Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Hồi Ký
Chủ đề: QH 30-T4-Đ
Tác giả: Phạm Thành
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
1. Lời Tựa
Sau khi chuyển giao Hộ Tống Hạm Vạn Kiếp
II (HQ14) cho Hải Quân Hoa Kỳ tại Subic Bay năm 1975, gia đình chúng
tôi nhập trại tỵ nạn tại Goam và sau đó được đưa qua lục địa Hoa Kỳ
vào tháng 6 năm 1975 để nhập trại tỵ nạn Indiantown Gap,
Pennsylvania. Đến tháng mười 1975, chúng tôi được xuất trại, về định
cư tại thành phố nhỏ Wilkes Barre thuộc tiểu bang Pennsylvania. Sau
đó, theo công việc làm, chúng tôi dời lên Long Island, New York; và
cuối cùng, chuyển về Annapolis, Maryland. Tôi đã về hưu cách đây ba
năm lúc 71 tuổi, hiện sống với vợ tại Annapolis. Hai con gái của
chúng tôi đã lập gia đình. Chúng tôi có 2 cháu ngoại.
Từ khi đến Hoa Kỳ, nhiều lần nhớ đến anh
em cùng chiến hạm, tôi muốn viết lại vài dòng để làm mối dây liên
lạc và cùng ôn lại quá khứ. Nhưng vì bận bịu với gia đình, học hành,
và việc làm, nên tôi cứ hẹn rày hẹn mai mãi. Cho đến tuần trước, khi
nói chuyện với anh Trần Thanh T, bạn cùng khóa 13 Hải Quân Nha Trang
với tôi, T khuyên tôi nên viết lại một bài ngắn gởi đăng trên Đặc
San của Đại Hội Hải Quân VNCH Toàn Cầu 2017, để chia sẻ với các
chiến hữu Hải Quân VNCH, tôi mới quyết định viết bài này, với mong
ước được ôn lại kỷ niệm cũ và liên lạc với anh em thuộc HQ14, những
chiến hữu đã cùng tôi chiến đấu bảo vệ tự do, chia sẻ vui buồn, hiểm
nguy, nhọc nhằn gian khổ, nhất là trong những tháng cuối của cuộc
chiến. Tôi xin cầu mong cho anh em và gia đình ở ngoại quốc và trong
nước luôn được mọi sự bình an.
Vì tôi còn giữ được quyển nhật ký riêng
tôi viết trong thời gian ấy, nên ngày tháng và các chi tiết quan
trọng trong bài này đều chính xác. Ngoại trừ một số ít chi tiết dựa
trên trí nhớ, có thể sai lạc chút ít. Mong anh em HQ14 đính chính
giùm. Tôi rất mong được liên lạc và tiếp nhận ý kiến xây dựng của
anh em. Email của tôi:
thanh.pham.navy@gmail.com
2. HQ14 vào sửa chữa Tiểu Kỳ
Sau chuyến công tác dài trên ba tháng
đầy sóng gió, HQ14 trở về Sài Gòn ngày 13 tháng 3 để vào Tiểu Kỳ,
Thủy thủ đoàn ai cũng vui mừng vì được gần nhà hơn một tháng.
Riêng tôi, đây cũng là dịp được gần vợ con. Chúng tôi cưới nhau
đầu nằm 1973. Đến nay, con gái đầu lòng của chúng tôi đã sắp tròn
một năm. Tôi cần thời gian để làm quen với nó. Hồi nó mới sanh
ra, tôi còn làm hạm trưởng HQ404, sau đó được thuyên chuyển qua
HQ14. Từ đó đến nay, chiến hạm tôi đã hải hành dài hạn liên miên,
cứ mỗi lần về bến, nó lại đứng xa xa nhìn tôi như người xa lạ.
Tôi cảm thấy thấm thía với cuộc đời Hải Quân và cũng thông cảm
hơn với nhân viên của tôi.
Theo thường lệ, khi chiến hạm về Sài
Gòn, tôi cho nhân viên làm việc đến 12 giờ trưa thì hai phần ba
được đi bờ cho đến sáng hôm sau. Nhưng trong thời gian Tiểu Kỳ,
mọi người phải làm việc đến bốn giờ chiều. Ngoài công việc liên
lạc Hải Quân Công Xưởng liên quan đến việc sửa chữa máy chánh,
máy điện, hệ thống phòng tai, điện tử, truyền tin... Thủy thủ
đoàn còn phải lo lãnh đạn hải pháo tại Thành Tuy Hạ, lãnh tiếp
liệu tồn kho, bảo trì chiến hạm hằng ngày, huấn luyện các nhiệm
sở Phòng Tai, Tác chiến...
Sau khi sửa chữa Tiểu Kỳ hoàn tất vào
ngày 24 tháng 2, Trường Chiến Hạm bắt đầu chương trình Huấn Luyện
HQ14 tại bến, và sau đó, tại Vũng Tàu, cho đến ngày 8 tháng 3.
3. Chuyến Công Tác Vùng I Duyên
Hải
Sáng ngày 21 tháng 3, chỉ vài ngày sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu ra lệnh Triệt Thoái Quân Đội khỏi Vùng Cao Nguyên, tôi lên
BTL/HQ/P3 nhận lệnh công tác đi bảo vệ dàn khoan Ocean
Prospector, cách Côn Sơn 188 hải lý về phía đông nam. Nhưng sau
đó, trên đường đi, vào lúc 3 giờ 30 chiều, tôi lại nhận được lệnh
đổi hướng đi công tác V1ZH. Biển tương đối êm và chúng tôi có một
chuyến hải hành thoải mái. Ngồi trên đài chỉ huy, ngắm sao trời
và những ngọn đèn le lói từ các ghe đánh cá nhấp nhô trên sóng
nước, tôi lại suy nghĩ miên man đến cuộc chiến, không biết mai
đây số phận của Miền Nam sẽ đi về đâu. Tôi tự nhủ, dù sao tôi và
thủy thủ đoàn vẫn phải giữ vững tinh thần chiến đấu cho đến phút
cuối cùng. Chúng tôi vẫn còn hy vọng!
Mãi đến 6 giờ chiều ngày 23, HQ14 mới
đến BCH/V1ZH. Tôi cặp cầu Tiên Sa và lên trình diện TL/V1ZH, Phó
Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại. Tôi được lệnh khởi hành ngay trong đêm
đến khu vực hành quân 1B1, ngoài cửa Thuận An, để yểm trợ Bộ Binh
rút quân về nam, qua đường biển. Đô Đốc Thoại có hỏi tôi “Hạm Phó
của anh có đủ khả năng chỉ huy chiến hạm khi có bất trắc gì xảy
ra cho anh không?” Tôi mạnh dạn trả lời “Thưa Đô Đốc, tôi đã huấn
luyện Hạm Phó đầy đủ”. Đô Đốc Thoại nói thêm “Khi ra đến vùng
hoạt động, anh chờ khi có lệnh của tôi thì tách ra, thành lập một
phân đội riêng, và tiến ra gần vĩ tuyến 17. Phân đội của anh có
nhiệm vụ ngăn chặn và tiêu diệt các chiến hạm, chiến đỉnh Bắc
Việt khi chúng tiến vào Nam”. Tôi chào Đô Đốc Thoại và về chiến
hạm ngay. Biết rằng tình thế đã đến giai đoạn nguy ngập.
3.1. HQ14 bị Không Quân
VNCH bắn
HQ14 đến vùng hành quân ngoài cửa Thuận
An lúc 2 giờ sáng ngày 24. Đến 9 giờ sáng, tôi bắt đầu cho chiến
hạm đi theo đội hình dưới sự điều khiển của HQ07. HQ08 cũng đã
đến vùng và nhập đội hình. Khoảng trưa, tôi quan sát thấy Bộ Binh
hành quân bên trong, chắc cũng để yểm trợ rút quân. Tôi không có
tần số để liên lạc với Bộ Binh. Lúc này HQ709 đã được lịnh rời
vùng hành quân, trở về Tiên Sa. Như vậy, trong vùng chỉ còn HQ07,
HQ08, HQ609, và HQ14.
Vào khoảng sau 4 giờ chiều, tôi được
lệnh tách ra khỏi đội hình để thành lập phân đội riêng, và tiến
ra vĩ tuyến 17. Tôi lên đài chỉ huy để đích thân điều khiển chiến
hạm. Nhưng trước khi tôi có thì giờ thành lập phân đội gồm HQ14
và HQ609, tôi nghe hai tiếng nổ thật chát chúa như tiếng bom.
Nước tung tóe gần trước mũi chiến hạm. Nhìn lên bầu trời trắng
đục, đầy mây trắng bao phủ, tôi thấy hai chiếc máy bay A37 mà tôi
biết chắc là của Không Quân VNCH, vì sáng nay có vài máy bay loại
này bay lượn bên trong, yểm trợ hành quân của bộ binh. Sau này,
khi có dịp gặp lại vài nhân viên của HQ07 tại Pennsylvania năm
2016, họ cũng xác nhận với tôi như thế. Hai chiếc máy bay này lợi
dụng thời tiết, bay cao trên mây để tránh bị phát giác và bất
thần nhào xuống, thả 2 quả bom, nhắm chiến hạm tôi nhưng trật.
Chúng bay vút đi. Chiến hạm không hư hại.
Vì tình trạng an ninh trong vùng hành
quân này không mấy khẩn trương, tôi chỉ cho 1/3 nhân viên ứng
chiến. Tôi cho gọi nhiệm sở tác chiến 100/100 và không ra lịnh
bắn trả, vì tôi ước lượng, nếu bắn hạ được một hay cả 2 chiếc A37
này thì chắc chắn bộ chỉ huy Không Quân từ Đà Nẵng sẽ nghĩ HQ14
chắc chắn là chiến hạm địch và sẽ gởi ra một phi đội phản lực F5
để bắn chìm HQ14. Tôi cho chiến hạm chạy zic-zac và ra lịnh thay
lá cờ nhỏ trên cột cờ chính bằng lá cờ lớn nhất cho dễ thấy từ
xa. Nhưng bất thần, chỉ vài phút sau, một lần nữa, hai chiếc máy
bay này vòng trở lại, ném thêm 2 quả bom nữa. Lần này, các quả
bom cũng không trúng chiến hạm, chỉ rơi trên biển, bên hữu hạm
gần phòng ăn của đoàn viên. Nhưng các mảnh bom bay tung tóe, đâm
thủng rất nhiểu lỗ bên hữu hạm. Rủi thay, đúng lúc này, nhân viên
đang chạy lên nhiệm sở tác chiến, ngang phòng ăn, vì vậy tổng số
nhân viên bị thương lên thật cao. Thêm vào đó, 4 nhân viên ở các
nhiệm sở 40ly, 20ly, và hầm máy bị tử trận. Sau đây là tổng kết
tổn thất của chiến hạm:
Tử trận (5): TSI/VC Bùi Đức Hùng
(40ly), TS/CK Trần Văn Trung (hầm máy), HIS/VC Đặng Hữu Thành
(20ly), TT/TS Lưu Chảy (40ly), HIS/QK Lê Văn Quí. Theo nhật ký,
tôi ghi 4 tử trận, nhưng lại liệt kê tên 5 người. Điều này cần
kiểm chứng.
Bị
thương nặng (10): TT/TS Nguyễn Hữu Trí, TT/TS Nguyễn Văn Hinh,
HS/QK Nguyễn Xuân Quí, HS1/KT Nguyễn Văn Hòa, HS1/GL Cao Ngọc Bé,
HS1/PT Hồ Thanh Siêng, TS/VC Nguyễn Văn Hùng, TS/GL Nguyễn Văn
Vĩnh, TT1/TX Hồ Văn Sáu.
Bị thương nhẹ (10): ThS/VC Nguyễn Văn
Thủ, TS1/VC Phạm Văn Túc, TS1/TP Trần Thiểu, TS/TV Nguyễn Văn
Bình, HS1/CK Lê Văn Hùng, HS1/TP Đoàn Văn Ba, TT/TS Nguyễn Hữu
Phúc, TT/TS Trần Văn Minh, TT/TS Hoàng Thanh Long, ThS/KT Trần
Đình Phương.
Tổn thất vật thể: Cơ khí, Điện khí, Vỏ tàu, Phòng tai, Vũ khí, Vô
tuyến, và vật dụng linh tinh. Máy điện hư. Hệ thống tay lái điện
bất khiển dụng. Hệ thống vô tuyến bất khiển dụng, không liên lạc
được với BTL/HQ/V1ZH, phải dùng máy truyền tin cầm tay để cố gắng
liên lạc với các chiến hạm trong vùng hành quân. Y Tá và thủy thủ
đoàn đã nỗ lực tối đa để săn sóc và cứu chữa các nhân viên bị
thương, sửa chữa máy điện, hệ thống truyền tin... Cuối cùng HQ07
đã nghe được và đến phụ giúp tải thương, nhưng vì biển động, phải
tách ra và chỉ có một số nhân viên tử thương và bị thương được
đưa qua HQ07 để chuyển về Bệnh Viện Duy Tân Nẵng.
Sau khi máy điện và hệ thống truyền
thanh được sửa chữa xong, HQ14 liên lạc được với BTL/HQ/V1ZH để
báo cáo và xin về cặp cầu Tiên Sa để tải thương và sửa chữa. HQ14
về cặp cầu sáng sớm ngày 25. Các nhân viên bị thương được chở qua
bệnh viện quân đội Duy Tân bên Đà Nẵng để điều trị. CCYTTV/HQ bắt
đầu cấp tốc sửa chữa để chiến hạm có thể chạy về Sài Gòn. Tối
ngày 26, tôi được lệnh chở gia đình Hải Quân về Sài Gòn. Ngay sau
đó, chiến hạm bắt đầu tiếp nhận gia đình quân nhân cho đến sáng
hôm sau.
Nghĩ
rằng Đà Nẵng sẽ thất thủ trong một ngày rất gần, tôi mượn xe của
CCYTTV/HQ, chạy qua bệnh viện Duy Tân xin cho tất cả nhân viên
của tôi được xuất viện và cuối cùng, tất cả đều được chuyển về
bệnh xá CCYTTV/HQ, ngoại trừ một nhân viên giám lộ bị gẫy mất một
cánh tay, phải ở lại thêm để điều trị. Tôi rất buồn vì tôi muốn,
khi chiến hạm khởi hành, tôi sẽ đem tất cả các nhân viên của tôi
về Bệnh Xá HQ Bạch Đằng (Sài Gòn). Đi ngang qua thành phố Đà
Nẵng, tôi thấy người đi lố nhố đầy đường. Không biết họ đi đâu,
đi tìm đường về Sài Gòn? Hay là Việt Cộng đã trà trộn vào dân?
Tuy không có bạo động, tình thế có vẻ hỗn loạn. Tôi biết chắc Đà
Nẵng sẽ mất nay mai.
Sau này nghĩ lại, tôi vẫn ân hận mãi.
Biết đâu, nếu tôi cho bắn hạ hai chiếc máy bay khi chúng trở lại
lần thứ nhì thì thiệt hại nhân sự sẽ giảm thiểu đi không? Có thể
F5 sẽ không ra? Nhưng tôi lại tự an ủi, nếu F5 ra, bắn hỏa tiễn,
thì thiệt hại sẽ lớn hơn nhiều, có thể tôi và phần lớn nhân viên
đã không còn có mặt trên quả đất này nữa. Dù sao, đây là một biến
cố đau lòng nhất trong đời chỉ huy của tôi. Nó sẽ đeo đẳng tôi
suốt đời. Xin linh hồn của các nhân viên chiến hạm đã hy sinh vì
tổ quốc trong biến cố này hiểu cho tôi, và nếu tôi lầm lỗi, xin
được tha thứ. Với các nhân viên bị thương, tôi cũng xin lỗi và
mong có dịp gặp lại để cùng nhau tâm sự.
Vào năm 2007, tôi có dịp đọc quyển hồi
ký “Can Trường Trong Chiến Bại” của Đô Đốc Thoại. Ông có đề cập
đến việc HQ14 bị bắn, nhưng không thể xác nhận ai đã bắn hoặc ai
đã ra lệnh.
3.2 Di Tản Gia Đình HQ từ Đà Nẵng về Vũng Tàu
Sáng ngày 30 tháng 3, một số gia đình
Hải Quân đã lên tàu nhưng chưa đầy đủ. Tôi được lệnh đem chiến
hạm ra neo trong vũng Tiên Sa, chờ tiếp nhận thêm cho đủ khoảng
600 người. Sau khi thả neo, tôi đi quanh chiến hạm vài vòng để
biết tình trạng của các gia đình quá giang, rồi lên đài chỉ huy
ngồi quan sát. Dãy núi Tiên Sa sừng sững trước mặt. Trong nhiều
năm qua, tôi đã ra vào hải cảng này nhiều lần, đã thưởng thức vẻ
đẹp thiên nhiên thơ mộng, hòa lẫn với mây trời sóng nước, mà tâm
hồn thấy thoải mái, dù chỉ trong chốc lát, trước khi con tàu ra
khơi, lướt sóng đại dương! Nhưng hôm nay, tôi cảm thấy buồn thấm
thía, linh cảm một mất mát lớn sắp xảy ra. Tôi sẽ không bao giờ
có dịp đem con tàu trở lại vùng biển này nữa!
Tôi trở lại thực tế! Một số ghe nhỏ
đang chèo đến gần lái của chiến hạm và nhân viên canh gác ra hiệu
cho họ ngưng lại, chờ lệnh của tôi. Tôi đi ra sân sau chiến hạm,
nhìn những khuôn mặt hốt hoảng của người lớn lẫn trẻ con, tôi
không cầm lòng được! Họ chỉ là những người dân, không thuộc gia
đình Hải Quân, đang hớt hải tìm đường chạy trốn cộng sản. Trên
tàu không ai quen biết với họ. Tôi ra chỉ thị cho sĩ quan và nhân
viên áp dụng các tiêu lệnh an ninh trước khi cho họ lên tàu.
Gia đình Hải Quân tiếp tục lên tàu. Đến
chiều, HQ14 khởi hành về Sài Gòn. Chiến hạm về đến Vũng Tàu chiều
31, tháng 3. Theo lịnh chuyên chở, tôi cho các gia đình HQ và
khách quá giang lên Vũng Tàu, trước khi chiến hạm tiếp tục về Sài
Gòn. HQ14 về đến Bến Bạch Đằng ngày 1 tháng 4 và cặp tại cầu E
trong HQCX để tải thương và sửa chữa. Chiếu theo tập hồi ký “Can
Trường Trong Chiến Bại” của Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, cũng
trong ngày này, Đà Nẵng đã bỏ ngõ. Đô Đốc Thoại và tất cả lực
lượng yểm trợ V1ZH đã rời vùng này, trực chỉ Qui Nhơn dưới sự
điều động của BTL/HQ. Sau đó, Phó Đề Đốc Thoại được chỉ định làm
Chỉ Huy Trưởng Chiến Thuât (OTC) để yểm trợ Phó Đề Đốc Hoàng Cơ
Minh đang đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Chiến Trường Qui Nhơn kiêm
Tổng Trấn Qui Nhơn.
Trong thời gian này, tôi có dịp gần
nhà. Con gái tôi vừa được một năm và đã nhận ra tôi. Chiều chiều,
tôi bế nó đi quanh chung cư Phạm Thế Hiển. Nó mở mắt lớn, tò mò
nhìn khung cảnh chung quanh. Tôi thấy thương nó quá và, trong
chốc lát, tạm quên thế sự đang biến chuyển từng giây phút. Sinh
hoạt quanh chợ Phạm Thế Hiển vẫn bình thường, nhưng nhìn ánh mắt
của phần lớn các bà, các cô bán hàng, tôi thấy những nét ưu tư
thật khó tả. Tôi nghe đồn, nhiều gia đình đang tìm đường chạy.
Có một đêm, sau bữa ăn tối, hai vợ
chồng tôi ngồi, bàn bạc với nhau về tình hình cuộc chiến. Tôi
cũng không biết quyết định của các “ông lớn” trong Hải Quân như
thế nào. Vợ tôi hỏi “Em và con có thể lên tàu đi công tác với anh
không?” Tôi ngần ngừ một lúc rồi lấy hết can đảm đáp “Chắc không
được đâu em. Tàu anh là tàu chiến. Vả lại, nếu anh cho em và con
đi thì anh phải cho gia đình tất cả thủy thủ đoàn đi. Điều này
chắc không được”. Vợ tôi buồn buồn nói “Thôi, anh cứ yên lòng mà
đi. Ở lại nhà, em sẽ lo săn sóc con. May ra Cậu (bố của vợ tôi)
có thể tìm phương tiện máy bay cho gia đình đi, vì Cậu làm cho cơ
quan Mỹ ở Sài Gòn. Nếu khi mất nước, anh thấy an toàn để về đón
gia đình, thì anh về. Nếu không, anh cứ đi ra ngoại quốc và tìm
cách liên lạc với em sau”. Tôi thấy cảm động quá, nghẹn ngào
thương cho sự hy sinh và phục cho lòng can đảm của vợ tôi. Tôi
muốn ôm vợ tôi vào lòng để an ủi. Nhưng biết nói gì đây trong
hoàn cảnh bất định này? Tôi chỉ khẽ gật đầu, ngồi yên lặng, cố
nén hai dòng lệ muốn trào ra. Rồi quay qua nhìn con gái chúng tôi
đang ngủ say. Nhiều lần trước, khi nhìn nó ngủ, tôi thường mơ đến
cảnh thanh bình sau chiến tranh, và Miền Nam chiến thắng. Vợ
chồng tôi sẽ nắm tay nó, dẫn đi Sở Thú, đi về Huế, về Hải Phòng
thăm quê nội ngoại... Nhưng bây giờ, giấc mơ đó hầu như đã tiêu
tan, chỉ còn cầu mong có một phép mầu xảy ra để quân nhân VNCH
đâp tan được âm mưu xâm lược của CSBV. Nếu không, xin cho tất cả
sẽ được an toàn và có dịp đoàn tụ ở một nơi nào đó, trên một xứ
tự do. Nơi ấy có thanh bình, công lý, và dân chủ.
4. Công Tác Vùng III Duyên Hải
Trong lúc HQCX tiến hành việc sửa chữa
vỏ tàu, và các hệ thống đã hư hỏng trong biến cố vừa qua tại
V1ZH, nhân viên chiến hạm lo bảo trì súng phòng không, hệ thống
máy chánh, hải pháo, radar, truyền tin, phòng tai, vận chuyển...
và xin tiếp tế nhiên liệu, nước ngọt... để chuẩn bị cho chuyến
công tác sắp đến. Tôi chỉ định Thiếu úy T lo hồ sơ tử tuất cho
các nhân viên đã tử trận, lo chuyển giao di sản, và đón tiếp thân
nhân. Tôi cho gởi TT/TS Nguyễn Văn Hùng nhập TYV Cộng Hòa. Ngày 2
tháng 4, tôi chỉ định Hạm Phó, SQ/CTCT, và Y Tá lên Bệnh viện HQ
Bạch Đằng đón bà Trần Nguơn Phiêu đến thăm thương binh. Tôi định
sẽ đến nếu không bận. Nếu bận, tôi sẽ đến thăm anh em ngày hôm
sau. Tôi cho thao dợt Nhiệm Sở Phòng Không mỗi ngày lúc 3 giờ
chiều.
Ngày 8
tháng 4, lúc 8:30 sáng, một chiếc F5 của Không Quân bắn Dinh Độc
Lập. Hải Quân chỉ định các chiến hạm sau ứng chiến phòng không:
HQ5, HQ17, HQ229, HQ329, HQ606, và HQ231.
Lúc này cộng sản Bắc Việt (CSBV) đã
tràn vào Bình Định, Qui Nhơn, và Phú Yên. Bộ Binh từ Tuyên Đức
rút về Đà Lạt, sau đó Đà Lạt mất. Quân đội ta vẫn còn trấn giữ
các tỉnh từ Nha Trang trở vào. Tôi không nghe đồn có một mật ước
nào cả giữa Mỹ và Trung Cộng. Trong lúc này, Miền Nam vẫn giữ lập
trường “Không cắt đất, không chấp nhận liên hiệp”. Hải Quân vẫn
còn giữ vững V3ZH, V4ZH, và V4 Sông Ngòi, tuy nhiên tất cả đều
đang trong tình trạng báo động.
Hiện tại, thủy thủ đoàn HQ14 gồm có 17
sĩ quan, 37 hạ sĩ quan, và 54 đoàn viên hiện diện. Ngoài ra còn
12 nhân viên đi phép và 7 nhân viên còn nằm bệnh viện. Thêm vào
đó, tôi còn tiếp nhận 70 nhân viên tạm trú thuộc HQ2, 3, 07, 11,
12, 16, 800, và 228.
Sáng ngày 8 tháng 4, một F5 thuộc Không
Quân VNCH bắn Dinh Độc Lập. Hải Quân được lệnh ứng chiến phòng
không. Tôi chỉ thị Thiếu úy T và toán ẩm thực đi chợ thêm để dự
trữ cho chuyến công tác dài hạn sắp đến.
Sáng ngày 12 tháng 4 lúc 9 giờ sáng,
HQ14 khởi hành công tác V3ZH. Chiến hạm ra khỏi sông Lòng Tảo,
đến Vũng Tàu và nhập V3ZH lúc 1 giờ trưa. Sau khi chuyển giao tất
cả nhân viên tạm trú cho HQ802, tôi cho chiến hạm trực chỉ phía
bắc Vũng tàu, để thay thế HQ618. Đến ngày 16, lúc 10 giờ 45 sáng,
tôi khởi hành đi Phan Thiết. Nhưng đến 12 giờ 30 sáng lại được
lệnh đổi đường đi Phan Rang. Lúc này Phan Rang đã bị cộng sản
tràn ngập. Chuẩn Tướng Nhật và TKT/TK Khánh Hòa đã lên được HQ3.
Không có tin tức gì về Tướng Nghi. Ban đêm HQ14 tuần tiểu từ Hòn
Lao đến Lagran. Tôi cho báo cáo về Trung Tâm Kiểm Soát Cam Ranh
tình trạng kỹ thuật và đạn dược trên HQ14 như sau: máy điện số 2,
bơm cứu hỏa số 2, và motor số 2 của Frigo bất khiển dụng. Chiến
hạm hiện tồn trữ 110 ngàn lít dầu, trên 5 ngàn lít nhớt, 20 tấn
nước ngọt, 441 viên đạn đại bác 76ly, trên 3 ngàn đạn 40ly, trên
13 ngàn đạn 20ly, một số đạn đại liên và chiếu sáng. Với khả năng
này, và nếu máy điện số 1 (máy điện duy nhất còn khiển dụng) vẫn
chạy tốt thì chiến hạm còn khả năng hoạt động vài tháng nữa,
không cần tiếp tế. Chỉ còn vấn đề thực phẩm, chỉ còn khoảng 2
tuần, ngoại trừ gạo còn rất nhiều. Tôi cho cắt bớt khẩu phần thịt
và rau vì không biết bao giờ mới được ghé bến tiếp tế, và không
tiên liệu được chiến tranh còn kéo dài bao lâu nữa. Đồng thời tôi
giới hạn việc dùng nước ngot, vì máy chế tạo nước ngọt đã hư từ
lâu. Tiêu lệnh này được áp dụng từ Hạm Trưởng đến đoàn viên. Sau
này nghĩ lại, tôi thấy cảm phục nhân viên của tôi nhiều về tinh
thần kỷ luật, can đảm, và sức chịu đựng lớn lao của họ.
Trưa ngày 18 tháng 4, chiến hạm đến gần
mũi Cà Ná thuộc tỉnh Ninh Thuận. Nơi đây Quốc Lộ 1 có môt đoạn
ngắn chạy ra tận biển. Sau này, chiếu theo bài tường thuật “Măt
Trận Phan Rang” (http://nhaydu.com/index_83hg_
files/left_files/MatTranPhanRang.htm), tôi biết được bên trong
đất liền, tuần trước, hai Lữ Đoàn Nhảy Dù và Quân Đoàn 3 còn hiên
ngang trấn thủ Địa Đầu Giới Tuyến này mặc đầu đã bị thiệt hại
nặng, nay Phan Rang đã bị cộng sản Bắc Việt (CSBV) tràn ngập. Một
người bạn thân của gia đình bên vợ tôi, Đại úy Đinh Quốc Tuấn
thuộc Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù đã anh dũng chiến đấu và đã tử trận
ngày 15. Sau đó, Trung Tướng Nghi cũng đã bị địch bắt.
ôi cho chiến ham tiến vào cách bờ
khoảng 9 ngàn yards để quan sát. Nhìn qua ống nhòm, trên Quốc Lộ
1, tôi thấy xe tăng, xe chuyển vận, đại pháo của CSBV đang kéo
nhau đi sờ sờ trên quốc lộ, hướng về nam. Tôi nóng máu. Suốt thời
gian làm Duyên Đoàn Phó ZD 13 ở Cửa Tư Hiền, nhiều lần tôi đã dẫn
quân đi phục kích và chạm trán với CSBV khi chúng chuyển quân từ
Phú Thứ, qua Quốc Lộ 1 để vào dãy Trường Sơn. Anh em chúng tôi đã
hạ chúng sát ván. Nay thấy tận mắt đoàn xe của chúng đang đi lừ
lừ giữa thanh thiên bạch nhật, tôi không chịu nổi. Tôi quyết dùng
hết hỏa lực để làm chậm bước tiến của chúng, để quân ta có thêm
thời giờ rút lui. Tôi vận chuyển chiến hạm vào gần bờ thêm chút
nữa và đích thân hướng dẫn hải pháo 76ly bắn vòng cầu vào toán
quân xa này. Viên đầu tiên rơi gần quốc lộ. Qua ống nhòm, tôi
thấy chúng dừng lại. Tôi điều chỉnh và cho bắn tiếp, nhưng vô
hiệu. Sóng biển chỉ lắc một tí là đạn rơi sai đi vài chục yards!
Bắn một hồi, thấy bụi mù bay tung tóe, nhưng không biết có mảnh
đạn nào trúng chúng nó không, tôi đành cho ngưng để tiết kiệm
đạn, đồng thời vận chuyển chiến hạm ra xa bờ để tránh đạn địch,
có thể bắn ra từ đại pháo của chúng.
Một lúc sau, qua máy truyền thanh trên
đài chỉ huy, tôi nghe giọng nói của Hạm Trưởng HQ11 gọi tiếp
viện. Trước đó, HQ11 đã tiến vào bờ gần Cà Ná để bắn triệt hạ một
cây cầu nhằm trì hoãn địch. Cầu không sập, trái lại CSBV bắn ra
tới tấp, và HQ11 cần HQ14 yểm trợ hải pháo để rút ra xa bờ. Lập
tức, tôi gọi nhiệm sở ứng chiến 100/100 đồng thời cho HQ14 tiến
hết tốc lực về phía cầu. Càng lúc càng gần bờ. Tôi leo lên đài
quan sát nhỏ bên trên đài chỉ huy, tay chỉ hướng bắn cho hải phào
40ly, miệng la hét để kích thích nhân viên. Đạn 40ly nổ ran dọc
theo bờ biển. Một lúc sau, HQ11 rút ra đến chỗ an toàn, tôi cho
bắn cầm chừng và rút tàu về vị trí cũ. Tôi gởi công điện thỉnh
cầu thượng cấp kêu gọi Không Quân ra bắn đoàn quân xa của CSBV
nhưng được trả lời “Không Quân đang lo yểm trợ trấn thủ Sài Gòn”.
Lúc này, HQ17 đã đến vùng và đảm nhận
OTC. Đô Đốc Minh, trên HQ3, đến điều động tại chỗ. Hồi trưa này,
nhìn lên trên rặng núi bên trong, tôi thấy hàng trăm ánh sáng nhỏ
nhấp nhánh, tôi biết quân ta đã tan rã, có lẽ đang tìm đường rút
lên núi. Một số trong đó thuộc Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân. Họ
đang ra hiệu. Tôi thấy thương cho họ quá. Cũng như tôi, họ đang
căm hờn nhìn địch tiến về Sài Gòn. Nhưng khác với tôi, họ là
những anh hùng, quả cảm chiến đấu, nhưng không còn đường triệt
thoái. Quân CSBV đã tràn ngập và đang lùng kiếm khắp nơi. Họ
không thể rút ra biển. Vài cấp chỉ huy của họ đã lên được HQ3 và
có mật hiệu để liên lạc với họ, nếu họ rút ra được gần bờ biển Cà
Ná.
Một lúc
sau, tôi được lệnh cho tàu vào bờ thi hành công tác rút quân của
Bộ Binh, trong lúc đoàn quân xa, đại pháo của địch còn di chuyển
liên tục trên quốc lộ. Vì HQ14 thuôc loại tuần dương, và tôi
không có một tin tức tình báo nào trên bờ, đem chiến hạm vào đó
không khác gì làm mục tiêu cho chúng bắn, nên tôi đề nghị môt
giải pháp và được chấp thuận: Tôi sẽ dùng ghe Duyên Đoàn và ghe
dân đánh cá để ban đêm tiến vào bờ chuyển quân.
Nhìn ra ngoài khơi, tôi thấy một đoàn
ghe của Duyên Đoàn đang tiến về nam. Tôi xin thượng cấp cho tôi
xử dụng 2 ghe Yabuta, và chỉ định vài nhân viên lên hai ghe này
để chỉ huy việc đón quân Bộ Binh trên bờ. Tôi dặn dò hai thuyền
trưởng Yabuta và các nhân viên của tôi các việc phải làm, cho họ
mật hiệu đánh đi và mật hiệu nhận khi đến gần bờ. Các mật hiệu
này do cấp chỉ huy Bộ Binh trên HQ3 cung cấp. Tôi bảo họ nhớ đem
theo vài khẩu súng, vài cây đèn pin để ra hiệu, hai máy truyền
tin, và cố gắng gom góp một ít ghe đánh cá để cùng đi vào bờ (tôi
định sẽ trả công cho các ghe đánh cá này sau khi công tác hoàn
tất), chờ đến lúc trời tối thì khởi hành đi. Tôi còn dặn họ, tắt
máy truyền tin để khỏi bị địch phát giác, chỉ dùng trong trường
hợp khẩn cấp.
Trời vừa sập tối, tôi ngồi trên đài chỉ huy chiến hạm, theo dõi
đoàn ghe của các cảm tử quân đang tiến vào bờ cho đến khi không
còn thấy họ nữa. Trên Quốc Lộ 1, đoàn quân xa của CSBV vẫn đều
đều tiến về nam. Lòng tôi nôn nóng, cầu nguyện cho họ được bình
an trở về. Nếu tôi được toàn quyền quyết định, chưa chắc tôi đã
gởi họ đi, vì sự thành công của công tác này quá mong manh. Nếu
thất bại, bị địch bắn tiêu diệt, thì hậu quả thật vô lường.
Suốt đêm tôi thao thức chờ tin đoàn ghe
vớt Bộ Binh trở về, nhưng chờ mãi vẫn không thấy tăm hơi! Tôi lo
ngại vô cùng. Mãi đến rạng đông vẫn không thấy bóng các ghe này.
Tôi vận chuyển chiến hạm vào gần bờ hơn, dùng ống nhòm để quan
sát. Bỗng nhiên, tôi nghe một tiếng nổ lớn, một cột nước trắng
tóe lên cách tàu độ một ngàn yards. Biết đại pháo của địch vừa
bắn ra, tôi cho chiến hạm chạy ra xa. Đúng lúc này, qua ống nhòm,
tôi thấy xa xa đoàn ghe bốc quân đang từ từ tiến ra. Tôi mừng vô
kể. Họ đã xa bờ! Nhưng chỉ có 2 chiếc Yabuta. Còn các ghe đánh cá
ở đâu, mọi người có an toàn hay không, tôi tự hỏi. Khi 2 ghe này
cặp bên tả hạm, nhân viên báo cho tôi biết các ghe đánh cá sợ
quá, đã biến đi mất trong đêm, trước khi vào đến bờ. Họ cho ghe
đi dọc theo bờ suốt đêm mà chỉ liên lạc được và vớt khoảng 20
người. Tôi khen ngợi anh em đã can đảm thi hành trách vụ. Tôi
tiếp nhận quân nhân Bộ Binh và cho họ tạm trú trên chiến hạm,
đồng thời cám ơn và chào từ giả các chiến hữu trên Yabuta trước
khi họ trở về đơn vị. Sau này, cách đây độ 5 năm, tôi có gặp lại
Đại úy T mới được biết anh thuộc Duyên Đoàn này và có hiện diện
lúc đó tại Mũi Né. Không ngờ chúng tôi đã quen nhau nhiều năm tại
Mỹ mà không biết đã có dịp cộng tác với nhau một khoảnh khắc ngắn
trong thời gian cuối của cuộc chiến.
Ngày 19 tháng 4, CSBV tràn ngâp Phan
Thiết. Tôi được lệnh V3ZH gọi chiến hạm về Vũng tàu để nhận tiếp
tế và đi công tác quần đảo Trường Sa. Trưa ngày 20, HQ14 về đến
gần Hòn Bà, Vũng Tàu. Ngày 21, tôi thả neo ngoài Vũng Tàu, nhận
thêm trên 3 ngàn viên đạn 40ly và 330 viên 76ly do HQ08 tiếp tế,
và cho ban ẩm thực đi chợ, đồng thời cho các quân nhân và dân sự
tạm trú lên bờ. Qua các đài truyền thanh, tôi được biết Tổng
Thống Thiệu đã giao quyền lãnh đạo quốc gia cho Thủ Tướng Trần
Văn Hương. Nhật lịnh của Đại Tướng TMT/QLVNCH: “Bảo vệ bờ cõi,
đánh bại quân xâm lăng, bảo vệ Vùng 3 và Vùng 4”. Tuần trước, tôi
mong có một hiệp ước nào đó giữa Mỹ và Trung Cộng để bắt buộc
CSBV ngưng lại tại Phan Thiết. Nhưng sau khi Phan Thiết mất. Tôi
không còn hy vọng nữa.
5. Công Tác Quần Đảo Trường Sa
Lúc 9 giờ 30 tối ngày 21, HQ14 khởi
hành đi Trường Sa theo chỉ thị của BTL/HQ, thừa lệnh Bộ Tổng Tham
Mưu. Cùng đi, có HQ17 làm OTC. Vì HQ17 khởi hành trước và chạy
nhanh hơn nên sẽ đến Trường Sa trước. Chúng tôi được tiêu lệnh từ
Bộ TTM: “Không được khai hỏa trước khi đối đầu với địch tại
Trường Sa”. Địch là ai, không biết rõ. Tôi chỉ được biết trong
các ngày vừa qua, có tin một số máy bay lạ xuất hiện trên đảo.
Nhiệm vụ của HQ14 và HQ17 là bảo vệ sinh mạng của lực lượng Địa
Phương Quân đồn trú trên quần đảo này.
HQ14 đến quần đảo Trường sa lúc 4 giờ
chiều ngày 23 tháng 4. Quần đảo Trường Sa cách Vũng Tàu 305 hải
lý về phía Đông. Các đảo này là những cồn cát rất thấp, bao quanh
bởi nhiều đá ngầm và san hô. Việc vận chuyển quanh quần đảo này
tương đối khó khăn, nhất là ban đêm tối, dù chiến hạm có radar.
Cần nhất là máy định vị trí LORAN, nhưng máy này đặt trên HQ14 đã
hư từ lâu, không được sửa chữa.
HQ17 và HQ14 chia nhau đi tuần tiểu
trên quần đảo này. HQ17 quan sát thấy một ngọn cờ đỏ trên đảo và
ra lịnh HQ14 bắn triệt hạ. Cứ mỗi lần đạn 76ly nổ, cả ngàn con
hải âu trắng lại bay lên ngập trời, rồi đáp xuống ngay! Ngày đầu
tình hình tương đối yên lặng. Đến quá nửa đêm ngày 25, có hai tàu
lạ xuất hiện ở đảo Nam Yết, một ở hướng đông và một ở hướng tây.
HQ17 và HQ14 gọi nhiệm sở tác chiến, rượt theo hai tàu này. Chúng
bỏ chạy mất dạng. Đến 7 giờ sáng, 2 echo xuất hiện trên radar,
cách HQ17 gần 4 ngàn yards, nhưng chúng đi xa dần. HQ17 xin chỉ
thị BTL/HQ Sài Gòn và được đáp: “Phải báo cáo trước khi hành
động”. Tôi mong được chỉ thị “Tùy nghi hành động” thì dễ cho
chúng tôi hơn!
Ngày 28, HQ14, HQ17, và Địa Phương Quân
được lệnh rút khỏi Trường Sa, về Vũng Tàu. Tôi khởi hành trước.
HQ17 ở lại để tiếp nhận Địa Phương quân cho xong trong ngày và
trực chỉ Vũng Tàu. Vào lúc 5 giờ chiều, tôi nghe lễ bàn giao chức
Tổng Thống giữa Cụ Trần Văn Hương và Đại Tướng Dương Văn Minh đã
diễn ra tại Dinh Độc Lập.
Trên đường về gần đến Vũng Tảu, tôi
thấy “rồng hút nước” (những cột nước cuốn lên trời do sức xoáy
cực mạnh của gió). Suốt 8 năm trên biển, đây là lần đầu tiên tôi
thấy hiện tượng này. Người xưa tin rằng đây là một điềm xấu! Xa
xa tôi thấy vài chiến hạm Mỹ. HQ14 về đến Vũng tàu trưa ngày 29
tháng 4. Quang cảnh ngoài khơi Vũng tàu lúc đó thật tấp nập, nào
chiến hạm Mỹ, nào thương thuyền ngoại quốc đến tiếp nhận dân sự
do lời yêu cầu của chánh phủ Hoa Kỳ, nào ghe chở dân đến thương
thuyền, nào trực thăng Mỹ bốc quân Mỹ và thường dân di tản từ Tòa
Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn, lên chiến hạm. Tôi nghĩ đến gia đình vợ
con, không biết tất cả bây giờ ở đâu, có an toàn không. Chắc nhân
viên của tôi cũng cùng tâm trạng. Nhưng không ai nói với ai điều
gì. CSBV đã tiến đến gần Sài Gòn và đang pháo kích Tân Sơn Nhất.
Tôi cố thẩm định tình thế xem có nên liều đem chiến hạm về Sài
Gòn hay không, tuy nhiên tôi không có tin tức gì chính xác. Ngay
cả bên trong Vũng Tàu, tôi cũng không biết rõ.
Trong lúc còn phân vân, tôi được lịnh
của V3ZH cho tất cả chiến hạm dưới sự điều động của vùng này được
tan hàng và các Hạm Trưởng được toàn quyền quyết định, có nghĩa
BTL/HQ không còn ra lịnh nữa.
Nghe vậy, tôi lặng người, nghĩ đến mất
nước. Một biến cố đau lòng tôi tiên đoán hơn cả tháng qua, nay đã
đến! Nhưng tôi kềm chế được tình cảm của mình ngay. Bình tĩnh,
tôi quyết định đưa HQ14 ra ngoại quốc. Tôi nghĩ đi Philippines
rất gần, nhưng không chắc được tiếp nhận. Vì vậy tôi cho nhân
viên Giám Lộ chuẩn bị các hải đồ từ Vũng Tàu đến đảo Guam để tôi
vẽ đường đi vì, qua tin trên các đài truyền thanh, tôi biết tại
đó chánh phủ Hoa Kỳ đang tiếp nhận quân nhân và thường dân VNCH
tỵ nạn cộng sản.
Tức tốc, tôi triệu tập một buổi họp
ngắn, gồm có các Sĩ Quan, Quản Nội Trưởng, một số Hạ Sĩ Quan, và
một số nhỏ đoàn viên. Tôi cho họ biết ý định của tôi và phân công
cho mọi người trong việc giữ gìn an ninh cho chiến hạm và thủy
thủ đoàn. Đại khái, mỗi người giữ một cây súng cá nhân, tất cả
súng cá nhân còn lại và lựu đạn phải giữ trong kho và khóa lại
cẩn thận, quản thủ chìa khóa kho súng, bảo vệ các súng trên boong
tàu, phản ứng cần thiết và cấp thời khi một nhân viên có hành
động gây hấn hoặc nổi loạn.
Thật ra, qua hơn nửa năm trường cùng
sống chết với anh em, tôi đã biết rõ tinh thần kỷ luật cao độ và
tình cảm của anh em đối với tôi. Tôi không tin có môt sự việc
đáng tiếc nào sẽ xảy ra. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, đây là một
biện pháp mà bất cứ cấp chỉ huy cẩn trọng và có trách nhiệm nào,
cũng cần áp dụng trong trường hợp đặc biệt này.
Tôi cho tập họp anh em để nói chuyện.
Khi tôi đến đứng trước hàng quân, anh em nghiêm chỉnh chào tôi
như thường lệ. Nhưng thoáng nhìn ánh mắt của họ, tôi thấy hầu hết
đều đượm một nét buồn sâu xa, hay hơn nữa một thất vọng. Chắc họ
đã biết những gì đã xảy đến. Ngừng một chút, tôi nhẹ nhàng báo
tin cho họ. Tôi nói “Chúng ta đã cùng nhau chiến đấu một thời
gian dài, hy vọng sẽ chiến thắng. Nhưng hôm nay, không may, chúng
ta đã bại trận. CSBV đã tiến vào Sài Gòn. Tôi quyết định đem
chiến hạm ra ngoại quốc, đến môt nước tự do. Anh nào muốn theo
tôi, đứng ra bên này. Anh nào muốn trở về với gia đình, đứng ra
bên kia”. Sau một hồi lưỡng lự, anh em đứng ra hai bên. Tôi cho
Hạm Phó và Quản Nội Trưởng ghi tên các anh em muốn trở về. Số
người trở về tôi không ghi trong nhật ký, chỉ nhớ thoang thoáng
trên 30 người.
Trời đã về chiều, tôi bắt đầu tìm
phương tiện cho anh em vào bờ để về nhà. Hồi trưa nay tôi thấy
hằng trăm chiếc ghe nhỏ đưa dân sự từ Vũng Tàu ra tàu buôn ngoại
quốc. Tôi định nhờ họ chở anh em vào bờ và trả bằng dầu. Nhưng
bây giờ các ghe này biến đi đâu mất. Tôi cho tàu chạy vòng vòng
để tìm kiếm. Khi trời sụp tối tôi cho rà trên radar xem có thấy
gì không, nhưng vô vọng. Tôi muốn khởi hành đi Guam ngay để ra
đến hải phận quốc tế, và càng xa càng tốt, sợ máy bay CSBV có thể
rượt theo. Chỉ cẩn thận thôi, vì tôi ước đoán chiến đấu cơ Mig
của chúng chưa đến Sài Gòn. HQ17 đã khởi hành đi từ lâu. Nhưng
tôi đã hứa với nhân viên là cho họ vào bờ, bây giờ làm sao đây?
Trong lúc đang tấn thối lưỡng nan, tôi
được công điện mật của Đô Đốc Minh gọi tập trung tại Côn Sơn để
cùng đi. Tuy không biết đi đâu, nhưng vì tin Đô Đốc Minh nên tôi
cho trực chỉ Côn Sơn. Trong lúc này cộng sản nằm vùng trong
BTL/HQ liên tiếp gọi máy dụ dỗ các hạm trưởng đưa tàu về Sài Gòn.
6. Chuyến Di Tản Cuối Cùng:
Vũng Tàu - Côn Sơn - Subic Bay, Philippines
Sáng hôm sau, ngày 30, trên đường đi
Côn Sơn, tôi gặp vài chiếc LCVP chở toán sửa chữa lưu động chạy
tìm đường đi. Tôi cho vớt tất cả. Trong lúc họ lên tàu, một nhân
viên giám lộ từ LCVP leo lên, đến chào tôi. Tôi nhận ra ngay, đó
là nhân viên của tôi đã bị gẫy mất một tay trong lúc Không Quân
bắn HQ14 ngoài cửa Thuận An. Lúc đó anh đang đứng cạnh tôi trên
đài chỉ huy. Anh nằm điều trị tại bệnh viên Duy Tân, và khi chiến
hạm rút khỏi Đà Nẵng tôi không can thiệp cho anh ra được vì vết
thương của anh vẫn còn đang rỉ máu. Anh cho biết, khi CSBV tràn
vào Đà Nẵng, anh đã thoát ra được và theo một nhóm nhỏ Biệt Kích
tìm về Sài Gòn bằng đường biển. Mọi người đều mừng cho anh và
nhân viên y tá săn sóc cho anh tận tình. Vài ngày sau, khi gặp
chiến hạm Mỹ, tôi xin cho anh được chuyển qua điều trị. Từ đó,
tôi không được tin tức gì về anh nữa. Trên đường đến Côn Sơn, tôi
vớt thêm nhiều dân sự và gia đình quân nhân, tổng cộng trên 100
người.
Vào
buổi chiều trên đường đến Côn Sơn, khi đang ngồi trên đài chỉ
huy, tôi được HQ3 gọi máy cho biết có gia đình vợ tôi trên chiến
hạm. Tôi vừa mừng, vừa ngỡ ngàng, tại sao vợ tôi lại lên được
HQ3, hay là gia đình ai không. Từ lúc khởi hành đi công tác V3ZH
đến nay, chúng tôi không có tin tức gì của nhau cả. Tuy nhiên tôi
vẫn hy vọng là đúng. Tôi yêu cầu được nói chuyên trực tiếp với vợ
tôi trên máy. Nhưng bị từ chối, bảo tôi phải chờ vì máy quá bận
rộn. Mãi đến tối HQ3 mới gọi lại cho tôi nói chuyện với vợ tôi.
Nhưng vợ tôi chẳng nói được câu nào. Sau này hỏi lại mới biết vợ
tôi không biết phải bấm máy khi nói. Thay vì, tôi nghe giọng nói
của ông cậu ruột nhà tôi, ông Trần Van L. Ông cho tôi biết vợ con
tôi và gia đình bên vợ, tổng cộng 19 người đang có mặt trên tàu.
Tôi mừng quá, không kịp hỏi tại sao, chỉ hứa sẽ đón qua tàu tôi
khi được phép. Nhưng cái mừng của tôi không trọn vẹn. Tôi thấy
buồn cho nhân viên của tôi. Từ Hạm Phó trở xuống, không ai có
thân nhân đi được cả. Sau này, khi gia đình vợ tôi được chuyển
qua HQ14, tôi được nghe kể lại chi tiết việc chạy từ nhà ở bên
Chí Hòa đến khi lên được HQ3. Đoạn đường tuy không xa, nhưng thật
hồi hộp và bất định. Mấy ngày trước đó, gia đình vợ tôi từ chung
cư Phạm Thế Hiển chạy qua Chí Hòa cho gần đường lên phi truòng
Tân Sơn Nhất. Nhưng không vào phi trường được vì cộng sản pháo
kích. Đến chiều 29, trong khi CSBV pháo kích, đạn nổ nghe rất
gần, và cả nhà ngồi chung dưới đất cầu nguyện, ông anh ruột của
nhà tôi, Trung úy L, và ông cậu ruột, Thiếu tá Trần Quốc B thuộc
bộ TTM đã về hưu, dùng xe Honda 2 bánh chạy đi tìm đường. Ra đến
đầu ngõ, gặp một người bạn. Cô này cho biết trực thăng Mỹ đang
bốc người ở bến Bạch Đằng. Hai người chạy ra bến Bạch Đằng xem
tình hình. Khi đến nơi, họ không thấy trực thăng đâu, chỉ thấy
những vòng kẽm gai giăng ngang cổng vào BTL. Nhiều quân nhân HQ
cầm súng ở thế tác chiến đứng gác. Thỉnh thoảng, có vài quân nhân
HQ đưa gia đình vào. Hai người bàn bạc “chắc HQ đang di tản”, hãy
về đưa gia đình ra đây rồi tính sau. May ra vợ tôi có thể xin vào
được. Cả nhà, 19 người gồm cả bà con, chạy ra bến Bạch Đằng. Dọc
đường, thỉnh thoảng lại thấy nhân dân tự vệ đang bắn chỉ thiên,
chỉ lo bị chúng chận đường. Một lúc sau, đến được cổng BTL/HQ.
Nhà tôi tiến đến, đưa ra một tấm hình của tôi chụp chung với cố
vấn Mỹ khi tôi còn làm hạm trưởng HQ612, và xin cho vào, nói tôi
là hạm trưởng HQ14 đang công tác ngoài khơi. Nhân viên gác cổng
chỉ liếc qua rồi gạt đi. Vợ tôi thất vọng nghĩ thầm: Thế là vô
phương rồi! May thay, đúng lúc đó, một sĩ quan HQ mang huy hiệu
hạm trưởng từ trong đi ra. Nhận ra đó là Thiếu tá Nguyễn Thụy Đ,
cùng khóa với tôi mà vợ tôi được gặp một lần cách đây mấy năm về
trước. Vợ tôi nhờ giúp đỡ và cả nhà được vào. Nhưng vào trong
cổng rồi cũng không biết đi đâu. Bỗng nhiên, lúc đó một đoàn
người trong một cơ sở bên trong đi ra và lên tàu. Cả nhà cứ theo
họ và cuối cùng lên được HQ3.
Đến Côn Sơn, sau khi chuyển các nhân
viên muốn về nhà qua một hỏa vận hạm được chỉ định về Việt Nam,
tôi cho chiến hạm ra khơi chạy vòng vòng đến sáng mới vào cặp với
các chiến hạm khác.
Khoảng 9 giờ sáng, tất cả chiến hạm
cùng nhau khởi hành qua Subic Bay, cách Côn Sơn 900 hải lý, với
vận tốc trung binh 6 hải lý/giờ, vì có nhiều chiến hạm hư hỏng
phải chạy chậm.
Vào lúc 3 giờ chiều ngày 2 tháng năm,
HQ bắn chìm HQ474 vì chiến hạm này hầu như bất khiển dụng.
Đến sáng ngày 3 tháng 5, HQ14 cặp HQ3
nhận thực phẩm và một số gia đình, trong đó có gia đình vợ tôi.
Tình trạng biển trong các ngày qua thật êm, nhờ vậy không ai ói
mửa.
Suốt buổi
sáng ngày 5, chiến hạm Kirk (USS Kirk, DE 1087) tiếp tế thực phẩm
cho đoàn tàu VNCH. Trung úy Don Swain và Trung sĩ Richardson
thuộc USS Kirk lên HQ14 để chuẩn bị bàn giao chiến hạm cho HQ Hoa
Kỳ. Sau này, khi đọc hồi ký của Đại Tá Kiểm và video The Lucky
Few của HQ Hoa Kỳ tôi mới biết rõ vì sao phải bàn giao ngoài khơi
thay vì trong hải cảng. Hồi đó Philippine đã công nhận ngụy quyền
CSBV mà chúng đã tự đặt cho mình cái tên thật trái ngược với bản
chất của nó, “VN Dân Chủ Cộng Hòa”. Vì vậy, Philippines nhất
quyết từ chối việc nhập hải cảng Subic Bay của các chiến hạm
VNCH. Cuối cùng, các cấp lãnh đạo của HQVN trên soái hạm HQ3 và
chánh phủ Hoa Kỳ đã tìm ra một giải pháp hợp lý: Chuyển giao các
chiến hạm HQVN cho HQHK ngoài khơi Subic Bay, theo thỏa ước “Khi
nào VNCH không còn dùng các chiến hạm này nữa, thì phải trả lại
cho Hoa Kỳ”. Ngoài ra, để giữ thể diện cho HQ/VNCH, một lễ bàn
giao cần được cử hành trên tất cả chiến hạm VNCH hiện diện ngoài
khơi Subic Bay, gồm có: HQ3, 11, 12, 14, 228, 229, 231, 401, 470,
505, 618, 800, 607, 17, 08, 1, 404, 16, 502, 471, 5, và 801.
Ngày 6 tháng 5, HQ14 còn cách Subic Bay
87 hải lý, thủy thủ đoàn được lệnh ném tất cả đạn dược, lựu đạn
và súng cá nhân xuống biển, đồng thời vô hiệu hóa tất cả hải pháo
và chuẩn bị kế toán nhiên liệu, nước ngọt, tình trạng chiến hạm
để bàn giao ngày hôm sau.
Sáng ngày 7 tháng 5, các chiến hạm VNCH
đã tập trung ngoài khơi Subic Bay. Đến trưa, lễ bàn giao chiến
hạm bắt đầu trong bầu không khí trang nghiêm và cảm động. Trên
HQ14, tất cả thủy thủ đoàn và nhân viên quá giang đều tham dự.
Trung úy Don Swain, đại diện HQHK, tiếp nhận chiến hạm. Cảm động
nhất là nghi thức hạ kỳ VNCH. Sau đó là lễ thượng quốc kỳ Hiệp
Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Sau khi lễ bàn giao chấm dứt, thủy thủ
đoàn gỡ lon ném xuống biển, một số giữ lại để kỷ niệm. Không ai
nói với ai, rơm rớm nước mắt. Lá quốc kỳ VNCH vừa hạ xuống, đươc
trao cho tôi. Tôi vẫn giữ gìn, trân quí nó cho đến ngày hôm nay.
Lá quốc kỳ nhuộm màu phong sương này đã phất phới tung bay trên
HQ14 suốt mấy tháng cuối cùng của cuộc chiến. Phần tôi, ngoài mặt
tôi vẫn giữ nét nghiêm trang, nhưng trong lòng, tôi đang khóc.
Một cuộc chiến dài đăng đẳng đã chấm dứt trong đau thương, thất
vọng! Bao nhiêu quân sĩ, tướng tá anh dũng của Quân Lực VNCH đã
thương vong. Bao nhiêu gia đình đau khổ, mẹ mất con, vợ mất
chồng, con mất bố. Tất cả hy sinh đó chỉ nhằm một mục đích: Bảo
vệ Miền Nam Tự Do. Nay, tất cả hy vọng đã trở thành mây khói!
Tuy đã nhận bàn giao, Trung úy Don
Swain vẫn yêu cầu tôi tiếp tục điều khiển nhân viên và đưa chiến
hạm vào trong Subic Bay. Lần lượt, các chiến hạm vào hải cảng. HQ
Hoa Kỳ không cho phép các hạm trưởng VNCH tự cặp cầu và HQ Hoa Kỳ
cũng không đủ phương tiện để chuyên chở tất cả thủy thủ đoàn và
người quá giang vào bờ. Vì vậy, tôi phải vận chuyển HQ14 chờ
trong hải cảng đến khi tàu kéo của HQ Hoa Kỳ dòng chiến hạm vào
cặp cầu. Sau đó, tôi có vài lời từ giã nhân viên quá giang và
thủy thủ đoàn trước khi họ rời chiến hạm.
Theo lời yêu cầu của HQ Hoa Kỳ, tôi cho
Trung úy Dân và vài nhân viên cơ khí cùng vô tuyến Tuấn tiếp tục
ở lại chiến hạm để lo máy móc cho đến khi tôi rời chiến hạm và
tàu dòng của HQ Hoa Kỳ hoàn tất việc đưa HQ14 ra buộc phao trong
hải cảng thì tắt hết máy móc và theo tàu dòng vào bờ.
Khi tôi vào phòng ăn sĩ quan, các sĩ
quan an ninh của HQ Hoa kỳ đã có mặt ở đó, chờ tôi cho biết tình
hình trên quần đảo Trường Sa trong thời gian HQ14 hoạt động quanh
quần đảo này.
Sau khi thuyết trình cho họ, tôi cùng gia đình rời chiến hạm. Tuy
tôi không còn mang cấp bậc, anh quân nhân TQLC Hoa kỳ đang đứng
gác hạm kiều vẫn nhận ra tôi và nghiêm chỉnh đưa tay chào. Tôi
chào lại anh, và quay lại chào lá quốc kỳ Mỹ, chào HQ14 thân yêu
một lần chót, và rời chiến hạm. Bây giờ, cũng như tất cả nhân
viên của tôi, tôi sẽ bắt đầu một hành trình mới đến đất tự do.
Cuộc hành trình này, tuy không nguy hiểm, nhưng chắc không kém
cam go, bất định.
Viết tại Hoa Kỳ ngày 22 tháng 3
năm 2017
Phạm Thành
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Biển Thái Bình/VN. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by MĐ Trần Hồng Minh chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, April 13, 2017
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang