Tòa Lãnh sự Phi
Luật Tân tại San Francisco cho phép vào đất Phi, nên không cho
chúng tôi lên xe đi. Chúng tôi giải thích thế nào anh ta cũng
nhất định không chịu, và bắt buộc chúng tôi phải ở lại Clark
Field. Tôi vào gặp trung úy trưởng phòng của anh ta để giải
thích, ông này không dám giải quyết và phải điện thoại lên Tham
mưu trưởng căn Cứ xin lệnh. Theo quyết định của Tham mưu trưởng,
anh ta cho xe đưa chúng tôi về ghi đóng tiền thuê chỗ ngủ tại
BOQ, sáng hôm sau sẽ có xe đón Tôi là trưởng toán lên văn phòng
gặp Đại tá Tham mưu trưởng giải quyết.
Hôm sau, anh Mai và Tôi cùng đi lên văn
phòng Tham mưu trưởng Căn Cứ, trình bày lại mọi sự với ông đại
tá. Sau khi tiếp xúc điện thoại với các nơi cần thiết, ông đại tá
cho chúng tôi biết những việc Căn Cứ sẽ phải làm là:
1. Liên lạc với Tòa Đại sứ Việt Nam
Cộng Hòa tại Manila để yêu cầu cho người xuống lấy Sổ Thông Hành
của chúng tôi đi xin Visa của Bộ Ngoại Giao Phi Luật Tân;
2. Tiếp xúc với hãng máy bay để định
lại chuyến bay khác cho chúng tôi;
3. Mọi việc phải cần ít nhất 7 ngày mới
hoàn tất, trong khi chúng tôi lưu tại Clark Field sẽ được cấp
“Per diem” $7 Đô-la một ngày.
Ngày hôm sau, nhân viên Phòng Tùy viên
Quân sự Sứ Quán đến gặp chúng tôi, để lấy Sổ Thông Hành đi làm
các thủ tục cần thiết.
Buổi tối, chúng tôi đến Câu Lạc Bộ dùng
cơm, gặp Thiếu tá Oánh (sau này lên tướng) và mấy bạn sĩ
quan Không quân đang học lái Trực thăng tại Clark Field Air Base.
Đã sống lâu ngày tại đây nên anh em thông thuộc địa phương, nên
rủ chúng tôi đến làng Angeles khu hộp đêm gần Căn Cứ giải trí,
giống hệt khu giải trí Tam Hiệp cạnh căn cứ Long Bình Biên Hòa.
Chúng tôi đi về bằng xe Lambretta tư nhân sơn vẽ mầu sặc sỡ đưa
đón khách, giá cũng rẻ chỉ mất có 50 xu một lượt. Tại làng
Angeles cũng thấy có các Quân Cảnh của Căn Cứ đi tuần tiễu dọc
các đường phố, để duy trì trật tự và bảo vệ an ninh cho quân nhân
được phép ra thăm viếng khu này.
Năm ngày sau, Sổ Thông Hành của chúng
tôi có được Visa, Căn Cứ mời chúng tôi đến thanh toán tiền “Per
diem”, và cho xe cùng một hạ sĩ quan phụ trách đưa chúng tôi
lên Manila thuê phòng ngủ qua đêm, để sáng sớm hôm sau kịp đáp
chuyến bay rời Manila vào 9 giờ sáng. Chúng tôi không muốn thuê
phòng ở khách sạn Manila ngay cạnh phi trường vì giá đắt quá, nên
anh ta dẫn chúng tôi đến khách sạn anh ta quen, cũng khang trang
sạch sẽ mà giá thuê phòng rẻ hơn. Sau khi chúng tôi lấy phòng
xong, anh hạ sĩ quan dặn chúng tôi chờ tại khách sạn để anh ta ra
phi trường tiếp xúc hãng máy bay Panam “book in” chuyến
bay cho chúng tôi. Khi xong việc, anh ta sẽ trở lại cho chúng tôi
biết chính xác sáng mai giờ nào phải có mặt tại phi trường, để tự
thuê taxis mà đi.
Khoảng 1 tiếng đồng hồ sau, anh ta điện
thoại đến báo cho biết là có chuyến bay rời Manila ngay lúc 9 giờ
tối hôm đó, nếu chúng tôi muốn đi ngay anh ta sẽ đem xe đến đón
đi luôn. Tôi hỏi ý kiến anh em. Ai cũng đồng ý chịu mất không
tiền thuê phòng để ra phi trường về Sài Gòn ngay trong đêm. Vì
gia đình đã được anh em thông báo bằng điện tín là lên đường về
cả tuần nay rồi, mà chưa đến nơi chắc hẳn đang lo lắng thắc thỏm
lắm.
Tôi liền
trả lời anh ta là chúng tôi bằng lòng đi ngay đêm nay, yêu cầu
đến đón
chúng tôi. Nửa giờ sau, xe anh ta tới khách sạn đón đưa chúng tôi
ra phi trường làm thủ tục để lên chuyến bay rời Manila vào lúc 9
giờ, trước sự ngạc nhiên của nhân viên khách sạn. Chúng tôi thuê
chung 2 người một phòng, nên mỗi người chịu mất không $5 Đô-la,
mà mới chỉ được tắm thoải mái thôi. Âu cũng là cái thời vận đến
lúc phải “tán tài” thì đành chịu vậy biết làm sao hơn!
Máy bay cất cánh, thấy nét mặt mọi
người lộ vẻ vui mừng hớn hở hẳn lên. Không ai bảo ai, nhưng hình
như mọi người đang thầm cầu nguyện cho chuyến bay được thượng lộ
bình an, và nhẫn nại chịu đựng thêm một tiếng đồng hồ vượt không
gian nữa là phi cơ đáp xuống Tân Sơn Nhất Sài Gòn. Bất thần xuất
hiện trước cửa nhà trong đêm khuya, chắc hẳn là vợ con thân quyến
sẽ ngạc nhiên vui mừng lắm.
Đúng 10 giờ đêm, máy bay hạ thấp cao độ
lượn một vòng rồi từ từ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất như dự
trù. Mọi người vui cười sung sướng, mang xách tay rời phi cơ bước
xuống đặt chân lên mặt đất Việt Nam thân yêu, sau hơn nửa năm
trời xa cách.
Các bạn khác ra đi xe buýt của hãng Hàng Không đưa về địa điểm
kinh doanh của hãng tại khu trung tâm Sài Gòn, rồi từ đó thuê
taxis đưa về nhà. Riêng Tôi vì gia đình ở trong cư xá Bà Chiểu
Gia Định, nên nhờ điện thoại của văn phòng của hãng tại phi
trường gọi về văn phòng trực Bộ Chỉ huy Viễn Thông nhờ đem xe ra
đón đưa về thẳng nhà, chứ không đi theo xe buýt của hãng hàng
không xuống Sài Gòn. Thật hên, đêm hôm đó gặp đúng sĩ quan trực
là người thuộc Phòng Mật Mã Trung ương tới phiên trực, nên không
phải đợi chờ lâu...
CHƯƠNG 11
NHỮNG NIỀM VUI VÀ KỶ
NIỆM KHÓ QUÊN
Ðáp máy bay rời phi trường quốc tế
Manilla, Phi
Luật Tân về tới phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn, Việt Nam vào
lúc 9 giờ đêm (Tôi không nhớ ngày tháng đích xác, hình như khoảng
cuối tháng 5 năm 1958).
Ngay sáng ngày hôm sau, Tôi đến trình
diện Chỉ huy trưởng Viễn Thông (Đại tá Nguyễn Khương). Anh Khương
cho Tôi nghỉ phép 7 ngày, trong khi chờ đợi anh ấy làm thủ tục
trình xin Bộ Tổng Tham mưu bổ nhiệm Tôi về làm Giám đốc Trường
Truyền Tin Liên trường Võ Khoa Thủ Đức, như đã hứa trước khi Tôi
rời Phòng Mật Mã Trung ương đi du học. Giám đốc cũ của Trường là
Đại úy Mai Lương Tể, đã bị giao hoàn về Bộ Chỉ huy Viễn Thông đợi
lệnh. Hiện tại Đại úy Cổ Tấn Hổ đang xử lý thường vụ chức Giám
đốc Trường trong khi chờ bổ nhiệm người mới thay thế Đại úy Mai
Lương Tể.
Đúng
một tuần sau, anh Khương đưa Tôi lên trình diện Thiếu tướng Lê
văn Nghiêm, Chỉ huy trưởng Liên trường Võ khoa Thủ Đức trên đỉnh
đồi Tăng Nhân Phú, với tấm Sự Vụ Lệnh do Tướng Tham mưu trưởng
Liên quân ký. Tướng Nghiêm vẫn với thói quen nhìn lên trần nhà
chớ không nhìn người đối diện, khi tiếp khách có cấp bậc nhỏ hơn
mình, như hồi Tôi là Thiếu tá Chánh Sở Mật Mã Bộ Tổng Tham mưu
cùng anh Lý Thái Vượng (Sĩ quan Mật Mã tại văn phòng Tư lệnh Quân
Khu 2) đến Thanh tra cơ sở Mật Mã tại Trung đoàn do Trung tá
Nghiêm chỉ huy, đóng tại Ninh Hòa, Nha Trang.
Tôi chợt giật mình, không biết ông ấy
có nhớ ra Tôi không? Nếu nhớ thì thật phiền hà trong tương lai.
Vì trong cuộc thanh tra Mật Mã hồi đó, Tôi phát giác việc Trung
tá Nghiêm dùng uy quyền Trung đoàn trưởng buộc Sĩ quan Mật Mã
phải để cho ông mở xem một phong bì đựng tài liệu “TỐI MẬT” của
Mật Mã, có in bằng mực đỏ đậm nét rõ ràng trên phong bì câu ghi
chú “CHỈ CÓ SĨ QUAN Mật Mã MỚI ĐƯỢC MỞ PHONG BÌ NÀY, KHI CÓ LỆNH
CỦA BỘ TỔNG THAM MƯU”. Tôi đã thông báo ngay cho ông ấy biết,
việc vi phạm trầm trọng Huấn lệnh bảo mật của Quân đội này sẽ
phải trình lên Tổng Tham Mưu trưởng xét định. Đồng thời Tôi xin
được phép dùng phương tiện Truyền Tin của đơn vị, gửi ngay một
Công điện “Tối Mật” “Thượng khẩn” về Sở Mật Mã để trình lên Tham
mưu trưởng Liên quân xin ban hành lệnh cho tất cả các cơ sở Mật
Mã trong toàn Quân đội, thiêu hủy ngay tài liệu đó, và gửi
“Thượng khẩn” một tài liệu khác thay thế ngay qua đường Quân Bưu.
Cuộc thanh tra miền Trung chấm dứt tại
đơn vị này. Tôi trở lại Nha Trang đáp phi cơ về Sài Gòn, còn anh
Lý Thái Vượng thì trở về Huế. Hai ngày sau, trong khi ngồi làm
Phúc trình kết quả cuộc thanh tra miền Trung lên Tổng Tham mưu
trưởng, Tôi nhận được công điện “Mật, Khẩn” từ văn phòng Tư lệnh
Quân khu 2 tại Huế báo cho biết là, Đại tá Trương văn Xương Tư
lệnh Quân khu đã ký giấy phạt Trung tá Lê văn Nghiêm Trung đoàn
trưởng 7 ngày Trọng cấm vì vi phạm Huấn lệnh bảo mật tài liệu Mật
Mã Quân đội.
Trong khi Tướng Nghiêm đang nói truyện với Đại tá Khương và Tôi,
thì Chánh văn phòng dẫn Đại úy Cổ Tấn Hổ đang xử lý thường vụ
chức Giám đốc vào trình diện. Sau khi Tướng Nghiêm giới thiệu
chúng tôi với nhau xong, ông chỉ thị Trung tá Lê Quang Hiền (bạn
cùng tốt nghiệp Khóa 1 Sĩ quan VN với Tôi tại Huế ngày 1-6-1949)
đang làm Tham mưu trưởng của Liên trường, lệnh cho Phòng 1 trình
ký Văn thư bổ nhiệm Tôi làm Giám đốc Trường Truyền Tin ngay từ
ngày hôm đó.
Rời văn phòng Tướng Nghiêm, anh Khương chia tay để về Sài Gòn.
Đại úy Hổ đưa Tôi về Trường Truyền Tin, dẫn vào phòng làm việc
dành riêng cho Giám Đốc, và yêu cầu Trung úy Nhờ trưởng Ban Hành
Chánh triệu tập tất cả nhân viên thuộc Trường, họp tại phòng Hội
vào giờ các lớp học nghỉ giải lao, để giới thiệu với Tôi.
Buổi chiều, Tôi nhờ Đại úy Hổ hướng dẫn
đi thăm chào xã giao các giới chức thẩm quyền thuộc Bộ Chỉ huy
Liên trường, các vị Giám đốc Trường, và Đại tá Cố vấn trưởng.
Trước nhất, Tôi đến chào Trung tá Lê Quang Hiền Tham mưu trưởng,
sau đó đi chào Thiếu tá Nguyễn Đức Thắng Trưởng Khối Huấn luyện,
Thiếu tá Vĩnh Biểu Trưởng Khối Hành chánh, rồi đến các vị Giám
đốc Trường. Trường Hành chánh Tài chánh là Trung tá Đỗ Tùng.
Trường Thiết Giáp là Thiếu tá Vĩnh Lộc (Tôi quen từ hồi đầu năm
1951, trong dịp Đại sứ Bửu Lộc tiếp tân Tết tại Paris Pháp. Hồi
đó ông Lộc là thiếu úy học Trường Thiết Giáp Saumur, Tôi cũng là
thiếu úy học Truyền Tin tại Montargis). Trường Bộ Binh Trừ bị là
Đại úy Nguyễn Viết Thanh (sau vụ Nhảy Dù đảo chính hụt ngày
11-11-1960, Đại úy Thanh được thăng cấp thiếu tá đưa đi làm Tỉnh
Trưởng tại miền Tây, và lần lượt thăng cấp nhanh chóng lên đến
thiếu tướng làm Tư lệnh Quân khu 4 tại Cần Thơ. Ông ấy qua đời vì
tai nạn trực thăng trong lúc thi hành nhiệm vụ, được truy thăng
trung tướng, và hình như Giáo hội Hòa Hảo miền Tây Nam Việt tôn
vinh lên bậc Thánh). Trường Quân Cụ là Đại úy Vũ (hình như họ
Phạm). Còn 2 trường ở tận vùng Bình Dương là Trường Công Binh Đại
úy Bạch (hình như họ Nguyễn), và Trường Pháo Binh (một thiếu tá
có thương tật nơi tay phải, không nhớ tên) thì không đi thăm, vì
ở xa không thuận tiện. Sau cùng là thăm Đại tá Cố vấn trưởng của
Liên trường và Thiếu tá Cố vấn riêng cho Trường Truyền Tin.
Mấy ngày sau, Lễ Bàn giao được tổ chức
rất đơn giản nhưng trang trọng ngay trước sân Trường Truyền Tin,
dưới quyền Chủ tọa của Tướng Lê văn Nghiêm, với sự tham dự của
các vị Giám đốc Trường, các vị Trưởng Khối, các Trưởng Phòng Bộ
Chỉ huy Liên Trường, và các vị Cố vấn Hoa kỳ. Khách ngoài Liên
trường là Đại tá Nguyễn Khương Chỉ huy trưởng Viễn Thông. Khóa
sinh hiện diện tại Trường lúc đó có khoảng 150 người (khóa sinh
viên sĩ quan trường Bộ binh học giai đoạn 2 Căn bản Truyền Tin,
và khóa hạ sĩ quan sửa chữa vật liệu Truyền Tin).
Cơ sở Trường Truyền Tin gồm một dãy nhà
chính hai tầng, chia ra như sau: -tầng dưới gồm các văn phòng
Giám đốc, Phó Giám đốc, Trưởng Khối Huấn luyện, các Huấn luyện
viên, Phòng họp và Ban Hành chánh, -tầng trên là các phòng học,
và 4 dãy trệt: một dãy dành cho Ban Tiếp liệu bảo trì và kho chứa
vật liệu máy móc Truyền Tin, 3 dãy còn lại chia ra thành các
xưởng học sửa chữa cho từng loại máy và phòng làm việc riêng của
các Huấn luyện viên sửa chữa. Khả năng có thể thâu nhận huấn
luyện một lúc khoảng 300 khóa sinh, thế mà suốt thời gian qua lúc
nào Trường cũng chỉ nhận huấn luyện có khoảng 150 khóa sinh là
tối đa. Hỏi Trung úy Nguyễn văn Khanh Trưởng Khối huấn luyện cho
biết là vì thiếu Huấn luyện viên.
Các khóa huấn luyện gồm:
-Khóa căn bản Truyền Tin cho các sinh
viên sĩ quan trừ bị học giai đoạn 2 (sau khi tốt nghiệp họ sẽ
được bổ sung về các đơn vị thuộc Binh chủng Truyền Tin),
-Khóa sĩ quan căn bản Truyền Tin cho
Binh đoàn,
-Khóa căn bản Truyền Tin cho các sĩ quan đang phục vụ trong các
đơn vị thuộc quân số Binh chủng Truyền Tin nhưng chưa học một
khóa Truyền Tin chuyên nghiệp nào và các hạ sĩ quan chuyên viên
Truyền Tin mới được thăng lên hàng sĩ quan,
-Khóa tiếp liệu tồn trữ vật liệu Truyền
Tin, và sau cùng là
-Khóa sửa chữa vật liệu Truyền Tin cho
các hạ sĩ quan thuộc các đơn vị trong Binh chủng Truyền Tin.
Trường chỉ phải lo hoàn toàn về huấn
luyện, các vấn đề quản trị hành chánh cho cả nhân viên nhà trường
lẫn khóa sinh đều do Khối Hành chánh Liên Trường đảm trách. Vấn
đề kiểm soát sinh hoạt duy trì kỷ luật đối với các khóa sinh
ngoài giờ học, do Đại úy Nguyễn Phúc Nghiệp Liên đội trưởng khóa
sinh do Liên Trường bổ nhiệm lo toan. Dĩ nhiên là vị này phải
thường xuyên liên lạc với Ban Giám đốc Trường để phối hợp. Vì
thế, Tôi dồn toàn thời gian vào việc đôn đốc cải tiến cập nhật
hóa các chương trình huấn luyện, kỹ thuật huấn luyện, hiệu chỉnh
các tài liệu tham khảo cho khóa sinh, giàn bài huấn luyện của các
huấn luyện viên, thực hiện các loại trợ huấn cụ cần thiết cho các
xưởng huấn luyện sửa chữa, và lập Thư viện sách kỹ thuật cho
Trường.
Một
điều làm Tôi cảm thấy không ổn cho lắm là, khoảng 50 phần trăm
tổng số huấn luyện viên sĩ quan và hạ sĩ quan không có mặt thường
xuyên tại trường trong giờ làm việc, nếu ngày hôm đó họ không có
giờ phải lên lớp. Trung úy Khanh trưởng Khối huấn luyện giải
thích là họ ở nhà soạn bài. Tôi không đồng ý và buộc phải chấn
chỉnh lại, trong giờ làm việc mọi người phải có mặt tại văn
phòng. Biện pháp cương quyết này, đã giúp Tôi phát giác ra là các
bạn ấy lợi dụng thời gian không dậy học để ở nhà trau dồi thêm
văn hóa thi lấy bằng Trung học. Do đó, khi nào các khóa đang học
giai đoạn lý thuyết thì các lớp trên lầu mở cửa thường xuyên, còn
các lớp tại các dãy nhà trệt đóng cửa im ỉm, và ngược lại khi các
khóa xuống học tại các xưởng thực hành sử dụng máy hoặc sửa chữa
thì các lớp trên lầu đóng cửa. Nhờ thế mà các Huấn luyện viên có
nhiều giờ rảnh liên tục để ngồi lo trau dồi văn hóa riêng. Và có
lẽ cũng vì thế mà Ban Giám đốc cũ không muốn đặt kế hoạch tổ chức
các khóa học gối đầu nhau để gia tăng sĩ số khóa sinh thụ huấn
tại Trường.
Tình trạng này đã khiến Tôi phải áp dụng kế hoạch cải tiến khắt
khe, làm một số anh em không vui bụng cho lắm, vì không được tự
do như từ trước ngày Tôi về làm Giám đốc Trường. Tôi theo dõi cảm
nhận được như vậy, nhưng vì nhu cầu cung cấp chuyên viên cần yếu
cho các đơn vị Quân lực đang trong thời tăng trưởng nhanh theo kế
hoạch cải tiến, Tôi buộc lòng phải cương quyết cứng rắn thực hiện
bằng được các dự tính của Tôi, nhằm gia tăng sĩ số khóa sinh thụ
huấn thường xuyên tại Trường từ 150 lên 300, mà không cần bổ sung
thêm Huấn luyện viên và phòng học đang có sẵn. Ban đầu cũng hơi
khó khăn, nhưng rồi mọi chuyện cũng lướt đi suôn sẻ như dự tính
của Tôi.
Đối
diện với Trường Truyền Tin, ngay bên kia khu công viên rộng lớn,
cũng có một cơ sở kiến trúc y hệt Trường Truyền Tin, được dùng
làm cơ sở cho 2 Trường: Trường Thiết Giáp Binh và Trường Hành
chánh Tài chánh. Tổng số khóa sinh của cả 2 trường này cộng lại
lúc nào cũng có khoảng từ 250 đến 300.
Hai tuần lễ sau ngày Tôi nhậm chức Giám
đốc Trường Truyền Tin, cả Liên Trường phải chuẩn bị đón phái đoàn
Thanh tra Chỉ huy của MACV do Tướng Myers hướng dẫn. Tướng Tổng
Thanh Tra này của MACV nổi tiếng khó khăn, mọi cấp Cố vấn Hoa Kỳ
và Đơn vị trưởng Việt Nam đều ngán. Đây là lần đầu tiên trong đời
binh nghiệp của Tôi, phải tiếp phái đoàn Thanh tra của Cố vấn Hoa
Kỳ. Các cơ sở Mật Mã Quân đội do Tôi trách nhiệm tổ chức điều
hành trước kia, không bao giờ bị ai đến thanh tra cả. Tôi hơi bỡ
ngỡ, nhưng nhờ Trung úy Khanh rất tháo vát và thông thạo, nên đã
lo lắng mọi việc cho Tôi. Đại úy Hổ và Trung úy Khanh đôn đốc anh
em huấn luyện viên sửa chữa, lấy các máy xưa nay vẫn cất trong
kho ra trưng bày trong các phòng học sửa chữa, tại 3 dãy nhà trệt
phía sau. Đặc biệt Trung úy Khanh chuẩn bị tài liệu thuyết trình,
các biểu đồ chương trình chi tiết của các khóa học do Trường
trách nhiệm, lịch trình thăm viếng, và các tài liệu khác cần
thiết cho cuộc thanh tra. Cố vấn của Trường cũng lăng xăng tiếp
tay, và thâu thập các dữ kiện cần thiết liên quan tới việc điều
hành huấn luyện và những khó khăn cần được giúp đỡ, để ông ta
trình bày cho phái đoàn thanh tra tại văn phòng Cố vấn trưởng,
trước khi đoàn thanh tra đến thăm viếng Trường.
Ngày thanh tra tới, Tướng Lê văn Nghiêm
và Thiếu tá Nguyễn Đức Thắng Trưởng Khối Huấn luyện Liên trường,
Thiếu tá Vĩnh Biểu Trưởng Khối Hành chánh, và một số Trưởng Phòng
trong Bộ Tham mưu Liên trường cùng đi với đoàn thanh tra MACV.
Sau khi nghe thuyết trình, Tướng Myers biết Tôi mới về làm Giám
đốc Trường, nên ông ta hỏi có kế hoạch nào cải tiến Trường hay
không? Tôi trả lời là đang nghiên cứu để thực hiện lần lần, trong
vòng 6 tháng sẽ hoàn tất, và chắc chắn kỳ thanh tra tới quý vị sẽ
thấy thành quả của các thay đổi.
Sau cuộc thanh tra, Tôi họp tất cả nhân
viên thuộc Trường và Cố vấn Hoa Kỳ, để trình bày kế hoạch cải
tiến và yêu cầu mọi người đóng góp ý kiến thực hiện cho thật toàn
hảo và nhanh chóng. Tôi cũng cho mọi người biết là nếu ai không
vừa ý, có thể xin thuyên chuyển khỏi Trường, Bộ Chỉ huy Viễn
Thông sẽ hoán chuyển người có thiện chí và khả năng về giúp Tôi
cải tiến hoạt động của Trường không khó khăn gì. Thấy kế hoạch
của Tôi hợp lý và sẽ làm tăng uy tín cho Trường và cho Binh chủng
Truyền Tin, nên mọi người vui vẻ cộng tác tiếp tay với Tôi một
cách chân thành.
Một tháng sau, Đại úy Cổ Tấn Hổ được
lệnh thuyên chuyển ra khỏi Trường theo đơn xin của ông ấy đã đệ
trình lên Bộ Chỉ huy Viễn Thông từ nhiều tháng trước khi Tôi về
Trường. Đại úy Nguyễn Hữu Mai được đưa về thay thế. Trung úy
Khanh là người nòng cốt của Trường cũng ngỏ ý muốn được rời
Trường đi học một khóa bên Hoa Kỳ. Ông ấy trình bày rằng, từ ngày
thành lập Trường đến nay ông ấy đã nhiều lần muốn xin đi học một
khóa chuyên môn bên Hoa Kỳ để trau dồi thêm khả năng kỹ thuật,
nhưng các vị Giám đốc trước không ai chịu để cho ông ấy đi vì nhu
cầu tối cần của Trường. Tôi đã không do dự khẳng định và hứa danh
dự với Trung úy Khanh rằng, Tôi cần ông cộng tác tiếp tay đôn đốc
anh em và Cố vấn Hoa Kỳ của Trường thực hiện xong những dự án cải
cách của Tôi xong trong vòng 6 tháng, thì Tôi sẽ để ông đi học
Hoa Kỳ như mong muốn.
Ba tháng sau, mọi kế hoạch cải tiến của
Tôi được hoàn tất tốt đẹp. Các tài liệu tham khảo về các môn học
được dịch ra Việt ngữ và in ra để phát cho khóa sinh nghiên cứu
trước khi vào lớp học. Các dàn bài Huấn luyện chi tiết và các
biểu đồ hình chiếu, cần cho Huấn luyện viên dùng trong mỗi bài
giảng dậy cũng được tu chỉnh in ra lưu trữ, bất cứ ai cũng có thể
dùng để lên lớp giảng bài trong trường hợp Huấn luyện viên chính
vì lý do nào đó không lên lớp được. Không xin được viện trợ các
loại trợ huấn cụ dùng trong các xưởng huấn luyện sửa chữa, nên Cố
vấn Hoa Kỳ được Tôi yêu cầu đến khu vật liệu phế thải của MACV,
xin gỡ lấy những bộ phận rời còn dùng được trong các máy phế thải
đem về thực hiện các trợ huấn cụ cho khóa sinh thực tập. Kế hoạch
tổ chức các khóa học được sửa đổi, đặc biệt các khóa sửa chữa
được dự trù mở gối đầu nhau (khóa trước hết giai đoạn lý thuyết
xuống xưởng thực hành, thì khóa kế theo khai giảng). Nhờ thế sĩ
số khóa sinh thụ huấn tại Trường lúc nào cũng có từ 250 đến 300
người, và tất cả các lớp học trên lầu và tại các dãy nhà sau lúc
nào cũng đầy khóa sinh. Hoạt động của Trường trở nên nhộn nhịp,
suốt ngày mọi người đều bận bịu. Nhưng, các Huấn luyện viên cũng
vẫn có một số giờ rảnh hàng ngày, để trau dồi văn hóa riêng chuẩn
bị thi lấy bằng Trung học vào mùa thi.
Mọi việc chấn chỉnh vừa hoàn tất, thì
Trung úy Khanh cho biết là Đại úy Võ Đại Khôi Chánh sự vụ Sở Viễn
Thông Bảo An, mới thành lập một Trung tâm huấn luyện chuyên viên
Truyền Tin riêng cho Bảo An Đoàn thuộc Bộ Nội Vụ, muốn xin giúp
cho một số tài liệu huấn luyện của Trường. Tôi yêu cầu phải có
văn thư chính thức gửi đến Trường, và anh Khôi đã được thoả mãn
đúng theo mong muốn.
Sáu tháng sau, đoàn Thanh tra MACV của
Tướng Myers trở lại, thấy hoạt động của Trường khác hẳn lần thanh
tra trước, tấm tắc ca ngợi sự cố gắng của Trường và đã gửi tới
Liên Trường một văn thư khen ngợi, đồng thời phổ biến thông báo
trong toàn Quân đội. Mọi người đều vui vẻ, nhất là Cố vấn của
Trường Truyền Tin.
Tôi đã yêu cầu Trung úy Khanh làm đơn
để Tôi chuyển cho ông ấy được đi học bổ túc chuyên nghiệp tại Hoa
Kỳ, sớm hơn hạn kỳ Tôi đã hứa. Đại úy Trương văn Tàng vừa du học
Hoa Kỳ về được bổ sung thay thế Trung úy Khanh. Sau khi du học
Hoa Kỳ về, ông Khanh đi làm sĩ quan Truyền Tin Sư đoàn 7 Bộ Binh
tại Mỹ Tho.
Mấy tháng sau, Đại úy Nguyễn Hữu Mai được thuyên chuyển đi làm sĩ
quan Truyền Tin Sư đoàn 21 Bộ Binh tại Bặc Liêu. Đại úy Võ Trịnh
Trọng mới du học Hoa Kỳ về, được đưa về Trường thay chỗ anh Mai.
Trước khi đưa anh Trọng về Trường, anh Khương có mời Tôi lên Bộ
Chỉ huy Viễn Thông để giải thích về trường hợp của anh Trọng.
Không hiểu vì sao, không đơn vị trưởng Truyền Tin nào chịu nhận,
mà lại không có chỗ cho anh ấy làm đơn vị trưởng, nên phải nhờ
Trường nhận giùm. Tôi sẵn sàng nhận ngay không do dự, và còn đề
nghị Liên Trường bổ nhiệm anh Trọng làm Phó Giám đốc cho Tôi.
Trong suốt thời gian làm việc bên Tôi, anh Trọng tỏ ra có căn bản
kỹ thuật tốt, chịu khó tìm tòi để thăng tiến, chăm chỉ cần mẫn.
Nhưng hình như trước kia, hồi còn làm việc tại Huế, anh Trọng là
em út thân tín của Tướng Nghiêm, nên bây giờ tiếp tục ra vào tư
dinh Tướng Nghiêm thường xuyên dễ dàng. Anh em thông báo cho biết
như vậy, nhưng Tôi không quan tâm vì cho đó là liên hệ tình nghĩa
bình thường cần phải có của con người.
Vì Liên trường chưa có cư xá cấp cho
anh Trọng, nên gia đình anh ấy vẫn cư ngụ tại Sài Gòn. Do đó, Tôi
bằng lòng ký giấy phép để hàng đêm anh ấy về với gia đình, chớ
không buộc phải ở lại khu dành cho cán bộ độc thân của Liên
trường. Anh Trọng là người rất ngoan Đạo, Chủ Nhật nào cũng thấy
anh ấy đến Nhà Nguyện của Liên Trường, tiếp tay cùng các đạo hữu
khác phụ với Linh mục Tuyên úy lo sửa soạn Nhà Nguyện, để giáo
dân tới dự Thánh Lễ. Vào dịp chuẩn bị đón Noel 1959, anh Trọng tự
động điều động mấy nhân viên thuộc Trung tâm Truyền Tin cơ hữu
của Liên Trường (không thuộc trách nhiệm của Trường Truyền Tin),
để giăng một hệ thống điện soi sáng chung quanh và bên trong Nhà
Nguyện. Anh ấy muốn thực hiện một sáng kiến độc đáo, là căng một
sợi dây cáp dã chiến từ đỉnh bồn chứa nước cao cả mấy chục mét
của Liên Trường xuống tới hang đá nơi gốc cây thông dựng ngay kế
bên cửa trước Nhà Nguyện, để thả chiếc đèn ông sao to khoảng 1
mét đường kính trong có thắp sáng ngọn đèn điện, tuột xuống vào
đúng giờ Giáng sinh của Chúa Hài Đồng lúc nửa đêm Noel. Khoảng
cách từ đỉnh bồn nước xuống tới hang đá nơi gốc cây thông dài
khoảng 300 mét. Nhưng có đoạn nguy hiểm là, lúc gần tới đất dây
cáp băng ngang phía trên 3 dòng dây điện cao thế dẫn từ ngã tư xa
lộ Thủ Đức vào Liên Trường. Trung tâm Truyền Tin không có cáp nên
anh Trọng xin Trường Truyền Tin cho mượn. Tôi khuyên là không nên
cho dây điện thoại dã chiến căng băng ngang phía trên đường dây
điện cao thế nguy hiểm, lỡ trong khi tuột đèn cắt đứt dây cáp sẽ
rớt nằm vắt lên điện cao thế có thể gây tai nạn chết người. Anh
Trọng nói là đã đọc kỹ sách kỹ thuật nói rõ về sức chịu đựng bền
dai của dây cáp dã chiến, nên không có gì phải lo.
Ngày 23 tháng 12 năm 1959 mưa suốt ngày
đến chiều mới tạnh, đất và cỏ ướt sũng. Vào khoảng 4 giờ chiều,
đang ngồi trong Trường, Tôi nghe có tiếng vang Rùng! Rùng!
Rùng!... Kéo dài liên tục chừng 1 phút như có ai kéo vật gì cà
trên mái tôn, rồi cả trường mất điện. Chả biết chuyện gì xảy ra
bên ngoài. Tôi yêu cầu Trung úy Nhờ Trưởng Ban Hành chánh của
Trường liên lạc các nơi tìm hiểu lý do. Một lúc sau được thông
báo là, sợi dây cáp căng làm dây tuột cho chiếc đèn ông sao bị
đứt trong lúc thử cho đèn tuột xuống. Dây cáp nằm phủ quàng trên
3 dòng dây điện cao thế, chuyền điện xuống giật anh Thượng sĩ
đang quay cuộn dây gắn trên giá trục đỡ, ngã xấp nằm gục lên cuộn
dây cáp. Đội cứu hỏa Thủ Đức được gọi vào cấp cứu, đưa vào Bệnh
xá Liên Trường. Anh ta đã chết, có những vết cháy hết da thịt trơ
xương trên mặt và sống lưng bàn tay. Tôi tức tốc chạy xuống Bệnh
xá để thăm, đến nơi thấy Đại úy Trọng đang đứng tại đó cùng Thiếu
tá Vĩnh Biểu Trưởng Khối Hành chánh và nhân viên anh ninh của
Liên Trường.
Vì Tôi không được lệnh Liên Trường chỉ định Đại úy Trọng làm việc
này, anh Thượng sĩ nạn nhân không thuộc quân số Trường Truyền
Tin, nên Tôi không phải lo điều tra tìm hiểu sự việc để báo cáo.
Cả Liên Trường thương tiếc cho số phận không may của gia đình anh
Thượng sĩ nạn nhân, tiếp tay đóng góp giúp việc mai táng êm thắm.
Mọi việc qua đi suôn sẻ, gia đình nạn nhân được lãnh 12 tháng
lương tử sĩ chết vì công vụ, và Đại úy Trọng cũng không bị quở
trách gì.
Cũng
vào dịp Noel 1959, theo tiết lộ của Trung tá Lê Quang Hiền Tham
mưu trưởng (bạn tốt nghiệp cùng Khóa 1 Trường sĩ quan Việt Nam
với Tôi ngày 1 tháng 6 năm 1949 tại Huế) cho biết là có 3 thiếu
tá thực thụ thâm niên thuộc Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức được đề
nghị thăng cấp trung tá (trong đó có Tôi). Nhưng đến đầu năm
1960, nhân dịp đón Tết Canh Tý, lệnh thăng cấp cho niên Khóa 1960
được ban hành chỉ có 2 người được thăng cấp trung tá, còn Tôi bị
lọt sổ. Hai vị đó là Thiếu tá Nguyễn Đức Thắng Trưởng Khối Huấn
luyện của Liên Trường, và Thiếu tá Vĩnh Lộc Giám đốc Trường Thiết
Giáp. Sau ngày 1-11-1963 Quân đội đảo chính lật đổ nền Đệ Nhất
Cộng Hòa, 2 anh em ông Ngô Đình Diệm (Tổng thống) và Ngô Đình Nhu
(Cố vấn) bị giết, hai vị này có tham gia đắc lực vào công cuộc
đảo chánh nên được Hội đồng Tướng lãnh làm Cách mạng thăng lên
cấp tướng.
Đầu
tháng 3 năm 1960, Tôi được Liên trường thông báo cho biết là Bộ
Tổng Tham mưu yêu cầu cho Tôi làm thủ tục đi Du hành Quan sát về
Truyền Tin trên Lục địa Hoa Kỳ 1 tháng vào đầu tháng 4. Đây là
cuộc Du hành Quan sát dành cho Chỉ huy trưởng Truyền Tin và Giám
đốc Trường Truyền Tin các nước Đồng Minh với Hoa Kỳ, được tổ chức
hàng năm 2 lần vào mùa Xuân và mùa Thu, trong thời gian 1 tháng,
và mỗi lần mỗi nước chỉ được gửi 2 người tham dự với sự bảo trợ
của Bộ Quốc phòng Chính phủ Liên Bang Hoa Kỳ. Bộ Chỉ huy Viễn
Thông đã đề nghị cho anh Nguyễn Đình Tài Chỉ huy phó và Tôi Giám
đốc Trường Truyền Tin tham dự cuộc Du hành kỳ mùa Xuân 1960 này.
Vì trước kia anh Khương đã có lần tham dự loại Du hành này rồi.
Trong kỳ Du hành này, chúng tôi được
gặp các sĩ quan Truyền Tin từ các nước: Thái Lan (Thiếu tướng Chỉ
huy trưởng Truyền Tin, Đại tá Giám đốc Trường Truyền Tin), Ý Đại
Lợi (Thiếu tướng Chỉ huy trưởng Truyền Tin và Đại tá Giám đốc
trường Truyền Tin), Y Pha Nho (Espagne) (Trung tướng Chỉ huy
trưởng Truyền Tin và Thiếu tướng Giám đốc Trường Truyền Tin),
Pháp (2 đại tá không người nào quen, nhưng có dịp cho chúng tôi
ôn lại tiếng Pháp), Đại Hàn (1 đại tá và 1 thiếu tá), Trung Hoa
Dân quốc Đài Loan (2 đại tá), Venuzuela (2 thiếu tá), và Việt Nam
chúng ta cũng 2 thiếu tá (anh Nguyễn Đình Tài và Tôi). Chúng tôi
đến điểm tập trung đầu tiên tại Trường Truyền Tin Lục Quân Hoa Kỳ
tại Fort Monmouth, Tiểu bang New Jersey. Dù mỗi phái đoàn chỉ có
2 người, nhưng cũng có một sĩ quan Hoa Kỳ được chỉ định làm sĩ
quan Tùy viên riêng để lo toan giúp đỡ mọi việc. Đoàn Việt Nam
gồm anh Tài và Tôi được một trung úy chăm lo cho đủ mọi thứ, y
như sĩ quan Tùy viên của các vị tướng vậy. Thật là một vinh dự
“ngàn năm một thuở” chẳng bao giờ quên.
Lịch trình thăm viếng khởi đầu từ
Trường Truyền Tin. Sau đó đi thăm Xưởng sản xuất phim ảnh huấn
luyện cho Lục quân “Army Pictorial Center” tại Newark gần New
York, được quan sát việc dàn cảnh quay phim thực hiện ngay trong
phim trường. Tiếp theo, chúng tôi đi thăm Fort Gordon trong Tiểu
bang Goergia, nơi có các Trung tâm huấn luyện sĩ quan và hạ sĩ
quan sửa chữa vật liệu Truyền Tin, Trường huấn luyện Quân Cảnh
(Military Police), và Trường huấn luyện Tâm Lý Chiến
(Psychological War-fare).
Thời gian thăm tại Fort Gordon gặp đúng
ngay ngày Army Day (6 tháng 4), nên chúng tôi được tham dự buổi
lễ kỷ niệm rất quy mô, có duyệt binh và thăm khu triển lãm các vũ
khí mới của Lục quân Hoa Kỳ. Các phái đoàn sĩ quan Truyền Tin
Đồng Minh được vinh dự đứng trên xe đi duyệt binh cùng lượt với
vị Tướng Chủ tọa buổi lễ. Theo thứ tự mẫu tự A, B, C... mỗi phái
đoàn đứng trên một xe riêng với sĩ quan Tùy viên của mình. Phái
đoàn Việt Nam đi chót, sau đoàn Venuzuala. Sau đó, chúng tôi tiếp
tục dùng đường bộ đi thăm Trường Võ bị Lục quân Hoa Kỳ West Point
trong Tiểu bang New York, Kho Truyền Tin Tobyhanna trong Tiểu
bang Pennsylvania đặc trách yểm trợ cho vùng Âu Châu và Đại Tây
Dương.
Chấm
dứt các cuộc viếng thăm tại miền Đông Hoa Kỳ, chúng tôi dùng máy
bay rời Fort Monmouth đi sang Tiểu bang Arizona, thăm Trung tâm
trắc nghiệm các vật liệu Truyền Tin mới “Signal Equipments
Proving Ground” tại Fort Huachuca trong vùng tỉnh Tucson. Vì
trong phái đoàn có nhiều vị tướng, nên tất cả chúng tôi đều được
cung cấp vé dành cho loại khách hạng nhất trên máy bay.
Hình như có sự sắp xếp trước của hệ
thống Tâm Lý Chiến Lục quân Hoa Kỳ, nên trên chuyến bay từ New
York sang Tucson làm như tình cờ có một Doanh gia lớn tại New
York đi sang nghỉ ngơi dưỡng sức cuối tuần, tại một trong các
trang trại tư nhân dùng làm nơi xả hơi cuối tuần của các doanh
gia triệu phú. Ông ta tìm đến tiếp chuyện làm quen với chúng tôi,
rồi ngỏ lời mời cả phái đoàn ghé thăm trang trại của ông ta vào
chiều ngày hôm sau là Chủ nhật. Sĩ quan Tùy viên đi theo hướng
dẫn phái đoàn là một trung tá từ Fort Huachuca sang đón chúng
tôi, lập tức tiếp xúc với phi hành đoàn, để nhờ phương tiện liên
lạc ngay với Tướng Chỉ huy trưởng Trung tâm xin chỉ thị. Một lát
sau, từ phòng điều hành của phi hành đoàn trở ra, viên trung tá
sĩ quan tùy viên của chúng tôi trả lời cho vị Doanh gia là đồng
ý, ngày mai vào 2 giờ chiều xe của Trung tâm sẽ đưa tất cả phái
đoàn chúng tôi đến thăm trang trại của ông ta. Nếu Tôi nhớ không
lầm thì ông ấy là Chủ tịch Ban Giám đốc Điều hành Siêu thị MACY’S
tại New York.
Trưa hôm sau, trước khi tới trang trại, trung tá sĩ quan tùy viên
đưa chúng tôi ghé một siêu thị lớn nhất Tucson, để mua sắm giầy
bốt, quần đặc biệt dùng để cưỡi ngựa, và quần tắm nếu ai cần. Mặc
dù chiều ngày Chủ nhật siêu thị đóng cửa, nhưng nhờ sự tiếp xúc
riêng vẫn có một nhân viên trong Ban Điều hành chờ đón, và mở cửa
dành riêng cho nhân viên để dẫn chúng tôi vào tìm kiếm mua những
thức cần dùng.
Trang trại chúng tôi được mời thăm có
cái tên thật lạ “Double U Ranch”, là một trang trại sang trọng
quy mô, đầy đủ mọi tiện nghi tân tiến của giai cấp thượng lưu
trong xã hội Tư bản. Có chuồng ngựa quý cả vài chục con, dành cho
những người thích cỡi ngựa du ngoạn vào tận chân núi gần trang
trại, lúc nào cũng nắng đẹp, nhưng trên đỉnh quanh năm có tuyết
phủ trắng xoá. Có hồ bơi cẩn gạch men chung quanh xanh biếc với
hệ thống điều hòa nước ấm, xây trong nhà ngay bên phòng khách
lớn, khách có thể bơi tắm suốt ngày đêm bất cứ vào giờ nào tùy
thích. Đặc biệt tại nhà bếp bên phòng ăn, có một lò nướng điện
nhỏ loại mới nhất “Microwave”. Chiếc dồi thịt “hot dog” để trong
ngăn đá đông cứng, lấy ra để trên một mảnh giấy đưa vào lò đóng
cửa kính lại, bấm nút cho lò chạy trong một phút là dồi thịt chín
vàng thơm phức. Chiếc lò nhỏ nhắn xinh xinh, vuông vức chỉ khoảng
60 phân mỗi cạnh, nhẹ nhàng gọn gàng có thể để trên mặt bàn y như
chiếc tủ nhỏ đựng thuốc lá của mấy cô bán thuốc lẻ bên lề ngoài
đường phố Sài Gòn. Ta có thể đứng ngay bên lò quan sát qua khung
cửa kính nhỏ, sự thay đổi của chiếc dồi trong thời gian được
luồng sóng điện nướng chín. Đây là một phát minh mới được đưa ra
thị trường Hoa Kỳ vào đầu năm 1960, chưa xuất hiện trên thị
trường các nước Âu Châu. Buổi thăm viếng trang trại “Double U
Ranch” được kết thúc bằng một tiệc nhỏ nhưng trang trọng theo
kiểu “self serve” của Hoa Kỳ, với sự hiện diện của mấy vị doanh
gia lớn khác từ San Francisco, Philadelphia, Chicago, và
Washington, D.C., cũng đang nghỉ dưỡng sức cuối tuần tại trang
trại.
Ngày hôm
sau, chúng tôi bắt đầu cuộc thăm viếng Trung tâm trắc nghiệm bằng
buổi tiếp đón phái đoàn với hàng quân danh dự, ngay tại trước
tiền đình Bản doanh chỉ huy của Tướng Chỉ huy trưởng. Tiếp theo
là tiệc tiếp tân làm quen với các giới chức quan trọng trong Ban
Điều hành Trung tâm, và buổi thuyết trình tổng quát về chương
trình thăm viếng, tại phòng khánh tiết danh dự của Bản doanh.
Trước khi khởi sự buổi tiếp tân, có một
mục làm mọi người ngạc nhiên thích thú là, Tướng Chỉ huy trưởng
Trung tâm trịnh trọng thông báo cùng mọi người rằng, ông ta mới
nhận được điện thư của Tòa Đại sứ Thái Lan tại Hoa Thịnh Đốn nhờ
thông báo là, Thiếu tướng Chỉ huy trưởng Truyền Tin Quân đội
Hoàng gia Thái Lan (Tôi không nhớ tên) đang có mặt trong đoàn Du
hành, vừa được Quốc Vương phong chức Trung tướng. Mọi người cùng
nâng ly chúc mừng chia vui với ông Trung tướng mới vinh thăng.
Theo như dự trù cuộc thăm viếng khu
Signal Equipments Proving Ground của chúng tôi kéo dài 2 ngày.
Chúng tôi được hướng dẫn xem rất nhiều loại vật liệu hiện đại hóa
đang trắc nghiệm, sẽ đem thay thế những loại cũ đang dùng trong
Quân đội để đáp ứng nhu cầu chiến thuật mới của chiến trường thời
đại nguyên tử. Đặc biệt chúng tôi được xem 2 cuộc biểu diễn kỳ
thú:
1. Cuộc
phóng hỏa tiễn địa-không để diệt hỏa tiễn địch trước khi chúng
bay tới mục tiêu. Cuộc tập dượt thực tiễn này đã diễn ra rất
ngoạn mục.
2.
Cuộc phóng máy bay không người lái “Drone” điều khiển bằng radar
xâm nhập vào hậu phương địch và trên trận tuyến đang giao tranh,
để chụp hình quay phim chuyển ngay về trung tâm kiểm soát, cho vị
Tư lệnh chiến trường có thể nhìn thấy rõ trên màn ảnh lớn mọi
diễn biến đang xảy ra tại trận địa. Hết nhiệm vụ, Drone được điều
khiển quay trở về nơi xuất phát, một chiếc dù lớn bật tung ra để
Drone nhẹ nhàng đáp xuống mặt đất một cách an toàn, y như người
lính Nhảy Dù đáp xuống vậy.
Ngoài những chương trình thăm viếng các
khu xưởng nghiên cứu sản xuất trắc nghiệm các vật liệu Truyền
Tin, người ta còn xen vào mấy màn Tâm lý chiến để chúng tôi có
dịp thấy tận mắt thực tế nếp sống đầy đủ tiện nghi văn minh thoải
mái cao sang của giai cấp sĩ quan, binh sĩ, và dân chúng trong xã
hội Hoa Kỳ.
Chúng tôi chấm dứt chương trình thăm viếng ngày đầu bằng bữa cơm
chiều tại nhà ăn tập thể của binh sĩ. Nhà ăn dành cho chỉ khoảng
500 binh sĩ mà rộng mênh mông, tường chung quanh toàn bằng kính
trong vắt sáng sủa, sàn nhà trắng toát bóng loáng, bàn ghế, các
khay đựng thực phẩm riêng cho mỗi cá nhân đều bằng kim khí nhẹ
tráng thiếc sáng loáng, các dụng cụ nấu thực phẩm toàn loại tối
tân nhất, dùng điện chớ không dùng than hoặc khí đốt, ngăn nắp
sạch sẽ. Hôm đó nhằm ngày sinh nhật của Trung tướng Chỉ huy
trưởng Truyền Tin Quân đội Tây Ban Nha trong đoàn sĩ quan Đồng
minh đang Du hành quan sát, nên nhà bếp làm một bánh sinh nhật to
tướng đường kính rộng 1 mét. Chúng tôi được xếp ngồi nơi bàn danh
dự tại khu dành riêng cho khách thăm viếng nhà ăn. Trước khi bắt
đầu ăn, tất cả mọi người có mặt trong nhà ăn đều đứng lên hát
theo nhạc bài “Happy Birthday”, để mừng kỷ niệm ngày sinh nhật
thứ 60 của vị khách quý.
Để chấm dứt chương trình thăm viếng
ngày thứ hai, sau khi dùng cơm chiều do Thiếu tướng Chỉ huy
trưởng Trung tâm khoản đãi tại tư dinh, tất cả phái đoàn chúng
tôi được mời tới dùng tiệc rượu tối và nói chuyện tầm phào tại
nhà riêng của trung tá sĩ quan tùy viên hướng dẫn phái đoàn. Vợ
chồng ông trung tá này chỉ có một người con gái duy nhất, vừa qua
tuổi đôi mươi đang học trường Đại học Luật, thích nói tiếng Pháp.
Thế mà cái tư thất của ông bà ấy thật là to rộng nằm trên một khu
đất vuông vức mỗi cạnh dài chừng hơn 100 mét, trồng đủ loại cây
bông quý và thảm cỏ xanh mướt. Nhà xây theo kiểu villa với 5
phòng ngủ đầy đủ tiện nghi hiện đại, phòng bếp phòng ăn phòng
khách sát ngay bên nhau trang trí toàn vật dụng sang trọng đắt
tiền, có lẽ hơn cả các tư thất cấp Bộ trưởng tại Sài Gòn mà Tôi
đã có dịp được thấy.
Ngày thứ ba không còn gì thăm trong
Trung tâm, chúng tôi được đưa đi thăm thị xã Phoenix thủ phủ của
Tiểu Bang Arizona. Sau đó thăm thị trấn nhỏ kỷ niệm lịch sử Rose
Hill, nơi có ngôi mộ và đôi giầy ủng “cow boy” của vị Cảnh sát
trưởng nổi tiếng bắn súng lục nhanh thời xa xưa. Tại đây còn có
một cây hoa hồng cổ thụ, đem từ xứ Anh Cát Lợi sang trồng được cả
100 năm rồi vẫn còn sống. Thân cây già sần sùi to bằng bắp vế,
vươn lên cao hơn mặt đất chừng 3 mét, cành lá xum xuê chi chít
vươn dài ra tứ phía, nằm dựa trên một giàn sắt hình tròn như
chiếc tán rộng với đường kính cỡ 20 mét, quanh năm xanh tươi đơm
chồi nở hoa liên tục, thơm ngát.
Hết cuộc Du hành quan sát tại Fort
Huachuca, chúng tôi dùng máy bay sang Thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Ngày
thứ nhất tại Thủ đô Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, chúng tôi được đưa đi
thăm viếng các đài kỷ niệm các Tổng thống George Washington,
Thomas Jefferson, Abraham Lincoln, Nghĩa trang Quốc gia
Arlington, Tòa nhà Quốc Hội Liên Bang Hoa Kỳ (Điện Capitol), và
bảo tàng viện Tư dinh và chiếc xe ngựa của vị Tổng thống Hoa Kỳ
đầu tiên George Washington.
Ngày kế theo, chúng tôi được đưa đến
thăm Tướng Chỉ huy trưởng Truyền Tin Lục Quân, Thứ trưởng Lục
Quân, và Tướng Tham mưu trưởng Liên Quân trong trụ sở Ngũ Giác
Đài (Pentagone). Chúng tôi thăm viếng nơi đây suốt cả 1 ngày, vào
khoảng 4 giờ chiều được dự tiệc tiếp đãi của ông Bộ Trưởng Quốc
Phòng, có sự tham dự của các Tùy Viên Quân Lực thuộc các Tòa Đại
sứ Đài Loan, Đại Hàn, Pháp, Thái Lan, Việt Nam Cộng Hòa,
Venuzuala, Ý Đại Lợi, và Y Pha Nho. Bữa tiệc này được coi là mục
cuối cùng chấm dứt chương trình Du hành Quan sát mùa Xuân 1960
của các Chỉ huy trưởng Truyền Tin và Giám đốc Trường Truyền Tin
thuộc các nước Đồng minh của Hoa Kỳ. Mỗi người được tặng một
quyển album ép những tấm hình chụp phái đoàn trong suốt cuộc hành
trình vừa qua, và chia tay nhau tại đây để ngày hôm sau, tùy theo
sự sắp xếp, mỗi nhóm được sĩ quan Tùy viên riêng lo cho phương
tiện trở về nước mình.
Phái đoàn Việt Nam chúng tôi được một
ngày nghỉ dạo chơi phố thoải mái, nhờ sự hướng dẫn của một hạ sĩ
quan thuộc phòng Tùy viên Quân lực của Tòa Đại sứ Việt Nam. Ngày
kế theo mới đáp máy bay rời Hoa Thịnh Đốn trở qua San Francisco.
Trong khi đang bay trên không trung, trung úy sĩ quan tùy viên
cho biết là chúng tôi phải đợi tại San Francisco 3 ngày sau mới
có chuyến bay rời Mỹ về Việt Nam. Tôi liền yêu cầu ông ta tiếp
xúc với Ngũ Giác Đài, xin cho anh Thiếu tá Nguyễn Đình Tài Chỉ
huy phó Viễn Thông và Tôi Giám đốc Trường Truyền Tin Quân lực
Việt Nam Cộng Hòa ghé thăm kho Truyền Tin Sacremento, là nơi phụ
trách yểm trợ cho miền Thái Bình Dương và Á Đông, trước khi về
nước. Ông ấy đi tiếp xúc ngay với phi hành đoàn, để nhờ phương
tiện liên lạc với văn phòng Chỉ huy trưởng Truyền Tin tại Ngũ
Giác Đài. Nửa tiếng đồng hồ sau ông ta trở ra, báo cho chúng tôi
biết là đã được chấp thuận, và khi về tới San Francisco ông ta sẽ
tiếp xúc với Bộ Tư lệnh Quân sự tại Presidio để thu xếp chương
trình cho chúng tôi.
Đáp xuống phi trường San Francisco, ông
ta dẫn chúng tôi ra xe Taxis Quân đội đang chờ đón, đưa vào thành
phố San Francisco lấy phòng ngủ gần khu Chinatown chớ không về ở
Câu Lạc Bộ Sĩ quan trong khu Presidio như khi mới sang. Tám giờ
tối ông ta trở lại khách sạn gặp chúng tôi, cho biết là 9 giờ
sáng hôm sau ông ta sẽ dẫn xe đến đón chúng tôi vào Presidio để
lên máy bay nhỏ đi Sacremento thăm kho Truyền Tin. Máy bay sẽ ở
lại đợi đưa chúng tôi trở về lại San Francisco vào lúc 4 giờ
chiều, sau khi chương trình thăm viếng tại Kho chấm dứt.
Sáng hôm sau, chúng tôi xuống dùng điểm
tâm tại nhà ăn của khách sạn vừa xong thì ông trung úy tùy viên
tới, đưa chúng tôi ra phi trường riêng của Quân đội để lên máy
bay đi Sacremento. Phi cơ đưa chúng tôi đi thuộc loại nhỏ nên đáp
xuống ngay phi trường riêng của Kho Sacremento. Người đợi đón
chúng tôi là Trung tá Chỉ huy phó của đơn vị. Một ngạc nhiên
thích thú đối với Tôi, vì vị này nguyên là Thiếu tá cố vấn của
Trường Truyền Tin Thủ Đức. Chính ông này đã giúp Tôi thực hiện kế
hoạch thực hiện các trợ huấn cụ cho các xưởng huấn luyện sửa chữa
vật liệu Truyền Tin, trước khi hết nhiệm kỳ về Hoa Kỳ. Từ ngày
rời Việt Nam về, ông ta được thăng cấp trung tá và bổ nhiệm làm
việc ngay tại Kho Sacremento. Vì thấy tên Tôi trong đoàn thăm
viếng nên ông ta đã đích thân ra tận phi trường đón, thay vì để 1
trung úy đi đón như thường lệ đối với các đoàn tới thăm viếng
khác.
Một
chương trình thăm viếng đặc biệt, ngoài kế hoạch dự trù hàng năm,
được thu xếp cho chúng tôi thật chu đáo. Khi xe chúng tôi về tới
Bản doanh của Bộ Chỉ huy, ngay tại sân cờ có toán quân Danh dự
xếp hàng dàn chào chúng tôi, vị Đại tá Chỉ huy trưởng đứng ngay
trước cửa chính đón mời chúng tôi vào Phòng họp. Sau khi thuyết
trình tổng quát về tổ chức nhiệm vụ của Kho, chúng tôi được mời
sang phòng tiếp tân dùng cơm trưa với các sĩ quan và dân chính
giữ các chức vị chỉ huy quan trọng trong đơn vị, trước khi khởi
sự chương trình thăm viếng gồm: khu kế toán tiếp liệu, khu tồn
trữ, khu sửa chữa, và khu đóng gói chuyển hàng đi bằng đường hàng
không, đường thủy và đường bộ.
Trong khi ăn, Trung tá cố vấn cũ của
Tôi ngỏ lời mời anh Tài và Tôi ghé nhà ông ấy ăn cơm tối, rồi ông
ta sẽ đích thân lái xe đưa chúng tôi trở về San Francisco. Sau
khi tham khảo ý kiến với anh Tài, Tôi đề nghị thông báo cho trung
úy tùy viên của chúng tôi tại Presidio biết, và cho phi công lái
máy bay rời Sacremento về trước. Thật là một cuộc thăm viếng bất
thần kỳ thú tại Kho Truyền Tin Sacremento, không bao giờ Tôi quên
được. Sở dĩ chúng tôi được tiếp đãi quá nồng hậu như vậy vì, hồi
làm Cố vấn cho Tôi tại Trường Truyền Tin Thủ Đức, hàng tháng ông
bạn cố vấn của Tôi và các Cố vấn Trưởng, Cố vấn phó mà ông ta
trực thuộc tại Liên Trường, thường được Tôi mời về nhà dùng cơm
gia đình để các ông ấy có dịp trò truyện với các con tôi, và tìm
hiểu thêm về phong tục tập quán Việt Nam. Đến khi hết nhiệm kỳ
làm cố vấn rời Trường Truyền Tin Thủ Đức, với tư cách Giám đốc
Trường, Tôi đã trình xin Thiếu tướng Chỉ huy trưởng Liên trường
thưởng công cho ông ấy một Tưởng Lục cấp Sư đoàn. Riêng tại
Trường Truyền Tin, tổ chức một tiệc ăn nhẹ để tất cả nhân viên
họp mặt tiễn biệt, và cá nhân Tôi tặng ông ấy một cặp đồi mồi sà
cừ rất đẹp.
Những tình cảm một thời giữa các Bồ câu đã chia sẻ bên nhau trong
những buổi thăng trầm chẳng bao giờ phai nhạt.
Ngày nay, vì thời vận đất nước phải lưu
vong tỵ nạn nơi xứ lạ quê người, nhưng hàng năm, các Bồ Câu vẫn
tạo cơ hội để có thể gặp nhau chia sẻ những niềm vui trong cuộc
sống mới nơi hải ngoại, và ôn lại những kỷ niệm xa xưa, và chẳng
lần nào quên mời Tôi cùng tham dự, mặc dù Tôi đã ra khỏi Binh
chủng Truyền Tin.
Đúng là “TÌNH HUYNH ĐỆ CHI BINH” của
những cựu Quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bất diệt vậy.
CHƯƠNG 12
(Chương chót)
NHỮNG KỶ NIỆM
SAU CÙNG TRONG BINH CHỦNG TRUYỀN TIN
Trong
thời gian Tôi đi Du hành thăm viếng Truyền Tin tại Hoa Kỳ, anh
Đại úy Võ Trịnh Trọng Phó Giám đốc, được cử Xử lý thường vụ chức
Giám đốc Trường. Hết Du hành Tôi trở về Trường tiếp tục công việc
êm ả suôn sẻ. Đến khoảng khuya ngày 11 tháng 11 năm 1960 kỷ niệm
Cựu Chiến binh Thế giới Đại chiến I, mấy anh sĩ quan đi học lớp
văn hóa khuyến học tối tại Sài Gòn về báo cho biết là đang có vụ
Lực lượng Nhảy Dù vây Dinh Độc Lập nhằm đảo chánh Tổng thống Ngô
Đình Diệm, không biết do ai chủ xướng. Về sau cuộc đảo chánh
không thành, mới biết là do nhóm Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung
tá Vương văn Đông thuộc lực lượng Nhảy Dù chủ xướng với sự hỗ trợ
của mấy chính trị gia đối lập. Lúc đó, Liên trường không có động
tĩnh lệnh lạc gì cả, bình chân như vại, mọi người ngủ yên giấc.
Đến gần sáng bỗng có còi báo động, tất cả cán bộ và khóa sinh đều
phải lãnh súng ra thủ tại tuyến phòng thủ đã quy định từ trước.
Tôi vội vã lái xe Jeep tới kho Trường Truyền Tin, theo dõi việc
phát súng đạn cho khóa sinh và cán bộ, và đôn đốc anh em chạy ra
tuyến phòng thủ thật nhanh.
Theo lệnh phòng thủ, Trường Truyền Tin
được giao cho thủ tuyến đầu ngay bên trong vòng rào kẽm gai dài
khoảng 200 mét, ở về phía bên phải cổng chính ra vào Liên Trường,
nhìn xuống khu chợ Nhỏ có văn phòng Xã Tăng Nhân Phú, Trường Tiểu
học, nhà lồng chợ, các nhà ở và hàng quán của tư nhân, phục vụ
cho khách hàng chính là gia đình quân nhân các cấp cư ngụ trong
doanh trại Liên Trường trên đỉnh đồi Tăng Nhân Phú. Từ lúc khởi
còi báo động, mọi người thức dậy mặc quần áo rời nơi ở, xuống
Trường lãnh vũ khí, rồi chạy ra tới vị trí tại tuyến phòng thủ,
chúng tôi phải mất khoảng thời gian nhanh nhất là 10 phút. Ổn
định việc bố trí xong được chừng 1 tiếng đồng hồ thì trời mới
hừng sáng, sương mù còn dầy đặc chỉ nhìn được rõ mặt người đứng
cách xa mình trong vòng 50 mét. Bỗng dưng, Tôi thấy các đơn vị
Sinh viên sĩ quan Trường Bộ Binh do Đại úy Nguyễn Viết Thanh làm
Giám đốc, chạy đến dàn quân đặt súng dọc con đường chạy theo vòng
rào ở phía sau lưng chúng tôi chừng 50 mét. Tôi rất ngạc nhiên,
vì phía ngoài yên tịnh không có bóng dáng địch cũng chưa hề có
giao tranh, tại sao lại phải tăng cường quân? Mấy phút sau có
Thiếu tá Chỉ huy trưởng Tổng hành dinh Liên Trường đến gặp Tôi,
chuyển lệnh của Thiếu tướng Chỉ huy trưởng chỉ thị chúng tôi rút
về Trường Truyền Tin.
Ngày hôm sau, Tôi nhận được lệnh phải
tổ chức lễ bàn giao chức Giám đốc Trường cho Đại úy Võ Trịnh
Trọng vào sáng ngày kế theo, để về trình diện Bộ Chỉ huy Viễn
Thông tại Bộ Tổng Tham mưu. Tôi hơi sững sờ ngạc nhiên, nhưng là
một quân nhân luôn tôn trọng kỷ luật, Tôi thi hành lệnh một cách
tự nhiên vui vẻ không ưu tư thắc mắc chi cả. Ngay sau lễ bàn giao
rất đơn giản, chỉ có nhân viên thuộc Trường và các khóa sinh đang
theo học, dưới quyền chủ tọa của Tướng Nghiêm, Trưởng Phòng 1 của
Bộ Chỉ huy Liên trường đến gặp đưa cho Tôi tấm Sự vụ lệnh, quy
định phải đi trình diện Bộ Chỉ huy Viễn Thông vào ngày hôm sau.
Bàn giao xong (kể cả chiếc xe Jeep và anh tài xế cơ hữu của
trường) không còn trách nhiệm gì nữa, trong suốt buổi chiều
Tôi dùng xe Standard 10 riêng chạy vòng trong Liên Trường chào
tiễn biệt các cấp chỉ huy quan trọng thuộc Bộ chỉ huy, các Giám
đốc trường, và vị Cố vấn trưởng cùng các người phụ tá của ông ta.
Phần lớn đều chúc Tôi gặp nhiều may mắn trong những ngày sắp tới.
Riêng Trung tá Lê Quang Hiền Tham mưu trưởng (bạn tốt nghiệp
cùng khóa sĩ quan với Tôi) nói nhỏ cho biết, Tôi bị Tướng
Nghiêm ký giấy phạt 10 ngày trọng cấm, cất chức Giám đốc trường,
vì nghi vấn có liên hệ tiếp tay với nhóm anh em thuộc Tiểu đoàn
Nhảy Dù đóng tại Thủ Đức chiếm Liên Trường, để cản không cho đem
quân về Sài Gòn tiếp cứu Tổng thống Diệm chống lại nhóm Nguyễn
Chánh Thi làm đảo chánh. Thật là một tai họa không phải từ trên
Trời rơi xuống, mà do lòng người hiểm độc bày ra hại Tôi, chớ Tôi
không hề quen biết hoặc liên lạc gì với anh em Nhảy Dù tại Thủ
Đức.
Đến
khoảng 6 giờ chiều, Linh mục Tuyên úy của Liên Trường đến nhà
thăm Tôi, tặng cho 2 bình dầu ăn của cơ quan thiện nguyện Hoa Kỳ
viện trợ nhân đạo cho người nghèo túng, và nhẹ nhàng thủ thỉ với
Tôi rằng: “Tôi quen lớn với Linh mục Tuyên úy trong Phủ Tổng
thống, nếu thiếu tá có cần Tôi giúp đỡ gì thì xin cứ gặp Tôi bất
cứ lúc nào”. Tôi ngỏ lời cám ơn lòng tốt của Linh mục, và
tâm sự rằng Tôi ngay thẳng không làm điều gì trái với lương tâm
nên không có gì e ngại. Tuy nhiên nếu có trường hợp oan trái thật
cần thiết, Tôi sẽ tìm Linh mục để nhờ giúp đỡ giải oan.
Sáng hôm sau, từ cư xá gia đình sĩ quan
Liên trường, Tôi lái xe riêng lên trình diện Bộ Chỉ huy Viễn
Thông. Tôi tới đúng vào lúc đang có tiệc nước do anh em sĩ quan
Bộ chỉ huy tổ chức tại phòng họp để tiễn chân Đại tá Nguyễn
Khương, bị cất khỏi chức Chỉ huy trưởng bàn giao cho Trung tá
Khổng văn Tuyển Chánh sự vụ Sở Truyền Tin kiêm nhiệm. Mọi người
thấy Tôi, tưởng là Tôi biết có việc bàn giao nên về tham dự đồng
thời ra mắt Chỉ huy trưởng mới.
Trong buổi tiệc Tôi gặp Đại úy Đỗ Như
Luận Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Truyền Tin Bộ Tổng Tham mưu (một
bạn chí thân trong Phong trào Cách mạng Quốc gia, thân thích của
Đại tá Đỗ Mậu Cục trưởng An ninh Quân đội), anh em ôm nhau
mừng rỡ. Tôi trình bày hoàn cảnh của Tôi, anh ấy nói để sẽ đi gặp
Đại tá Đỗ Mậu xem nội vụ, và giải toả cho Tôi nếu thật tình vô
tội. Mãn tiệc, Tôi vào văn phòng Chỉ huy trưởng, trình Sự vụ lệnh
và kể lại rõ ràng sự việc với Trung tá Tuyển tân Chỉ huy trưởng
Viễn Thông. Anh Tuyển dịu dàng hiền hòa nói: “Anh cứ yên tâm,
tạm thời anh ngồi vào ghế Chỉ huy phó thay anh Tiến đang bị câu
lưu bên An ninh Quân đội, chờ khi nào Bộ Tổng Tham mưu có quyết
định sẽ hay.” Sau đó, anh Tuyển mời Đại úy Thành Tham mưu
trưởng vào, chỉ thị sửa soạn chỗ cho Tôi ngồi bên văn phòng Chỉ
huy phó.
Tạm
có chỗ ngồi trú chân chờ đợi coi chuyện gì sẽ đến với mình trong
những ngày sắp tới, Tôi đến Câu Lạc Bộ Sĩ quan gần Cổng Một của
Bộ Tổng Tham mưu, kiếm phòng dành cho sĩ quan độc thân để ở và ăn
uống hàng ngày. Không còn chỗ trống, Tôi phải chạy vào Câu Lạc Bộ
Sĩ quan An Đông tận bên Chợ Lớn để lấy phòng ăn ở sau giờ làm
việc, chớ không về nhà với gia đình còn đang cư ngụ tại cư xá
trong Liên trường Võ khoa Thủ Đức. Phải hơn tuần lễ sau, Tôi đòi
lại được căn nhà riêng gần bên khu chợ Bà Chiểu đang cho thuê, và
nhờ anh Luận giúp cho người và phương tiện của Tiểu đoàn đi
chuyển vận đồ đạc và gia đình về ở.
Ngày 2 buổi, xe của Bộ chỉ huy đến đưa
đón Tôi vào văn phòng trong Bộ Tổng Tham mưu. Mỗi buổi, sau khi
ghé chào Tham mưu trưởng và trình diện Chỉ huy trưởng xong, Tôi
thong thả về phòng ngồi đọc báo đọc sách vì chẳng được giao phó
công việc gì cả. Vài ngày sau, anh Đại úy Nguyễn Bá Di phụ tá cho
anh Tuyển bên Sở Vật Liệu được điều động qua làm Tham mưu trưởng
thay anh Thành. Tôi ngồi chơi xơi nước được chừng tuần lễ, thì
anh Đại úy Đỗ Như Luận đến gặp Tôi và cùng vào nói truyện với
Trung tá Tuyển Chỉ huy trưởng. Anh Luận cho biết là đã gặp Đại tá
Đỗ Mậu, truyện của Tôi không có gì. Nhờ thế, anh Tuyển làm Phiếu
trình Bộ Tổng Tham mưu ra văn thư chỉ định Tôi làm Chỉ huy phó.
Mấy ngày sau khi văn thư được Bộ Tổng Tham mưu ban hành, anh
Tuyển mời Tôi vào tâm sự rằng, Tướng Lê văn Nghiêm Chỉ huy trưởng
Liên trường Võ khoa Thủ Đức được Tổng thống đem về làm Tư lệnh
Biệt khu Thủ Đô, vừa gọi điện thoại nói chuyện với anh ấy và
trách rằng: “Tại sao ông ấy phạt cách chức Tôi khỏi tước vị
Giám đốc trường trả về mà lại bổ nhiệm cho làm Chỉ huy phó vậy?”
Anh Tuyển nói thác cho êm chuyện rằng, Bộ Tổng Tham mưu quyết
định chớ anh ấy không đề nghị. Thế rồi mọi việc cũng qua đi.
Không đầy một tháng sau, anh Đại úy Võ
Đại Khôi Chánh Sự vụ Sở Viễn Thông Bảo An, dưới quyền Tướng Dương
Ngọc Lắm, mới được thăng thiếu tá sau vụ đảo chính hụt, được bổ
nhiệm chính thức làm Chỉ huy trưởng Viễn Thông, với cấp bậc trung
tá giả định, và Đại úy Đỗ Như Luận được bổ nhiệm làm Tham mưu
trưởng Bộ Chỉ huy Viễn Thông, tiếp tục kiêm nhiệm chức Tiểu đoàn
Trưởng Tiểu đoàn Truyền Tin Bộ Tổng Tham mưu. Anh Tuyển trở về vị
trí cũ Chánh sự vụ Sở Vật liệu Truyền Tin, anh Đại úy Di đi làm
Quận trưởng Quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định.
Đại tá Nguyễn Khánh đã có công trong
việc hòa giải làm cho cuộc đảo chánh Tổng thống Diệm của nhóm
Nhảy Dù Nguyễn Chánh Thi, Vương văn Đông thất bại phải bỏ chạy
sang Cao Miên lưu vong, nên được Tổng thống thăng cho lên cấp
thiếu tướng về làm Tham mưu trưởng Liên quân, đồng thời kiêm luôn
chức Chủ tịch Hội đồng Kỷ luật Bộ Quốc phòng để xét xử những
người bị đơn vị trưởng báo cáo có liên hệ với nhóm đảo chánh.
Ngay sau khi ngồi vào ghế Tham mưu
trưởng Liên quân, Tướng Khánh thực hiện một chương trình thăm
viếng các cơ sở trực thuộc trong Bộ Tổng Tham mưu. Một buổi sáng
đẹp trời Tướng Khánh ghé thăm Bộ Chỉ huy Viễn Thông, trong lúc
anh Khôi và Tôi hướng dẫn đi thăm các văn phòng, Tướng Khánh hỏi
Tôi: “Ê! Hùng, toi (anh) làm gì ở Thủ Đức mà để Tướng Nghiêm
phạt và đề nghị đưa ra Hội đồng Kỷ luật vậy?” Tôi trình bày
cặn kẽ mọi việc, và kết luận: “Thiếu tướng biết Tôi từ hồi
mới ở Pháp về, cùng làm việc tại Bộ Quốc phòng dưới quyền Papa Tỵ
Tham mưu trưởng Biệt bộ, thực tình Tôi chẳng can dự gì, vậy nhờ
Thiếu tướng minh xét cho Tôi được thoát hàm oan, Tôi vô cùng cám
ơn.” Tướng Khánh nói: “Được để moi (tôi) xem”. Thế
rồi Hội đồng Kỷ luật đã xét Tôi vô tội.
Thực tế chức vị Chỉ huy phó Viễn Thông
chẳng có gì để lo toan, nên trong khi chờ đợi cấp trên chỉ định
người thay thế anh Khôi bên Bảo An, anh ấy đã đề nghị Bộ Tổng
Tham mưu chỉ định Tôi kiêm nhiệm tạm thời chức Chánh sự vụ Sở
Viễn Thông Bảo An, để giải quyết công việc hàng ngày. Kho vật
liệu Truyền Tin riêng của Sở Viễn Thông Bảo An có khá nhiều danh
mục rất phức tạp, Tôi phải xin tăng phái anh Đại úy Nguyễn Đình
Thế (từng đi học tại Fort Monmouth cùng khóa với Tôi hồi
1957-1958) sang phụ trách kiểm kê vật liệu để làm biên bản
bàn giao. Chẳng được bao lâu thì một đại úy (không nhớ tên) được
đưa qua thay thế Tôi coi Sở Viễn Thông Bảo An. Tôi trở về tiếp
tục giữ chức vụ Chỉ huy phó, để thường xuyên đi làm Chánh chủ
khảo các sinh viên sĩ quan Trừ bị Thủ Đức theo học giai đoạn 2 về
Truyền Tin mãn khóa tại Vũng Tầu, dẫn đoàn thanh tra của Bộ Chỉ
huy đến thanh tra kỹ thuật các đơn vị Truyền Tin, hoặc làm sĩ
quan Chỉ huy quân trong các dịp lễ kỷ niệm ngày thành lập Binh
chủng tại Tiểu đoàn Truyền Tin Bộ Tổng Tham mưu hoặc tại Căn cứ
60 Tiếp vận Truyền Tin.
Mỗi lần đi làm Chủ tịch Hội đồng Giám
khảo tại Vũng Tầu, bao giờ Tôi cũng yêu cầu phải có Đại úy Lê
Đình Châu thuộc Tiểu đoàn Truyền Tin Bộ Tổng Tham mưu trong thành
phần giám khảo, để anh ấy đảm trách thêm chức vị Phó Chủ khảo lo
hết mọi việc giùm. Còn những lần dẫn đoàn Thanh tra đi các đơn
vị, thì luôn luôn phải có Đại úy Lại Đức Nhung Trưởng Phòng Vật
liệu trong Bộ Chỉ huy Viễn Thông (sau đổi thành Cục Truyền
Tin) đi theo, để lo toan phối hợp chương trình và phương
tiện cùng nơi ăn chốn ở cho phái đoàn. Vì thế anh em đặt cho anh
Nhung cái nickname rất thân thương là “ông bầu Nhung”, y
như ông bầu của một đoàn cầu thủ hay gánh hát cải lương vậy.
Khi Sở Viễn Thông Bảo An cải biến thành
Nha Viễn Thông Bộ Nội vụ, và Bộ Chỉ huy Viễn Thông cùng Sở Vật
liệu Truyền Tin sát nhập biến thành Cục Truyền Tin thống thuộc hệ
thống chỉ huy của Tổng cục Tiếp vân, thì anh Trung tá Khổng văn
Tuyển được chỉ định sang giữ chức Giám đốc Nha Viễn Thông Bộ Nội
vụ, Thiếu tá Tạ Thái Bình Chỉ huy trưởng Căn cứ 60 Tiếp vận
Truyền Tin lên thay chỗ anh Tuyển lo khối Kế toán Tiếp liệu của
Cục Truyền Tin, và anh Đại úy Phùng Ngọc Sa được đưa về làm Chỉ
huy trưởng Căn Cứ 60 Tiếp vận Truyền tin thay chỗ anh Bình. Và,
theo đề nghị của Bộ Tổng Tham mưu, Anh Khôi được Tổng thống ban
hành Sắc lệnh chỉ định làm Cục Trưởng Truyền Tin Quân lực Việt
Nam Cộng Hòa, và Tôi được Bộ Trưởng Quốc phòng ra Nghị định cử
làm Cục phó Truyền Tin.
Cũng trong dịp cải tổ Quân đội đại quy
mô này, Liên trường Võ khoa Thủ Đức giải tán, tất cả các Trường
đặt thuộc quyền chỉ huy thẳng của Tổng Cục Quân huấn về mặt quản
trị hành chánh, thiết lập các kế hoạch và ngân sách huấn luyện
hàng năm, đồng thời trực thuộc các Nha Sở Binh chủng chuyên môn
về kỹ thuật và quản trị bổ sung nhân viên. Do đó, Trường Truyền
Tin được di chuyển xuống Vũng Tầu sát nhập với Trung tâm Huấn
luyện Truyền Tin bị giải tán. Thiếu tá Phan văn Chuân nguyên Chỉ
huy trưởng Viễn thông Quân khu 2 (sau Hiệp định Genève 1954
đổi thành Quân Khu I) tại Huế, được chỉ định làm Chỉ huy
trưởng Trường Truyền Tin. Thiếu tá Phạm văn Tiến, vừa thoát khỏi
ách kỷ luật về vụ có liên hệ với cuộc đảo chính hụt ngày 11 tháng
11 năm 1960, được bổ nhiệm làm Chỉ huy phó. Thiếu tá Nguyễn Đình
Tài nguyên Chỉ huy trưởng Trung tâm huấn luyện giải tán, được bổ
nhiệm lên Trường Đại học Quân sự Đà Lạt làm Huấn luyện viên về
khoa Truyền Tin. Các Tiểu đoàn Khai Thác và các Tiểu đoàn Yểm trợ
Sửa chữa vật liệu Truyền Tin tại các địa phương Quân Khu được kết
hợp bên nhau để thành lập các Liên đoàn Truyền Tin Diện địa.
Theo tổ chức mới, các chức vụ Chỉ huy
phó đơn vị được quy định kiêm Phụ tá chiến tranh Chính trị cho
đơn vị trưởng, do đó Tôi được gửi đi theo học Khóa Tâm Lý Chiến
Thực Hành đầu tiên, khai giảng vào đầu tháng 4 năm 1961 tại Trung
tâm huấn luyện Chiến tranh chính trị tọa lạc nơi đường Đồn Đất
Sài Gòn. Tướng Trần văn Đôn được Tổng thống Diệm chỉ định làm
Giám đốc khóa học. Sau 1 tháng trời học ngày học đêm và thi liên
tục hàng tuần, chúng tôi được cấp bằng mãn khóa. Vừa nhận xong
Bằng Tâm Lý Chiến in rất đẹp có đóng dấu nổi, phải tức tốc đi
ngay lên Suối Lồ Ồ trình diện học thêm một tuần lễ Khóa Ấp Chiến
Lược, rồi mới được trả về đơn vị.
Cả 2 khóa học đều do ông Cố vấn Ngô
Đình Nhu đến Chủ tọa lễ mãn khóa, ban hiểu dụ khích lệ tinh thần
mọi người làm cách mạng bản thân và cấp phát văn bằng. Đặc biệt
trong thời gian học Ấp Chiến Lược tại Suối Lồ Ồ, tất cả mọi người
Tá, Úy, đều phải bỏ không đeo cấp hiệu, ăn uống sống chung bình
đẳng với nhau từng Tổ 7 người trong những lều vải như trong các
Trại Hè của các Đoàn Hướng Đạo Sinh, ngày nóng như thiêu đốt, đêm
lạnh cóng người. Mỗi sáng còn phải làm sạch sẽ chung quanh lều để
được chấm điểm, nếu lều nào không được thu xếp tươm tất sẽ bị phê
phán bằng phương thức cắm cờ đen ngay trước lều cả ngày.
Trong khi Tôi theo học Khóa Tâm Lý
Chiến và Ấp Chiến Lược, thì các anh Đỗ Như Luận và Chu văn Trung
thuộc Tiểu đoàn Truyền Tin Bộ Tổng Tham mưu, hàng ngày giắt nhau
đi lên căn cứ của Lực lượng Đặc biệt tại Long Thành Biên Hòa, học
lấy bằng Nhảy Dù. Sau khi có bằng, anh Luận đề nghị Tôi cũng đi
học lấy bằng Nhảy Dù để sau này đi làm sĩ quan Truyền Tin Quân
đoàn giải phóng miền Bắc, đang được Tổng thống dự trù thành lập.
Tôi nhờ anh Luận giới thiệu với Lực lượng Đặc biệt xin học, nhưng
không được. Tôi phải sang Lữ Đoàn Nhảy Dù gặp Trung tá Cao văn
Viên (được Tổng thống Diệm đưa từ Võ phòng Tổng thống phủ về
làm Lữ Đoàn trưởng thay Đại tá Nguyễn Chánh Thi đảo chánh hụt đi
lưu vong hồi 11 tháng 11 năm 1960) để thăm dò ý kiến, trước
khi nộp đơn xin theo học khóa Nhảy Dù.
Tôi quen ông Viên tại Bộ Quốc phòng từ
giữa năm 1951. Lúc đó Tôi mới du học Pháp hồi hương làm việc tại
văn phòng Đổng lý Bộ Quốc phòng, sau lại chuyển sang làm việc
dưới quyền Trung tá Lê văn Tỵ Tham mưu trưởng Biệt bộ Bộ Quốc
phòng. Ông Viên cũng vừa từ Quân đội Liên hiệp Pháp chuyển sang
được thăng lên cấp trung úy, làm Phó trưởng Phòng Hành chánh Nha
Đổng lý Bộ Quốc phòng. Cùng một lứa tuổi, lại cùng mang cấp bậc
ngang nhau, đang sống độc thân giữa nơi Sài Gòn hoa lệ, chúng tôi
trở thành thân quen thường giắt nhau đi giải trí cuối tuần, như
coi hát bóng, ăn sáng tại nhà hàng “Brô đa” trên đường
Catinat, rất quen thuộc với dân sành điệu tại Sài Gòn lúc bấy
giờ.
Trung tá
Cao văn Viên đồng ý cho Tôi xin tham dự khóa học Nhảy Dù của Lữ
Đoàn, nhưng Tôi phải nộp đơn xin chuyển qua hệ thống quân giai
đến Tổng Cục Quân huấn Bộ Tổng Tham mưu cứu xét quyết định.
Đơn xin của Tôi được chấp thuận, cho
theo học khóa căn bản Nhảy Dù (hình như Khóa 40) tại
Trại Hoàng Hoa Thám của Lữ Đoàn Nhảy Dù vào khoảng tháng 10 năm
1961. Sau thời gian một tháng theo học, qua tất cả các giai đoạn
rèn luyện cam go giầm mưa dãi nắng cực nhọc dưới đất và trên
không cùng với các tân binh Nhảy Dù thuần túy, Tôi được Chỉ huy
trưởng Trung tâm chấm cho tốt nghiệp. Đích thân Trung tá Cao văn
Viên Lữ Đoàn trưởng gắn cấp bằng Nhảy Dù lên ngực áo phải của Tôi
và các bạn cùng học, trong một buổi lễ mãn khóa rất đơn giản
nhưng trang trọng giữa trời, dưới cảnh mưa rơi lất phất đủ ướt áo
quần, tại vũ đình trường của Trung tâm huấn luyện Nhảy Dù bao
quanh bởi những “chuồng cu” và “giàn dây tử thần”.
Hoạt cảnh những ngày tập luyện của Tôi, dưới đất cũng như nhảy từ
phi cơ xuống bãi Củ Chi (6 “saut” ngày và 1 “saut”
đêm), đều được anh Thiếu úy Nhuận phụ trách phòng
văn hóa của Cục Truyền Tin đi theo ghi nhận vào phim ảnh kỷ niệm.
Các tài liệu thân thương quý giá này, đã mất hết sau ngày
30-4-1975 Việt Cộng Bắc Việt xâm lăng miền nam Việt Nam. Các anh
Luận, Trung, và Tôi rất hãnh diện là những sĩ quan Bộ binh không
thuộc Binh chủng Nhảy Dù hay Lực lượng Đặc biệt mà lại có bằng
Nhảy Dù.
Mấy
vị tướng trẻ, trong đó có Tướng Tôn Thất Đính (tốt nghiệp
cùng khóa sĩ quan với Tôi hồi tháng 6 năm 1949) nghe Tổng
thống định lập Quân đoàn Giải phóng Bắc Việt, cũng xin học lấy
bằng Nhảy Dù để hy vọng được chọn làm Quân đoàn trưởng. Quý vị
này được huấn luyện theo một chương trình đặc biệt riêng, và các
“saut” nhảy từ phi cơ ra đáp xuống nước giữa dòng sông
Biên Hòa, có xuồng phao chờ vớt lên thay vì đáp xuống đất như
chúng tôi. Tướng Đính còn cho cả Trung úy Nghệ, sĩ quan tùy viên
của ông ấy theo học cùng một khóa Nhảy Dù với Tôi. Nhưng tiếc
thay, đồng minh Hoa Kỳ không chấp nhận viện trợ, nên dự án kế
hoạch thành lập Quân đoàn giải phóng Hà Nội này của Tổng thống
Diệm không bao giờ thành sự thật. Do đó, tấm bằng Nhảy Dù lãnh
được chỉ để đeo chơi làm đẹp thêm cho bộ quân phục vậy thôi.
Nhưng có tấm bằng Nhảy Dù gắn trên ngực áo, đi đâu gặp các cố vấn
Hoa Kỳ cũng thấy họ nhìn mình với ánh mắt có vẻ nể vì hơn người
khác.
Mọi việc
nước, việc nhà, cứ phẳng lặng an bình tiếp tục nối đuôi nhau trôi
theo ngày tháng. Để cho tinh thần được thơ thới yêu đời sau cả
ngày làm việc mệt óc, anh em sĩ quan Cục Truyền Tin lập thành các
toán bóng chuyền và bóng rổ, rượt đấu với nhau mỗi buổi chiều kể
từ sau giờ làm việc lúc 4 giờ, cho tới lúc quáng gà không nhìn
thấy rõ nữa mới nghỉ. Anh Cục trưởng Võ Đại Khôi và Tôi cũng tham
gia vui chơi bóng chuyền với anh em, nhưng bao giờ chúng tôi cũng
bị buộc đứng trong các toán đối nghịch nhau. Riêng anh Luận thì
không bao giờ tham dự, không biết vì anh ấy không thích hoạt động
các môn thể thao, hay vì quá bận rộn với công việc, vừa làm Tham
mưu trưởng của Cục Truyền Tin, vừa làm Tiểu đoàn trưởng Truyền
Tin Bộ Tổng Tham mưu, lại còn hoạt động trong đảng Cần Lao nữa.
Từ ngày sát nhập Bộ Chỉ huy Viễn Thông
và Sở Vật liệu Truyền Tin đổi thành Cục Truyền Tin, thì huy hiệu
Binh chủng cũng thay đổi thành CÂY KIẾM VÀ 3 VÒNG QUỸ ĐẠO ĐIỆN
TỬ, thay cho biểu tượng CON CHIM BỒ CÂU ĐEO BÓ ĐUỐC TRÊN LƯNG có
từ thời anh Nguyễn Khương làm Chỉ huy trưởng Binh chủng Truyền
Tin. Nhờ tài ngoại giao của anh Cục trưởng Võ Đại Khôi, Nha Công
thự tạo tác Sài Gòn cấp vật liệu để dân Truyền Tin tự xây cất đài
kỷ niệm Huy hiệu Binh chủng và 2 sân Bóng rổ và Bóng chuyển, làm
cho vườn hoa nằm giữa 2 dãy nhà dành cho Cục Truyền Tin trong Bộ
Tổng Tham mưu trở nên khoáng đạt nổi bật đẹp trội hơn hẳn các
Binh chủng khác. Đã có lần Bộ Chỉ huy Tổng hành dinh Tổng Tham
mưu mượn địa điểm này, để tổ chức trận đấu chung kết bóng chuyền
tranh giải giữa các đội banh thuộc các Phòng Sở trong Bộ Tổng
Tham mưu nhân dịp kỷ niệm Quốc khánh 26 tháng 10, và phát các
giải thưởng thi đấu khác về thể thao, dưới sự chủ tọa của Tướng
Trần văn Đôn Quyền Tổng Tham mưu trưởng và Tướng Trần Thiện Khiêm
Tham mưu trưởng Liên quân.
Cục Truyền Tin ra đời thì Bộ Chỉ huy
Viễn Thông Bộ Tổng Tham mưu không còn, nên phải thành lập Phòng 6
thay thế trong thành phần của Bộ Tổng Tham mưu, và các Bộ Chỉ huy
Viễn Thông Quân khu cũng phải biến cải thành các Phòng 6. Cục
Truyền Tin được giao phó việc nghiên cứu đề nghị tổ chức cải hóa
này, nên anh Khôi đã đem anh Nguyễn Tài Lâm về phối hợp với một
nhóm anh em đang làm việc tại Cục thực hiện. Tôi tiếp tục nhiệm
vụ đi thanh tra kỹ thuật các đơn vị Truyền Tin, theo lịch trình
thường niên đã ấn định từ trước. Tháng nào cũng phải đi khoảng
mươi ngày.
Một
hôm vào khoảng cuối Đệ Tam Tam cá nguyệt năm 1962, trước khi dẫn
đoàn Thanh tra đi Nha trang, anh Tham mưu trưởng Đỗ Như Luận vào
gặp Tôi thủ thỉ rằng: “Nếu có ai đề nghị Thiếu tá đi du học
thì đừng chấp nhận, vì trong nội bộ Binh chủng đang gặp nhiều
chuyện quan trọng, nếu Thiếu tá đi người khác về thay sẽ làm hư
hết mọi việc.” Tôi trả lời: “Nếu sự có mặt của Tôi cần
cho lợi ích chung của Binh chủng, thì Tôi đồng ý thực hiện lời đề
nghị của anh.” Thế rồi, trong khi đang dẫn đoàn Thanh tra
làm việc tại Nha Trang, tự nhiên thấy anh Trung úy Chu Xuân Viên
từ Sài Gòn ra gặp Tôi trình bày: “Trung tá Cục trưởng muốn
hỏi ý kiến Thiếu tá có muốn đi học Khóa sĩ quan Cao cấp Truyền
Tin tại Hoa Kỳ vào mùa Thu này, thì sẽ làm mọi thủ tục cần thiết
để Thiếu tá lên đường ngay cho kịp.” Sau giây lát suy nghĩ,
Tôi trả lời: “Anh nói lại giùm là lúc này vợ của Tôi đang
mang bầu người con thứ 7, lại sắp đến ngày sanh nên Tôi chưa muốn
đi xa, để ở nhà lo cho việc sanh nở được suôn sẻ yên tâm rồi mới
tính truyện đi du học sau.”
Ít lâu sau, trong khi mọi người đang
làm việc, bỗng thấy An ninh đến nơi làm việc của nhóm nghiên cứu
việc thành lập Phòng 6 do anh Nguyễn Tài Lâm làm trưởng ban, bắt
anh Trung úy Nguyễn văn Thông dẫn đi. Sau đó lại có tin anh Trung
úy Nguyễn Kim Phượng trước kia làm thông dịch viên tại Trường
Truyền Tin Fort Monmouth, mãn hạn về làm huấn luyện ở Trường
truyền Tin Thủ Đức, không được bao lâu lại được đưa về làm việc
tại Trường Sinh ngữ Quân đội trong Bộ Tổng Tham mưu, cũng bị bắt.
Tin tức phao đồn rằng 2 người này là Cán binh Việt Cộng cài vào
nằm vùng trong Binh chủng Truyền Tin từ nhiều năm trước, nay mới
bị bắt. Thế là anh Khôi chẳng may mắc nạn, bị thuyên chuyển ra
khỏi Binh chủng. Trung tá Khổng văn Tuyển được đưa về thay thế
anh Khôi, và Thiếu tá Tạ Thái Bình được biệt phái sang Bộ Nội vụ
làm Giám đốc Nha Viễn Thông thay anh Tuyển. Lúc đó, Tôi mới hiểu
ra tại sao anh Luận đề nghị Tôi đừng đi du học, và tại sao trước
kia tại Fort Monmouth đêm đêm 2 anh Thông và Phượng lại chụp vào
phim ảnh những trang sách các tài liệu kỹ thuật về máy móc Truyền
Tin (Tôi đã kể tỉ mỉ trong một đoạn trước).
Từ cuối năm 1960 qua năm 1963, nhiều
rắc rối chính trị xảy ra tại Sài Gòn và trên toàn miền Nam Việt
Nam. Hoa Kỳ áp lực Tổng thống Diệm phải cải cách chính trị, bằng
vụ đảo chính của nhóm Nguyễn Chánh Thi, Vương văn Đông ngày 11
tháng 11 năm 1960. Đến ngày 27-2-1962, hai phi công Quân lực Việt
Nam Cộng Hòa Nguyễn văn Cử và Phạm Phú Quốc thả bom Dinh Độc Lập.
Ngày 7-5-1963 tại Huế, Cảnh sát theo lệnh của Giám mục Ngô Đình
Thục đi các Chùa thông báo cấm treo cờ Phật giáo mừng ngày Phật
Đản, nên ngày hôm sau Phật tử và Tăng Ni tập họp chống đối trước
Đài phát thanh Huế. Nhóm thanh niên Ki-tô giáo đập phá Lễ Phật
Đài bị thanh niên học sinh Phật tử phản công, nên Thiếu tá Đặng
Sĩ dùng Cảnh sát, Quân đội và xe Thiết giáp phối hợp đàn áp, 9
người chết và 14 bị thương. Cuộc tranh đấu bùng nổ lớn tràn vào
Đà Nẵng, và lần lần qua các Tỉnh miền Trung vào đến tận Thủ đô
Sài Gòn. Ngày 21-5-1963, 600 tu sĩ biểu tình và đi diễn hành từ
Chùa Ấn Quang đến Chùa Xá Lợi giữa thủ đô Sài Gòn. Ngày
11-6-1963, Thượng Tọa Thích Quảng Đức tự thiêu trên đường Thái
Lập Thành Sài Gòn. Ngày 16-6-1963 có khoảng 500,000 (năm trăm
ngàn) Phật tử xuống đường biểu tình, tham dự đám táng Thượng
Tọa Thích Quảng Đức bị Cảnh sát đàn áp. Vào ngày 30-6-1963, hàng
ngàn Thượng Tọa và Ni Cô xuống đường ngồi tuyệt thực phản đối
chính phủ Diệm. Ngày 1-7-1963, sinh viên học sinh biểu tình trước
trụ sở Quốc Hội, yểm trợ cuộc tuyệt thực của Tăng Ni. Ngày
21-8-1963, Cố vấn Ngô Đình Nhu cho lệnh Cảnh sát mặc giả quân
phục tấn công các Chùa triền trên toàn quốc, bắt giữ hàng ngàn
Tăng Ni, gây bất mãn trong dân chúng và dư luận Mỹ cũng cực kỳ
sôi nổi. Lúc 21 giờ 30 ngày 22-8-1963, tân Đại sứ Hoa Kỳ Henry
Cabot Lodge tới Sài Gòn thay thế Đại sứ Nolting. Nhiều tin đồn
việc tiếp xúc ngầm vận động nhóm Tướng Trần văn Đôn, Dương văn
Minh, Trần Thiện Khiêm, và Lê văn Kim làm đảo chánh, được tân Đại
sứ Lodge thúc đẩy mạnh hơn, với sự chấp thuận của Tổng thống Hoa
Kỳ John Fitzgerald Kennedy.
Toàn thể Quân đội bị cấm trại 100%. Anh
Tuyển và Tôi phải hàng đêm ngủ tại văn phòng với mọi người, mặc
dù chúng tôi được cấp cư xá cho gia đình cư ngụ ngay trong Trại
Trần Hưng Đạo. Tối nào anh Tuyển và Tôi cũng cùng các anh Vũ Xuân
Hoài, Đỗ Linh Quang và vài người nữa không nhớ tên, họp nhau giải
trí bằng cờ Domino đến nửa đêm mới ngủ. Anh Đỗ Như Luận thì phải
thường xuyên có mặt ban đêm bên Tiểu đoàn Truyền Tin Bộ Tổng Tham
mưu.
Dãy nhà
dành cho Bộ Chỉ huy Biệt Động quân ở ngay bên các dãy nhà của Cục
Truyền Tin, nên 2 Tướng Tôn Thất Xứng và Phan Xuân Nhuận (Chỉ
huy trưởng, Chỉ huy phó) vốn cùng là bạn tốt nghiệp Khóa 1
Sĩ quan với Tôi, thường điện thoại rủ Tôi ghé văn phòng các ông
ấy chơi buổi tối nói truyện tầm phào. Trong những dịp này các ông
ấy nhắc khéo đến việc tham gia đảo chính, nhưng Tôi e ngại thận
trọng khước từ. Vì Tôi nghĩ, 2 ông ấy từng là những người được
Tổng thống tin dùng, mới giao cho nắm các Đại đơn vị rồi lại
thăng cấp cho lên đến hàng tướng nhanh chóng, thì làm sao các ông
ấy lại có thể tham gia việc mưu toan phản Tổng thống được. Mặc dù
Tôi cũng nghe phong thanh, đang có cuộc âm mưu đảo chánh Tổng
thống Diệm, do một số tướng lãnh cầm đầu.
Thế rồi vào ngày 1 tháng 11 năm 1963,
cuộc đảo chánh đã xảy ra. Tất cả các tướng, các Trưởng phòng Bộ
Tổng Tham mưu, các Chỉ huy trưởng Nha Sở Binh chủng tại Trung
ương đóng tại Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định-Biên Hòa, đều phải đến họp
bất thường dưới quyền Chủ tọa của Tướng Dương văn Minh, tại phòng
ăn lớn trong Câu Lạc Bộ Sĩ quan Bộ Tổng Tham mưu, chớ không họp
tại Trung tâm Hành quân như thường lệ. Trong khi họp, Quân cảnh
thuộc Bộ Chỉ huy Tổng hành Dinh tăng cường canh gác vòng trong
vòng ngoài khắp chung quanh rất cẩn trọng, “nội bất xuất, ngoại
bất nhập” khác hẳn thường lệ. Vào khoảng quá trưa có tin đồn râm
ran, một số không chịu theo phe đảo chánh bị đem giam tại căn
villa ngay bên phải Cổng Một (ngõ ra vào chính của Bộ TTM),
và hình như có người bị giết là Trung tá Lê văn Tung Chỉ huy Lực
lượng Đặc biệt, người thân tín của hai ông Diệm và Nhu.
Khoảng 3 giờ chiều, bỗng dưng anh Tham
mưu trưởng Đỗ Như Luận từ bên Tiểu đoàn chạy vào Cục TT, ra lệnh
Đại úy Phan Duy Du Tham mưu phó thông báo tất cả mọi người phải
ra trước sân tập họp. Anh Du và Tôi đứng trên lan can tầng lầu
nhìn xuống. Anh Luận với vẻ mặt quan trọng căng thẳng, vào phòng
anh Du gỡ khung ảnh Tổng thống Diệm đang treo phía trên cửa, đem
ra hành lang và ném xuống sân vỡ tan tành trước hàng quân, rồi
xuống đứng trước anh em nói gì chúng tôi không nghe được. Anh Du
và Tôi giật mình ngơ ngác im lặng, quay vào trong văn phòng. Anh
Du ngồi vào bàn giấy, Tôi nằm dài trên chiếc ghế bố của anh ấy.
Một lát sau, anh Luận với sự hộ tống của anh Nhuận và mấy người
thân cận khác có cằm súng nơi tay, đi qua chỗ anh Du và Tôi để
vào văn phòng Tham mưu trưởng của anh ấy. Thấy Tôi, anh Luận nói:
“Tình hình rất nghiêm trọng, Trung tá Chỉ huy trưởng đi họp
chưa về, Thiếu tá lo Bộ Chỉ huy để Tôi lo bên Tiểu đoàn.”
Tôi ngỡ ngàng chẳng biết phải làm gì, và cũng ngại chẳng hỏi xem
chuyện gì đang xảy ra. Vì ai cũng biết anh Luận có gốc dựa rất
nặng ký, thân thích ruột của Đại tá Đỗ Mậu Cục trưởng An ninh
Quân đội một tay chân vô cùng thân tín của Cụ và ông Cố vấn trong
chế độ hiện tại.
Có người mở radio nghe tin tức, thấy
đọc bản thông cáo của Hội đồng Cách mạng, rồi lần lượt hết Tư
lệnh này đến Tư lệnh kia, Chỉ huy trưởng Binh chủng này đến Giám
đốc Nha Sở khác, đọc lời tuyên ngôn nhiệt liệt ủng hộ Hội đồng
Tướng lãnh Cách mạng lật đổ chế độ gia đình trị của Diệm-Nhu...
Trong hoàn cảnh gay cấn tột cùng đó, tinh thần mọi người rất căng
thẳng, nên điều khôn ngoan nhất để không mất mạng oan là giữ thái
độ “im lặng là vàng”, và lẳng lặng tuân hành những gì
anh Tham mưu trưởng Đỗ Như Luận truyền đạt, luôn luôn với câu
thòng thật nghiêm trọng: “Theo lệnh trên”.
Khoảng gần trưa ngày 2 tháng 1 năm
1963, nghe có tiếng xe thiết giáp chạy từ Cổng Một vào Trại Trần
Hưng Đạo. Lúc Tôi lái xe về nhà ăn cơm, nhìn thấy chiếc Thiết vận
xa đậu ngay nơi giữa bãi cỏ rộng lớn, phía bên trái đường chính
dẫn tới Cột cờ Tòa nhà chính của Bộ Tổng Tham mưu. Tôi nghĩ rằng
tình hình nghiêm trọng, nên phải có thêm xe Thiết giáp tăng cường
canh phòng Tòa nhà chính vậy thôi. Nhưng sao lại đậu chơ hơ giữa
sân cỏ rộng, thiếu kỹ thuật tác chiến quá! Không ngờ lúc ăn cơm
xong trở lại văn phòng, mới nghe tin là chiếc Thiết vận xa đó chở
xác 2 anh em ông Diệm và Nhu đã bị giết, về trình Hội đồng Tướng
lãnh Cách mạng. Tôi cảm thấy bàng hoàng xúc động mạnh, một làn
khí lạnh chạy dài nơi sống lưng làm sởn gai ốc, máu dồn tê tê mặt
nghẹn ngào không nói được ra lời. Thật là khủng khiếp! Tôi không
ngờ, việc đó lại có thể xảy ra trong hàng ngũ người Việt Quốc gia
Nhân bản.
Đài
phát thanh, đài truyền hình, báo chí tha hồ loan báo tin Cách
mạng 1 tháng 11 thành công. Phe Phật giáo Trí Quang vận động tổ
chức từng đoàn người ra đường đem vòng hoa đi choàng vào cổ các
anh Chiến sĩ đã gan dạ làm xong bổn phận, mà Hội đồng Tướng lãnh
làm đảo chính mong đợi. Nhiều đổi thay trong Quân đội bắt đầu
được thực hiện. Những người có công được ào ạt gắn lon thăng
thưởng. Những người thân tín thuộc phe làm Cách mạng hân hoan đến
nhận lãnh các chức vụ quan trọng, thay thế những người cũ bị coi
là lừng khừng không chịu theo Cách mạng, hoặc trong quá khứ có
liên hệ mật thiết thân thiện với phe ông Diệm ông Nhu, hoặc xưa
nay ngay cổ ngay lưng cứng đầu, chỉ làm đúng nhiệm vụ của người
chiến sĩ phục vụ Quốc gia Dân tộc, không chịu luồn cúi nịnh bợ
bất cứ thế lực nào để cầu danh kiếm lợi.
Tiểu đoàn Truyền Tin Bộ Tổng Tham mưu
được nhiều đoàn thể Phật tử do các Thầy hướng dẫn, đem quà đến ủy
lạo tinh thần quân sĩ. Tất cả các đơn vị thuộc các Binh chủng
khác tại Trung ương Sài Gòn, cũng hân hoan đón tiếp các đoàn thể
Phật tử đến ủy lạo tinh thần, cung cấp thực phẩm quà cáp ăn uống
ê hề mệt nghỉ. Không khí hoan hỉ vinh quang bao trùm tất cả các
đường phố thủ đô Sài Gòn (Hòn ngọc Viễn đông), ồn ào vui
vẻ gắp trăm lần hơn những kỳ Tổng Cục Chiến tranh Chính trị tổ
chức cho Chiến sĩ mừng ngày Quốc Khánh 26 tháng 10 hoặc mừng Tết
Âm lịch hàng năm. Riêng cá nhân Tôi, thì thấp thỏm chờ đợi số
phận hẩm hiu của chu kỳ Đại Hạn mới đang đến với mình.
Thiếu tá Tạ Thái Bình về thay Trung tá
Khổng văn Tuyển làm Cục trưởng Truyền Tin. Anh Tuyển được đưa
sang thay chỗ của anh Bình bên Nha Viễn Thông Bộ Nội vụ. Thiếu tá
Dương Thanh Sơn (em ruột Tướng Dương văn Minh lãnh tụ cầm đầu
cuộc đảo chính) về làm Trưởng Phòng 6 Bộ Tổng Tham mưu. Tôi
nhận Sự vụ lệnh sang trình diện Nha Tồng Thanh tra tại Bộ Quốc
phòng, để chờ lệnh thuyên chuyển đi đơn vị mới ngoài Binh chủng
Truyền Tin.
Với tấm Sụ vụ lệnh trên tay, Tôi lên ngay văn phòng Tham mưu
trưởng Liên quân xin gặp Thiếu tướng Nguyễn văn Thiệu mới vinh
thăng, để trình bày hoàn cảnh của mình. Tướng Thiệu là bạn cùng
tốt nghiệp Khóa 1 Sĩ quan với Tôi hồi tháng 6 năm 1949, anh em
vẫn từng gặp nhau trong những buổi họp bạn cùng khóa nên không xa
lạ gì. Sau khi nghe Tôi trình bày, Tướng Thiệu ôn tồn nói: “Thôi
được, Toi (anh) chịu khó đi học một khóa bên Hoa Kỳ đi. Sau khi
về tình hình ổn định sẽ tính sau,” và Tướng Thiệu nhấc điện
thoại gọi cho Tướng Tôn Thất Xứng (cũng cùng Khóa 1 Sĩ quan
với Tướng Thiệu và Tôi) mới ngồi vào ghế Tổng cục trưởng
Quân huấn sau đảo chính, để đích thân nói về việc lo lắng giúp đỡ
cho Tôi. Rời văn phòng Tướng Thiệu, Tôi đến Tổng Cục Quân huấn
gặp Tướng Xứng. Thấy Tôi, ông mời ngồi và nói: “Hôm trước rủ
Cậu không chịu nghe, thôi bây giờ để Moi (Tôi) bảo tụi nó làm thủ
tục cho Toi (anh) đi học Khóa Command and General Staff ở Fort
Leavenworth ngay nhé!”. Tôi trình bày, tình hình chưa ổn
định, con đông, có đứa mới gần 1 tuổi, vợ sanh xong lần thứ 7 hơi
yếu, nên Tôi cần được ở gần nhà để thường xuyên lo lắng chắc bụng
hơn. Vậy xin Anh cho Tôi theo học Khóa Chỉ huy Tham mưu tại
Trường Đại học Quân sự Đà Lạt thì hơn. Tướng Xứng sốt sắng nói
ngay: “Vậy thì OK, Toi (anh) theo học Khóa 9 Chỉ huy Tham mưu
sẽ khai giảng vào đầu tháng tới này nhé?” Tôi cám ơn nhận
lời ngay, và lái xe ra Bộ Quốc phòng tại số 63 đường Gia Long,
trình diện Đại tá Giám đốc Nha Tổng Thanh tra.
Tình hình Nha Tổng Thanh tra lúc này
chẳng khác nào cái hội chợ ô hợp, gồm những người từng bị thất
sủng dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, nay lại thêm một số
người như Tôi không theo đảo chánh bị loại ra khỏi Binh chủng nằm
chờ lệnh thuyên chuyển đi đơn vị tác chiến, và một vài người từng
bị giải ngũ ngang xương thời Thủ tướng Diệm thanh lọc trẻ trung
hóa Quân đội, nay được tái hồi Quân ngũ chờ đi lãnh công việc
mới. Trong số này, Tôi gặp Đại tá Trương văn Xương nguyên là Tư
lệnh Quân khu 2 tại Huế bị Thủ tướng Diệm cho giải ngũ (hình
như vào năm 1955), nay được Hội đồng Tướng lãnh đảo chánh
thành công (phần lớn từng làm dưới quyền ông ấy tại Bộ Tham
mưu Quân Khu 2 trước kia) cho tái ngũ, cũng tạm vào đây ngồi
chờ thủ tục bổ nhiệm đi nắm chức Giám đốc Tổng Nha Thanh tra Dân
Vệ thay thế Trung tá Trần Thanh Chiêu (người của Tổng thống
Diệm). Sau khi gặp nhau mừng rỡ hàn huyên tâm sự chuyện quá
khứ, chruyện hiện tại, Đại tá Xương hứa chắc là sẽ trình xin Bộ
Tổng Tham mưu bổ nhiệm Tôi về làm Tham mưu trưởng cho ông ngay
khi khóa học mãn. Tôi thở phào nhẹ nhõm, yên tâm đợi lên đường đi
học để được nghỉ dưỡng sức ít tháng tại thắng cảnh thần tiên hạ
giới Đà Lạt, đúng như lời các Cụ thường dậy: “Ăn ở hiền lành
sẽ gặp Quý nhân phù trợ khi hoạn nạn”.
Thế là DUYÊN NỢ của Tôi với Binh chủng
Truyền Tin chấm dứt kể từ ngày đó. Năm 1954, Tôi mang lon Thiếu
tá với 4 vạch kim tuyến vàng trên 2 vai (mẫu cấp hiệu của
Quân đội Pháp) nhập hàng ngũ Binh chủng Truyền Tin, cùng anh
em vận động quần chúng truất phế ông Bảo Đại để Thủ tướng Diệm
trở thành Tổng thống nền Đệ Nhất Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam.
Bạn bè cùng hoạt động với Tôi trong Phong trào Cách mạng Quốc
gia, ai cũng được tưởng thưởng đền bù công lao bằng ít nhất là 3
cấp bậc cao hơn cũ. Riêng Tôi, vẫn mang cấp bậc thiếu tá với một
hoa mai bạc nơi cổ áo (mẫu cấp hiệu của Quân lực Việt Nam
Cộng Hòa) cho đến ngày Tổng thống Diệm bị nhóm đảo chánh
giết, rồi lại bị loại ra khỏi Binh chủng Tịch Tà, chẳng biết vì
lý do gì???
Nhưng nhờ thấm nhuần từ thuở còn thiếu thời lời khuyên của các vị
lão thành kinh nghiệm về cuộc sống qua câu châm ngôn rất triết lý
“BÔN BA CHẲNG QUA THỜI VẬN”, nên Tôi không hề
buồn mà lại vui vì biết rằng cái Duyên Nợ trói buộc mình với
Truyền Tin được chấm dứt từ đây, để cuộc đời bước sang thời vận
mới. Nhờ thế, Tôi đã bình tĩnh tự tin bước vào thời vận mới của
đời binh nghiệp, và kết quả thâu đạt được đã rất khả quan và
thoải mái với những vị trí và môi trường hoạt động mới quan trọng
hơn trong Quân đội và Đất Nước cho đến ngày Quốc Hận 30-4-1975.
Để chấm dứt thiên hồi ký này, xin Quý
Chiến hữu đọc bài thơ Tứ Tuyệt sau đây của anh Bồ Câu già
Nguyễn-Huy Hùng, sau 30-4-1975 đi tù 13 năm rồi mới được cùng bầu
đàn Thê Tử Tôn bỏ quê hương đất tổ Việt Nam đi lưu vong tỵ nạn
cộng sản Việt Nam để tìm cuộc sống Tự do trên đất nước Cờ Hoa,
nay đã trở thành công dân của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
SỐ MỆNH CON NGƯỜI
Nhân Duyên, Sự nghiệp, Mệnh do
trời,
Kèn cựa bon chen cũng thế thôi.
Tích Đức, Tu thân, xây quả Phúc,
Trọn
đời thanh thản sống An Vui.
Viết xong tại thành phố Fountain
Valley, Quận Orange, Tiểu Bang California, ngày 24 Jan. 2005, tức
là ngày Rằm Hạ Nguyên (15 tháng Chạp năm Giáp Thân).
KHIẾT CHÂU Nguyễn-Huy Hùng
Dưới đây là ảnh của Bồ câu Già
Nguyễn-Huy Hùng và Hiền Thê, chụp vào ngày Tết Nguyên Đán Nhâm
Ngọ (12 tháng 2 năm 2002) tại khuôn viên Chùa BÁT NHÃ,
bên đường Sallivan, thành phố Santa Ana, quận Orange, Nam
California, Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Thắng cảnh thiên nhiên Bắc Mỹ châu. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Nguyễn-Huy Hùng chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, August 1, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang