Khóa 10A-72 SQTB-QLVNCH/Đồng Đế, Nha Trang
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Sưu Tầm
Chủ đề: Lịch sử Đệ I-VNCH
Tác giả: Cố vấn Ngô Đình Nhu
Mục Lục
PHẦN I
PHẦN II
PHẦN III
PHẦN IV
Lời giới thiệu: Kính thưa Quý Độc giả, dưới đây là tập tài liệu với tựa "CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM", tác giả là cụ Cố Vấn Ngô Đình Nhu thời Đệ I Việt Nam Cộng Hòa. Tập tài liệu này gồm 4 phần và 17 chương, bàn về khái niệm và chương trình kiến thiết nước VNCH thời bấy giờ. Kính mời quý vị theo dõi những chương CĐVN dưới đây. Trân trọng. --BKT
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Giàn Bài
Phần I
01.
LỜI TRẦN TÌNH - Tập tài liệu bạn đang
có trong tay là kết tụ những nghiên cứu và phân tích dựa trên
kinh nghiệm lịch sử của cố vấn Ngô Đình Nhu cùng một số phụ tá
thân cận nhằm giúp những cán bộ quốc gia nắm vững con đường xây
dựng và phát triển dân tộc...
đọc tiếp... hay
in ra giấy (print
PDF)
02.
LỜI NHÀ XUẤT BẢN - Nhà xuất bản HÙNG
VƯƠNG hân hạnh giới thiệu với quý độc giả cuốn “CHÍNH ĐỀ VIỆT
NAM” được tái bản lần đầu tiên tại hải ngoại. Tập tài liệu nghiên
cứu này do một nhóm chiến sĩ trong bộ phận nghiên cứu chính trị
của Đệ Nhất Cộng Hòa soạn thảo để kính tặng các chiến sĩ vô danh
của cộng đồng quốc gia Việt Nam. Cuốn sách này đã được xuất bản
vào thời đệ Nhị Cộng Hòa, nhưng chỉ lưu hành giới hạn trong tầng
lớp cán bộ lãnh đạo. Khi được đọc một phần cuốn sách này, chúng
tôi đã bị lôi cuốn, say mê và...
đọc tiếp... hay
in ra giấy (print
PDF)
03.
BỐI CẢNH CỦA VẤN ĐỀ - Nước
Việt Nam là một nước nhỏ, nhỏ về dân số, nhỏ về lãnh thổ, nhỏ về
kinh tế kém phát triển, và nhỏ về sự góp phần của chúng ta vào
văn minh nhân loại.... Trong suốt phần lịch sử nhân loại mà chúng
ta được biết tới ngày nay, số phận của các quốc gia nhỏ, từ xưa
vẫn không thay đổi. Lúc nào các quốc gia nhỏ cũng phải bị chi
phối bởi...
đọc tiếp... hay
in ra giấy (print
PDF)
04.
NHẬN ĐỊNH VỀ THẾ GIỚI - LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ
- Hiện nay trong lĩnh vực chính trị, thế giới chia làm hai khối
rõ rệt: một bên là khối tự do, một bên là khối Cộng Sản. Mặc dầu
gần đây, có xảy ra một mặt những cuộc tranh chấp đôi khi lên đến
một cao độ đáng chú ý giữa các quốc gia trong khối Cộng Sản, cũng
như trong khối Tự Do, một mặt khác nhiều thỏa ước có tính cách
chính trị, văn hóa, khoa học hay kinh tế đã được ký kết giữa
những quốc gia thuộc khối khác nhau, sự phân biệt trên vẫn còn
giữ nguyên giá trị...
đọc tiếp... hay
in ra giấy (print
PDF)
Phần II
05.
VỊ TRÍ
CỦA VIỆT NAM TRONG KHUNG CẢNH THẾ GIỚI - Theo như đã trình bày
trên đây
thì vị trí quốc tế hiện tại của Việt Nam do các điểm
dưới đây minh định:
1. Việt Nam là một nước nhỏ và kém mở
mang.
2. Theo truyền thống văn hóa, Việt Nam thuộc vào xã hội
Đông Á.
3. Việt Nam thuộc vào khối các nước Á Châu vừa thoát
khỏi ách thực dân đế quốc.
4. Việt Nam đang cần phải Tây
phương hóa như tất cả các nước không thuộc khối Tây phương để:
Một là tồn tại, bảo vệ độc lập; hai là để phát triển đời sống
kinh tế hầu xây dựng hạnh phúc cho nhân dân.
Bốn điểm trên
đây minh định vị trí của nước chúng ta trong thế giới ngày nay
vừa trong lĩnh vực địa dư vừa trong lĩnh vực tiến hóa chung của
nhân loại...
đọc tiếp... hay
in ra giấy (print
PDF)
06.
MỘT VÍ DỤ LỊCH SỬ - Nếu có
người nghĩ rằng, có lẽ thời gian chưa đủ dài, để cho các công
cuộc Tây phương hóa nói trên, hoàn toàn xâm nhập vào các lĩnh vực
tôn giáo, thì chúng ta có thể lấy trường hợp của đế quốc Hy Lạp
La Mã... khi xưa đối với các quốc gia ở trong khu vực ảnh hưởng
của mình, để thêm một bằng cớ rằng công cuộc Tây phương hóa ngày
nay không vượt qua được lĩnh vực tôn giáo...
đọc tiếp... hay
in ra giấy (print
PDF)
07.
PHÁT TRIỂN DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
- Nước Việt Nam, theo truyền thống văn hóa, nằm trong xã hội
Trung Hoa và chịu ảnh hưởng văn hóa của Tàu. Về phương diện tôn
giáo, Phật giáo và Lão giáo đã ăn sâu vào đại chúng. Nhưng, cũng
như ở Trung Hoa, sự phủ nhận đời sống hiện tại của hai giáo lý
này đã được luân lý xã hội của Khổng Mạnh quân bình. Nhờ đó mà có
thể nói rằng quần chúng Việt Nam sẵn sàng tham gia một công cuộc
phát triển dân tộc. Nếu có trở lực, thì chắc chắn trở lực không
phải ở chỗ tiềm thức của dân tộc quá thiên về các giáo lý phủ
nhận đời sống, nhưng mà ở chỗ xã hội chúng ta bị tan rã, nên các
tín hiệu tập hợp không còn, dù là các tín hiệu tập hợp lấy trong
giáo điều của luân lý Khổng Mạnh...
đọc tiếp... hay
in ra giấy (print
PDF)
08.
CHỈNH ĐỐN NỘI BỘ - Đồng thời với sự
thi hành đường lối nói trên với Nga Sô, và cũng để làm hậu thuẫn
cho đường lối ấy, Tây phương đang vận dụng nỗ lực của mình để
chinh đốn lại nội bộ xã hội Tây phương...
đọc tiếp... hay
in ra giấy (print
PDF)
Phần III
09.
ĐIỀU KIỆN NỘI BỘ - Thật ra thì, vì sự
minh bạch của vấn đề trình bày, nên, trong các phần
trước, có
nhiều điều kiện nội bộ đã được đề cập đến. Dưới đây, chúng ta sẽ
xem lại toàn thể các điều kiện nội bộ, và nếu cần sẽ nhắc lại các
điều kiện đã bàn đến. Ngoài ra...
đọc tiếp... hay
in ra giấy (print
PDF)
10.
CƠ SỞ HẠ TẦNG VÔ TỔ CHỨC
- Tình trạng vô tổ chức, của hạ tầng cơ sở nông thôn của chúng
ta, lúc quân Pháp đến, đã là một lợi khí cho họ. Đối với chúng
ta, là một lỗi lầm quan trọng vì nhiều lý do...
đọc tiếp... hay
in ra giấy (print
PDF)
11.
VAI TRÒ CỦA MIỀN NAM - Các
đoạn phân tích trên đây còn giúp cho chúng ta nhận thức vai
trò
trọng yếu của Nam Việt trong giai đoạn hiện tại của lịch sử dân
tộc. Vì lệ thuộc đối với một chủ nghĩa, mà cả Nga Sô lẫn Trung
Cộng đều sử dụng như là một phương tiện chiến đấu khả dĩ làm cho
dân tộc họ, các nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đã tạo thời cơ cho
thực dân Pháp thực hiện được những thủ đoạn chính trị của họ, mà
hậu quả đã đưa đến sự chia đôi lãnh thổ ngày nay...
đọc tiếp... hay
in ra giấy (print
PDF)
12.
ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN - Bách phân lợi
tức quốc gia đóng góp mỗi năm vào quỹ trang bị kỹ nghệ, cũng như
thời gian đóng góp đối với mỗi quốc gia mỗi khác. Điều này chứng
minh rằng, mặc dầu tất cả các quốc gia đã phát triển hay đương
tìm phát triển, đều theo đuổi một mục đích giống nhau: trang bị
kỹ nghệ; nhưng vì điều kiện lịch sử, vị trí địa dư, và tình trạng
xã hội lúc bắt đầu công cuộc phát triển, đều mang...
đọc tiếp... hay
in ra giấy (print
PDF)
Phần IV
13. MỘT LẬP TRƯỜNG THÍCH HỢP VỚI CÁC NHẬN
XÉT TRÊN - Trong một phần trên chúng
ta đã phân tích các sự kiện lịch sử để tìm hiểu vấn đề mà dân tộc
chúng ta cần giải quyết trong giai đoạn này. Trong một phần khác,
chúng ta đã kiểm điểm những cái vốn mà chúng ta có thể sử dụng
được cũng như những món nợ mà chúng ta phải mang khi chúng ta nỗ
lực giải quyết vấn đề đã nhìn thấy...
đọc tiếp... hay
in ra giấy (print
PDF)
14. TƯ
TƯỞNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC -
Loại trừ chủ nghĩa Cộng Sản ra khỏi cơ thể của cộng đồng quốc
gia, có nghĩa là loại trừ tư tưởng Cộng Sản, phương pháp Cộng
Sản, và hình thức Cộng Sản ra ngoài mọi lĩnh vực hoạt động của
đời sống quốc gia. Đối với tư tưởng Cộng Sản, sự ngộ nhận khó có
dịp xảy ra, bởi vì, chẳng những tư tưởng đó có đặc tính rất riêng
biệt, mà lại ngôn ngữ dùng để diễn tả các tư tưởng cũng rất đặc
biệt, cũng như lối biện luận rất đặc biệt của biện chứng pháp duy
vật. Nhưng sự ngộ nhận thường xảy ra đối vớ các phương pháp Cộng
Sản và hình thức Cộng Sản, vì những nguyên nhân sau đây...
đọc tiếp... hay
in ra giấy (print
PDF)
15.
NGHIỆP ĐOÀN VIỆT NAM - Các
nghiệp đoàn công nhân Việt Nam hiện nay là những tổ chức
quần
chúng công nhân có một giá trị thật đáng chú ý. Các quốc gia ở
Đông Nam Á, và nhiều quốc gia trên thế giới, cùng ở vào một tình
trạng kém mở mang và vô tổ chức như chúng ta, vẫn chưa có một tổ
chức quần chúng công nhân như của chúng ta. Nhưng giá trị của các
nghip đoàn công nhân Việt Nam không phải chỉ ở sự hiện diện hiếm
có đó...
đọc tiếp... hay
in ra giấy (print
PDF)
16.
VIỆT NGỮ VÀ HOA NGỮ - Trong
một đoạn ở trên, so sánh hoàn cảnh phát triển của Trung Cộng và
của Việt Nam, chúng ta đã chứng minh rằng, hoàn cảnh phát triển
của Việt Nam có điều nhiều kiện thuận lợi hơn, trong đó có nhiều
điều kiện về ngôn ngữ...
đọc tiếp... hay
in ra giấy (print
PDF)
17.
TRỤ MÀ KHÔNG TRỤ - Phật dạy “TRỤ MÀ
KHÔNG TRỤ”. Thâm ý cao siêu của lời dạy trên
bao trùm khắp vũ
trụ. Sự tiến hóa của nhân loại đều căn cứ trên nguyên tắc nằm
trong lời dạy trên. Có trụ mới có vị trí để mà tiến. Nhưng khi vị
trí đã mất tác dụng, mà vẫn cứ cố bám để trụ vào đó thì mọi tiến
hóa lại chấm dứt, và những kết quả đã thu hoạch được lại có thể
bị mất...
đọc tiếp... hay
in ra giấy (print
PDF)
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Phần I
1. LỜI TRẦN TÌNH
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Tập
tài liệu bạn đang có trong tay là kết tụ những nghiên cứu và phân
tích dựa trên kinh nghiệm lịch sử của cố vấn Ngô Đình Nhu cùng một
số phụ tá thân cận nhằm giúp những cán bộ quốc gia nắm vững con
đường xây dựng và phát triển dân tộc. Công cuộc hình thành một lược
đồ thích hợp cho tương lai dân tộc vừa nhen nhúm thì biến cố ngày 1
tháng 11 năm 1963 đã làm sụp đổ, hậu quả là những tàn phá sâu rộng
về cả mặt nhận thức lẫn nhân tâm, khiến đất nước tiếp tục chìm đắm
trong chiến tranh, nghèo đói và bị các thế lực ngoại lai khống chế.
Một phần những đề tài này đã được thảo luận trong hàng ngũ cán
bộ lãnh đạo dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, nhưng chưa được đào sâu và
áp dụng, nhất là công cuộc xây dựng tầng lớp lãnh đạo có đủ khả năng
gánh vác trọng trách trong giai đoạn mới cần nhiều thời gian chuẩn
bị, nên lược đồ xây dựng cho tương lai dân tộc bị gián đoạn từ đó.
Trung thành với khát vọng chung, và cùng ôm ấp lý tưởng xây dựng
một tương lai lâu dài cho đất nước, một số chiến hữu trung kiên đã
cho in tập tài liệu này năm 1964, nhưng tình hình chính trị bất ổn,
và chính quyền quân sự lúc ấy đang chịu những áp lực từ nhiều phía,
vì vậy tập tài liệu quí hiếm này bị coi là di sản của “chế độ cũ”
nên bị chôn vùi đến quên lãng.
Tiếp đến là biến cố 30 tháng
Tư năm 1975 đẩy khối người Việt quốc gia vào tuyệt lộ, giữa lúc cơ
đồ tan hoang, lòng dân thất vọng đến tột cùng. Kẻ ở người đi, từng
người dân lênh đênh theo vận nước, con đường giải phóng dân tộc khỏi
ách độc tài đảng trị của Cộng sản để tái xây dựng một quốc gia phú
cường chỉ còn là ảo ảnh. Khát vọng xây dựng đất nước của những người
hằng thao thức và nặng lòng với quê hương rà soát lại, và nhận ra
rằng con đường đã có sẵn, làm sao cùng khởi động để tiến tới việc
tái cấu trúc mô hình đã bị bỏ dở trước đây. Năm 1988, tập tài liệu
được tái bản tại Hoa Kỳ do một nhóm thân hữu đã cùng sát cánh bên
nhau trong nhiều năm, trong ấy phải kể đến các ông Cao Xuân Vỹ, Lê
Văn Đồng, Phan Xứng, Đỗ La Lam, và một số thân hữu khác. Nhưng nỗ
lực lần này cũng không đi xa hơn, tập tài liệu gần như biến mất trên
thị trường sách báo. Trong khi lớp cán bộ quốc gia đã một thời đóng
góp cho đất nước lần lượt ra đi theo định luật của thời gian, thế hệ
kế tiếp làm mắt xích nối kết chu kỳ lịch sử chưa sẵn sàng bắt tay
vào công việc còn dang dở; trong khi đất nước bị Cộng sản đẩy vào
nghèo đói chậm tiến và lạc hậu suốt hơn ba thập niên qua.
Đứng trước hoàn cảnh Việt Nam hôm nay những người thật sự quan tâm
tới vận mệnh dân tộc không khỏi âu lo khi nhìn thấy cơ đồ của tổ
tiên đang bị kẻ thù phương bắc bao vây và gặm nhấm từng phần từ khắp
mọi lãnh vực; bên trong thì bè lũ tham ô ngu dốt đang tiếp tay cho
giặc làm bại hoại sức đề kháng, nhằm triệt hạ ý chí quật cường của
dân tộc nên nguy cơ nước ta lại rơi vào ách thống trị phương bắc
không còn là vấn đề bàn cãi, mà chỉ là thời gian, nếu chúng ta không
sớm thức tỉnh.
Tìm lại những bài học lịch sử của tiền nhân để
áp dụng vào con đường cứu nước và dựng nước trong thời đại hôm nay,
thật ra đã có sẵn ngay trong tập tài liệu này. Nếu đem đối chiếu
những diễn biến chính trị toàn cầu có ảnh hưởng trực tiếp đến Việt
Nam trong mấy chục năm qua, thì chúng tôi vừa ngạc nhiên vừa khâm
phục, vì những diễn tiến ấy đã được đề cập đến, và phân tích một
cách chính xác cách nay đã gần 50 năm. Do đó điểm hội tụ nhưng trăn
trở của lớp sĩ phu trong nước cũng như ở hải ngoại muốn nhìn thấy
hướng đi tương lai của dân tộc hiện rõ nét ngay trong tập Chính Đề
Việt Nam này. Tập tài liệu không vạch ra những chi tiết, vì đó là
một lược đồ mang tính lịch sử, không phải chỉ một hai thế hệ, mà là
sự nối tiếp của một ngàn năm lịch sử, và sẽ kéo dài đến hàng ngàn
năm về sau. Do đó lược đồ này cần được nghiên cứu sâu rộng để soạn
thảo thành những tài liệu chi tiết của từng vấn đề, hầu có thể áp
dụng hiệu quả vào công cuộc chung của đất nước. Đây là một công
trình nghiên cứu cần sự góp sức của nhiều khối óc ở trong nước cũng
như hải ngoại.
Vì vậy dù gặp muôn vàn khó khăn, nhóm chủ
trương quyết định ấn hành tập tài liệu này, nhằm tái khởi động sức
phấn đấu của dân tộc trong giai đoạn cấp bách hiện nay.
Chúng
tôi mong ước tập tài liệu này sẽ được đón nhận và trở thành những
mắt xích nối kết những người có cùng khát vọng phát triển và xây
dựng một nước Việt Nam cường thịnh, trong đó người dân thật sự quyết
định lấy vận mệnh của chính mình.
Ấn hành tập tài liệu này,
nhóm chủ trương không nhắm mục đích tài chánh, do đó không để giá
tiền như những ấn phẩm lưu hành trên thị trường, mà là muốn giữ gìn
một công trình nghiên cứu có giá trị vượt thời gian đã bị chôn vùi
đến quên lãng gần nửa thế kỷ qua; mà theo thiển nghĩ của chúng tôi
không thể đánh giá công trình trí tuệ thượng thặng này bằng tiền bạc
được. Hơn nữa công trình này nên trở thành sở hữu chung của mọi
người, nhất là những ai đã có dịp đọc qua, chắc chắn không thể phủ
nhận giá trị đích thực của nó, và nên chia sẻ với những người cùng
chung chí hướng để góp sức cho một tương lai tốt đẹp hơn.
Điều mong ước sau cùng của chúng tôi là tập tài liệu này sẽ không là
nguyên cớ cho bất kỳ phiền phức nào cho ai, dầu ở trong nước hay tại
hải ngoại.
Chúng tôi hết lòng kính trọng và biết ơn những bậc
đàn anh đã nêu gương yêu nước và kiên trì khích lệ các thế hệ tương
lai nối tiếp con đường của cha anh.
Sài Gòn, Mùa
Xuân 2009.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Phần I
2. LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Nhà
xuất bản HÙNG VƯƠNG hân hạnh giới thiệu với quý độc giả cuốn “CHÍNH
ĐỀ VIỆT NAM” được tái bản lần đầu tiên tại hải ngoại. Tập tài liệu
nghiên cứu này do một nhóm chiến sĩ trong bộ phận nghiên cứu chính
trị của Đệ Nhất Cộng Hòa soạn thảo để kính tặng các chiến sĩ vô danh
của cộng đồng quốc gia Việt Nam. Cuốn sách này đã được xuất bản vào
thời đệ Nhị Cộng Hòa, nhưng chỉ lưu hành giới hạn trong tầng lớp cán
bộ lãnh đạo.
Khi được đọc một phần cuốn sách này, chúng tôi
đã bị lôi cuốn, say mê và chúng tôi cảm thấy bừng dậy trong chúng
tôi một phấn khởi lạ lùng, chúng tôi không diễn tả được rõ ràng,
nhưng chúng tôi đã tự hỏi, phải chăng đó là hồn thiêng sông núi đã
ấp ủ trong lòng chúng tôi từ khi mới ra đời, và bây giờ mới có dịp
bừng dậy.
Sách mở đầu bằng một lời vắn tắt của một đại văn
hào Nhật Bổn, Đức Phú Tô Phong, nói rằng: “Một dân tộc hùng cường là
một dân tộc giàu Chiến Sĩ Vô Danh.” Phải chăng tác giả muốn ngụ ý
rằng dân tộc Việt Nam cũng là một dân tộc hùng cường vì dân tộc Việt
Nam cũng giàu Chiến Sĩ Vô Danh? Thật đúng vậy, xét trong lịch sử
nước nhà, dầu nước ta đất hẹp dân nghèo, sống sát cạnh những nước
khổng lồ, đất rộng dân đông, phía Bắc là Trung Hoa, phía Nam là Ấn
Độ biết bao phen bị xâm lăng, mà với chí quật cường của các chiến sĩ
vô danh trước khi trở thành anh hùng dân tộc, đã đánh đuổi được kẻ
xâm lăng để cứu nước và dựng nước.
Những TRẦN HƯNG ĐẠO, LÝ
THƯỜNG KIỆT, LÊ LỢI, NGUYỄN HUỆ, v.v. chỉ là những ngọn sóng mà
chúng ta trông thấy được. Dưới các ngọn sóng ấy còn âm ỉ một sức
mạnh vô song, tuy âm thầm lặng lẽ mà bền bỉ kiên trì để thúc đẩy cho
các ngọn sóng lên cao. Chính đó là sức mạnh của các chiến sĩ vô
danh, đó chính là gia tài của Dân Tộc.
Các nhà nghiên cứu đã
căn cứ vào truyền thống hào hùng của các dân tộc mà họ gọi là “các
giá trị tiêu chuẩn” của các dân tộc ấy để thấy trước bước đường tiến
tới của họ về sau.
Xin lấy một vài thí dụ điển hình: Giá trị
tiêu chuẩn của Nga Sô là trụ vào nền văn hóa phong phú “La, Hy” cho
nên nếu họ có dùng đường lối độc tài sắt máu của Cộng sản để chống
lại áp lực của các nước phương Tây khác, thì họ chỉ dùng đường lối
sắt máu Cộng sản như là một phương tiện giai đoạn. Không chóng thì
chầy dân tộc Nga sẽ trở về với các giá trị cổ truyền “La, Hy”. Nước
Trung Hoa bị văn minh kỹ thuật Tây phương kiềm chế nên đã dùng đường
lối tranh đấu Cộng sản để mong thoát ra khỏi vòng phong toả, nhưng
nền đạo lý cổ truyền Khổng Mạnh đông phương không thể dung nạp đường
lối Cộng sản lâu dài và sẽ không để cho Cộng sản xích hóa Trung Hoa,
trái lại Cộng sản sẽ bị “Trung Hoa hóa” như lời của đại văn hào Cô
Hồng Phong tiên đoán cách đây hơn bốn chục năm và gần hơn đã được
Mao Trạch Đông xác nhận rằng việc sử dụng đường lối Cộng sản chỉ là
phương tiện giai đoạn, để dân tộc họ qua khỏi đoạn đường bị kiềm tỏa
và bị uy hiếp của Tây phương.
Bây giờ hãy nhìn về Nhật Bổn là
nước có một hoàn cảnh như nước Việt Nam chúng ta trước kia, cũng bị
văn minh Tây phương vây hãm và uy hiếp, nhưng vua quan Nhật Bổn đã
sáng suốt mở cửa đón nhận văn minh kỹ thuật Tây phương để dùng kỹ
thuật Tây phương chống lại các áp lực Tây phương, cho nên họ đã
thành công trong việc phát triển dân tộc họ. Họ đã đưa được dân tộc
họ từ một nước kém mở mang, chỉ hưởng thụ văn minh, lên một nước
phát triển hùng mạnh, được dự phần đóng góp các tinh hoa dân tộc Phù
Tang vào văn minh nhân loại. Trong lúc Nhật Bổn mở rộng cửa đón nhận
văn minh Tây phương thì Vua Quan nước ta cũng như Trung Hoa “bế quan
tỏa cảng” để giam hãm dân tộc mình trong cảnh nghèo nàn lạc hậu?
Trung Hoa bây giờ đã tỉnh mộng, đã thấy rằng đường lối độc tài
sắt máu không còn thích hợp và đang theo đà tiến hoá của nhân loại,
và cũng như Nga Sô, sẽ bỏ đường lối sắt máu độc tài để trở về với
văn minh nhân loại là bảo đảm hạnh phúc cho con người... Vì chính
hạnh phúc của Con Người (Personne Humaine) mới là cùng đích của Xã
Hội, của cuộc đời Xã Hội chỉ là khung cảnh, là phương tiện để gây
hạnh phúc đích thực cho con Người.
Việt Nam, một dân tộc bất
hạnh đã phải đứng chịu trận để các lực lượng, cả tư tưởng văn hóa
lẫn võ lực quân sự, từ quá khứ xa xưa đến thời hiện tại, khi đi từ
Tây sang Đông, từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam và từ Nam lên Bắc,
đã dừng lại trên mảnh đất nhỏ bé này để dày xéo, nhào nặn, làm đủ
tội tình, kể cả đặt ách thống trị hà khắc lên dân tộc chúng ta.
Trong cái không may đó đã cho dân tộc chúng ta một cái may to lớn
hơn là nhờ ở vị trí Ngã Tư đường Di Dân Quốc Tế đó mà dân Việt Nam
đã phải cố gắng hết mình để trường tồn. Nhờ sức cố gắng âm thầm lặng
lẽ nhưng dẻo dai kiên trì, liên tục truyền từ đời nọ sang đời kia,
để tạo cho dân tộc một sức chịu đựng dẻo dai vô tận và một ý chí
quật cường dũng mãnh. Ngày nay sức chịu đựng bền bỉ, sức cố gắng
kiên trì và ý chí quật cường dũng mãnh đã thành gia sản truyền thống
của dân tộc.
Các bậc Cha Anh đã chứng minh sự kiện đó khi
được cơ hội tiếp xúc với các dân tộc Âu Châu trong các trường Đại
Học danh tiếng và bây giờ các con cháu chúng ta cũng đang chứng minh
điều đó trong các trường Đại Học danh tiếng của Hợp Chủng Quốc. Các
Chiến Sĩ Vô Danh của cộng đồng dân tộc đang khắc khoải, đang lo lắng
cho tiền đồ tổ quốc hãy để ý đến điểm này để vững tin vào tương lai
huy hoàng của Việt Nam. Tùng Phong đã có lý khi nói rằng mục đích
cuối cùng không phải là Độc Lập hay Thống Nhất Quốc Gia, mà chính là
“PHÁT TRIỂN DÂN TỘC”.
Cuốn CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM đã đặt nước Việt
Nam cùng các nước khác trên thế giới trong bối cảnh cách đây hơn 30
năm ròng. Các diễn biến tại các nước đã tuần tự xảy ra như đã tiên
liệu để chứng minh giá trị chính xác của các công trình nghiên cứu.
Tình hình Việt Nam cũng đã xét đến trong bối cảnh hồi đó, những
khó khăn được đề cập đến đã tuần tự diễn biến và vẫn còn là những
khó khăn của ngày hôm nay.
Hướng đi để có thể phát triển dân
tộc, đã được phác họa, tuy rất đại cương; nhưng các nét chính yếu
cũng đủ chính xác và hữu hiệu để thế hệ chúng ta hôm nay, cả già lẫn
trẻ, có thể dùng làm mực thước đề đưa dân tộc ta từ hoàn cảnh đen
tối, mịt mù, đến cảnh sáng lạng rực rỡ để đóng góp phần tinh hoa của
mình vào nền văn minh huy hoàng của nhân loại đang trên đà tiến
triển.
Chúng tôi kỳ vọng khi tái bản cuốn sách nghiên cứu
công phu này vào sự thành công của các Chiến Sĩ Vô Danh của cộng
đồng quốc gia, mà quốc gia là gồm tất cả các tầng lớp nhân dân từ
cực HỮU đến cực TẢ.
Chúng tôi cũng hy vọng rằng các chiến sĩ
vô danh của Đệ Nhất Cộng Hoà, đừng vì mặc cảm tuổi tác hay hoàn cảnh
khắc nghiệt mà bỏ lỡ cơ hội để thực hiện các chương trình lớn lao đã
phải bỏ dở dang với cái chết tức tưởi của Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM.
Nhà xuất bản Hùng Vương đặt nhiều kỳ vọng vào các Chiến Sĩ Vô
Danh của cộng đồng dân tộc, cả các bậc tiền bối lẫn các bạn hậu
sinh.
Kính cáo.
Nhà xuất bản Hùng
Vương
Los Angeles
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Phần I
3. BỐI CẢNH CỦA VẤN ĐỀ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Nước
Việt Nam là một nước nhỏ, nhỏ về dân số, nhỏ về lãnh thổ, nhỏ về
kinh tế kém phát triển, và nhỏ về sự góp phần của chúng ta vào văn
minh nhân loại.
Trong suốt phần lịch sử nhân loại mà chúng ta
được biết tới ngày nay, số phận của các quốc gia nhỏ, từ xưa vẫn
không thay đổi. Lúc nào các quốc gia nhỏ cũng phải bị chi phối bởi
những trận phong ba bão táp vô trách nhiệm do các nước lớn gây ra.
Và lúc nào cũng sống dưới sự đe dọa liên tục của một cuộc ngoại xâm.
Từ ngày lập quốc, hơn một ngàn năm lịch sử đã chứng minh rằng
Việt Nam chúng ta không thoát ra ngoài vận mạng thông thường đó. Hết
phải chống Bắc, rồi phải chống Tây, rồi lại phải chống Bắc. Liên
tục, và lúc này hơn lúc nào hết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa dân tộc
Việt Nam.
Để duy trì ách thống trị của mình, các cường quốc
xâm lăng thường áp dụng, đối với các dân tộc bị trị, nhiều biện
pháp, tuy có khác nhau về hình thức, nhưng chung qui vẫn thuộc hai
loại chính:
* Ngăn ngừa không để cho các quyền lợi kinh tế
thuộc vào tay người bản xứ.
* Kiềm hãm không để cho dân trí
phát triển.
Các loại biện pháp thứ nhất nhằm mục đích tiêu
diệt tất cả các phương tiện vật chất của người bị trị.
Các
loại biện pháp thứ hai nhằm mục đích tiêu diệt những người có khả
năng xử dụng các phương tiện vật chất trên, nghĩa là các nhà lãnh
đạo xứng danh.
Đối với các dân tộc bị trị hai loại biện pháp
trên đều có những hậu quả vô cùng thảm khốc. Tuy nhiên, nếu không có
phương tiện của mình thì còn có thể tìm phương tiện khác, chó nếu
không có người lãnh đạo, thì dù có phương tiện cũng không xử dụng
được.
Vì vậy cho nên, đối với một quốc gia mà nền độc lập bị
đe dọa hay đã mất, thì phương pháp hữu hiệu nhất và điều kiện thiết
yếu nhất để chống lại ngoại xâm là nuôi dưỡng và phát triển sự lãnh
đạo.
Trong thực tế, nuôi dưỡng và phát triển sự lãnh đạo có
nghĩa là tạo hoàn cảnh thuận lợi để cho cái tinh túy của tập thể hun
đúc nên thiểu số lãnh đạo xứng danh.
Như thế nào là
lãnh đạo xứng danh?
Thiểu số lãnh đạo và sự thấu
triệt vấn đề của cộng đồng
Trong toàn bộ của cộng đồng, gồm
có thiểu số lãnh đạo cộng đồng và đại đa số chịu sự lãnh đạo. Cộng
đồng lành mạnh khi nào giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu sự lãnh
đạo, sự thông cảm chạy đều, dẫn dắt đến một sự phối hợp hữu hiệu
trong mọi công cuộc của cộng đồng.
- Thiểu số lãnh đạo xứng
danh phải bao gồm những người có đạo đức. Nghĩa là có “Nhân” theo cổ
nhân.
- Thiểu số lãnh đạo xứng danh phải gồm những người có
đủ khả năng vật chất, lý trí và tinh thần để ứng phó với các tình
thế. Nghĩa là có “Dũng” và có “Lược” theo cổ nhân.
- Thiểu số
lãnh đạo xứng danh phải gồm những người thấu triệt vấn đề cần phải
giải quyết của tập thể. Nghĩa là có “Trí” theo cổ nhân. Đời sống của
một cộng đồng cũng như đời sống của một cá nhân, có thể chia thành
từng thời kỳ. Trong đời sống của một cá nhân, một thời kỳ trung bình
mười năm. Đối với một cộng đồng, mỗi thời kỳ cố nhiên phải tương
xứng với đời sống cộng đồng và có thể là một vài thế kỷ. Trong mỗi
thời kỳ của đời sống, mỗi cá nhân phải đương đầu với một ít vấn đề
chánh và đặc biệt của thời kỳ đó. Và mỗi cộng đồng cũng phải giải
quyết một số vấn đề chánh, thiết yếu cho cộng đồng, trong mỗi thời
kỳ.
- Thiểu số lãnh đạo xứng danh phải thấu trit vấn đề đó để
hướng dẫn cộng đồng trên đường tiến hóa, thích nghi chng những vi
khung cảnh của thế hệ hiện tại, mà lại còn với đời sống vĩnh cửu của
cộng đồng.
Các đức tính “Nhân” “Dũng” “Lược” phát sinh từ một
căn bản thiên phú, nếu được hoàn cảnh bên ngoài xã hội và cố gắng
bên trong cá nhân nuôi dưỡng và rèn luyện, sẽ phát triển đến đúng
mức. Nhưng nếu không gặp được cơ hội rèn luyện và phát triển, các
đức tính trên, vì là thiên phú, vẫn tồn tại trong bản chất. Do đó,
các đức tính “Nhân” “Dũng” “Lược” là những điều kiện chủ quan. “Trí”
nghĩa là thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng, là một
điều kiện khách quan. Bởi vì sự thấu triệt vấn đề chỉ có thể được
thực hiện bằng cách sưu tầm, khảo cứu, phân tích, lĩnh hội, quan sát
và tổng kết những tài liệu bên ngoài liên quan đến vấn đề. Không có
tài liệu bên ngoài thì một bộ óc dù thông minh xuất chúng, cũng
không làm sao hiểu được vấn đề.
Các đức tính trên đều cần
thiết cho một sự lãnh đạo xứng danh. Tuy nhiên, trong thực tế, sự
khiếm khuyết một trong các đức tính, không mang đến những hậu quả
như nhau.
Một sự lãnh đạo có đủ “Nhân” “Dũng” “Lược” nhưng
không thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng không thể
đưa con thuyền cộng đồng đến chiến thắng.
Một sự lãnh đạo,
dù thiếu “Nhân” “Dũng” “Lược”, nhưng lại thấu triệt vấn đề của cộng
đồng, vẫn có hy vọng mang thắng lợi về cho cộng đồng, dù rằng thắng
lợi đó phải trả bằng những gian lao và tang tóc.
Chúng ta có
thể ví trường hợp thứ nhất với trường hợp của một người có xe và
đánh xe rất tài, phát tốc độ, kềm cương ngựa tới, kéo ngựa lui,
quanh phải, quanh trái vừa mau lẹ, vừa khoan thai không ai bì kiẹp.
Nhưng lộ trình lại không biết. Như thế, dù xe có phóng nước lớn và
vượt nghìn dặm cũng không đưa được khách đến nơi cần phải đến, vì
chính người đánh xe cũng không biết đó là nơi nào. Trường hợp thứ
hai là trường hợp của một người không xe và cũng không biết đánh xe,
nhưng lại thấu triệt lộ trình. Như vậy những người đồng hành với
người này, có ngày sẽ đến nơi phải đến, tuy biết rằng cuộc hành
trình sẽ đầy gian lao và đòi hỏi nhiều kiên nhẫn.
Suy luận
như trên đây không có nghĩa là muốn chứng minh rằng “Nhân” “Dũng”
“Lược” không thiết yếu cho sự lãnh đạo. Nhưng để chỉ rõ rằng mặc dù
các đức tính “Nhân” “Dũng” “Lược” “Trí” đều cần thiết, tuy nhiên sự
thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng là quan trọng
hơn cả.
Như thế thì, tới đây, chúng ta đã làm sáng tỏ
được ba điểm:
1. Việt Nam của chúng ta là một nước
nhỏ và yếu, lúc nào cũng bị nạn ngoại xâm đe dọa.
2. Trong
công cuộc chống ngoại xâm, một khí giới hữu hiệu nhất là phát triển
lãnh đạo.
3. Trong công cuộc phát triển lãnh đạo, điều kiện
thiết yếu cần được thỏa mãn là: Thiểu số lãnh đạo phải thấu triệt
vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng.
Đa số chịu lãnh đạo
và vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng
Sự thấu triệt vấn
đề của cộng đồng quan hệ như thế nào đối với thiểu số lãnh đạo, trên
đây chúng ta đã thấy.
Một cộng đồng trong toàn bộ gồm nhiều
phần tử cá nhân hợp thành, chia làm hai khối, thiểu số lãnh đạo và
đa số chịu sự lãnh đạo. Thiểu số lãnh đạo có trách nhiệm với vận
mạng của cộng đồng.
Cộng đồng có tồn tại mới bảo đảm được
phát triển của cá nhân. Cộng đồng tồn tại nhờ cố gắng và hy sinh của
cá nhân, tình nguyện hay cưỡng bách, đóng góp. Nhưng lý do của cuộc
sống là sự thỏa mãn ước vọng chánh đáng của cá nhân.
Nói một
cách khác, lý do của cuộc sống là lý do cá nhân. Mà điều kiện của
cuộc sống là điều kiện cộng đồng. Vì thế cho nên, ngay trong bản
chất đã có sự mâu thuẫn giữa quyền lợi của cộng đồng và quyền lợi
của cá nhân trong cộng đồng. Một mâu thuẫn như thế thuộc vào loại
mâu thuẫn lúc nào cũng có ở trong nội tâm[1] của mọi cuộc phối hợp
sáng tạo giữa hai lực lượng tương phản.
Cứu cánh của sự lãnh
đạo là thực hiện một trạng thái điều hòa tuyệt đối giữa hai quyền
lợi mâu thuẫn, cá nhân và cộng đồng. Nếu sự điều hòa được thực hiện
dưới hình thức một sự thăng bằng động tiến, nghĩa là hai lực lượng
tương phản sẽ dựa nhau và kích thích nhau để tiến, thì toàn thể cộng
đồng sẽ tiến triển. Nếu sự điều hòa được thực hiện dưới hình thức
một sự thăng bằng tĩnh chỉ, nghĩa là hai lực lượng tương phản sẽ
đóng khung và kềm giữ nhau, toàn thể cộng đồng sẽ mất đà tiến và trở
thành trụ đóng. Nếu sự điều hòa không được thực hiện, cộng đồng sẽ
tan vỡ.
Nhưng sự mâu thuẫn giữa hai quyền lợi cá nhân và cộng
đồng không phải lúc nào cũng quyết liệt. Trong những thời kỳ bình
thường của cộng đồng, cộng đồng không đứng trước một thử thách khó
khăn, và không đòi hỏi nhiều sự đóng góp của cá nhân. Trong những
thời kỳ đó, sự mâu thuẫn dịu đi – và công cuộc lãnh đạo chú trọng
đến việc giữ cho trật tự xã hội được mọi người tôn trọng, và đời
sống của mỗi cá nhân được phát triển.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] loại mâu thuẫn lúc nào cũng có ở
trong nội tâm: Mâu Thuẫn Nội Tại
Nhưng ở vào những
thời kỳ mà cộng đồng phải đương đầu với một cuộc thử thách nghiêm
trọng, và vì sự sống còn của cộng đồng, đòi hỏi những đóng góp to
tát của cá nhân, sự mâu thuẫn trên lên đến cực độ. Sự lãnh đạo ngoài
sự bảo vệ trật tự xã hội còn phải qui tụ những phưong tiện vật chất
và nhân sự vượt quá mức thông thường để đưa cộng đồng lướt qua các
trở lực.
Sự mâu thuẫn trở thành cực kỳ trầm trọng. Trạng thái
điều hòa rất khó thực hiện và sự tan vỡ của cộng đồng có thể đến bất
cứ lúc nào.
Như thế, sự mâu thuẫn, khi nhẹ khi nặng, lúc nào
cũng có. Trong thực tế, sự mâu thuẫn giữa hai quyền lợi, cộng đồng
và cá nhân, sẽ biến hình thành sự mâu thuẫn giữa thiểu số lãnh đạo
và đa số chịu sự lãnh đạo, vì thiểu số lãnh đạo nhân danh cộng đồng
đòi hỏi sự đóng góp của đa số chịu sự lãnh đạo. Sự mâu thuẫn càng ác
liệt, nếu đại đa số không ý thức cộng đồng và không hiểu biết vấn đề
cần giải quyết của cộng đồng. Trường hợp này càng dễ xảy ra trong
các cộng đồng nghèo nàn về vật chất và ấu trĩ trong tổ chức. Đa số
chịu lãnh đạo không được cộng đồng bảo đảm cho những cần thiết tối
thiểu và sơ đẳng nên không có lý do tâm lý để biết đến cộng đồng,
và, mải bận tâm giải quyết các vấn đề của đời sống hằng ngày, không
có thời giờ mà hiểu biết vấn đề của cộng đồng.
Trong những
thời kỳ bình thường, có thể miễn cưỡng thay thế sự tự ý tham gia của
đa số chịu sự lãnh đạo vào đời sống của cộng đồng bằng sự cưỡng bách
tôn trọng luật lệ của cộng đồng. Nhưng trong những thời kỳ thử thách
thì uy tín vững chắc của một lãnh tụ, hay sự cưỡng bách bằng võ lực
cũng không thay thế được sự đóng góp có ý thức vào nhu cầu của cộng
đồng.
Và điều kiện thiết yếu để thực hiện sjư tự giác đóng
góp như vậy là đa số chịu sự lãnh đạo phải ý thức cộng đồng và hiểu
biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng. Có như vậy thiểu số
lãnh đạo và đa số chịu sự lãnh đạo mới phối hợp điều hòa và tạo cho
cộng đồng sinh lực cần thiết để vượt qua các thử thách quyết liệt
đang đợi chờ.
Nhiều hậu quả trực tiếp
Sự liên hệ đương nhiên giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu sự
lãnh đạo trong một cộng đồng cũng đã đặt cho đa số chịu lãnh đạo sự
cần thiết phải hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng.
Hơn nữa, trong thực tế, nếu đa số chịu lãnh đạo ý thức vấn đề
của cộng đồng, thì cộng đồng còn có thể tránh được nhiều bước lỡ lầm
mà hậu quả sẽ rất tai hại cho các công cuộc chung.
Đa số chịu
lãnh đạo càng ý thức được vấn đề chung, thì đường đất xoay trở càng
rộng cho chiến thuật hành đồng của thiểu số lãnh đạo. Cuộc tranh đấu
càng gay go, chiến thuật càng trở nên khuất khúc và bất ngờ. Và như
vậy sự phối hợp giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo sẽ
không sứt mẻ và cái sắc bén của chiến thuật không bị sờn. Kẻ địch
không lợi dụng được hoàn cảnh nghiêm khắc do cuộc thử thách tạo ra
để ly gián giữa thiểu số và đa số của cộng đồng.
Mọi sự lãnh
đạo đều phải chịu sự phê bình. Có phê bình xây dựng và có phê bình
đả phá. Ngay trong lúc bình thường, đa số chịu lãnh đạo cũng không
dễ dàng phân biệt được sự phê bình xây dựng với sự phê bình đả phá.
Trong những lúc nhiệt độ không khí tranh đấu lên cao và bao trùm mọi
việc thì sự nhận định càng dễ bị đánh lạc hướng và thiện chí càng dễ
bị lợi dụng bởi những chủ trương phá hoại. Tuy nhiên, nếu đa số chịu
lãnh đạo ý thức vấn đề của cộng đồng, thì ít nhiều cũng sẽ có một
tiêu chuẩn để nhận xét tính chất của sự phê bình và không bị những
chủ trương phá hoại lừa gạt. Ví như hành khách, có thể không thấu lộ
trình như người lái xe, nhưng nếu nhiều hành khách có ý thức về lộ
trình thì người lái xe khó mà mang một lộ trình lạ vào thay thế cho
lộ trình mà nhiều người biết qua.
Một sự lãnh đạo chân thành
vì quyền lợi của cộng đồng cũng có lúc phạm vào những lỗi lầm mà hậu
quả sẽ có hại cho cộng đồng. Nhiều cuộc đầu cơ khéo ngụy trang có
thể lừa gạt đa số chịu lãnh đạo của cộng đồng. Trong hai trường hợp
trên đa số có thể bị lôi cuốn vào những công việc tai hại. Và do đó
có thể dẫn dắt cộng đồng đến chỗ sụp đổ.
Đa số chịu lãnh đạo
dù không thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng, nhưng
nếu đã có ý thức, cũng có thể kịp thời nghe theo những lời cảnh tỉnh
xây dựng và từ chối không dự vào những công cuộc đưa cộng đồng vào
vòng tiêu diệt.
Càng phân tích các trường hợp như trên, chúng
ta càng nhận thấy tính cách thiết yếu của sự hiểu biết vấn đề cần
phải giải quyết của cộng đồng đối với đa số chịu lãnh đạo.
Nhiều hậu quả gián tiếp
Đối với một cộng
đồng quốc gia nhỏ và yếu như quốc gia của chúng ta, lúc nào cũng bị
nạn ngoại xâm đe dọa, sự ý thức vấn đề của cộng đồng đối với đa số
chịu lãnh đạo còn hàm nhiều hậu quả tuy gián tiếp nhưng rất là quan
trọng.
Trong những thời kỳ phải đương đầu với nhiều thử thách
quyết liệt, vận mạng của cộng đồng bị đe dọa, thiểu số lãnh đạo bắt
buộc phải đòi hỏi ở đa số chịu lãnh đạo nhiều cố gắng phi thường,
nhiều hy sinh nặng nề và nhiều đóng góp to tát. Nhưng nếu trong hoàn
cảnh đó, đa số chịu lãnh đạo lại không ý thức đúng mức vấn đề của
cộng đồng, thì chẳng những sự góp phần của họ sẽ miễn cưỡng và không
xứng đáng, mà lại còn sẽ phát sinh một hiện tượng tâm lý rất nguy
hiểm cho cộng đồng. Vì tin rằng bị cưỡng bách đóng góp một cách quá
đáng vào một công cuộc mà họ không hiểu, đa số chịu lãnh đạo càng
ngày càng bất mãn đối với thiểu số lãnh đạo. Và lần lần sự bất mãn
biến thành căm thù và cuối cùng vùng lên thành phẫn nộ. Đến cực độ
này, đa số chịu lãnh đạo sẽ trở thành một công cụ sắc bén cho bất cứ
một kẻ ngoại xâm nào biết thừa cơ hội đứng lên khoácc áo nghĩa hiệp
giải phóng cho đa số tự cho là bị thiểu số lãnh đạo bóc lột.
Trong lịch sử của chúng ta, sự thất bại của nhà Hồ và cuộc xâm lăng
nước ta của quân Minh tiếp theo đó, là một sự kiện lịch sử điển hình
cho trường hợp vừa phân tích trên đây. Hồ Quí Ly quyết định thực
hiện một cuộc cách mạng toàn diện cho dân tộc Việt Nam. Xét lại sử
liệu, cuộc cách mạng theo nhà Hồ quan niệm, nếu thành công đã thay
đổi hẳn cuộc tiến hóa của dân tộc. Nghĩa là con đường nhà Hồ đã vạch
ra là con đường vô cùng lợi ích cho cộng đồng. Nhưng Hồ Quí Ly, để
thực hiện chương trình, đã cưỡng bách đa số chịu lãnh đạo đóng góp
nặng nề, trong khi đa số không ý thức được vấn đề của cộng đồng. Và
những biến cố đã xảy ra như ta đã biết: Quân Minh đã lấy danh nghĩa
giải thoát dân tộc Việt Nam khỏi tay một tên soán ngôi, để cướp cả
nước của chúng ta.
Trong ví dụ lịch sử trên đây, nếu đa số
chịu lãnh đạo hiểu biết được ít nhiều vấn đề, đã tránh cho chúng ta
một trong bảy cuộc xâm lăng mà nước Tầu đã dành cho chúng ta trong
một ngàn năm lịch sử.
Nhưng sự hiểu biết vấn đề của cộng đồng
đối với đa số chịu lãnh đạo không những có một hiệu quả tiêu cực đối
với nạn ngoại xâm, như chúng ta vừa thấy trên đây, mà lại còn có một
hiệu quả tích cực trong công cuộc chống lại nạn ngoại xâm lúc nào
cũng đe dọa chúng ta. Những lý lẽ để chứng minh sự kiện này lại nằm
trong một ngàn năm lịch sử của dân tộc Việt chống lại Trung Hoa.
Kinh nghiệm lịch sử của chúng ta chứng tỏ rằng, rốt cuộc lại,
không phải ngoại giao, cũng không phải quân lực đã giúp cho chúng ta
mấy lần đánh bại các cuộc xâm lăng của Trung Hoa và mấy lần quật
khởi sự thống trị ác nghiệt của họ. Bởi vì, ngoại giao chỉ mạnh khi
nào có quân lực mạnh làm hậu thuẫn. Và bởi vì, dù dũng lược có thừa,
nhưng tài nguyên vật chất và nhân lực của chúng ta giới hạn thì quân
lực của chúng ta cũng giới hạn.
Chúng ta đã đánh bại quân xâm
lăng và quật đổ ách thống trị vì chúng ta có người lãnh đạo và ý
thức quốc gia được hun đúc và nuôi dưỡng cũng như vấn đề của quốc
gia được giải thích sâu rộng trong đa số chịu lãnh đạo. Như vậy thì
sự đa số chịu lãnh đạo ý thức cộng đồng quốc gia và hiểu biết vấn đề
cần phải giải quyết của cộng đồng là lợi khí sắc bén nhất để cho một
quốc gia nhỏ và yếu như chúng ta chống lại nạn ngoại xâm.
Các
trường hợp đã phân tích trên đây chứng minh rằng sự đa số chịu lãnh
đạo hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng hàm chứa
nhiều hậu quả ích lợi thiết yếu cho cộng đồng.
Nếu chúng ta
nhìn nhận rằng, sự đa số chịu lãnh đạo hiểu biết vấn đề mặc nhiên sẽ
đưa đến sự đa số chịu lãnh đạo tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào
chính sự của cộng đồng.
Và nếu chúng ta lại nhìn nhận rằng,
sự đa số chịu lãnh đạo tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào chính sự
của cộng đồng là bản chất của tinh thần dân chủ, thì các điểm sau
đây lại được sáng tỏ:
1. Chỉ có sự tôn trọng tinh thần dân
chủ mới là một lợi khí sắc bén nhất để cho một nước nhỏ và yếu như
nước chúng ta chống lại ngoại xâm.
2. Phát huy sự hiểu biết
của đa số chịu lãnh đạo đối với vấn đề cần phải giải quyết của quốc
gia là góp phần tích cực nhất vào công cuộc xây dựng và củng cố tinh
thần dân tộc.
Một ví dụ cụ thể và khắc tín
Trên đây chúng ta đã dẫn chứng để quả quyết hai điều.
*
Thiểu số lãnh đạo thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng
đồng là một điều thiết yếu cho cộng đồng.
* Đa số chịu lãnh
đạo hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng là một điều
thiết yếu cho cộng đồng.
Các biến cố dồn dập xảy ra trong
lịch sử Việt Nạm từ hai mươi năm nay mà mọi người đều còn ghi nhớ có
thể lấy làm một ví dụ cụ thể và minh xác để chú giải hai điều trên
đây.
Thiểu số lãnh đạo và vấn đề
Từ
hai mươi năm nay và còn trong nhiều năm nữa, các biến cố chính trị ở
Việt Nam đều phát sinh từ sự tranh giành ảnh hưởng giữa hai chủ
trương Quốc Gia và Cộng sản. Mặc dù toàn bộ Việt Nam đều bị sự chi
phối nặng nề của hai thế giới Tự Do và Cộng sản, sự hơn kém giữa hai
chủ trương vẫn tùy thuộc ở một số yếu tố nội bộ quyết định, trong số
đó sự lãnh đạo chiếm một vai trò quan trọng.
Sau này trong
phần chính của quyển sách, chúng ta sẽ phân tích với nhiều chi tiết
những lý do vì sao chủ trương Cộng sản chẳng những sẽ không giải
quyết được vấn đề của quốc gia Việt Nam trong thời kỳ nầy của cộng
đồng mà lại còn sẽ đưa dân tộc vào một con đường đen tối cho nhiều
thế hệ trong tương lai.
Mặc dù lý trí của phần đông chưa quan
niệm được một cách rõ rệt hiểm họa trên, nhưng số người trong mọi
tầng lớp ngày càng chống lại chủ trương Cộng sản càng tăng, vì ghê
sợ phương pháp cai trị tàn bạo của họ và ý thức ít nhiều về sự họ từ
chối không nhìn nhận lý do cá nhân của cuộc sống.
Đã thế một
sự kiện không khỏi làm cho chúng ta suy nghĩ. Vì sao, trong hoàn
cảnh đó, chủ trương Cộng sản lại càng ngày càng lấn áp chủ trương
Quốc Gia?...
Các lãnh tụ quốc gia, lo cho vận mạng của nước
nhà, đã để nhiều tâm trí tìm câu trả lời.
Lý thuyết
tranh đấu
Nhiều người tin rằng, sở dĩ chủ trương
Cộng sản thắng thế là vì nhờ có một lý thuyết tranh đấu. Để đối Phó
với chủ trương Cộng sản thì ngược lại chủ trương Quốc Gia không có
một lý thuyết tranh đấu. Do đó từ hai mươi năm nay, nhiều lý thuyết
đã được tạo ra. Nhiều lý thuyết lấy một học thuyết triết học hay tôn
giáo làm căn bản. Một số khác mượn nền tảng của một chủ nghĩa tranh
đấu chính trị đã, trong một lúc nào đó và tại một nơi nào đó trên
thế giới, chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Đối với một vài lý thuyết,
tư tưởng hoàn toàn đóng khung trong giới hạn dân tộc. Một vài lý
thuyết khác khoáng đạt hơn dựa trên một hệ thống tư tưởng của các
triết học danh gia thế giới.
Có nhiều xu hướng lại mang lập
trường Quốc Gia để chọi lại lập trường Quốc tế, xem như là lập
trường của Cộng sản. Và quên đi rằng đối với một quốc gia, ngay cả
các quốc gia Cộng sản, mọi chủ trương đều được nghiên cứu vừa trên
lập trường Quốc Gia vừa trên lập trường Quốc tế.
Các lý
thuyết đưa ra làm lý thuyết tranh đấu để chống lại chủ nghĩa Cộng
sản đã có nhiều. Và hiện nay vẫn còn có người đang đi tìm một lý
thuyết khác nữa với tác dụng trên.
Giá trị tư tưởng các lý
thuyết rất khác nhau nhưng tất cả đều bất lực trong vai trò mong
mỏi: Giúp cho chủ trương Quốc gia chiến thắng chủ trương Cộng sản.
Chẳng những thế tất cả các lý thuyết đều mang đến một kết quả bất
ngờ và trái ngược: Mỗi lý thuyết có một số người tin tưởng, nhất
quyết trung thành với lý thuyết của nhóm mình và thành thật hay miễn
cưỡng bảo vệ lý thuyết đó. Thành ra khối người theo chủ trương Quốc
Gia chia năm xẻ bảy làm cho sinh lực chống lại kẻ địch còn yếu hơn
là lúc không có lý thuyết.
Thật là không có gì làm cho người
Cộng sản vui sướng bằng tình trạng đó. Và họ chỉ ước mong khối quốc
gia tạo ra thêm nhiều lý thuyết tương tự.
Một quan
niệm cần chỉnh đốn.
Nguyên do của một tình trạng như
vậy rất dễ hiểu. Đã là một lý thuyết thì không phải là thực tế. Nếu
lý thuyết lại lấy một thuyết học triết lý làm căn bản thì lại càng
không thực tế nữa. Như chúng ta đều biết: Hai người chủ trương hai
học thuyết triết học khác nhau có thể cãi vã nhau đến tận thế mà
không bao giờ đi đến một sự thỏa thuận.
Vì thiếu căn bản
thiết thực đó cho nên các lý thuyết đưa ra dù có một giá trị tư
tưởng khá cao đi nữa, cũng không có năng lực phát quang để thuyết
phục ai cả.
Tự đặt cho mình một lý thuyết thiếu căn bản thực
tế lại còn mang đến một hậu quả tai hại khác. Những người tin tưởng
vào lý thuyết đó tự bắt buộc phải tôn trọng những nguyên tắc thiếu
thực tế mà lý thuyết đề ra.
Đến khi hành động và đụng chạm
với thực trạng của vấn đề thì phải lâm vào một tình thế không lối
thoát. Bởi vì thực trạng của vấn đề đâu có chiều ý của tác giả lý
thuyết mà uốn nắn mình vào khuôn khổ các nguyên tắc đã đề ra. Trong
trường hợp đó thì, hoặc phản bội lý thuyết mà theo thực tể, hoặc tôn
trọng lý thuyết mà phủ nhận thực tế. Trong trường hợp thứ nhất thiểu
số lãnh đạo sẽ mất uy tín, dần dần mất tin tưởng của đa số và sẽ đi
đến thất bại. Trong trường hợp thứ hai thất bại sẽ đến ngay. Vì thực
tế không thể phủ nhận được.
Sức mạnh của sóng và gió
Khi nhìn thấy mãnh lực qui tụ của lý thuyết tranh đấu Cộng sản
và bị mãnh lực đó ám ảnh, các nhà lãnh đạo của khối Quốc Gia mới suy
thấu có một nửa đường. Họ chưa nhìn thấy rằng lý thuyết Cộng sản chỉ
là một phương tiện tranh đấu và sở dĩ phương tiện tranh đấu đó có
một mãnh lực như chúng ta đều biết, là nhờ có hậu thuẫn của một công
trình nghiên cứu sự kiện thực tế lịch sử của nhiều thế hệ tư tưởng
gia. Trong trường hợp nào khối Cộng sản đã lấy lý thuyết đó làm một
phương tiện tranh đấu, chúng ta sẽ thấy sau này trong phần chính của
quyển sách.
Lý luận trên đây giúp cho chúng ta thấy ngay vì
sao một lý thuyết tranh đấu do một nhóm người ngồi lại nạo óc ra
viết không thể phù hợp với thực tế được. Đã không phù hợp với thực
tế thì làm sao mang đến những kết quả mong mỏi được và sớm muộn gì
cũng bị đào thải.
Người ta nhìn thấy mãnh lực của lý thuyết
tranh đấu, nhưng không nhìn thấy công trình nghiên cứu thực tế lịch
sử làm hậu thuẫn cho mãnh lực đó, cũng như nhìn thấy mãnh lực của
lượn sóng mà không nhìn thấy sức mạnh của gió tạo ra lượn sóng.
Cộng sản và Tây phương
Nếu có thể tạo
được một lý thuyết để chống lý thuyết tranh đấu Cộng sản thì đã lâu
rồi, trong cuộc chiến đấu ác liệt giữa xã hội Tây phương và Cộng
sản, Tây phương đã tạo ra thứ khí giới sắc bén đó. Nhưng, biết rằng
lý thuyết Cộng sản là một phương tiện tranh đấu chỉ tìm được mãnh
lực của nó trong sự nghiên cứu thực trạng xã hội, nên Tây phương
nhất là nhữg dân tộc có óc thực tế như Anh, Mỹ đã tìm giải quyết các
vấn đề do thực trạng xã hội tạo ra để thắng chủ nghĩa Cộng sản. Họ
đã thành công.
Ngày nay, ở Âu Mỹ, sở dĩ chù nghĩa Cộng sản
xuống trào, không phải vì giá trị tư tưởng tuyệt đối đã kém. Nhưng
vì thực trạng xã hội ở Âu Mỹ hiện nay đã thay đổi khác xưa nhiều và
cái lý thuyết mà Cộng sản dùng làm phương tiện tranh đấu không còn
phù hợp với thực trạng hiện nay của xã hội Âu Mỹ nữa. Đây là nguyên
nhân chánh của sự tu chỉnh lý thuyết Các-mác Lê-nin mà nhiều lãnh tụ
Cộng sản đang chủ trương. Sự kiện trên lại chứng minh rằng sức mạnh
của một lý thuyết tranh đấu không phải ở giá trị tư tưởng của lý
thuyết mà ở sự thấu triệt thực trạng của đối tượng.
Như thế
thì, khi tạo ra những lý thuyết để chống lại Cộng sản mà không tìm
hiểu thực trạng của vấn đề, các nhà lãnh đạo của khối Quốc Gia đã
làm một việc của những người lãnh đạo không thấu triệt vấn đề. Và lý
thuyết tranh đấu, mặc dù là một khía cạnh đáng để ý của vấn đề,
tuyệt nhiên chưa phải là vấn đề.
Vấn đề xã hội Tây phương đã
thắng chủ nghĩa Cộng sản trong nội bộ xã hội của họ, bằng cách giải
quyết các vấn đề xã hội cho lớp người sút kém về kinh tế. Nhân cái
gương đó, nhiều lãnh tụ Quốc Gia cũng cho rằng nếu giải quyết các
vấn đề xã hội trong nội bộ của chúng ta thì chúng ta sẽ thắng Cộng
sản.
Nhận xét trên đúng mà không đúng. Đúng vì vấn đề xã hội
cũng chiếm một phần quan trọng trong vấn đề của chúng ta, nhưng
tuyệt nhiên chưa phải là vấn đề. Một mặt khác thực trạng của xã hội
Tây phương lúc chủ nghĩa Cộng sản hoành hành không phải là thực
trạng của xã hội của chúng ta ngày nay.
Tín ngưỡng
Lại có nhiều chủ trương lấy tín ngưỡng mà chống lại Cộng sản.
Tín ngưỡng là một nhu cầu thiêng liêng của tất cả mọi người. Vì thế
khả năng qui tụ của một tôn giáo đối với các tín đồ là một điều kiện
không thể phủ nhận được. Tín ngưỡng là một tín hiệu tập hợp hữu
hiệu. Các chế độ Cộng sản đàn áp tôn giáo chính vì khả năng qui tụ
nói trên, lúc nào cũng đe dọa sự độc quyền lãnh đạo cộng đồng mà
theo họ nhất thiết phải dành cho đảng Cộng sản.
Nhưng tác
dụng thật sự và đương nhiên của sự qui tụ của tín ngưỡng là một tác
dụng tôn giáo nghĩa là chú trọng về phần linh hồn, về phần sau của
cuộc đời hiện tại. Và nếu không có Cộng sản thì sự qui tụ đó cũng
vẫn có. Nói một cách khác sự qui tụ đó tự nó không có mục đích chống
lại chủ trương Cộng sản. Chỉ khi nào, ví dụ trong một chế độ Cộng
sản, có sự đàn áp tôn giáo, bởi vì chế độ Cộng sản không thể dung
dưỡng một sự qui tụ nào khác hơn sự qui tụ là đảng Cộng sản, thì sự
qui tụ tôn giáo mới trở thành một hành động chống Cộng sản. Nhưng sự
chống lại vẫn là một hành động tiêu cực, nghĩa là sự chống lại có
mục đích tự bảo vệ và nếu đàn áp chấm dứt thì sự chống lại cũng chấm
dứt.
Sự qui tụ tôn giáo chỉ có hiệu lực chính trị khi nào
cộng đồng tôn giáo đứng vào thế đối lập và tiêu cực chống lại một
chủ trương.
Ở trong một trường hợp mà sự kiện Cộng sản đàn áp
tôn giáo vẫn còn là một viễn ảnh chưa thành hình thì sự qui tụ tôn
giáo tự nó chưa có điều kiện để chống Cộng sản. Nếu mà các tín đồ có
nhìn được xa và nhất quyết không muốn sống cảnh đàn áp tôn giáo của
Cộng sản, và do đó nhất quyết chống lại Cộng sản, thì hành động đó
cũng vẫn còn là một hành động tiêu cực chưa có thể mang lại thắng
lợi.
Muốn cho khả năng qui tụ tôn giáo trở thành một lợi khí
chống Cộng sản thì phải mang cái khả năng qui tụ đó mà dùng vào một
công cuộc có mục đích giải quyết vấn đề thiết thực của cộng đồng.
Nghĩa là các nhà lãnh đạo chủ trương lấy tín ngưỡng mà chống lại
Cộng sản, phải thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng
và xử dụng khả năng qui tụ của tín ngưỡng để giải quyết vấn đề đó.
Nói tóm lại, tín ngưỡng tự nó không phải là một lợi khí chống
lại chủ trương Cộng sản. Tín ngưỡng sẽ trở thành lợi khí chống lại
Cộng sản trong hai trường hợp:
1. Khi bị Cộng sản đàn áp.
2. Khi khả năng qui tụ của tín ngưỡng được xử dụng trong công
cuộc giải quyết các vấn đề do thực trạng xã hội tạo ra.
Lý
thuyết Cộng sản mạnh nhờ có một hậu thuẫn phong phú: Sự nghiên cứu
các sự kiện thiết thực lịch sử. Tín ngưỡng sẽ là một lợi khí mạnh
chống lại chủ trương Cộng sản khi cũng có một hậu thuẫn nghiên cứu
sự kiện thiết thực lịch sử.
Chủ trương lấy tín ngưỡng để
thắng Cộng sản lại có thể đưa đến một kết quả bất lợi, cũng tương tự
như kết quả bất lợi mang đến bởi các lý thuyết chống chủ trương Cộng
sản. Ranh giới các cộng đồng tôn giáo không ăn khớp với các cộng
đồng quốc gia. Một quốc gia gồm nhiều cộng đồng tôn giáo và một tôn
giáo có thể có tín đồ trong nhiều quốc gia. Thêm vào đó sự kiện
đương nhiên là mỗi tín ngưỡng đều có cái phần giáo lý riêng biệt của
mình thường không dung nạp các giáo lý khác. Thành ra sự huy động
thiếu tinh vi lực lượng tín đồ của nhiều tôn giáo có thể mang đến
xung đột và chia rẽ trong nội bộ của cộng đồng quốc gia.
Tiêu cực chống và tích cực chống
Như vậy thì
các biến cố chính trị ở Việt Nam từ hai mươi năm nay là một ví dụ cụ
thể để minh xác rằng sự thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của
cộng đồng rất là thiết yếu cho thiểu số lãnh đạo.
Về phần họ,
các nhà lãnh đạo Cộng sản có phải là một thiểu số lãnh đạo thấu
triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng không? Trong phần
chính của quyển sách sau này, chúng ta sẽ thấy rằng cường điểm của
họ ở chỗ cùng với sự thâu nhận lý thuyết Cộng sản làm lợi khí tranh
đấu, họ đã thừa hưởng của Cộng sản quốc tế một công trình nghiên cứu
sự kiện thực tế lịch sử rất phong phú. Tuy nhiên, nhược điểm của họ
cũng ở chỗ họ đã trụ vào một di sản ngoại lai, trong khi thực trạng
vấn đề Việt Nam ngày nay không phải là thực trạng vấn đề các quốc
gia Cộng sản mà họ lấy làm gương mẫu.
Tóm lại các điểm dưới
đây có thể dùng làm kết luận cho đoạn trên.
Lý thuyết Cộng
sản là một phương tiện tranh đấu của một chủ trương. Sức mạnh của
chủ trương này do di sản của Cộng sản quốc tế: Một công trình nghiên
cứu thực trạng xã hội rất phong phú.
Trên chính trường của
Việt Nam từ hai mươi năm nay, chủ trương Cộng sản đưa ra làm một
giải pháp cho vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng quốc gia Việt
Nam. Toàn bộ của vấn đề này do thực trạng lịch sử của cộng đồng Việt
Nam trong thời kỳ này tạo ra. Thời kỳ này cố nhiên gồm nhiều thế kỷ
vừa qua và sẽ gồm nhiều thế kỷ sắp đến.
Giải pháp Cộng sản có
thích hợp cho cộng đồng hay không, phần chính của quyển sách sẽ trả
lời tỉ mỉ câu hỏi này. Nay chỉ biết rằng sức mạnh của chủ trương
Cộng sản ở chỗ chủ trương này đã lấy làm hậu thuẫn sự nghiên cứu đến
nơi thực trạng của vấn đề.
Như thế thì, nếu muốn cho
chủ trương cộng sản thất bại, thì phải làm hai việc:
1. Tìm hiểu rõ thực trạng của vấn đề cần phải giải quyết của
cộng đồng.
2. Có một giải pháp khác để thay thế cho giải pháp
Cộng sản.
Nhưng thay vì hai việc thiết thực trên, thì, cho
đến ngày nay, các nhà lãnh đạo của khối Quốc Gia chỉ đặt vấn đề
chống lại chủ trương Cộng sản một cách tiêu cực. Tiêu cực ở đây
không có nghĩa là không nhiệt thành mà chống lại, nhưng có nghĩa là
đặt sự chống làm mục đích. Vì sau cái việc chống không có một giải
pháp cho vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng dân tộc.
Nếu vấn đề chưa giải quyết, thì, dù chủ trương Cộng sản bị đánh bại
bằng những phương pháp nào đó trong nhất thời cái nguyên nhân để cho
chủ trương Cộng sản tồn tại vẫn còn.
Hơn nữa, để thực hiện sự
chống lại chủ trương Cộng sản, chẳng những tư tưởng của khối Quốc
Gia tiêu cực, mà lợi khí xử dụng lại không sắc bén. Các chủ trương
chính trị không có khả năng qui tụ, nhưng một khi qui tụ rồi thì lại
không xử dụng được sự qui tụ đó vì thiếu chương trình để giải quyết
vấn đề của dân tộc.
Nếu cần một ví dụ để làm sáng tỏ suy luận
trên đây, chúng ta có th ví thiểu số lãnh đạo Cộng sản với một số
người, trước khi xây một ngôi nhà đã thừa hưởng kết quả của một cuộc
đào cẩn thận cho đến tận đá, và trên cái khối đá vững chắc đó, họ đã
đặt nền móng cho một ngôi nhà theo quan niệm của họ. Nhưng hướng,
kích thước, và kiến trúc của ngôi nhà có thích hợp với cộng đồng
không? Chúng ta sẽ trả lời sau này. Nay chỉ biết rằng ngôi nhà họ
muốn xây dựng, được đặt trên một nền móng vững vàng có thể chịu đựng
được sự lay chuyển của biến cố.
Trong khi đó thiểu số lãnh
đạo khối Quốc Gia không nỗ lực đào đến đá, không quan niệm trước sẽ
xây ngôi nhà ra sao, lại bất cứ trên bùn trên cát cũng hấp tấp xây
nhà, cái nhỏ, cái lớn. Nhưng nền móng không vững, các biến cố xảy
đến gây sụp đổ lần lượt cái này đến cái khác. Nếu khối Quốc Gia đánh
lại được khối Cộng sản, làm cho họ không xây được ngôi nhà mà họ
quan niệm, thì sự nghiệp đã đào đến đá mà họ thừa hưởng của Cộng sản
Quốc Tế vẫn còn đó, và quan niệm của họ về ngôi nhà vẫn còn đó.
Vấn đề của thiểu số lãnh đạo Quốc Gia là phải đào cho đến đá,
trên đó đặt nền móng cho một ngôi nhà được quan niệm rõ rệt cho
thích hợp với cộng đồng. Chỉ có cách đó khối Quốc Gia mới thay thế
được và loại hẳn ra được ngôi nhà của chủ trương Cộng sản.
Sở dĩ khối Quốc Gia lâm vào tình trạng sa lầy như trên chỉ vì thiểu
số lãnh đạo không thấu triệt vấn đề.
Như vậy thì các biến cố
chính trị ở Việt Nam hai mươi năm nay là một ví dụ rất cụ thể và
minh xác cho sự kiện thiểu số lãnh đạo phải thấu triệt vấn đề cần
phải giải quyết của cộng đồng.
Đa số chịu lãnh đạo và
vấn đề
Thiểu số lãnh đạo đã không thấu triệt vấn đề
cần phải giải quyết của cộng đồng, tất nhiên đa số chịu lãnh đạo
không làm sao hiểu được vấn đề.
Và như thế những sự kiện khả
dĩ làm đổ vỡ sự điều hòa giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh
đạo, như chúng ta đã biết, sẽ lại xảy ra còn trầm trọng hơn là trong
trường hợp mà thiểu số lãnh đạo thấu triệt vấn đề nhưng đa số chịu
lãnh đạo không hiểu biết vấn đề.
Giữa hai phần, thiểu số và
đa số, của cộng đồng chẳng những không có một sự phối hợp điều hòa,
lại còn có một sự đoạn tuyệt kinh khủng. Đối với bất cứ một vấn đề
gì, chủ trương của thiểu số lãnh đạo đều không được đa số hiểu biết
và tán thành. Do đó, thiểu số lãnh đạo chỉ còn có phương pháp mạnh
để bắt buộc đa số phải tuân theo.
Kẻ thù không bỏ lỡ cơ hội,
cố tâm nỗ lực đào sâu cái hố giữa thiểu số và đa số. Lúc nào sự bất
mãn của đa số đối với thiểu số cũng ngấm ngầm, và bùng nổ dữ dội
trong những lúc khủng hoảng.
Thỉnh thoảng uy tín cá nhân của
một vài người có thể thực hiện được sự qui tụ cần thiết cho sự tiến
triển của quốc gia trong một thời gian. Nhưng vì những yếu tố căn
bản của sự điều hòa giữa hai khối thiểu số và đa số không có, nên
không bao lâu, việc đâu lại hoàn đấy.
Ôn lại và phân tích các
biến cố chính trị đã xảy ra từ hơn hai mươi năm nay trong khối Quốc
Gia Việt Nam, tất cả đều có thể hiểu được khi ta biết rằng nguyên do
chính ở chỗ không có sự phối hợp giữa đa số chịu lãnh đạo và thiểu
số lãnh đạo.
Trong những hậu quả mà sự đoạn tuyệt giữa thiểu
số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo mang đến cho cộng đồng, hậu quả
sau đây đã thể hiện một cách rõ rệt trong những biến cố hiện đang
tiến diễn.
Chúng ta biết rằng, mâu thuẫn đương nhiên lúc nào
cũng có giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo trở nên vô
cùng trầm trọng khi hai điều kiện dưới đây xảy ra một lúc.
1.
Có sự đoạn tuyệt giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo.
2. Nhu cầu của cộng đồng bắt buộc thiểu số đòi hỏi một sự đóng
góp nặng nề của đa số chịu lãnh đạo.
Đa số chịu lãnh đạo
không hiểu biết lý do của sự đóng góp của mình và nghĩ rằng bị thiểu
số bóc lột. Sự phẫn nộ do đó càng ngày càng lên. Lúc bấy giờ bất cứ
một kẻ xâm lăng nào đứng lên phất cờ giải phóng, đa số chịu lãnh đạo
sẽ hướng vào một cách mù quáng.
Trường hợp trên đây đã xảy ra
một cách điển hình, ít có, gần đây trong khối Quốc Gia của Việt Nam.
Vì nhu cầu phát triển, thiểu số lãnh đạo đã đòi hỏi nhiều nỗ lực ở
đa số chịu lãnh đạo, nhất là ở thôn quê vào những năm 1958-1959
trong những chương trình gọi là phát triển cộng đồng. Nhưng vì một
khiếm khuyết của thiểu số lãnh đạo, cho nên đa số chịu lãnh đạo
không ý thức sự cần thiết của những nỗ lực đòi hỏi. Do đó sự bất mãn
nhen nhúm và lần lần lan tràn.
Nhà cầm quyền Cộng sản ở Hà
Nội khai thác ngay cơ hội và năm 1960 đã đưa quân xâm lăng vào miền
Nam với danh nghĩa quân “Giải phóng”. Cố nhiên là những người tự cho
mình bị thiểu số lãnh đạo miền Nam bóc lột hưởng ứng và hiện nay
chúng ta còn đang mục kích hiện tượng nói trên.
Ở miền Bắc
Việt Nam tình trạng mâu thuẫn giữa thiểu số lãnh đạo Cộng sản và đa
số chịu lãnh đạo cũng không kém gay go.
Thiểu số lãnh đạo
Cộng sản ý thức vấn đề phát triển của cộng đồng, như chúng ta sẽ
thấy trong phần chánh sau này. Nhưng phương pháp phát triển của họ
đòi hỏi một sự đóng góp tột bực của đa số chịu lãnh đạo. Vì vậy cho
nên, mặc dù kỹ thuật dân vận của họ có hiệu quả, sự bất mãn của đa
số ngày càng cao và tuy chế độ cảnh sát của họ rất nghiệt, thỉnh
thoảng vẫn có những cuộc nổi dậy chứng tỏ sự phẫn nộ của đa số chịu
lãnh đạo.
Nếu thời cơ đưa đến, bất cứ một người nào phất cờ
giải phóng miền Bắc, sẽ được đa số chịu lãnh đạo hưởng ứng nồng
nhiệt.
Như vậy các biến cố xảy ra ở Việt Nam từ hơn hai mươi
năm nay là một ví dụ cụ thể, minh xác tính cách thiết yếu của sự
hiểu biết vấn đề cộng đồng cần phải giải quyết đối với đa số chịu
lãnh đạo.
Đề xuất đối tượng
Thiểu số
lãnh đạo thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng là một
điều kiện thiết yếu cho cộng đồng.
Đa số chịu lãnh đạo hiểu
biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng là một điều kiện thiết
yếu cho cộng đồng.
Đối tượng của quyển sách này là tìm xem
vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng Quốc Gia Việt Nam trong
thời kỳ này của cộng đồng là vấn đề gì.
Trong khuôn khổ vài
ba trăm trang giấy, và đối với một vấn đề đương nhiên quan hệ cho
dân tộc và tự nó phức tạp như vấn đề nêu lên đây, ước vọng của tác
giả không làm sao vượt lên quá được cái mức công việc chỉ nêu lên
các khía cạnh của vấn đề, và, những dây liên hệ giữa các khía cạnh
trong toàn bộ. Mặc dù đã tham khảo một số lớn tài liệu trong nước
cũng như ngoại quốc và để tâm nghiên cứu vấn đề trong nhiều năm, tác
giả không khỏi lấy làm lo sợ và đắn đo khi phải trình bày kết quả
suy luận riêng của mình. Động cơ duy nhất khiến cho tác giả thắng
được sự e dè của mình là nỗi lo âu mà tác giả chia sẻ với toàn dân
Việt Nam trước tình thế rất bi quan của dân tộc. Vì vậy mà đánh bạo
đóng góp một phần nhỏ nhặt vào công cuộc tìm lối thoát cho cộng đồng
Quốc Gia.
Ba bối cảnh
Đối tượng chánh
vẫn là vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng dân tộc. Nhưng, bao
giờ cũng vậy, một phần của toàn bộ lúc nào cũng được sáng tỏ hơn khi
được đặt vào toàn bộ. Vì thế nên vấn đề cần phải giải quyết riêng
của Việt Nam sẽ được đặt trong ba bối cảnh. Bối cảnh thứ nhất là bối
cảnh rộng lớn của tình hình chính trị thế giới. Bối cảnh thứ hai,
nhỏ hơn, gồm các nước trong thế giới đang ứng phó với một thử thách
tương tự, như thử thách của Việt Nam. Và sau cùng, bối cảnh thứ ba
là một bối cảnh hẹp gồm các quốc gia thuộc về một khối văn hóa với
Việt Nam: Các nước láng giềng ở Đông Á và Đông Nam Á.
Thị kỳ sở dĩ
(1)
Một mặt khác mỗi thời kỳ của cộng đồng
dân tộc gồm nhiều thế hệ trước và sau thế hệ hiện tại. Vả lại, thực
trạng lịch sử mà chúng ta nhìn thấy trước mắt là hậu quả của những
sự kiện đã xảy ra hằng mấy thế kỷ trước và là nguyên nhân của những
sự kiện sau này. Vì thế nếu muốn tìm hiểu thực trạng hiện tại và dự
đoán các biến cố trong tương lai, bắt buộc phải xét lại lịch sử của
nhiều thế kỷ đã qua. Ví như chúng ta hiểu được cốt truyện đang diễn
tả trên màn bạc và đoán được ít nhiều những cảnh sắp tới, là khi nào
chúng ta đã xem qua các đoạn trước của cuốn phim. Do đó, sẽ có nhiều
chương dành cho lịch sử của nhiều quốc gia trong những thế kỷ đã
qua.
Giải pháp
Sau khi, nhờ ở những
sự phân tích trên, vấn đề cần phải giải quyết của Việt Nam trong
thời kỳ hiện tại của cộng đồng đã sáng tỏ, nhiều chương sẽ dành cho
sự nghiên cứu một giải pháp mà tác giả nghĩ rằng thích hợp cho dân
tộc.
Nhưng trước khi bàn tới giải pháp đề nghị, thì, theo
gương các người lữ hành, trước khi lên đường, chúng ta sẽ kiểm điểm
lại cái vốn tinh thần và vật chất mà chng ta có, cũng như những món
nợ phải mang theo mình. Vài chương sẽ được dành cho bản mục lục đó.
Cuối cùng vài chương sẽ dành để phác họa giải pháp mà tác giả
thiển nghĩ rằng thích hợp cho vấn đề. Các khía cạnh chính trị, kinh
tế và văn hóa sẽ được đề cập đến.
Như trên đã nói, đối với
một vấn đề bao la và phức tạp như vậy và trong khuôn khổ của vài ba
trăm trang, ước vọng của tác giả không thể vượt quá cái mức công
việc chỉ nêu lên các khía cạnh của vấn đề. Phần nghiên cứu tỉ mỉ và
chỉ giáo xin trân trọng dành cho các bậc học giả trong nước.
Vị trí của tác giả
Bất cứ một đối tượng nào
cũng có thể được nhìn từ nhiều vị trí. Vị trí khác, kết quả của sự
nhìn sẽ khác, nghĩa là hai người từ hai vị trí khác nhau cùng nhìn
một vật thể, mỗi người sẽ thấy một vật thể khác.
Trong các
đoạn nhận xét, phân tích và suy luận dưới đây, đối với một vấn đề
hay nhiều vấn đề, tùy theo hoàn cảnh tác giả sẽ đứng từ những vị trí
khác nhau. Ví dụ có nhiều sự kiện sẽ có khi được nhận xét từ một vị
trí quốc gia, và có khi từ một vị trí của một cộng đồng ngoài quốc
gia. Lúc nào trường hợp đến, người đọc sẽ nhận thấy ngay là vị trí
nào.
Tuy nhiên, có hai vị trí cần phải có sự thỏa thuận trước
giữa tác giả và người đọc. Vì nếu không có sự thỏa thuận trước, thì
nhiều vấn đề hoặc khía cạnh của vấn đề sẽ không được sáng tỏ, vì tác
giả và người đọc sách sẽ đứng vào những vị trí khác nhau.
Vị
trí thứ nhất là một vị trí lúc nào tác giả cũng sẽ đứng vào để nhìn
tất cả các vấn đề trình bày: Đó là vị trí thực tế lịch sử. Bởi vì
thực tế lịch sử không có thể phủ nhận được. Và trên nền tảng vững
chắc đó mới có thể lấy óc khoa học mà suy luận không sợ phạm vào
những lỗi lầm căn bản.
Vị trí thứ hai là vị trí không bao giờ
tác giả dám đứng vào để nhìn bất cứ vấn đề nào được trình bày: Đó là
vị trí triết lý tôn giáo, và lý thuyết là những lĩnh vực mà sự đối
chọi giữa hai chủ trương trái ngược có thể kéo dài vô cùng tận. Bất
cứ trong lãnh vực nào của đời sống của cộng đồng: chính trị, văn
hóa, và kinh tế, sự nhận xét phân tách và suy luận của tác giả đều
căn cứ trên những sự kiện lịch sử và để một bên tất cả các lý
thuyết. Hành động như trên không có nghĩa là phủ nhận sự ích lợi của
lý thuyết và giá trị của nhiều lý thuyết. Nhưng cố định đứng ngoài
vị trí triết lý và lý thuyết để tránh tất cả các sự biện luận không
thiết thực và do đó không thích hợp với mục đích của quyển sách.
Tài liệu tranh đấu
Mấy trăm trang dưới
đây không phải là một tài liệu tranh đấu theo nghĩa thông thường của
danh từ này: Nghĩa là lời văn sẽ không đanh thép, và ý văn sẽ không
đề cao bất cứ cái gì của dân tộc hay của khối Quốc Gia. Hình thức sẽ
không cổ võ nhiều người đứng lên dấn thân vào một công cuộc chung và
nội dung sẽ không cố tình binh vực một lập trường đã quyết định
trước.
Nhưng mấy trăm trang dưới đây có thể là một tài liệu
tranh đấu, nếu gọi là một tài liệu tranh đấu, tài liệu nào khả dĩ
mang thắng lợi tới cho chủ trương Quốc Gia Dân Tộc.
Bởi vì
mấy trăm trang dưới đây là một tài liệu nghiên cứu sự kiện thực tế
của lịch sử. Mà thấy được thực trạng của vấn đề, biết mình và biết
chung quanh mình là một yếu tố quyết định cho sự thắng lợi.
Chính vì lập trương nghiên cứu sự kiện thực tế của lịch sử cho nên
tự ti mặc cảm tuyệt nhiên không có, khi nhận xét rằng Việt Nam là
một quốc gia nhỏ và yếu. Nhỏ và yếu vì dân số, vì kinh tế kém mở
mang, và vì sự góp phần vào văn minh nhân loại. Trái lại, chính vì
không tự ti mặc cảm nên mới có nhận xét như vậy. Cứ gì có một dân số
khổng lồ, một kinh tế phong phú mới là một dân tộc lớn. Và chính là
khi chúng ta dám nhìn thẳng vào thực trạng của dân tộc, chúng ta mới
đủ điều kiện đưa dân tộc vượt lên.
Và cũng vì lý do trên mà
tài liệu này không đề cập đến bốn ngàn năm văn hiến của dân tộc, lại
chỉ nói đến một ngàn năm lịch sử. Cũng như trên, làm như vậy không
phải vì tự ti mặc cảm. Những gì trong lịch sử của chúng ta chỉ có
một ngàn năm sau này mới có đủ tài liệu đích xác để làm nền tảng cho
suy luận.
Lối hành văn
Sau hết tác
giả cố tình sử dụng một lối hành văn dùng nhiều danh từ.
Các
ngôn ngữ trên thế giới chia làm hai loại, loại cụ thể và loại trừu
tượng. Ngôn ngữ cụ thể dùng nhiều động từ trong câu văn để diễn tả
những động tác. Ngôn ngữ trừu tượng dùng nhiều danh từ để diễn tả
những khái niệm. Văn hóa của một dân tộc càng tiến bộ, những khái
niệm trừu tượng càng nhiều, ngôn ngữ càng trừu tượng. Vì một khái
niệm trừu tượng lúc nào cũng diễn đạt một tư tưởng phong phú hơn một
tác động cụ thể, nghĩa là một danh từ bao giờ cũng diễn đạt một tư
tưởng phong phú hơn một động từ.
Giữa hai câu:
- Ông A
đến Sài Gòn.
và: - Sự đến Sài Gòn của ông A.
Câu thứ
nhất chỉ diễn tả hành động cụ thể “Đến Sài Gòn của ông A”.
Câu thứ hai trái lại, mô tả chẳng những hành động cụ thể đó mà tất
cả các sự kiện dính liền vào hành động trên.
Việt ngữ cũng có
lối hành văn với danh từ, nhưng thường thì động từ vẫn quen dùng
hơn. Bởi vậy cho nên câu “Ông A đến Sài Gòn” nghe quen tai hơn.
Tuy nhiên, trong một vấn đề bao la và phức tạp như vấn đề được
giải trong những trang sau này, tác giả nhận thấy sự cần thiết phải
diễn tả cho hết các tư tưởng, vừa để cho cuộc suy luận được bao quát
và vững chắc, vừa để cho các tư tưởng diễn tả được phong phú hầu các
khía cạnh của vấn đề được sáng tỏ. Các câu văn dùng nhiều danh từ
mặc dù có hơi lạ tai, nhưng hàm súc và khúc chiết hơn để diễn tả
những ý kiến trừu tượng tổng quát và bao gồm, thay vì những ý kiến
cụ thể giới hạn cho từng trường hợp.
Vấn đề hành văn này sẽ
được đề cập đến với nhiều chi tiết trong phần văn hóa của đoạn sau
cùng của quyển sách.
Đến đây kết thúc các trang giới
thiệu vấn đề để bước vào phần trình bày nội dung vấn đề.
Trong suốt một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, dân tộc Việt
Nam đã vượt qua nhiều thử thách mà sử còn ghi chép. Theo định luật
của các sinh vật, mỗi lần vượt qua được một thử thách là mỗi lần
vượt lên một nấc thang tiến hóa – một cộng đồng dân tộc là một sinh
vật. Cộng đồng của chúng ta trưởng thành trong thử thách. Tuy nhiên,
sự tin tưởng nơi tiềm lực của dân tộc không nên làm cho chúng ta xem
thường thử thách đang đợi chờ thế hệ của chúng ta.
Trước
chúng ta đã có năm thế hệ đã thất bại trước thử thách này. Từ một
ngàn năm nay, dân tộc chúng ta chưa có bao giờ gặp phải một thử
thách ghê gớm như vậy. Thử thách càng lớn, sự thắng lợi càng đưa dân
tộc lên cao, nhưng sự thất bại cũng sẽ bi thảm một cách tương xứng
cho các thế hệ sau này.
Hai mươi năm nay, các biến chuyển đã
đưa lần sự thắng lợi và thất bại của thế hệ của chúng ta đến chỗ chỉ
còn cách nhau một đường tơ. Các trang trong phần chính sẽ giải thích
vì sao trách nhiệm ứng phó với thử thách hiện tại, ngày giờ này đang
đè nặng lên vai của miền Nam Việt Nam. Và chưa bao giờ cộng đồng dân
tộc đòi hỏi mỗi phần tử phải tham gia vào một công cuộc đầy kích
thích như ngày nay.
Nếu không thấy vấn đề thì trong sự thất
bại hay thắng lợi, mười phần trách nhiệm của người là năm và năm
phần là vận nước.
Đã thấy vấn đề thì trong sự thắng lợi hay
thất bại, mười phần trách nhiệm của người là bảy và ba phần là vận
nước.
Đối với một phần tử của cộng đồng, không có sự ước
mong nào thiết tha hơn là sự ước mong thấy dân tộc lại vượt qua thử
thách, lần nầy cũng như những lần đã qua trong lịch sử.
Ghi chú:
(1)
Cách thức
khảo sát của Khổng Tử là: "tam khan": "Thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do,
sát kỳ sở an" (xem việc người đó làm, khảo sát quá trình người đó
làm, xem xét người đó làm lúc an, lúc nguy).
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Phần I
4. NHẬN ĐỊNH VỀ THẾ GIỚI
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lĩnh vực chính trị
Hiện nay trong lĩnh vực chính
trị, thế giới chia làm hai khối rõ rệt: một bên là khối tự do, một
bên là khối Cộng sản.
Mặc dầu gần đây, có xảy ra một mặt
những cuộc tranh chấp đôi khi lên đến một cao độ đáng chú ý giữa các
quốc gia trong khối Cộng sản, cũng như trong khối Tự Do, một mặt
khác nhiều thỏa ước có tính cách chính trị, văn hóa, khoa học hay
kinh tế đã được ký kết giữa những quốc gia thuộc khối khác nhau, sự
phân biệt trên vẫn còn giữ nguyên giá trị. Lý do của tình trạng đó
là sự khác biệt giữa hai khối do hai quan niệm khác nhau về phương
pháp lãnh đạo.
Hai bên đều tuyên bố mục đích tối hậu của mình
là mưu hạnh phúc cho nhân dân. Tuy nhiên, để đạt mục đích đó, khối
Tự Do chủ trương khắc phục cho được sự tự ý tham gia của quần chúng
vào công cuộc xây dựng hạnh phúc đó. Trái lại khối Cộng sản chủ
trương một sự tham gia cưỡng bách.
Hai quan niệm đều có ưu và
khuyết điểm. Sự chọn lựa một trong hai quan niệm trên không căn cứ
trên các ưu và khuyết điểm ấy mà lại do những hoàn cảnh lịch sử, mà
chúng ta sẽ thấy.
Nay chỉ cần biết rằng sự khác biệt giữa
hai quan niệm ấy đã dẫn dắt đến các sự khác biệt về lý thuyết chính
trị, về bộ máy chính phủ, về hệ thống kinh tế và về quyền sở hữu.
Lĩnh vực văn hóa
Bây giờ nếu chúng ta
đứng vào lĩnh vực văn hóa thì nhận thấy thế giới lại chia ra làm
nhiều khối hơn. Trước tiên là khối Âu Mỹ gôm các nước ở Âu Châu, kể
cả Nga Sô và các nước Đông Âu thuộc Nga. Các nước ở Bắc và Nam Mỹ và
những quốc gia do người Âu lập ra ở Úc Châu, Tân Tây Lan và Nam Phi.
Khối này gồm các nước thuộc vào xã hội Tây Phương thừa hưởng văn hóa
Hy Lạp và La Mã khi xưa và văn hóa Gia Tô sau này.
Khối thứ
hai gồm các quốc gia Ả Rập ở từ vùng cận Đông đến Hồi Quốc, Thổ Nhĩ
Kỳ, Soudan, Ai Cập và các quốc gia Bắc Phi Châu. Khối này lập thành
xã hội Hồi Giáo thừa hưởng văn hóa Hồi Giáo.
Khối thứ ba gồm
các quốc gia ở phía Đông Đại lục Âu Á: Nhật Bổn, Đại Hàn, Trung Hoa
và Việt Nam, lập thành xã hội Đông Á thừa hưởng văn hóa xưa của
Trung Hoa.
Khối thứ tư gồm Ấn Độ và – ngoài các nước nhỏ phụ
cận phía Bắc Ấn Độ – Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt, Mã Lai và
Nam Dương. Lập thành xã hội Ấn Độ thừa hưởng văn hóa Ấn Độ.
Và sau hết khối Hắc Phi gồm các quốc gia mới xuất hiện ở Phi Châu
lập thành xã hội Hắc Phi có một văn hóa phôi thai.
Lĩnh vực khoa học kỹ thuật
Bây giờ nếu chúng ta đứng
vào lĩnh vực khoa học và kỹ thuật, thì chúng ta lại nhận thấy các
khối chính trị văn hóa nói trên tự nhiên biến mất, và lại hiện ra
một hiện trạng thống nhất bất ngờ. Tất cả các quốc gia trên ều theo
đuổi một khoa học – khoa học Tây phương–, đều áp dụng một kỹ thuật –
kỹ thuật Tây phương –, dù kỹ thuật ó thuộc về lĩnh vực chính trị,
hay quân sự, hay giáo dục, hay sản xuất, hay kinh tế, hay kỹ nghệ,
hay vận tải và giao thông.
Vì những lý do gì mà tùy theo lĩnh
vực, thế giới khi thì hợp thành một khối, khi lại chia ra nhiều
khối?
Các sự kiện lịch sử dưới đây sẽ giải thích rõ hình
trạng mới xem qua phức tạp đó.
Văn minh Tây phương
chinh phục thế giới
Trở ngược lại dòng lịch sử và
nhìn vào bản đồ thế giới vào khoảng thế kỷ XIV, thời kỳ mà các
phương tiện giao thông còn nghèo nàn, thì chúng ta nhận thấy rằng
cách đây không quá 600 năm các xã hội mà chúng ta đã phân biệt trên
kia trong lĩnh vực văn hóa đã có. Chẳng những thế, lúc bấy giờ ranh
giới giữa các xã hội trên lĩnh vực văn hóa lại cũng là ranh giới
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và kỹ thuật.
Nhưng sau
đó, văn minh Tây phương thoát khỏi thời kỳ phôi thai và phát triển
một cách hùng mạnh. Nền vãn minh này tự tạo cho mình một sinh lực
dồi dào nhờ thừa hưởng được văn hóa Hy Lạp và La Mã xây dựng trên
những căn bản lý trí chính xác và nhờ ở kinh Thánh Gia Tô gieo cho
quần chúng một đức tin mãnh liệt.
Nhờ đó, người Tây phương
tìm được nhiều phát minh khoa học và sáng chế được nhiều kỹ thuật
khả dĩ giúp cho họ vượt biển và chinh phục nhiều đất đai mới. Lúc
đầu họ chiếm những vùng dân cư thưa và lạc hậu ở Nam và Bắc Mỹ lập
thành những quốc gia mới theo kiểu Âu Châu.
Nhưng lần lần
theo đà phát triển càng ngày càng mãnh liệt và càng ngày càng nhanh
của xã hội Tây phương, người Tây phương khắc phục được nhiều kỹ
thuật mới lạ khả dĩ đặt vào trong tay họ những mãnh lực vật chất
không xã hội nào đương đầu nổi. Và vào thế kỷ 16 họ đã bắt đầu chinh
phục xã hội Hồi Giáo lân cận. Thế kỷ 17 và 18 chứng kiến sự thất bại
của các quốc gia trong xã hội Ấn Độ và thế kỷ 19 đến lượt các quốc
gia trong xã hội Đông Á. Đến thế kỷ 20 văn minh Tây phương đã hoàn
toàn chinh phục thế giới và nhờ đó mang lại cho các dân tộc Tây
phương một nền thịnh vượng chưa từng thấy. Tất cả các quốc gia ngoài
xã hội Tây phương đều bị biến thành thuộc địa hay bán thuộc địa. Chỉ
trừ một vài dân tộc như Thổ Nhĩ Kỳ và Nhật Bổn vì nhờ đã sớm nhận
định được bí quyết thành công của người Tây phương là ưu thế của họ
trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật.
Những nước này đã “Duy
Tân” kịp thời, khắc phục những kỹ thuật của Tây phương để chẳng
những tự vệ đối với sự tấn công của Tây phương mà lại còn, cũng như
các nước trong xã hội Tây phương, mang lại cho dân tộc của họ một
mức sống dồi dào hơn.
Tất cả các nước khác như Việt Nam đều
phải chịu mang ách nô lệ, và cũng như Việt Nam, đã mất một cơ hội
thứ nhất để xây dựng cho dân tộc mình một quốc gia hùng cường và để
mang lại hạnh phúc cho đời sống của quần chúng.
Ngày nay tình
trạng thống nhất của thế giới trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật có
hai ý nghĩa.
1. Văn minh Tây phương đã chinh phục thế giới,
và đã chinh phục bằng khoa học kỹ thuật.
2. Các quốc gia nào
muốn tồn tại đều phải khắc phục khoa học Tây phương và kỹ thuật Tây
phương.
Nhưng muốn khắc phục được khoa học Tây phương và kỹ
thuật Tây phương, trước tiên phải khắc phục lối suy luận của Tây
phương đặt trên căn bản chính xác về lý trí. Và sau đó khắc phục
những tập quán trong đời sống hằng ngày khả dĩ nuôi dưỡng và duy trì
lối suy luận trên. Nếu chỉ hấp thụ khoa học và kỹ thuật không, thì
không sáng tác được. Mà không sáng tác được khi người Tây phương
tiếp tục sáng tác là mối đe dọa của Tây phương vẫn còn mãi.
Vì vậy cho nên, ngày nay trên thế giới vấn đề Tây phương hóa là một
vấn đề thiết yếu cho các quốc gia muốn tồn tại, mặc dầu Tây phương
hóa theo kiểu khối Tự Do hay Tây phương hóa theo kiểu khối Cộng sản.
Và đó cũng là một vấn đề thiết yếu cho nước Việt Nam.
Sau
này chúng ta sẽ xem vấn đề Tây phương hóa là như thế nào, và việc
Tây phương hóa có hại đến tinh thần dân tộc không.
Vấn đề cộng sản
Từ đầu của thế kỷ XX, lý thuyết Cộng
sản đã làm chấn động xã hội Tây phương. Sau đó lý thuyết Cộng sản đã
trụ đóng và phát triển ở Nga. Và ngày nay lý thuyết Cộng sản đang
hoành hành ở Á Châu và đang đe dọa Nam Mỹ. Nhưng ở mỗi nơi lý thuyết
Cộng sản được tiếp nhận bởi những lý do khác nhau và được giải thích
theo một lối thích nghi với hoàn cảnh địa phương. Cộng sản ở Âu Châu
khác Cộng sản ở Nga. Cộng sản ở Nga khác Cộng sản ở Tàu, nhưng ba
nơi đều là Cộng sản. Các sự kiện lịch sử dưới đây sẽ giải thích vẻ
phức tạp mới xem qua đó.
Cộng sản ở Tây phương
Khoa học và kỹ thuật của Tây phương đã phát triển theo một đà
càng ngày càng nhanh, vì thế cho nên nhiều lúc đã vấp phải sức thụ
động của các cơ cấu xã hội lúc nào cũng tiến hóa chậm hơn. Trong các
thời kỳ đó sự xung đột bộc lộ bằng những xáo trộn xã hội.
Cuối thế kỷ 19, Tây phương phát minh những kỹ thuật sản xuất kỹ
nghệ.
Lúc đầu những lực lượng sản xuất mới đó chưa được điều
khiển hoàn bị, đã gây ra nhiều cuộc đảo lộn trong một xã hội thủ
công nghệ. Đa số thợ thủ công bị phá sản và trở thành thợ thuyền vô
sản, trong khi những máy móc sản xuất tối tân tập trung tư bản vào
tay một thiểu số. Sự quân bình trong việc phân phối tài sản của xã
hội thủ công nghệ cũ đã bị đổ vỡ và đại đa số dân chúng thợ thuyền
phải sống một đời vô cùng cực khổ.
Karl Max, triết học gia và
kinh tế gia, người Đức gốc Do Thái, sống ở Anh, nhận thấy rằng tất
cả các tệ đoan lúc bấy giờ do ở chỗ các cơ cấu của xã hội Tây phương
không còn thích nghi với những lực lượng sản xuất mới do các phát
minh kỹ thuật mang đến. Do đó Karl Max đề nghị một kiểu xã hội mới
xây dựng trên những căn bản mới để cho phù hợp với các phương tiện
sản xuất mới. Ông chủ trương thành lập xã hội mới bằng một cuộc cách
mạng toàn diện.
Như vậy, ở Tây phương, thuyết Cộng sản là một
phương thuốc của Tây phương đề nghị để chữa căn bệnh cho xã hội Tây
phương trong một giai đoạn phát triển cam go.
Về sau các nhà
lãnh đạo Tây phương lại tìm được nhiều phương thuốc khác, nhờ đó mà
xã hội Tây phương chẳng những trở nên lành mạnh mà còn phát triển
mạnh bạo hơn, như chúng ta thấy ngày nay. Do đó mà hiện nay, thuyết
Cộng sản đã mất rất nhiều sinh lực trong xã hội Tây phương và trong
một ngày gần đây sẽ không còn nữa.
Cộng sản ở Nga
Trong xã hội Tây phương, Nga là một dân tộc Slave ở trên ranh
giới giữa Âu và Á, chịu ảnh hưởng Á châu rất nhiều bởi các cuộc
chinh phục như của Thành Cát Tư Hãn và của Attila. Các nước ở Tây Âu
lại thuộc giống Latin hay là Saxon. Sự hai bên cùng theo đạo Gia Tô
đáng lý ra phải giúp cho sự sum họp, lại trở thành thêm một yếu tố
chia rẽ sau khi giáo hội Gia Tô đã vỡ ra thành hai giáo hội, một
giáo hội Đông trong đó có Nga và một giáo hội Tây ở La Mã.
Vì
lý do trên mà trong lịch sử giữa Nga và Tây Âu có một cuộc tranh
chấp không ngừng hiện nay vẫn đang tiếp diễn. Cuộc tranh chấp lúc
trầm lúc bổng. Tây Âu thắng nhờ kỹ thuật tiến bộ hơn. Lúc nào Nga
hấp thụ được kỹ thuật Tây phương thì lại giữ phần thắng nhờ khối dân
đông và đất rộng. Tây phương lại phát minh những kỹ thuật mới và lại
thắng, và cứ như thế tấn tuồng lại tái diễn.
Vào cuối thế kỷ
19, khi Tây phương, ngoài đã chinh phục thế giới nhưng trong lại gặp
phải những trở lực xã hội tạo hoàn cảnh cho thuyết Cộng sản bành
trướng, thì Nga ở vào một thời kỳ yếu thế vì kém về kỹ thuật. Các
nhà lãnh đạo Nga, theo chiến thuật cổ truyền, đang nỗ lực hấp thụ
các kỹ thuật mới của Tây phương. Nhưng lần này ngoài các kỹ thuật
vật chất họ lại thâu nhận thêm thuyết Cộng sản. Vì hai lý do:
1. Họ muốn gấp rút bắt kịp Tây Âu bằng cách tổ chức trước Tây
phương một xã hội mới thích nghi với các phương tiện sản xuất mới
như Marx đã đề nghị.
2. Nếu nước Nga trở nên thành trì của
thuyết Cộng sản, thì sự bành trướng của thuyết Cộng sản trong các
nước Tây Âu sẽ biến các Đảng Cộng sản của các quốc gia nầy thành
những đồng minh nội tuyến trong lòng địch, rất quí báu cho Nga trong
cuộc tranh chấp hằng mấy thế kỷ với Tây Âu.
Như vậy, chuyển
từ Tây Âu sang Nga thuyết Cộng sản đã nghiễm nhiên từ một phương
thuốc được đề nghị cho xã hội Tây phương, biến thành vừa là một
phương tiện giúp cho sự phát triển của Nga vừa là một khí giới sắc
bén giúp Nga đánh bại kẻ thù.
Dầu sao sự tranh chấp vẫn là
một sự tranh chấp nội bộ giữa các quốc gia trong xã hội Tây phương.
Sở dĩ Nga đã đưa cuộc tranh chấp ấy lên thành một cuộc tranh
chấp quốc tế chỉ vì kẻ thù Tây Âu lúc bấy giờ đã bủa vây lưới kinh
tế của họ trên khắp thế giới.
Và cũng vì để tạo cho họ vây
cánh trên khắp thế giới mà các nhà lãnh đạo Nga Sô đã hô hào các
lãnh tụ các quốc gia bị chinh phục làm thuộc địa hay bán thuộc địa
gia nhập vào hàng ngũ Cộng sản
Như vậy thuyết Cộng sản đối
với Nga chỉ là một phương tiện và ngày nào mục đích đã đạt được,
phương tiện sẽ không còn giá trị nữa.
Ngày nay, mục đích đã
đạt, Nga đã thắng nhờ khắc phục được kỹ thuật Tây Âu và nhờ khối dân
đông và đất rộng của mình. Các biến cố hiện tại ở Âu Mỹ chứng tỏ
rằng Nga sắp đến lúc bỏ phương tiện Cộng sản và trở về với xã hội
Tây phương
Những sự tiếp xúc của tòa thánh La Mã với các lãnh
tụ giáo hội Nga là một trong những cố gắng để đưa Nga Sô về xã hội
Tây phương.
Và ngày đó sự tranh chp quyết liệt giữa Cộng sản
và Tư Bản, như ngày nay, sẽ tự tiêu và nhường chỗ cho một cuộc tranh
chấp khác quyết liệt hơn hiện nay đã bắt đầu thành hình giữa khối
Trung Cộng và khối Âu Mỹ.
Cộng sản ở Á Châu
Trong hệ thống giá trị truyền thống của hai nền văn minh Á Châu:
văn minh Ấn Độ và văn minh Trung Hoa, không có một điểm nào có thể
làm mầm cho một thuyết tàn bạo như thuyết Cộng sản nảy nở được.
Sở dĩ ngày nay thuyết Cộng sản hoành hành được ở Á Châu là vì
chính Tây phương đã tạo hoàn cảnh cho nó nảy nở và chính Tây phương
đã đưa nó vào. Sau khi thảm bại trước lực lượng chinh phục của Tây
phương, các quốc gia ở Á Châu đều lần lượt bị biến thành thuộc địa
hay bán thuộc địa. Tinh thần bất khuất của dân tộc khiến các lãnh tụ
vẫn tiếp tục một cuộc tranh đấu vô hy vọng. Bởi vì, để đương đầu với
những lực lượng xâm lăng hùng hậu của Tây phương bủa lưới khắp chiến
trường thế giới, chúng ta chỉ có thể đưa ra để nghinh chiến những
lực lượng kém kỹ thuật trong một chiến trường giới hạn trong từng
quốc gia. Sự thất bại đã cầm chắc nếu chúng ta không có những đồng
minh đồng sức với kẻ thù.
Vì nhận định như vậy cho nên các
lãnh tụ cách mạng thức thời đều hưởng ứng lời kêu gọi của Nga Sô. Sự
đồng minh với Nga Sô sẽ mang lại cho họ:
1. Những phương tiện
xứng đáng để đánh bật kẻ thù ra khỏi lãnh thổ.
2. Một kiểu
mẫu và những phương pháp phát triển quốc gia khi đã phục hồi độc
lập.
Như vậy sang Á Châu thuyết Cộng sản chỉ còn là một
phương tiện để đánh kẻ xâm lăng và một phương pháp phát triển.
Cho tới đây những nhà lãnh đạo chủ trương theo Cộng sản còn có
lý vững chắc. Nhưng sau đó họ hoàn toàn lầm lẫn nếu họ say mê mà tôn
thờ thuyết Cộng sản như là một chân lý, và quên rằng.
1. Nga
Sô chỉ xem thuyết Cộng sản là một phương tiện và chỉ có giá trị là
một phương tiện.
2. Phương pháp Cộng sản áp dụng ở Nga mặc
dầu đã đưa đến kết quả, nhưng không phải vì vậy mà có thể áp dụng
một cách hữu hiệu cho mọi quốc gia.
Mao Trạch Đông đã nhìn
thấy rõ hai điểm trên đây. Sự khác biệt giữa các phương pháp Cộng
sản ở Nga và ở Tàu là một bằng cớ. Cộng sản ở Việt Nam cũng nằm
trong khuôn khổ trình bày trên đây.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Phần II
5. VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM
TRONG KHUNG CẢNH THẾ GIỚI
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Theo
như đã trình bày trên đây thì vị trí quốc tế hiện tại của Việt Nam
do các điểm dưới đây minh định:
1. Việt Nam là một nước nhỏ
và kém mở mang.
2. Theo truyền thống văn hóa, Việt Nam thuộc
vào xã hội Đông Á.
3. Việt Nam thuộc vào khối các nước Á Châu
vừa thoát khỏi ách thực dân đế quốc.
4. Việt Nam đang cần
phải Tây phương hóa như tất cả các nước không thuộc khối Tây phương
để: Một là tồn tại, bảo vệ độc lập; hai là để phát triển đời sống
kinh tế hầu xây dựng hạnh phúc cho nhân dân.
Bốn điểm trên
đây minh định vị trí của nước chúng ta trong thế giới ngày nay vừa
trong lĩnh vực địa dư vừa
trong
lĩnh vực tiến hóa chung của nhân loại. Vì vậy cho nên, cùng với
những điều kiện nội bộ riêng cho Việt Nam mà chúng ta sẽ thấy sau
này, các điểm này chi phối mọi đường lối chính trị của chúng ta
trong ít lắm là vài thế kỷ.
Do đó, việc phân tích từng điểm
một, bốn điểm trên đây là một việc thiết yếu.
Việt
Nam là một nước nhỏ và kém mở mang
Mục đích của
những trang nhận định này không phải để xách động quần chúng, nên
không phải chỗ để ca ngợi sự nghiệp mấy ngàn năm văn hiến của tổ
tiên chúng ta, và cũng không phải chỗ để cho chúng ta hãnh diện với
những trang sử oanh liệt của người xưa. Những người có trách nhiệm
với tiền đồ dân tộc không thể tự ru ngủ trên dĩ vãng, mặc dầu dĩ
vãng đó thật có là anh hùng đi nữa.
Trái lại, một nhận định
khách quan rất cần thiết cho những người lãnh đạo, nếu họ muốn tránh
những sơ xuất có hại cho tương lai của một dân tộc. Tự ti mặc cảm
khi nhìn thấy nước nhà yếu và kém không phải là tâm trạng của những
kẻ quật cường.
Trên quan điểm đó chúng ta phải nhìn nhận
rằng trong thế giới ngày nay nước chúng ta là một nước nhỏ và dân
tộc chúng ta là một dân tộc kém mở mang. Chẳng những thế, trong suốt
mấy nghìn năm lịch sử, chưa lúc nào dân tộc chúng ta đã đạt lên được
mức một văn minh chiếu sáng. Vì vậy chúng ta còn ở vào tình trạng
thụ hưởng hơn là tình trạng góp phần vào văn minh nhân loại. Tuy
nhiên, dĩ vãng của chúng ta cho phép chúng ta tin rằng dân tộc có
một năng lực tiềm tàng khả dĩ trong một tương lai rất ngắn đưa chúng
ta thoát khỏi tình trạng thứ nht để vào tình trạng thứ hai. Đó là
mục đích và lý do của cuộc tranh đấu hiện tại của chúng ta. Bởi vì
theo luật quân bình, người thụ hưởng bao giờ cũng đứng sau người
đóng góp, và trong thực tế mức sống của người thụ hưởng phải kém mức
sống của người đóng góp.
Và tranh đấu để thoát khỏi tình
trạng kém mở mang có nghĩa là vừa tranh thủ một mức sống cao hơn cho
dân tộc, và cũng có nghĩa là sẵn sàng lãnh trách nhiệm đóng góp vào
văn minh thế giới.
Như vậy đối với chúng ta nỗ lực để thoát
khỏi tình trạng kém mở mang có thể hình dung bằng một sự cố gắng để
vượt qua lằn mức ranh giới giữa tình trạng thụ hưởng và tình trạng
đóng góp.
So sánh với các nước kỹ nghệ mở mang ngày nay, nước
Việt Nam chúng ta nhó vì đất đai không rộng, dân số ít và thiên sản
không phong phú.
So sánh với các khối kinh tế vĩ đại như Nga
Sô, Trung Cộng, Ấn Độ, Mỹ quốc và khối Âu Châu đang thành hình,
chúng ta lại còn không đáng kể vào đâu nữa.
Trên phương diện
quân sự, những kỹ thuật nguyên tử tối tân với sức tàn phá mãnh liệt
có thể làm giảm đi yếu tố đông dân và tức nhiên số lượng quân đội
cao không còn ảnh hưởng nặng nề trên sự thắng bại. Tuy nhiên, lên
đến một mức độ nào đó, ví dụ lên đến khối dân số Trung Cộng, yếu tố
dân đông vẫn còn là một yếu tố đáng kể.
Vì vậy mà trong
trường hợp của chúng ta, nếu chúng ta khắc phục được những kỹ thuật
nguyên tử, thì cái họa xâm lăng đối với chúng ta chỉ có giảm chớ
không có chấm dứt.
Trên phương diện kinh tế, yếu tố đông dân
đối với kỹ thuật sản xuất đại qui mô của cơ khí là một yếu tố quyết
định. Dân càng đông thị trường càng mạnh. Có một mức thêu thụ tối
thiểu trong mỗi ngành kỹ nghệ, dưới mức đó sự sản xuất kỹ nghệ không
thể thực hiện với các điều kiện thuận lợi. Nhưng thị trường tiêu thụ
càng lớn lại là một động cơ thúc đẩy kỹ nghệ càng nảy nở, càng
trưởng thành, càng phát triển vì giá sản xuất càng nhẹ và mức lời
càng lớn. Đó là lý do tranh giành thị trường trong thế kỷ vừa qua và
hiện nay.
Như vậy nếu dân số ta ít thì điều kiện nảy nở của
kỹ nghệ chúng ta rất kém và sự cạnh tranh với khối kinh tế bên ngoài
là một điều mà chúng ta không thể đương đầu nổi.
Trên phương
diện văn hóa, việc dân số ít là một trở lực to tát. Ngôn ngữ của
chúng ta chỉ được một thiểu số sử dụng. Những sáng tác bằng Việt
ngữ, ví dụ mà thật sự có giá trị thế giới đi nữa thì không có mấy
người biết đến giá trị đó vì chuyển ngữ của chúng ta không được
nhiều người biết. Chỉ nghĩ đến việc một tác phẩm bằng Anh ngữ hay
Hoa ngữ có thể phổ biến ngay cho khắp thế giới thì đủ thấy cái mãnh
lực của sự đông dân như thế nào. Trong một khối người to lớn như vậy
có thể trao đổi tư tưởng với nhau chỉ vì chuyển ngữ của họ được
nhiều người sử dụng. Dân tộc chúng ta chỉ vì dân số ít, phải ở ngoài
vòng tư tưởng trên trừ ra một số người biết ngoại ngữ.
Dân số ít lại còn là một trở lực trong công cuộc phát triển
như chúng ta sẽ thấy dưới đây.
Trong khuôn khổ thế
giới ngày nay, một dân tộc kém mở mang là một dân tộc có một tình
trạng ứng vào các điều kiện dưới đây:
1. Thiếu kỹ thuật và
phương tiện kỹ thuật sản xuất.
2. Do đó lợi tức quốc gia thấp
kém.
3. Do đó mức sống của toàn dân thấp và thiếu.
4.
Sự mưu sống hằng ngày chiếm hết thời gian và năng lực, đời sống văn
hóa không mở mang.
5. Sự sáng tác kém giá trị và sự góp phần
vào văn minh của nhân loại không có.
Trình bày như trên đây,
ta nhận thấy rằng điều kiện thứ nhất là nguyên nhân của điều kiện
thứ hai và cả hai là nguyên nhân của điều kiện thứ ba và ba điều
kiện đầu lại là nguyên nhân của điều kiện thứ tư, vân vân. Và như
vậy nguyên nhân chính và trước tiên của sự kém mở mang là thiếu kỹ
thuật và thiếu phương tiện kỹ thuật sản xuất. Nhưng muốn có đủ kỹ
thuật, nghĩa là máy móc sản xuất thì phải có được một trình độ văn
hóa khá cao cho toàn dân, và phải có lợi tức dồi dào để mua dụng cụ
máy móc.
Như thế các điều kiện ảnh hưởng tương phối nhau làm
thành một cái vòng lẩn quẩn. Đưa dân tộc lên đường phát triển có
nghĩa là bẻ gẫy cái vòng luẩn quẩn đó. Vì thế cho nên các phương
pháp phát triển đề nghị hay mang ra thực hiện ngày nay trong các
nước trên thế giới, kể cả phương pháp Cộng sản, chung qui chỉ là một
phương pháp bẻ gẫy cái vòng lẩn quẩn nói trên. Và dưới đây chúng ta
sẽ có dịp trở lại, một cách chi tiết hơn, vấn đề cốt yếu này. Nay
chỉ nhận xét thêm là các điều kiện trên cho chúng ta thấy rằng, công
cuộc phát triển không phải là một công trình mà một nhóm người hay
một thiểu số có thể thực hiện được. Chỉ toàn dân hay là đại đa số
cùng quyết tâm đứng lên mới có thế đạt đến kết quả. Đây là một yếu
tố quyết định, nó sẽ chi phối nặng nề các sự lựa chọn đường lối sau
này.
Điều thứ hai cần phải nêu lên là cái vốn duy nhất có thể
dùng ngay được của các nước kém mở mang là công nhân. Vì vậy mà dân
số đông lại là một lợi khí cho công cuộc phát triển, theo một phương
pháp lao công cưỡng bách. Yếu tố này cũng là quyết định đối với sự
lựa chọn đường lối sau này.
Việt Nam thuộc xã hội
Đông Á
Xã hội Đông Á gồm có các nước Đài Loan, Nhật
Bổn, Triều Tiên và Việt Nam bao quanh đại lục Trung Hoa.
Trong hơn sáu ngàn năm lịch sử, các quốc gia trong xã hội này đều đã
tiến hóa từ nền văn minh phát sinh trong đất Hán và lấy Hán tự làm
nền tảng và phương tiện cho sự phát triển trong các lĩnh vực.
Cuộc xâm lăng của Tây phương gây ra nhiều sự thay đổi, bởi vì
đứng trước hiểm họa chung phản ứng của mỗi dân tộc mỗi khác. Do đó
mỗi dân tộc, tùy theo sự nắm được hay không những cơ hội đưa đến cho
mình, đã đi theo những con đường càng ngày càng khác nhau, dẫn dắt
đến sự cách biệt mà chúng ta nhận thấy ngày nay.
Trước thời
kỳ đó, tất cả các quốc gia trong xã hội Đông Á kể trên đều tin tưởng
và bảo vệ những giá trị như nhau trên các lĩnh vực chính trị, văn
hóa và tôn giáo. Tất cả đều áp dụng chính trị quân chủ chuyên chế.
Tất cả đều thừa nhận như là một di sản chung các sáng tác bằng Hán
văn. Nền mỹ thuật của tất cả các quốc gia đều phát triển theo những
tiêu chuẩn chung. Tất cả các quốc gia đều tin tưởng vào Phật giáo và
Lão giáo, lấy giáo điều của Khổng Mạnh làm mực thước cấu tạo xã hội.
Nguyên nhân của tình trạng lúc bấy giờ, chia làm nguyên nhân địa
dư và nguyên nhân lịch sử. Trong một thời kỳ mà phương tiện giao
thông nghèo nàn, việc giáp ranh với nhau là một yếu tố đè nặng lên
sự bang giao của hai nước. Dân tộc chúng ta đã rút nhiều kinh nghiệm
xương máu về tình trạng ấy. Ngày nay nhiều phát minh khoa học có làm
cho vạn lý và trùng dương cách biệt không còn là những trở lực không
vượt nổi như khi xưa. Tuy nhiên ảnh hưởng sự lân cận giữa các quốc
gia, nếu có giảm đi vẫn còn là một yếu tố quan trọng trong sự giao
hảo giữa hai nước. Và trong sự chọn lựa đường lối của chúng ta sau
này, sự chúng ta ở sát nách Trung Hoa là một yếu tố vô cùng thiết
yếu.
Ngoài những nguyên nhân địa dư như trên, nhiều sự kiện
lịch sử đã cấu tạo những dây liên hệ giữa Trung Hoa và các quốc gia
cùng trong một xã hội Đông Á, như chúng ta đã thấy ở trên. Với thời
gian, các dây liên hệ về tôn giáo, văn hóa và xã hội đã ăn sâu vào
tiềm thức của các dân tộc cùng một xã hội. Vì thế cho nên không có
một lầm lẫn nào to tát cho bằng sự tin tưởng rằng trong một vài thế
hệ hay một vài thế kỷ có thể thay đổi được tất cả tư tưởng của một
dân tộc.
Nói một cách khác nếu mỗi người Việt Nam đều đồng
một ý chí không muốn mình thuộc vào xã hội Đông Á nữa, thì chúng ta
cũng không thực hiện ý chí đó được, vì bởi ý thức thuộc vào xã hội
Đông Á đã ăn sâu vào các tế bào của chúng ta và thoát khỏi tầm chủ
động của lý trí chúng ta. Đó là trường hợp tất cả chúng ta đều cùng
một ý chí, huống hồ là nếu chỉ có một nhóm người quyết tâm làm việc
đó và nhất quyết cưỡng bách mọi người phải theo họ, lại càng là một
trù tính không căn bản và không tương lai.
Nhiều phúc trình
thí nghiệm khoa học đã xác nhận rằng các cuộc tẩy não có thể cùng
lắm là thay đổi thành kiến chúng ta được chớ không di chuyển được
bản chất của chúng ta.
Hơn thế nữa, nếu bằng một phép nhiệm
mầu gì chúng ta có thể cắt được nước Việt Nam tách ra khỏi Châu Á và
mang đặt nó cùng với cả dân tộc chúng ta vào một nơi khác của địa
cầu thì chúng ta cũng sẽ suy nghĩ và phản ứng như những người trong
xã hội Đông Á.
Trên đây chúng ta đã có đề cập đến việc Tây
phương hóa, là một điều khẩn yếu cho chúng ta. Nay chúng ta vừa thấy
rằng dầu có muốn đi nữa chúng ta cũng không thể thoát ra khỏi khung
cảnh hình thức và vô hình của xã hội Đông Á.
Như vậy
việc Tây phương hóa và việc thuộc vào xã hội Đông Á có mâu thuẫn
nhau không?
Muốn trả lời được câu hỏi này một cách
tường tận, ta cần biết trước tiên Tây phương hóa là như thế nào, nội
dung của một phần dưới đây.
Nay ta cứ nhận rằng việc Tây
phương hóa là việc thâu nhận các kỹ thuật, lối suy luận và nhiều tập
quán của Âu Mỹ, không làm cho chúng ta mất được bản chất của dân
tộc. Như vậy việc mâu thuẫn nêu trên sẽ là không có. Một nhận xét
khác càng thuyết minh cho lởi nói quả quyết này. Các dân tộc ở xã
hội Tây phương đều sử dụng một kỹ thuật và tôn sùng một khoa học như
nhau. Tất cả đều có một lối suy luận lấy sự chính xác của lý trí làm
nền tảng. Và tất cả đều sống trong một khuôn khổ ngăn nắp và minh
chiết như nhau – sự sinh sống và ăn mặc đều như nhau – thế mà họ vẫn
khác nhau ở trong các sáng tác. Như vậy là bản chất dân tộc họ vẫn
giữ. Bản chất dân tộc của chúng ta sẽ bộc l ra trong các sáng tạo
của chúng ta, khi nào mà chúng ta đã chủ động được các phương tiện
và phương pháp sáng tạo của Tây phương. Và đây là mục đích chính của
công cuộc Tây phương hóa mà chúng ta đang theo đuổi.
Biết như
thế rồi chúng ta mới thấy rằng trong công cuộc Tây phương hóa chúng
ta cần phải dốc hết nỗ lực vào công cuộc ấy, không e dè, không rụt
rè, không ngần ngại. Biết như thế rồi chúng ta mới thấy tính cách vô
ích của sự nơm nớp lo sợ mất quốc hồn và quốc túy của một lớp người
trước đây ngồi mà cãi nhau năm này qua tháng nọ xem phải duy tân đến
mức nào. Họ thật là những người ngồi nhà mà bàn việc lên tàu xuống
xe phải đứng ngồi làm sao.
Biết như thế rồi chúng ta lại thấy
tính cách không thực tế của một nhóm người chủ trương thay đổi tư
tưởng của một dân tộc bằng những phương pháp độc ác và tàn bạo áp
dụng cho vài thế hệ. Sự họ thất bại sẽ dĩ nhiên. Nhưng tai hại họ sẽ
lưu lại cho dân tộc, như chúng ta sẽ thấy sau này, không biết bao
giờ mới gỡ hết.
Việt Nam thuộc vào khối các nước Á
Châu vừa thoát khỏi ách thống trị thực dân đế quốc
Bắt đầu từ thế kỷ thứ X, các cường quốc trong xã hội Tây phương mới
phôi thai. Dưới sự thúc đẩy của hoàn cảnh và những biến cố lịch sử
phát sinh ra do sự lân cận với xã hội Hồi Giáo, đang thời cường
thịnh, các quốc gia mới đã nỗ lực tìm mọi lối thoát khỏi vòng vây
càng ngày càng siết chặt của các đội binh hùng mạnh của các nhà lãnh
đạo Ả Rập.
Từ ngày thoát thai từ trong sự sụp đổ của văn minh
Hy Lạp và La Mã, lần đầu tiên xã hội Tây phương đụng phải một thử
thách vô cùng quan trọng và quyết định sự mất còn cho nền văn minh
vừa chớm nở. Nhưng cùng trong dịp này xã hội Tây phương tỏ ra xứng
đáng với di sản lý trí thừa hưởng của văn minh Hy Lạp - La Mã và
sinh lực dồi dào mà giáo lý Gia Tô hun đúc trong nhiều thế kỷ.
Sức mạnh phi thường của tín ngưỡng đã nuôi dưỡng và duy trì
những nỗ lực cần thiết một cách liên tục trong nhiều thế kỷ. Mặt
khác sự chính xác về lý trí đã hướng dẫn hữu hiệu cái khối sinh lực
to tát trên vào vòng hữu ích và hiệu quả. Nhờ vậy mà xã hội Tây
phương chẳng những đã chiến thắng lần ấy, mà sau này còn vượt nhiều
trở lực để chiếm được ưu thế như chúng ta mục kích ngày nay.
Nhờ những yếu tố trên, người Tây phương đã phát minh nhiều kỹ thuật
tối tân, cải thiện không ngừng phát minh cũ, rèn luyện những khí
giới lý trí ngày càng tinh vi để bảo đảm cho những phát minh tương
lai. Sinh lực dồi dào của tín ngưỡng đã giúp cho họ áp dụng các phát
minh trên đến một mức độ ngày càng lên cao, trong một tầm rộng lớn
càng ngày càng bành trướng. Và trong sự vùng lên đó, xã hội Tây
phương đã chẳng những bẻ gẫy vòng vây của xã hội Hồi Giáo đang dồn
họ vào phía Tây của đại lục Âu Châu, lại còn chinh phục được thế
giới như chúng ta đều biết.
Nguồn gốc của các đế quốc Tây
phương là do sự kiện trên đẻ ra. Để thoát khỏi sự bao vây của xã hội
Hồi Giáo, người Tây phương đã chế ngự được các kỹ thuật vượt biển và
mang những khí giới mà một nền kỹ thuật tân tiến đã trang bị cho họ
để đi chinh phục các dân tộc kém hơn về kỹ thuật
Trước tiên,
Y Pha Nho và Bồ Đào Nha hướng đạo cuộc chinh phục. Sau đó Anh, Pháp,
Hòa Lan, Bỉ đã nối chân và thay thế hai cường quốc tiền phong khi
hai nước này đã mệt mỏi và suy nhược. Lần lượt các quốc gia trên thế
giới không phải thuộc vào xã hội Tây phương đều bị tấn công, chiến
bại, chiếm đóng và chinh phục. Tùy hoàn cảnh và tùy mãnh độ cuộc
kháng chiến, các dân tộc bị chinh phục hoặc bị tiêu diệt và đất đai
bị biến thành đất đai của người chinh phục như ở Nam và Bắc Mỹ, Úc
châu, Tân Tây Lan, Nam Phi, hoặc biến làm thuộc quốc như Thái Lan,
các nước Cận Đông hay bán thuộc địa như Trung Hoa, hay thuộc địa như
Việt Nam. Và hậu quả lưu lại cho các dân tộc bị chinh phục cũng tùy
theo hoàn cảnh riêng mà nhiều hay ít tai hại.
Ngày nay vấn đề
không thành cho những dân tộc đã bị tiêu diệt. Các nước đã bị làm
bán thuộc địa hoặc thuộc địa, khi cởi được ách rồi còn phải lãnh
chịu những hậu quả tuy có khác nhau tùy theo hoàn cảnh địa phương
nhưng đều giống nhau vì bị chi phối bởi những sự kiện lịch sử chung.
Các hậu quả lại khác nhau, tùy theo chế độ đế quốc đã phải chịu
đựng.
Hai kiểu đế quốc
Trong thời kỳ
cường thịnh nhất của Đế quốc chủ nghĩa, các quốc gia không thuộc vào
xã hội Tây phương đều bị thống trị trực tiếp hay gián tiếp bởi hai
loại Đê quốc:
1. Đế quốc kiểu người Anh.
2. Đế quốc
kiểu người Pháp, Hòa Lan và Bỉ.
Chủ trương Đế quốc của người
Anh rất rõ rệt. Họ chia các lãnh thổ làm hai loại: loại chiếm đóng
di dân và loại chiếm đóng khai thác. Đối với loại chiếm đóng di dân
thì họ dồn thiểu số người bản xứ vào một nơi và dần dần sự tranh
sống tự nhiên sẽ đào thải. Kẻ chinh phục chiếm lấy đất đai và lập
thành những quốc gia mới, như ở Bắc Mỹ và Úc châu.
Nam Mỹ tuy không thuộc người Anh nhưng lại thuộc vào một chủ trương
tương tự.
Đối với loại chiếm đóng khai thác thì
chính sách của Anh lại hoàn toàn trái ngược. Họ rút kinh nghiệm sự
chiến bại của họ ở Bắc Mỹ – lúc người Mỹ hiện nay đánh đuổi người
Anh và dành độc lập –, và cho rằng nếu họ không loại được người bản
xứ thì sớm muộn gì họ cũng phải có ngày trả lại độc lập cho dân bản
xứ. Quan niệm trên dẫn dắt đến một chính sách dài hạn. Vì đoán trước
có ngày họ phải ra đi nên, để lưu lại được cảm tình với dân bản xứ,
họ đã thật tình đào tạo một lớp người có đủ khả năng để sau này thay
thế họ. Đây là một đặc điểm căn bản của chủ nghĩa Đế quốc Anh đã
được chứng minh là rất khôn ngoan và hiệu quả.
Đế quốc kiểu
người Pháp, Hòa Lan và Bỉ ngược lại không rõ rệt giữa hai thái độ
trên. Nếu nhiều điều kiện hợp lại không cho phép họ chủ trương chiếm
đóng di dân, thì đồng thời họ cũng không nghĩ đến ngày phải trả độc
lập lại cho dân bản xứ. Các sự kiện xảy ra sau thế giới Đại Chiến
thứ Hai trong các thuộc địa Anh và trong các thuộc địa Pháp, Hòa Lan
và Bỉ, đều bắt nguồn từ sự khác nhau của hai chính sách nói trên.
Bởi vì không nghĩ đến ngày phải rời khỏi thuộc địa nên người Pháp,
Bỉ và Hòa Lan không có đào tạo lớp người thay thế họ. Vì vậy cho
nên, khác với các cựu thuộc địa Anh, các cựu thuộc địa Pháp, Hòa Lan
và Bỉ, sau độc lập rồi, đều trải qua nhiều xáo trộn mãnh liệt, chỉ
vì thiếu người có khả năng để thay thế các người ngoại quốc, mà điều
khiển guồng máy quốc gia. Trên đây là một nhược điểm vô cùng quan
trọng mà Việt Nam chúng ta phải mang chịu.
Hậu quả
Nếu sự chúng ta thiếu người lãnh đạo ở trong lĩnh vực chính trị
là do một nguyên nhân không thể tránh được, phát sinh từ sự mâu
thuẫn tự nhiên phải có giữa những người muốn chinh phục một dân tộc
và những người chống lại sự chinh phục đó, thì, trái lại, sự thiếu
người lãnh đạo ở mọi ngành chuyên môn và mọi cấp bậc trong guồng máy
quốc gia lại là hậu quả của một chính sách Đế quốc riêng biệt của
người Pháp, Hòa Lan và Bỉ.
Thi hành đúng theo chủ nghĩa Đế
quốc của họ chủ trương người Pháp không bao giờ muốn, và cũng không
bao giờ thực hiện, việc đào tạo những người bản xứ có đủ khả năng để
làm những công việc mà người Pháp đang làm và để, trong tương lai,
thay thế họ. Thoảng như có những người bản xứ, nhờ những nỗ lực
riêng, mà thâu thập được một sự đào tạo lý thuyết ngang hàng với các
nhân viên cao cấp của họ, thì không bao giờ người Pháp lại giúp cho
những người này những hoàn cảnh thuận lợi để họ có thể thâu thập
những kinh nghiệm lãnh đạo cần thiết. Và bởi vì những kinh nghiệm
lãnh đạo thực tế như vậy mới đào tạo được những người lãnh đạo xứng
danh, nên ngày nay khi chúng ta đã dành được độc lập rồi thì chúng
ta không đủ người để điều khiển guồng máy các quốc gia. Trong khi đó
chúng ta chẳng những cần người để cho guồng máy chạy đều, mà hơn
nữa, vì những hoàn cảnh như chúng ta sẽ thấy dưới đây, chúng ta rất
cần người để cho máy chạy hết tốc độ.
Thiểu số người trước
kia đã được người Pháp dùng làm cộng sự viên trong nhiều năm, ngày
nay với các kinh nghiệm đã thâu nhập được, không thể thay thế người
Pháp trong nhiệm vụ của những người này hay sao?
Không thể
được, vì, trừ ra một số hết sức ít, với khả năng vượt hẳn mức
thường, đã bẻ gẫy được vòng kìm hãm của người Pháp để tự học hỏi
thêm đến trình độ chế ngự được ngành hoạt động của mình, còn lại là
những người mang nặng các khuyết điểm dưới đây:
1. Những kiến
thức và kinh nghiệm của họ đều rời rạc và vặt vạnh. Họ không có óc
tổng hợp để đặt những kinh nghiệm và kiến thức vụn vặt kia vào một
hệ thống chung hầu nhận thấy sự liên hệ giữa các kinh nghiệm, và tìm
thấy các nguyên tắc chung chi phối các trường hợp đặc biệt mà họ
thường gặp phải. Vì vậy mà hành động của họ chỉ có hiệu quả trong
các trách nhiệm sơ đẳng. Vượt lên quá tầm một ít là sự thất bại đến
ngay vì như câu tục ngữ thường nói, họ không nhìn thấy rừng mà chỉ
nhìn thấy tìm gốc cây “Phụ trách từng gốc cây thì được, nhưng không
phụ trách toàn thể khu rừng được”. Do đó những người này không làm
sao vượt khỏi phạm vi nhỏ hẹp trong đó lâu nay họ vẫn quen làm việc
để lên đến tầm quan trọng cần có khi sự việc không còn liên quan đến
một lĩnh vực nhỏ nữa mà đã liên quan đến vận mạng của một quốc gia.
Nếu giao cho họ những trách nhiệm quốc gia đương nhiên họ sẽ làm
giảm giá trách nhiệm đó bằng cách đưa nó tuột xuống ngang hàng một
trách nhiệm khu vực nhỏ hẹp, tương xứng với quan niệm nhỏ hẹp đã ăn
sâu vào cân não của họ. Với một lối nhìn như vậy và với sự bất lực
quan niệm các vấn đề một cách rộng lớn tương xứng với nhu cầu của
hoàn cảnh, sự thất bại của họ cũng đã cầm chắc. Đằng này ngoài
khuyết điểm ấy họ còn mang nặng nhiều điều hư hỏng khác.
2.
Người Pháp đã chủ tâm đào luyện, cho những người họ dùng, những kiến
thức và khả năng tương xứng với công dụng mà họ đòi hỏi. Ngoài ra
hoạt động và sinh sống nhiều năm trong không khí và tập quán mà
người Pháp cố tình tạo ra cho những người đã được họ đặt vào một
công dụng nhất định, những người này lần lần đã tự tạo một tâm lý vô
trách nhiệm. Làm việc ch vì s hình phạt chớ không phải vì tự thấy
trách nhiệm phải làm cho được việc. Tâm lý kém trưởng thành của
người làm tay sai đó chính là người Pháp, lợi dụng tình thế hỗn loạn
trong xã hội của chúng ta do chính sự chinh phục của họ gây nên, đã
tạo ra cho lớp người được họ rèn luyện để làm công cụ và sau này, vì
hoàn cảnh đương nhiên trở thành lớp người tay mắt trong xã hội chúng
ta.
Xưa kia, khuôn khổ Khổng Mạnh của chúng ta, tuy đã thất
bại trong nhiều lĩnh vực, nhưng ít ra đã đào luyện được lớp người
thấm nhuần đạo người quân tử: có tâm lý của người trưởng thành và
tinh thần trách nhiệm của người thọ lãnh sứ mạng. Tất cả các truyền
thống tốt đẹp đó đã sụp đổ cùng một lúc với uy quyền chính trị của
xã hội Việt Nam.
Thiết tưởng, nếu người Pháp đã có một thái
độ “không chen vào”, thì nội sự chiến bại của xã hội Việt Nam trước
một kẻ xâm lăng có một nền văn minh hung mạnh hơn cũng đủ mang đến
sự sụp đổ của những giá trị cổ truyền. Đàng này, chính họ với chủ
nghĩa Đế quốc mà họ chủ trương, đã thúc đẩy sự sụp đổ nói trên để
phục vụ quyền lợi chính trị của họ.
Và tâm lý hiện tại của số
người mà chúng ta sẽ đề cập đến trên đây vừa là hậu quả đương nhiên
của một hoàn cảnh lịch sử vừa là kết quả của một chính sách vô cùng
tai hại cho dân tộc.
Trách nhiệm giao phó cho số người này
phải tương xứng với “Tâm lý người đi thuyền” của họ. Xưa nay đã quen
lối không bao giờ chịu chú trọng đến hướng đi và số phận của con
thuyền, thì không thể nào phụ trách được việc lèo, lái và buồm, máy
của con thuyền. Trách nhiệm này phải giao cho số người đã tự tạo tâm
lý thuyền trưởng, trong khi chờ đợi chúng ta đào tạo lớp người mới
có những đức tính mà nhiệm vụ đòi hỏi.
3. Xưa kia, dưới thời
quân chủ chuyên chế guồng máy quốc gia xây dựng trên chế độ quan
trường và chế độ này lại lấy cái học khoa cử làm nền tảng. Xét trong
lịch sử của Việt Nam, cũng như của Trung Hoa, guồng máy quan trường
đã qua nhiều thời kỳ thịnh vượng và để lại nhiều thành tích xứng
đáng.
Sở dĩ như thế được là vì, chế độ quan trường, tuy tự nó
hàm nhiều tệ đoan cố hữu, nhưng một khi nằm vào trong khuôn khổ quân
chủ chuyên chế đã bị sự chế ngự tự nhiên và tương phối của những bộ
phận khác trong cơ cấu quốc gia, nên các tệ đoan đương nhiên bị hạn
chế và không bành trướng được, cũng như mỗi bánh xe trong một bộ máy
đồng hồ đều được sự chế ngự tương phối của các bánh xe chung quanh,
nên tất cả đều chuyển động đồng thời và điều hòa. Nhưng tất cả tình
trạng mực thước đó đều mất nếu chúng ta tách rời một bánh xe ra
ngoài.
Trường hợp của chế độ quan trường của chúng ta cũng
tương tự như vậy. Khi còn là một bộ phận của chế độ quân chủ chuyên
chế, những cái tệ đoan của quan trường không phát triển được nhờ
quyền hành rất rộng và hình phạt cấp thời của nhà vua. Khi người
Pháp đến, chế độ quan trường được giữ lại, vì một sự tính toán khôn
khéo, nhưng không còn có những sự chế ngự tự nhiên như xưa nữa. Các
nhược điểm của quan trường đương nhiên nảy nở và sự tham nhũng và hà
hiếp dân chúng đã lên đến mức độ tột cùng. Người Pháp không có lý do
gì mà tẩy trừ tình trạng đó, vì chủ trương của họ là để cho những
người họ dùng không được lòng dân chúng. Và làm lợi cho dân chúng
không phải là mối lo âu của chế độ thực dân.
Vì vậy cho nên,
tinh cách quan liêu, phục tùng hèn hạ kẻ trên, và hà hiếp khinh miệt
kẻ dưới là nhược điểm không thể cởi bỏ được của lớp người tay mắt
trong thời kỳ thực dân. Trong khi đó, như chúng ta sẽ thấy sau này,
công cuộc phát triển dân tộc của chúng ta trong giai đoạn này, đòi
hỏi ở những người có trách nhiệm phải có đủ khả năng đến với dân, đi
với dân huy động được đại quần chúng, lâu nay bị mê man trong giấc
ngủ yên thân, để đưa họ dấn thân mạnh bạo và nhanh chóng vào con
đường tiến bộ.
Sau này chúng ta sẽ thấy rõ công cuộc phát
triển dân tộc có nghĩa là thực hiện những mục tiêu gì. Nay cần biết
rằng, phát triển dân tộc là một công cuộc hết sức khích động cho
người tham dự nhưng đòi hỏi thật nhiều cố gắng liên tục và những hy
sinh lớn lao. Vì vậy mà đại quần chúng sẽ chóng mỏi mệt và chán
ngán. Nếu những người có trách nhiệm không thương mến nhân dân và
không xem nhân dân là trọng, thì không làm sao mà nhân dân bằng lòng
chịu đựng mệt mỏi và hy sinh để cùng tiến bước với người dẫn đạo.
Những biện pháp độc tài và cưỡng bách nếu có áp dụng được thì
những hiệu quả nhất thời không thể bồi đắp được những hậu quả tai
hại lâu dài vừa cho người áp dụng được vừa cho người phải chịu đựng.
Sau này chúng ta sẽ phân biệt sự mị dân với sự hướng dẫn dân vào
một kỷ luật chung, điều kiện thiết yếu để nắm thắng lợi trong công
cuộc phát triển. Vì vậy mà nếu người có trách nhiệm không huy động
được dân chúng, thì sự thất bại nắm chắc trong tay. Và cố nhiên
những người huy động được dân chúng không phải là những người hà
hiếp và khinh miệt họ cũng không phải là những người nịnh bợ và sợ
sệt họ.
Tóm lại cho đoạn này chúng ta thấy rằng, chính sách
Đế quốc kiểu Pháp, Hòa Lan và Bỉ đã lưu lại cho các dân tộc bị trị
một hậu quả rất là tai hại: Sau khi độc lập rồi, sự thiếu người lãnh
đạo trong các ngành là một trở lực vô cùng to tát cho công cuộc phát
triển dân tộc.
Nhưng đó không phải là hậu quả duy nhất. Xem
lại lịch sử của các công cuộc chinh phục của Tây phương, chúng ta
nhận thấy rằng khi bị tấn công, các dân tộc đều ý thức ngay tình thế
nghiêm trọng và sự cần thiết phải vận dụng lực lượng quốc gia để
đương đầu với một thử thách quyết định sự sống còn của tập thể. Bản
năng sinh tồn đã đánh thức ngay khả năng tự vệ đối với một vật ngoại
lai toan xâm nhập vào nội bộ cơ thể.
Nhiều loại phản
ứng
Nhưng nếu ý thức nguy cơ và sự phản ứng tự vệ
đều có như nhau, thì trái lại, tính chất của sự phản ứng, cường độ
của sự phản ứng, và hậu quả của sự phản ứng khác nhau, tùy theo hoàn
cảnh lịch sử, tùy theo khả năng của người lãnh đạo trong các lúc
quyết liệt ấy, tùy theo tinh thần của dân chúng lúc bị tấn công, tùy
theo phương tiện vận dụng được và tùy theo trình độ dân trí của dân
tộc lúc bị tấn công.
Cố nhiên là sự nghiệp và hành động của
một dân tộc, mặc dầu do một số người quyết định trong một thời gian
nhất định, nhưng cũng do nhiều hoàn cảnh và yếu tố chi phối.
Nhưng xét theo kết quả của sự phản ứng của từng dân tộc, chúng ta có
thể chia các nước đã phải đón chịu sự tấn công ghê gớm của Tây
phương ra làm bốn loại.
Trước hết có những dân tộc như dân
tộc Nhật Bổn, phản ứng có hiệu quả, chặn đứng được sự tấn công, bảo
vệ được nền độc lập, và nắm được cơ hội để tự cường lên đến mức
ngang hàng với các cường quốc Âu Mỹ.
Kế đó những dân tộc như
dân tộc Trung Hoa, phản ứng không có hiệu quả, chiến bại trước sự
tấn công, nhưng vì hoàn cảnh chính trị lúc bấy giờ trong trường hợp
của Trung Hoa và Thái Lan thì đúng là sự mâu thuẫn giữa các cường
quốc chinh phục nền độc lập tuy bị sứt mẻ, nhưng chủ quyền vẫn được
bảo tồn.
Tuy nhiên, nước nhà cũng bị đặt vào tình trạng bán
thuộc địa, do đó không tự cường nổi mà phải kéo dài tình trạng thấp
kém để chờ cơ hội mới.
Sau đó có những dân tộc như dân tộc
Việt Nam và Nam Dương phản ứng không hiệu quả, chiến bại trước sự
tấn công, độc lập bị mất, chủ quyền bị sụp đổ, nước nhà bị biến
thành thuộc địa, thống trị bởi ngoại quốc. Việc lỡ cơ hội đối với
chúng ta chẳng những có nghĩa là kéo dài tình trạng thấp kém lại còn
mang ách nô lệ vào thân. Muốn nắm bắt cơ hội mới, trước tiên chúng
ta cần phải tranh giành độc lập.
Sau hết có những dân tộc như
các bộ lạc Bắc Mỹ, Trung Mỹ và Nam Mỹ, phản ứng không hiệu quả,
chiến bại trước sự tấn công, độc lập bị mất, chủ quyền bị sụp đổ,
nước nhà bị thôn tính và dân tộc bị đồng hóa.
Đối với các dân
tộc sau này, vấn đề không còn nữa và trong lịch sử họ chỉ còn để lại
cái vết mỏng manh của một sự đi qua, đôi khi đánh dấu bằng những phế
tích của vài đền đài Nếu ngày nay, chúng ta lấy làm may mắn mà thấy
rằng số phận ác nghiệt trên không phải là số phận của chúng ta, thì
chúng ta không nên quên rằng, nhân loại ngày nay còn xa lắm mới tiến
được đến mức để cho, đương nhiên, số phận ác nghiệt trên không phải
là số phận của những dân tộc nhỏ bé như dân tộc của chúng ta. Trong
trình độ tiến hóa của nhân loại ngày nay, sự một dân tộc nhỏ như
chúng ta tránh được hay không số phận khốn khổ ấy tùy thuộc ở sự nỗ
lực tranh đấu của chúng ta. Và chính điểm này sẽ đè nặng lên sự lựa
chọn đường lối của chúng ta sau này.
Phản ứng của
Nhật Bản
Nước Nhật đã phản ứng như thế nào
để đạt những kết quả mà chúng ta mục kích ngày nay?
Trước hết dân tộc Nhật có được cái vận may là trong thời kỳ mà vận
mạng của quốc gia Nhật, như của các quốc gia khác trong xã hội Đông
Á, như chỉ mành treo chuông việc mất còn chỉ trong ly tấc, được có
một lớp người lãnh đạo cực kỳ sáng suốt. Họ nhận thấy ngay con đường
sáng của dân tộc. Những người này, trong một giai đoạn quyết liệt đã
cởi bỏ được cho quốc gia tính tự phụ cổ truyền, và có đủ can đảm
nhìn các biến cố với con mắt thiết thực. Nhờ vậy nên, trái với các
quốc gia đồng thuyền khác, khư khư quấn cả mình và đầu một cách mù
quáng trong lớp áo kiêu căng, quốc gia Nhật ý thức được ba điều tối
quan trọng:
1. Lực lượng xâm lăng hơn hẳn lực lượng kháng
chiến quốc gia về kỹ thuật tổ chức và kỹ thuật võ trang.
2.
Muốn chống lại nổi lực lượng xâm lăng và lâm thời thắng họ, chỉ có
cách duy nhất là chế ngự được kỹ thuật tinh xảo của địch thủ.
3. Mâu thuẫn ni bộ giữa các cường quốc trong mặt trận xâm lăng
của Tây phương là cơ hội duy nhất để bảo vệ nền độc lập và phát
triển dân tộc.
Óc sáng suốt và phi thường của những nhà lãnh
đạo Nhật Bản lúc ấy đã cấp thời tìm ra, ngay khi dân tộc gặp phải
nguy cơ trên lần đầu tiên, những biện pháp ứng phó duy nhất có hiệu
quả mà như chúng ta đã thấy ở trên, các nhà lãnh đạo Nga đã tìm ra
và áp dụng sau nhiều thế kỷ chiến đấu với các cường quốc Tây Âu.
Học kỹ thuật của địch thủ để thắng địch thủ, chế ngự kỹ
thuật của địch thủ để thắng địch thủ.
Các sự kiện
trên đây là nguồn gốc của cuộc cách mạng duy tân của Nhật thời Minh
Trị. Những kỹ thuật của Tây phương trong mọi lĩnh vực được phân tích
học hỏi và áp dụng triệt để. Nhu cầu cấp thời đã đặt ưu tiên cho
lĩnh vực quân sự và chính trị. Lề lối lãnh đạo cổ truyền theo chế độ
quân chủ chuyên chế của xã hội Đông Á đã nhường chỗ cho lý thuyết
chính trị của Tây phương. Quân đội tập hợp và võ trang theo thời xưa
đã biến thành một quân lực hùng hậu tổ chức võ trang theo Tây
phương.
Sau đó các phương pháp sản xuất kinh tế được duy tân.
Chuyên viên Tây phương tấp nập, vì quyền lợi cá nhân quyến rũ và
nhất là vì mâu thuẫn chính trị giữa các cường quốc chinh phục.
Nhờ sáng suốt các nhà lãnh đạo Nhật Bản đã nắm ngay được cơ hội.
Một trăm năm sau một cơ hội tương tự mới trở lại lần thứ nhì cho các
dân tộc bị chinh phục như dân tộc Việt Nam. Và nhờ nắm được cơ hội
ngay lần đó nên họ đã thành công trong công việc đưa dân tộc Nhật
lên hàng tiến bộ như chúng ta thấy ngày nay.
Và cố nhiên là
những dân tộc nào lỡ cơ hội thứ nhắt, như trên đã trình bày, đều còn
nằm vào tình trạng như chúng ta ngày nay. Và cơ hội thứ nhì sau Thế
Giới Đại Chiến lần thứ hai, một trăm năm sau như chúng ta sẽ thấy
dưới đây. Và vấn đề hiện tại cho chúng ta là liệu lần này có nắm lấy
được cơ hội không?
Nước Nhật đã thành công trong công cuộc
Tây phương hóa để chống lại người Tây phương. Độc lập vẫn còn, chủ
quyền vẫn nguyên, người Nhật cũng như người Nga đã hoàn toàn chủ
động công cuộc Tây phương hóa của họ. Vì vậy cho nên, không lúc nào
có sự gián đoạn trong việc diễn tiến của lịch sử của họ. Điều này
tối quan trọng như chúng ta sẽ thấy dưới đây.
Nói một cách
đại khái, một nền văn minh là một toàn bộ gồm những giá trị làm tiêu
chuẩn trong các lĩnh vực của đời sống: kỹ thuật, chính trị, văn hóa,
xã hội và nghệ thuật.
Trong cái toàn bộ đó, các giá trị quân
bình lẫn nhau gây nên một trạng thái điều hòa. Nếu trạng thái điều
hòa động tiến thì nền văn minh đang hồi phát triển. Nếu trạng thái
điều hòa tỉnh chỉ, nền văn minh đến lúc suy đồi. Mất một yếu tố quân
bình, hay bị một phần tử ngoại lai xâm nhập, trạng thái điều hòa sẽ
mất và nền văn minh liên hệ sẽ bị đặt vào một tình trạng báo động
nguy hiểm. Nếu những phần tử của xã hội liên hệ không ý thức và phản
ứng kịp thời, và mất chủ động con thuyền chung thì nền văn minh sẽ
sụp đổ và tan rã, các giá trị tiêu chuẩn đều bị phá sản. Trái lại
nếu những phần tử của xã hội liên hệ ý thức kịp thời nguy cơ đưa đến
và phản ứng hiệu quả, vẫn nắm được chủ động con thuyền, thì sẽ chế
ngự được các cuộc xáo động và đưa nền văn minh đến một trạng thái
điều hòa mới.
Tất cả các dân tộc như dân tộc Nhật, khi bị sự
tấn công của Tây phương, phản ứng hiệu quả bằng cách chế ngự kỹ
thuật Tây phương để làm khí giới chống lại Tây phương, đã thành công
trong công cuộc bảo vệ độc lập và phát triển dân tộc. Nhưng kỹ thuật
Tây phương là một vật ngoại lai được nhập cảng vào trạng thái điều
hòa của nền văn minh Nhật. Và vì vậy cho nên sự thâu nhận kỹ thuật
Tây phương làm mất trạng thái điều hòa nói trên và gây cho xã hội
Nhật nhiều chấn động đe dọa các giá trị tiêu chuẩn cổ truyền. Nhưng
giữa hai thái độ: một là bảo vệ sự tồn tại của dân tộc với cái giá
phải trả là chịu đựng những chấn động do một vật ngoại lai gây nên,
hai là bảo vệ sự thuần túy của trạng thái điều hòa của nền văn minh
cũ, việc lựa chọn không thành vấn đề. Bởi vì những người muốn bảo vệ
sự thuần túy của trạng thái điều hòa cũ chắc chắn là sẽ không có
phương tiện để làm việc đó, và như vậy chỉ dẫn dắt dân tộc đến chỗ
nô lệ và cùng khốn như dân tộc Việt Nam.
Trí sáng suốt của
các nhà lãnh đạo Nhật Bản đã dạy họ phải chọn thái độ thứ nhất. Tuy
nhiên mặc dù họ thành công trên một phương diện, phương diện phát
triển, nhưng họ phải đương đầu với các chấn động do một vật ngoại
lai là kỹ thuật Tây phương đã mang đến cho xã hội Nhật. Chúng ta
càng quan niệm rõ rệt hơn sự phá hoại của các chấn động trên nếu
chúng ta ý thức rằng kỹ thuật Tây phương không thể tách rời ra khỏi
toàn bộ nền văn minh Tây phương. Kỹ thuật Tây phương là một bộ phận
của toàn bộ trên. Nếu thâu nhận kỹ thuật Tây phương rồi, thì sớm
muộn gì cũng phải thâu nhận lối suy luận của Tây phương để chế ngự
và phát triển kỹ thuật kia. Thâu nhận lối suy luận của Tây phương
thì lại lần hồi thâu nhận lối sống của Tây phương, vân vân. Nghĩa
là, tưởng rằng thâu nhận xong kỹ thuật Tây phương để chống Tây
Phương là rồi việc là một lỗi lầm lớn. Bởi vì kỹ thuật Tây Phương mở
cửa, nhưng sau kỹ thuật lần hồi các phần tử của toàn bộ văn minh Tây
phương sẽ lần lần do cửa đã mở xâm nhập. Và sự thật thì chính là tất
cả văn minh Tây phương chớ không riêng gì kỹ thuật Tây phương đã gây
cuộc chấn động trong trạng thái điều hòa của các xã hội đã mở cửa
đón kỹ thuật Tây phương để tìm đường sống.
Như vậy dù chúng
ta có mở cửa hay không mở cửa để đón kỹ thuật Tây phương vào, thì
sớm muộn gì văn minh Tây phương cũng sẽ vào nội bộ ta mà gây cuộc
chấn động. Chỉ có khác một điều là, nếu chúng ta không mở cửa thì
chúng ta sẽ chết ngay dưới sự tấn công khốc liệt của các lực lượng
Tây phương, và chúng ta không còn chủ động được con thuyền của chúng
ta nữa, như trường hợp Việt Nam.
Nếu chúng ta mở cửa thì ít
ra, mặc dầu tất cả sóng gió nhưng chúng ta vẫn chủ động con thuyền
của chúng ta để có thể đưa nó được đến một trạng thái điều hòa mới.
Đó là trường hợp của Nhật Bản, trong khi và sau khi duy tân xã hội
Nhật trải qua nhiều cuộc chấn động dữ dội mà ảnh hưởng ngày nay vẫn
còn.
Nếp sống mới nằm chồng lên nếp sống cũ, văn minh cũ đã
hết tiến, nhưng trạng thái điều hòa của văn minh mới vẫn chưa ổn
định. Nhưng mặc dấu tất cả khuyết điểm đó, mặc dầu tất cả các cuộc
chấn động phát sinh từ cuộc chiến đấu giữa hai nền văn minh, xã hội
Nhật không bao giờ bị gián đoạn trong sự lãnh đạo và lúc nào dân tộc
Nhật cũng chủ động con thuyền của họ. Chỉ một điều kiện này cũng đủ
để bảo đảm cho tương lai.
Phản ứng Trung Hoa và Thái
Lan
Nay nếu chúng ta so sánh trường hợp của Trung
Hoa và Thái Lan với trường hợp Nhật Bản, các ý tưởng trên đây càng
được xác nhận.
Trung Hoa và Thái Lan cũng bị sự tấn công của
Tây phương như Nhật Bản. Nhưng các nhà lãnh đạo lại lựa chọn thái độ
thứ hai, như đã nói trên kia, nghĩa là bảo vệ trạng thái điều hòa
của nền văn minh cũ. Chỉ nhờ mâu thuẫn chính trị giữa các cường quốc
nên hai quốc gia trên, sau khi chiến bại, không bị chinh phục, và
biến làm thuộc địa như Việt Nam.
Tuy nhiên, chủ quyền đã sứt
mẻ, họ không còn hoàn toàn chủ động con thuyền, không chủ động được
công cuộc phát triển. Chính vì ý thức dùng kỹ thuật Tây phương để
chống Tây phương và lâm thời thắng Tây phương chưa chín mùi trong
não người lãnh đạo, nên cơ hội phát triển đã bỏ lỡ.
Các mâu
thuẫn chính trị giữa các cường quốc Tây phương một khi đã ngăn cản
được sự chinh phục thật sự lãnh thổ của họ, không được lợi dụng để
phát triển dân tộc như ở Nhật.
Vì vậy mà dân tộc Trung Hoa và
dân tộc Thái Lan vẫn nằm trong tình trạng chậm tiến, cho đến ngày cơ
hội thứ hai đưa đến, như ta đã thấy trên kia. Ngày nay Trung Hoa đã
nắm được cơ hội thứ hai và đang mạnh bạo phát triển, Tây phương hóa
theo kiểu Cộng sản. Nhưng cho đến ngày giờ này chưa có triệu chứng
gì cho chúng ta thấy rằng Thái Lan đã nắm được cơ hội.
Trở
lại thời gian một trăm năm giữa hai cơ hội dân tộc Trung Hoa và Thái
Lan vẫn ở trong tình trạng bi đát của những nước bị biến thành bán
thuộc địa. Công cuộc Tây phương hóa, trong thời kỳ đó, hai quốc gia
trên không được tự ý mình đặt thành một công cuộc quốc gia, nhưng họ
vẫn không tránh được, vì không làm sao kháng cự nổi trước sự tấn
công mãnh liệt của kỹ thuật Tây phương.
Chỉ khác với trường
hợp Nhật Bản ở chỗ là công cuộc Tây phương hóa không được hướng dẫn
và không được chủ động. Những cuộc duy tân hỗn loạn càng mang đến
những chấn động kinh khủng trong xã hội, mà lại không có một cố gắng
nào để chủ động con thuyền hầu đưa nó đến một trạng thái điều hòa
mới. Tất cả những xáo trộn trong xã hội Trung Hoa và Thái Lan trong
thời kỳ trên đều phát sinh từ các sự kiện trên đây. Duy chỉ có một
sự kiện còn ít nhiều khả năng thuyên giảm tính cách trầm trọng của
tình trạng trên, là chủ quyền trong hai quốc gia trên không hoàn
toàn mất nên xã hội của họ không bị tan rã và không hề bị gián đoạn
trong sự lãnh đạo. Vấn đề lãnh đạo quốc gia vẫn được chuyền tay nhau
từ thế hệ trước sang thế hệ sau.
Phản ứng của Việt
Nam
Đối với Việt Nam sự kiện chót này lại cũng không
có nữa. Vì vậy mà tình trạng của Việt Nam trong thời kỳ qua và ngay
bây giờ còn trầm trọng hơn tình trạng của Trung Hoa và của Thái Lan
nhiều.
Sau cuộc chiến bại, nước Việt Nam bị chiếm làm thuộc
địa. Chủ quyền bị mất hẳn, việc lèo lái con thuyền của chúng ta
không còn ở trong tay của chúng ta nữa. Và sự kiện ấy đã xảy ra, vì,
trong một giai đoạn quyết liệt của lịch sử dân tộc, chúng ta đã gặp
phải một lớp người lãnh đạo thiếu sáng sut và thiu thiết thực, kiêu
căng và không thức thời, không chịu phóng tầm mắt mà nhìn vào vấn đề
thiết thực của dân tộc, tự giam hãm trí óc trong những quan niệm
chật hẹp về quyền bính và triều đại.
Những khuyết điểm đó đã
dẫn dắt đến sự lỡ cơ hội phát triển cho dân tộc lần thứ nhất. Hơn
thế nữa, việc lỡ cơ hội đối với chúng ta khốc hại bội phần hơn là
đối với Trung Hoa và Thái Lan. Trong một trăm năm lệ thuộc, xã hội
của chúng ta tan rã và công cuộc lãnh đạo quốc gia đã bị đứt đoạn.
Dầu nhà Nguyễn có công khai thác đất đai rộng lớn gấp mấy lần phần
đất mà Nguyễn Triều lúc nào cũng lấy làm tự hào đã góp phần vào di
sản quốc gia, thì họ cũng không bù đắp được lỗi lầm về lãnh đạo
trong một giai đoạn quyết liệt của dân tộc như chúng ta đã thấy trên
đây.
Sau này các sử gia của chúng ta làm việc theo kỹ thuật
khoa học, tất nhiên sẽ tìm thấy những chi tiết và nhận thấy rõ hơn
trường hợp không tha thứ được của nhà Nguyễn khi phạm vào những lỗi
lầm to tát lưu lại hậu quả tàn khốc cho dân tộc.
Việc tai hại
thứ nhất cho chúng ta ở chỗ là chính lúc nền văn minh của chúng ta
phải đương đầu với những cuộc chấn động do những phần tử ngoại lai
gây nên trong xã hội chúng ta, lại là lúc mà chúng ta không còn chủ
động vận mạng của chúng ta được nữa.
Xã hội Nhật Bản khi gặp
phải hoàn cảnh đó, đã may mắn được đặt dưới sự lãnh đạo của một lớp
người vừa cực kỳ sáng suốt, vừa đủ chủ quyền và thừa phương tiện để
nắm vững con thuyền quốc gia. Thế mà, xã hội Nhật vẫn bị xáo trộn
đến tận nền tảng và phải bỏ trạng thái điều hòa của văn minh để tìm
một trạng thái điều hòa mới, như chúng ta đã biết.
Trái lại,
dân tộc chúng ta, trong cơn bão tố lại không người lèo lái. Lớp
người lãnh đạo trước đã biến mất trong cơn chiến bại. Các lớp người
kế tiếp bị kẻ chinh phục tiêu diệt. Trong khi đó, theo chân người
chiến thắng, văn minh mới ồ ạt đưa đến gây ra một cuộc duy tân hỗn
độn, không lề lối không mục đích. Những giá trị tiêu chuẩn cổ truyền
cùng với sự chiến bại của dân tộc, bị phá sản và khinh miệt. Trong
khi đó những giá trị tiêu chuẩn mới chưa có, xã hội không giá trị
tiêu chuẩn như con thuyền trôi dạt, không phương hướng và không sinh
lực.
Tình trạng này là nguyên nhân duy nhất cho tất cả các
quái tượng đã hiện ra trong suốt thời gian gần một trăm năm mà chúng
ta, khi nhìn thấy, phải vừa đau đớn vừa tủi nhục. Xã hội chia làm
hai khối: một bên cố gắng bảo vệ lấy các giá trị cổ truyền đã chết
thành thây ma, một bên duy tân nhưng không biết duy tân để làm gì,
và cũng không biết duy tân theo hướng nào, chỉ bắt chước cử chỉ như
khỉ và lời nói như sáo. Hai bên tân, cựu khinh miệt nhau, thật là
một hiện tượng rõ rệt của một xã hội đang tan rã.
Tình trạng
càng trở nên bi thảm khi chính phủ “mới” với sự ủng hộ của kẻ xâm
lăng đã thắng phái “cũ”. Các giá trị cũ, tuy đã chết như cây khô vì
không người vun tưới, nhưng đó là những tiêu chuẩn giá trị thật, có
thời đã đào tạo được những thế hệ người gồm nhiều đức tính cao cả.
Với sự sụp đổ của những giá trị đó, tiết tháo và tính khí của người
xưa cũng mất luôn. Lớp người “mới”, lại không biết duy tân để làm gì
ngoài sự hưởng thụ vật chất, không có sáng tạo, không có những biểu
lộ chứng minh cho sinh lực của một xã hội. Có lẽ không bao giờ dân
tộc chúng ta đã xuống đến thấp như vậy và chưa bao giờ chúng ta đã
đến gần chỗ diệt vong như vậy. Ngược lại, chính vì đã vượt qua được
những bước tuyệt vọng như vậy, mà chúng ta lại càng tin tưởng vào
sinh khí của dân tộc.
Hậu quả tai hại nhất mà thời kỳ Tây
thuộc đã để lại cho chúng ta là sự tan rã của xã hội Việt Nam và sự
gián đoạn trong việc lãnh đạo quốc gia. Cũng như chủ nghĩa đế quốc
kiểu Pháp đã để lại cho chúng ta một hậu quả tai hại không kém: lớp
người tai mắt trong xã hội thời Pháp không thể dùng vào các nhiệm vụ
lãnh đạo được.
So sánh như trên đây, trường hợp của Nhật và
Trung Hoa với trường hợp của chúng ta, chúng ta mới ý thức sung mãn
tính cách vô cùng trầm trọng của tình trạng nguy ngập mà xã hội
chúng ta đang lâm vào. Tất cả ba dân tộc đều ở trong xã hội Đông Á,
cùng một văn minh, cùng một giá trị truyền thống, đã cùng, trong một
lúc, gặp phải một nguy cơ chung.
Nhưng dân tộc Nhật đã phản
ứng kịp thời, chiến thắng, bảo tồn độc lập, giữ nguyên chủ quyền,
nắm được ngay cơ hội thứ nhất để phát triển dân tộc. Sự lãnh đạo
quốc gia không bị gián đoạn, công cuộc duy tân được hướng dẫn và các
giá trị tiêu chuẩn truyền thống không bị phá sản. Nhờ vậy nên xã hội
Nhật vẫn tiến liên tục, chế ngự được các cuộc chấn động do những giá
trị ngoại lai gây nên sau khi xâm nhập vào trạng thái điều hòa của
nền văn minh cũ. Xã hội Nhật chỉ có bị bắt buộc phải bỏ trạng thái
điều hòa cũ để tìm một trạng thái điều hòa mới.
Dân tộc Trung
Hoa không phản ứng kịp thời, chiến bại độc lập được bảo tồn không
phải nhờ ở nỗ lực chủ động mà nhờ ở ngoại cảnh. Chủ quyền bị sứt mẻ,
nên mặc dầu sự lãnh đạo quốc gia không bị gián đoạn, công cuộc duy
tân không được hướng dẫn, các giá trị truyền thống bị phá sản, nắm
không được cơ hội thứ nhất để phát triển dân tộc. Vì vậy cho nên,
không chế ngự được các cuộc chấn động do những giá trị ngoại lai gây
nên sau khi xâm nhập vào trạng thái điều hòa của nền văn minh cũ. Xã
hội Trung Hoa tuy không tiến triển liên tục, nhưng nhờ chủ quyền
không mất nên không bị tan rã. Ngày nay, Trung Hoa đã nắm được cơ
hội thứ hai và đang dốc hết nỗ lực của dân tộc để thực hiện công
cuộc phát triển và duy tân mà nước Nhật đã làm xong.
Và cố
nhiên Trung Hoa cũng sẽ bỏ trạng thái điều hòa cũ để tìm một trạng
thái điều hòa mới. Nhưng công cuộc ấy sẽ thực hiện từ một xã hội
không bị tan rã và với một sự lãnh đạo không hề bị gián đoạn.
Dân tộc Việt Nam không phản ứng kịp thời, chiến bại, độc lập bị
mất, nước nhà biến thành thuộc địa, chủ quyền hoàn toàn mất, chẳng
những không nắm được cơ hội thứ nhất để phát triển dân tộc, lại hoàn
toàn bất lực đối với một công cuộc duy tân bắt buộc, không hướng dẫn
và hỗn độn.
Các giá trị truyền thống bị phá sản. Hoàn toàn
bất lực trước các cuộc chấn động do những giá trị ngoại lai gây nên
sau khi xâm nhập vào trạng thái điều hòa của nền văn minh cũ. Vì
không gặp trở lực nên các cuộc chấn động mặc tình hoành hành phá
hoại xã hội đến tan rã. Sự hoàn toàn mất chủ quyền lại gây sự gián
đoạn trong việc lãnh đạo quốc gia. Ngày nay chưa có gì bảo đảm là
chúng ta đã nắm được cơ hội thứ hai để thực hiện công cuộc phát
triển dân tộc. Giả sử chúng ta có nắm được thì công cuộc phát triển
và duy tân sẽ thực hiện từ một xã hội đã tan rã và với một sự lãnh
đạo quốc gia đã bị gián đoạn.
Hai hoàn cảnh này là hai điều
kiện vô cùng nghiêm khắc đối với chúng ta, nếu chúng ta nắm được cơ
hội thứ hai. Và thế nào là nắm bắt được và thế nào là không nắm được
cơ hội, chúng ta sẽ trả lời rõ ràng các câu hỏi đó sau này.
Giờ đây chúng ta tìm hiểu vì sao mà hai hoàn cảnh trên là hai điều
kiện vô cùng nghiêm khắc đối với chúng ta khi chúng ta bắt tay vào
công cuộc phát triển dân tộc và công cuộc Tây phương hóa.
Lãnh đạo quốc gia gián đoạn
Như thế
nào là một sự lãnh đạo quốc gia bị gián đoạn?
Trong
một tình trạng bình thường chủ quyền của quốc gia chuyền tay một
cách êm thắm từ lớp người lãnh đạo này sang lớp người lãnh đạo sau.
Sự liên tục trong sự lãnh đạo nằm ở chỗ các bí mật lãnh đạo và các
bí mật quốc gia được mật truyền cho nhau. Đời sống của người ngắn
ngủi sánh với đời sổng của quốc gia, sự liên tục lãnh đạo thực hiện
được nhờ ở sự mật truyền nói trên và nhờ ở các văn khố và ở chỗ có
người biết sử dụng văn khố. Ngoài ra thuật lãnh đạo được truyền cho
nhau nguyên vẹn từ thế hệ này sang thế hệ khác. Với thời gian, các
bí mật chồng chất, các văn khố lưu trữ, sự trau dồi thuật lãnh đạo
càng ngày càng tinh vi, và kinh nghiệm lãnh đạo súc tích là một di
sản quý báu không thể lường được cho một dân tộc.
Sức mạnh
của nước Anh hay nước Mỹ mà chúng ta mục kích ngày nay bắt nguồn
trước hết từ chỗ hai quốc gia này đã thực hiện được việc liên tục
lãnh đạo quốc gia trong gần 200 năm. Một nhà lãnh đạo Anh, ngày nay
bước lên nắm chính quyền, là tức khắc sau lưng mình có 400 năm kinh
nghiệm và văn khố làm hậu thuẫn. Đó là một di sản quí báu không có
gì thay thế được và tạo cho họ một sức mạnh phi thường.
Với
các hậu thuẫn đó, họ có thể hiểu biết và giải quyết những việc ngoài
khả năng của những người, dầu tài ba đến đâu, nhưng thiếu hậu thuẫn
của dĩ vãng. Mỗi biến cố xảy ra bất cứ nơi nào trên thế giới đều có
thể đối chiếu với một biến cố tương tự đã xảy ra trước đây và đã
được ghi chép vào văn khố của họ. Nhờ vậy mà họ biết rõ bí mật lãnh
đạo của hầu hết các nước khác hơn là chính người lãnh đạo của những
nước đó. Trên phương diện này nước Pháp, nước Đức hay cả nước Nga
cũng không sánh được với nước Anh. Và nước Pháp, nước Đức và nước
Nga chưa thực hiện được sự liên tục lãnh đạo như nước Anh. Vì vậy
chúng ta không lấy làm lạ khi biết rằng ngày nay chính là chính sách
ngoại giao của Anh, Mỹ lãnh đạo thế giới ngày nay.
Trên
phương diện này, và với thời gian qua, cách mạng năm 1789 của Pháp,
mang đến nhiều cuộc xáo trộn trong xã hội Pháp, là một biến cố có
hại nhiều hơn có lợi cho quốc gia Pháp. Việc lãnh đạo quốc gia bị
một gián đoạn sâu rộng và đến ngày nay việc chuyển quyền trong sự
lãnh đạo quốc gia một cách liên tục, nước Pháp vẫn chưa giải quyết
được một cách ổn thỏa. Những biến cố không hay cho nước Pháp cho đến
ngày nay, từ cách mạng 1789, đều là hậu quả của những sự kiện trên.
Và trong việc chạy đua chiếm thuộc địa giữa các cường quốc Âu Châu
trong các thế kỷ vừa qua, sở dĩ Anh thắng thế cũng nhờ ở hậu thuẫn
vô biên của gần 400 năm liên tục trong việc lãnh đạo quốc gia.
Dân tộc Đức, trên mọi lãnh vực của đời sống, đã tỏ ra có nhiều
đức tính, mà các dân tộc khác không bì kịp, và đã góp vào văn minh
của nhân loại những sáng tạo cao cả. Nhưng sở dĩ ngày nay chỉ vẫn
còn điêu đứng cũng chỉ vì khng giải quyết được vấn đề chuyển quyền
và lãnh đạo liên tục quốc gia. Nưc Nga sau cuộc cách mạng 1917 đã
thành công trong cuộc phát triển dân tộc và duy tân xã hội. Nhưng họ
phải trả bằng một giá rất đắt và phải sau hơn ba mươi năm, mới chế
ngự được các chấn động do sự gián đoạn về lãnh đạo gây nên. Mặc dầu
như vậy, ngày nay nhược điểm của Nga Sô vẫn còn ở chỗ bộ máy chính
quyền của Cộng sản vẫn chưa giải quyết được vấn đề chuyển quyền và
vấn đề lãnh đạo liên tục quốc gia.
Với thời gian qua, các
cuộc cách mạng bạo động trong lịch sử đều là những cái hại, dù là có
cần thiết đi nữa, vẫn là những cái hại cho quốc gia và dân tộc. Nếu
cân nhắc hai bên, một bên là cuộc cách mạng bạo động để thanh toán
các tệ đoan trước mắt của xã hội và một bên là sự bảo đảm cho sự
lãnh đạo liên tục quốc gia, thì lịch sử trả lời rằng sự lãnh đạo
liên tục quốc gia quan hệ hơn, vì nó là một quan điểm dài hạn, còn
cách mạng bạo động là một quan điểm ngắn hạn. Mà lịch sử là một quan
điểm dài hạn so sánh với đời sống cá nhân là một quan điểm ngắn hạn.
Một dân tộc càng trưởng thành quan điểm càng dài hạn, và quan điểm
càng dài hạn, dân tộc càng có cơ hội và phương tiện để trưởng thành.
Hơn nữa những cái tệ đoan có thể thanh toán bằng nhiều lối,
ngoài lối cách mạng bạo động.
Sự lãnh đạo quốc gia
liên tục
Như trên đã trình bày, sự lãnh đạo quốc gia
được liên tục khi nào các điều kiện dưới đây được thỏa mãn:
1. Sự chuyển quyền được bình thường từ lớp người trước cho tới lớp
người sau.
2. Các bí mật quốc gia được truyền lại.
3.
Thuật lãnh đạo được truyền lại và được cải thiện càng ngày càng tinh
vi.
4. Các kinh nghiệm của dĩ vãng được xếp vào văn khố, được
truyền lại và có người biết xử dụng văn khố.
Cứ theo các điều
kiện trên đây, một chế độ độc tài hay quân chủ chuyên chế hoàn toàn
bất lực trong việc bảo đảm một sự lãnh đạo quốc gia liên tục. Vì cái
mầm bạo động lúc nào cũng được tạo ra và bị đàn áp bởi các chế độ
trên.
Nhưng càng đàn áp lại càng nuôi dưỡng đúng theo luật tự
nhiên của lịch sử và cuối cùng bạo động sẽ bùng nổ và mang lại sự
gián đoạn trong vấn đề lãnh đạo quốc gia. Nhận xét trên đây sẽ ảnh
hưởng nặng trên sự lựa chọn đường lối của chúng ta sau này.
Nếu việc lãnh đạo quốc gia được liên tục nhờ ở sự thỏa mãn các điều
kiện trên đây, thì dĩ nhiên, sự thiếu một hay nhiều điều kiện trên
đây sẽ đem đến sự gián đoạn trong việc lãnh đạo. Và tùy theo điều
kiện thiếu nhiều hay ít, sự gián đoạn ấy sẽ dung nạp được hay trầm
trọng. Chúng ta có thể phân biệt ba trình độ gián đoạn.
Trình
độ gián đoạn nhẹ nhất xảy ra khi sự chuyển quyền từ lớp người trước
cho lớp người sau không được bình thường, các bí mật quốc gia trong
giai đoạn ngắn trước đó sẽ mất. Tuy nhiên văn khố hãy còn và thuật
lãnh đạo không đến nỗi mất hẳn. Các cuộc đảo chánh ở Nam Mỹ rất là
điển hình cho trình độ này.
Trình độ gián đoạn trầm trọng xảy
ra khi sự chuyển quyền từ lớp người trước cho lớp người sau, chẳng
những không được bình thường, mà lại còn diễn ra trong những hoàn
cảnh bạo động kinh khủng. Các bí mật quốc gia mất hết, văn khố bị
thiêu hủy, người sừ dụng văn khố không còn. Thuật lãnh đạo và kinh
nghiệm của dĩ vãng được thay thế bằng sự hăng hái của dân chúng và
sáng kiến cá nhân. Di sản của dĩ vãng không còn nữa, vì sự điên rồ
của người đời làm cho họ tin rằng họ cần san bằng tất cả dĩ vãng đế
xây dựng tương lai. Cách mạng năm 1789 của Pháp là một ví dụ cụ thể
nhất cho trường hợp này. Biết như vậy rồi chúng ta không lấy làm lạ
tại sao cho đến ngày nay người Pháp vẫn chưa giải quyết được một
cách ổn thỏa vấn đề lãnh đạo liên tục cho quốc gia của họ.
Cũng trên phương diện này, sự chính quyền Việt Minh, vô tình hay cố
ý, không bảo vệ được phần văn khố của triều Nguyễn mà người Pháp còn
để lại, để cho dân chúng Huế đốt phá một phần quan trọng của di sản
kinh nghiệm của chúng ta, là một lỗi rất lớn, không có gì tha thứ
được đối với quốc gia và dân tộc. Tuy nhiên, dù vô tình hay cố ý
việc đó đã xảy ra chứng minh cho sự kiện chính vì chúng ta đã mất
truyền thống lãnh đạo, cho nên những người có trách nhiệm trong
chính phủ Việt Minh lúc bấy giờ ở Huế không ý thức được tính cách
quan trọng và quốc gia cần thiết của sự bảo vệ văn khố. Càng mất
truyền thống lãnh đạo lại càng phá huỷ những di sản khả dĩ bảo vệ sự
lãnh đạo quốc gia. Tục ngữ thường nói “nghèo lại càng nghèo” là vậy.
Trình độ gián đoạn trầm trọng nhất xảy ra khi sự chuyển quyền
không thực hiện được giữa lớp người trước và lớp người sau. Bí mật
lãnh đạo và bí mật quốc gia đều mất.
Thuật lãnh đạo không
truyền lại được. Di sản dĩ vãng không người thừa nhận, văn khố thất
lạc và bị cướp bóc. Đó là trường hợp của các nước bị chinh phục, mất
chủ quyền. Và đó là trường hợp của Việt Nam chúng ta trong thời kỳ
Pháp thuộc.
Lớp người lãnh đạo trước của chúng ta đã mất, lớp
người lãnh đạo sau của chúng ta không có. Di sản dĩ vãng tiêu tan.
Tình trạng của chúng ta thật là khủng khiếp nếu chúng ta tưởng tượng
rằng, trước mặt một nhà lãnh đạo Anh tựa lưng vững chãi trên di sản
dày 400 năm, sẵn sàng ứng phó với mọi biến cố, nhà lãnh đạo của
chúng ta đứng lên, cô độc, sau lưng không có lấy được một tờ di sản
làm hậu thuẫn.
Hoàn cảnh trong đó chúng ta phải chiến đấu để
thực hiện cuộc phát triển dân tộc, nghiêm khắc là vậy đó. Ý nghĩa
của chữ “chậm tiến” là vậy đó.
Điều kiện của một sự
lãnh đạo liên tục
Vì vậy cho nên dốc hết nỗ lực của
toàn dân vào công cuộc chung cũng chưa chắc là đủ. Nhưng đó là việc
chúng ta sẽ bàn tới sau này. Giờ đây để hết tâm trí chúng ta vào một
điều tối quan trọng là đường lối của chúng ta sau này sẽ được lựa
chọn như thế nào để khả dĩ bảo đảm cho sự lãnh đạo liên tục quốc gia
và tiết kiệm được người lãnh đạo mà chúng ta vô cùng khan hiếm sau
thời kỳ Pháp thuộc. Điều này như trên đã nói chắc chắn một chính thể
độc tài không làm được.
Một sự kiện khác chứng minh cho tính
cách thiết yếu của sự lãnh đạo liên tục quốc gia, là tình trạng của
các nước Nam Mỹ. Ở các nước này, những sự gián đoạn trong việc lãnh
đạo tuy với hình thức nhẹ nhưng xảy ra luôn vì những cuộc đảo chánh
liền liền. Nhiều gián đoạn nhỏ liên tiếp trở thành những gián đoạn
lớn, cho nên các nước Nam Mỹ trải qua nhiều thế hệ vẫn là chậm tiến.
Một mặt khác, ví dụ trên đây lại chứng minh cho một sự kiện khác:
muốn chặn sự phát triển của một dân tộc thì không có biện pháp nào
hiệu quả bằng biện pháp gây ra nhiều gián đoạn trong việc lãnh đạo
quốc gia của dân tộc ấy. Đây là một thủ đoạn thường dùng của các
cường quốc Tây Âu trước đây khi mang kỹ thuật Tây phương đi chinh
phục thế giới.
Sự gián đoạn trong vấn đề lãnh đạo làm cho
quốc gia suy nhược theo một thể thức cơ biến như thế nào chúng ta đã
rõ.
Nhưng nếu sự gián đoạn diễn ra trong những hoàn cảnh bạo
động gây sự giết chóc giữa nhiều phe phái, thì lại còn gây nhiều
thảm hại to tát cho quốc gia trên một lĩnh vực khác.
Trở về
ví dụ của nước Anh một lần nữa, chúng ta sẽ ý thức rõ ràng sự thảm
hại vừa nói trên. Ở nước Anh việc lãnh đạo quốc gia liên tục đã được
giải quyết hoàn bị. Khi cần thay đổi một nhà lãnh đạo, tức khắc bộ
máy hiến pháp vận chuyển, và một người lãnh đạo khác lên thay thế,
người lãnh đạo trước buông việc, về tịnh dưỡng và suy nghiệm các
hành vi đã qua của mình.
Những người lãnh đạo xứng danh bao
giờ cũng hành động theo một triết lý chính trị mà họ đã nghiền ngẫm
lâu ngày, trước khi mang ra thực hành. Nếu khi đụng chạm với thực
tế, những tư tưởng đang hướng dẫn hành động của họ đã tỏ ra sai lạc,
hay vì hoàn cảnh bên ngoài đã biến đổi nên không còn phù hợp với
những tư tưởng ấy nữa thì cần phải có một sự thay đổi ngay. Nhưng
thay đổi như thế nào.
Người lãnh đạo phải thay đổi
tư tưởng, hay là phải thay đổi người lãnh đạo.
Kinh
nghiệm chỉ rằng không bao giờ người lãnh đạo thay đổi tư tưởng trong
lúc đang ở trong không khí hành động, bởi một lẽ rất dễ hiểu là họ
phải mất nhiều thì giờ nghiền ngẫm mới đi đến triết lý chính trị mà
họ chủ trương. Nay nếu nó không phù hợp với hoàn cảnh, họ phải có đủ
thời giờ để một là xét vì sao triết lý ấy không phù hợp và hai để
tìm triết lý khác thay thế vào. Điều mà họ không thể làm được nếu họ
vẫn bị hành động lôi cuốn. Vì vậy cho nên yêu cầu một người lãnh đạo
thay đổi tư tưởng của họ đang khi hành động là một việc không bao
giờ thực hiện được. Giả sử mà họ có thay đổi được thì, việc lãnh đạo
lại sẽ gặp một nguy cơ lớn hơn nữa. Bởi vì thay đổi hấp tấp và không
suy nghiệm như vậy, người lãnh đạo sẽ không còn là chính họ nữa. Và
đương nhiên hiệu quả trong hành động của họ sẽ kém bội phần.
Như vậy, chỉ còn cách là phải thay đổi người lãnh đạo.
Thoát khỏi không khí náo nhiệt và thúc dục của hành động, người
lãnh đạo bị thay đổi sẽ suy nghiệm hành động đã qua, rút kinh nghiệm
cho bản thân và viết thành sách những kinh nghiệm ấy để làm giàu
thêm cho di sản dĩ vãng của quốc gia.
Hơn thế nữa, người lãnh
đạo bị thay đổi lại có ngày giờ nghiền ngẫm một triết lý chính trị
khác hợp với tình thế hơn, và nếu có cơ hội cho họ trở ra hoạt động,
thì quốc gia lại có một người lãnh đạo kinh nghiệm hơn gấp mấy lần
người lãnh đạo đã bị thay đổi trước đây. Nay, nếu thay vì một sự
chuyển quyền bình thường, nhiều bạo động lại diễn ra làm thiệt mạng
những người lãnh đạo trước, chúng ta sẽ mất, ngoài những bí mật lãnh
đạo mà chúng ta đã nói rồi trên kia, vừa các kinh nghiệm lãnh đạo có
thể làm cho di sản dĩ vãng chúng ta thêm phong phú, vừa một người
lãnh đạo mà quốc gia lúc nào cũng khan hiếm.
Lý luận
trên đây lại còn làm cho chúng ta nhận xét thêm rằng:
1. Không bao giờ thay đổi được tư tưởng của người lãnh đạo trong
lúc họ đang hành động.
2. Người lãnh đạo dù tài ba đến đâu
cũng có lúc cần phải được thay đổi, vì tư tưởng không phải lúc nào
cũng phù hợp với thực tế.
3. Sự lãnh đạo quốc gia liên tục
một khi được bảo đảm, di sản dĩ vãng của quốc gia càng thêm phong
phú, và quốc gia càng giàu người lãnh đạo. Di sản quốc gia càng thêm
phong phú và quốc gia càng giàu người lãnh đạo thì việc lãnh đạo
quốc gia liên tục lại càng thêm bảo đảm.
4. Ngược lại, sự
lãnh đạo quốc gia liên tục không thực hiện được, thì di sản dĩ vãng
của quốc gia càng ngày càng suy vi và quốc gia càng ngày càng nghèo
người lãnh đạo. Và di sản dĩ vãng càng suy vi và quốc gia càng nghèo
người lãnh đạo thì việc lãnh đạo quốc gia liên tục lại càng khó thực
hiện được.
Vì những lý do trên, nên một chế độ độc tài, mà
bản chất là dựa, trước hết, trên nguyên tắc không thay đổi người
lãnh đạo, không thể phù hợp với thực tế. Và không phù hợp với thực
tế là không thực hiện được sự lãnh đạo quốc gia liên tục. Và chúng
ta đã thây sự tai hại cho quốc gia như thế nào nếu sự lãnh đạo liên
tục không thực hiện được. Nhận xét này sẽ ảnh hưởng nặng trên sự lựa
chọn đường lối của chúng ta sau này.
Sau khi đã giải thích vì
sao sự lãnh đạo quốc gia bị gián đoạn là một điều kiện nghiêm khắc
cho chúng ta, chúng ta còn phải giải thích vì sao mà sự kiện xã hội
chúng ta đã tan rã lại là một điều kiện nghiêm khắc khác.
Xã hội bị tan rã
Như thế nào là một
xã hội bị tan rã?
Như trong một phần trên chúng ta
đã nói, một xã hội bình thường, có một nền văn minh đã tiến bộ, đều
có một toàn bộ giá trị tiêu chuẩn làm mực thước cho hoạt động của xã
hội trong mọi lĩnh vực. Những giá trị tiêu chuẩn không nhất thiết
ảnh hưởng theo một chiều, nhưng tất cả, với thời gian, quân bình lẫn
nhau và lập thành một trạng thái điều hòa cho toàn bộ. Nếu trạng
thái điều hòa là một thế thăng bằng động tiến thì nền văn minh của
xã hội đó đang thời phát triển. Nếu trạng thái điều hòa là một thế
thăng bằng tỉnh chỉ thì nền văn minh của xã hội đó đang đương lúc
ngưng trệ.
Nhưng trong trường hợp nào xã hội đó cũng sống
trong một trạng thái điều hòa và tất cả phần tử trong xã hội đều tin
tưởng tuyệt đối vào những giá trị tiêu chuẩn trên, và mọi người
trong xã hội đều cố gắng hành động phù hợp với các tiêu chuẩn trên.
Và vì mọi người đều tin tưởng vào các tiêu chuẩn trên, nên bất cứ
hành động nào phù hợp với các tiêu chuẩn trên đều tìm được ở trong
tâm hay trí của mỗi người một sự rung động ăn nhịp theo. Do đó các
giá trị tiêu chuẩn là những tín hiệu tập hợp cho các phần tử trong
xã hội. Ví dụ trong xã hội Việt Nam xưa kia, quan niệm quân tử là
một giá trị tiêu chuẩn. Trung, hiếu là những giá trị tiêu chuẩn. Nói
lên những danh từ quân tử, trung, hiếu, mọi người đều hội ý với của
người nói.
Trong một xã hội, những giá trị tiêu chuẩn không
phải là bất di bất dịch, nhưng bao giờ cũng có. Và các giá trị tiêu
chuẩn, tùy theo sự tiến hóa của xã hội cũng sinh ra, phát triển,
trưởng thành, già cỗi và chết đi như một sinh vật. Tuy nhiên, lúc
nào các giá trị tiêu chuẩn cũng hợp thành một trạng thái điều hòa,
có khả năng duy trì và nuôi dưỡng sức kết hợp các phần tử trong xã
hội thành một cộng đồng.
Do đó xã hội sẽ tan rã khi nào tất
cả hay phần lớn các giá trị tiêu chuẩn đều phá sản mà không được
thay thế. Trường hợp này rất rõ rệt trong xã hội Việt Nam sau khi
thời kỳ Pháp thuộc. Như chúng ta đã thấy rõ trong một đoạn phân tách
trên kia, sau khi chiến bại, chủ quyền bị mất, trách nhiệm lèo lái
con thuyền Việt Nam sang tay người ngoại quốc nên dân tộc Việt Nam
hoàn toàn mất chủ động đối với chính vận mạng của mình. Trong khi đó
văn minh của chúng ta bị sự tấn công của văn minh Tây phương, nghĩa
là các giá trị tiêu chuẩn của chúng ta bị các giá trị tiêu chuẩn của
Tây phương đả phá. Và chúng ta đã thấy vì nguyên nhân nào mà xã hội
chúng ta không chống trả nổi. Trước làn sóng ồ ạt của văn minh Tây
phương các giá trị tiêu chuẩn của chúng ta khô héo và chết dần, và
không được thay thế. Ngày nay những danh từ quân tử, trung quân,
hiếu tử không còn làm rung động được bao nhiêu người. Và chúng ta
không còn những tín hiệu để tập hợp những phần tử trong xã hội nữa.
Không tập hợp được tức là các phần tử sống rời rạc, không còn hưởng
ứng nhịp nhàng theo một giá trị tiêu chuẩn nào nữa. Và như thế là xã
hội tan rã.
Các giá trị tiêu chuẩn cũ đã mất hết uy tín,
nhưng những người tự xem mình là theo mới lại hướng về những giá trị
tiêu chuẩn nào?
Thật ra, công cuộc theo mới dưới thời Pháp
thuộc không được hướng dẫn, nên rất là hỗn độn và không mục đích. Vì
thế những người theo mới không hề lên được đến trình độ tìm ra những
giá trị tiêu chuẩn mới để theo. Họ chỉ bắt chước lối ăn mặc và lối
sống Tây phương. Và chưa bao giờ có ai nghĩ đến việc cần thay thế
những giá trị tiêu chuẩn đã chết bằng những giá trị tiêu chuẩn khác.
Đó là vấn đề mà chúng ta cần phải xét tỉ mỉ sau này khi đặt đường
lối cho chúng ta.
Xã hội tan rã là một hoàn cảnh khắc
nghiệt
Giờ đây chúng ta đã thấy rằng xã hội chúng ta
tan rã vì không còn tiêu chuẩn giá trị để kết hợp các phần tử lại.
Vì sao mà một tình trạng như vậy là một hoàn cảnh khắc nghiệt cho
chúng ta khi chúng ta bắt tay vào công cuộc phát triển dân tộc. Vì
lý do sau đây:
Trước hết, chúng ta sẽ thấy sau này, công cuộc
phát triển dân tộc là một công cuộc to tát mặc dầu đầy kích thích,
nhưng đòi hỏi ở toàn dân. Nhiều nỗ lực liên tục chóng làm mệt mỏi
mọi người và nhiều hy sinh nặng nề chóng làm cho mọi người chán nản
và sau đó phẫn nộ, và oán ghét. Nếu chúng ta không có một mãnh lực
gì để thuyết phục toàn dân và huy động họ để cùng nhau mạnh bước
trên đường tiến bộ, thì hy vọng thành công của chúng ta không có gì
bảo đảm.
Nay nếu xã hội chúng ta đã tan rã vì gần một thế kỷ
mang ách nô lệ, thì chúng ta còn trong tay giá trị tiêu chuẩn nào để
giúp cho chúng ta thâu phục được sự hưởng ứng của mọi người hầu thực
hiện cuộc huy động thiết yếu cho công cuộc phát triển?
Khi
nước Nhật nắm cơ hội duy tân, xã hội Nhật còn nguyên vẹn, và các
lãnh đạo Nhật đã dùng những giá trị tiêu chuẩn của nền văn minh xưa
để huy động dân tộc họ thực hiện công cuộc phát triển. Các nhà lãnh
đạo đã kêu gọi lòng ái quốc sâu xa và sự tôn thờ Thiên Hoàng của dân
tộc Nhật. Đó là hai giá trị tiêu chuẩn căn bản của xã hội Nhật có
mãnh lực thúc đẩy mọi người đến sự hy sinh cuối cùng cho tập thể.
Những khí giới sắc bén vô song đó đã được các nhà lãnh đạo Nhật sử
dụng đúng mức để thực hiện công cuộc Tây phương hóa với kết quả mà
chúng ta thấy ngày nay.
Người Mỹ sau khi chiến thắng và chiếm
đóng nước Nhật đã áp dụng một chính sách vô cùng cứng rắn để làm suy
giảm uy tín của Thiên Hoàng bằng mọi cách. Lý do chính là vì họ tin
rằng quân phiệt chủ nghĩa Nhật Bản đã khai thác giá trị tiêu chuẩn
tôn sùng Thiên Hoàng của xã hội Nhật đê làm sức mạnh cho họ. Như thế
thì, đả phá giá trị tiêu chuẩn đó là đả phá quân phiệt chủ nghĩa đến
tận gốc rễ. Nhưng các nhà lãnh đạo Nhật sở dĩ vận dụng hết cái nỗ
lực để cứu vãn uy tín của Thiên Hoàng cũng vì họ ý thức được rằng
giá trị tiêu chuẩn căn bản của xã hội Nhật là sự tôn sùng Thiên
Hoàng.
Trường hợp của người Nhật lại giúp cho chúng
ta nhận định được thêm rằng:
1. Sự lỡ cơ hội phát
triển lần thứ nhất cho dân tộc Việt Nam của triều đình nhà Nguyễn
chẳng những đưa dân tộc chúng ta vào vòng nô lệ với tất cả các sự
thảm hại tàn khốc, lại còn làm cho chúng ta mất nhiều khí giời vô
song để chúng ta có thể thực hiện được công cuộc phát triển dân tộc,
khi đã dành lại được độc lập.
2. Ngoài các lý do chính trị
ngắn hạn và dài hạn, sở dĩ Trung Cộng, sau khi dành lại được toàn
vẹn chủ quyền đã chọn chủ trương huy động quần chúng bằng chính sách
độc tài, theo lối Cộng sản để phát triển, cũng vì các nhà lãnh đạo
Trung Cộng đã nhận thấy, mặc dầu xã hội của họ chưa đến giai đoạn
tan rã như xã hội của chúng ta nhưng sự phá sản của các giá trị tiêu
chuẩn cũ của Trung Hoa đã làm mất những tín hiệu tập hợp của văn
minh cũ còn có thể sử dụng được. Sau này chúng ta sẽ phân tích tỉ mỉ
xem hoàn cảnh có nhiều yếu tố giống hoàn cảnh của chúng ta, có thể
áp dụng cho chúng ta không?
Trở lại vấn đề sự tan rã của xã
hội Việt Nam, sự trình bày trên đây đã cho chúng ta thấy rõ như thế
nào là một xã hội tan rã, và vì sao mà tình trạng đó lại là một hoàn
cảnh vô cùng khắc nghiệt cho công cuộc phát triển dân tộc của chúng
ta.
Một hình ảnh
Nói một cách khác,
trước khi người Pháp đến chinh phục chúng ta, và đưa văn minh của họ
vào đàn áp văn minh của chúng ta, trên sân khấu việt Nam, dân tộc
chúng ta đã diễn một vở tuồng, tuy có nhiều lớp hay, dở không đều
nhau, nhưng trong toàn bộ, toàn thể dân tộc đều ưa thích. Người Pháp
đến đây chiếm sân khấu mang một vở tuồng hoàn toàn mới lạ có nhiều
đặc tính đầy hấp dẫn nên mặc dầu trong thâm ý đã sẵn thành kiến bài
ngoại, nhưng lần lần một số dân chúng đã bị lôi cuốn. Tuy nhiên, sự
ưa thích chỉ đối với các chi tiết sắc phục và dàn cảnh bên ngoài,
chớ cái thâm thúy của cốt truyện bên trong vẫn chưa được thấu hiểu
và thưởng thức.
Sự kiện lịch sử xoay dần, người Pháp dọn gánh
ra đi trả sân khấu lại cho chúng ta. Và một số người đinh ninh rằng
lớp tuồng cũ của chúng ta sau thời gian gián đoạn sẽ được đem ra
tiếp tục diễn lại, trong sự tiếp đón nồng nhiệt của khán giả. Nhưng
họ kinh ngạc thấy rằng dân chúng không còn hoan nghinh nữa. Bởi vì
lớp tuồng của người Pháp đưa đến, chẳng những đã chiếm sân khấu và
lôi cuốn một số đông dân chúng, nhưng lại còn đả phá ngấm ngầm những
giá trị căn bản của lớp tuồng cũ, cho nên ngày nay dân chúng không
còn thấy sự thích hợp của những giá trị căn bản đó nữa. Nhưng vở
tuồng của người Pháp lẫn cả đào kép của họ dân chúng càng không ưa.
Tuồng Pháp nhất định phải bỏ đi, tuồng cũ không tái diễn được, cố
nhiên là chỉ còn có một cách là sắp đặt một vở tuồng mới.
Ví
dụ trên đây, cốt mượn một hình ảnh ở một phạm vi nhỏ hẹp, đế làm cho
vấn đề dễ nhận xét. Trong thực tế vấn đề phức tạp hơn nhiều bởi vì,
phạm vi chính trị, nghĩa là phạm vi quốc sự là hoạt động trường của
nhiều người, trong khi đó công việc sắp đặt trong một gánh hát, là
công việc của một người.
Ví dụ trên lại giúp cho chúng ta
nhận thấy thêm rằng, lịch sử không bao giờ là một sự tái diễn không
ngừng. Quan điểm lịch sử là một sự tái diễn không ngừng là một quan
điểm không thiết thực của những lối suy nghĩ lười biếng và nhát sợ.
Lười biếng bởi vì thay vì phải nát óc tìm hiểu các sự kiện phức tạp
của đời sống, sự chấp nhận rằng trong hoàn cảnh nào đó và khi những
điều kiện nào đó đã được thỏa mãn thì tự nhiên các sự kiện lịch sử
tương tự sẽ xảy ra, có vẻ giải quyết một lần một và bằng một cách dễ
dàng các sự phức tạp của lịch sử. Nhát sợ vì nếu được soi xét tường
tận và phân tích tỉ mỉ các sự kiện lịch sử sẽ lọc ra hết tính cách
phức tạp kinh khủng để làm cho nhiều trí óc phải khiếp sợ, vì không
thể bao quát nổi. Cho nên thái độ lo rằng lịch sử là một sự tái diễn
không ngừng là một lối trốn tránh không dám nhìn sự thật. Sự thật
là, nếu có nhiều sự kiện lịch sử giống nhau xảy ra trong những thời
gian khác nhau, nhưng không bao giờ hoàn cảnh chung quanh và các yếu
tố đều giống nhau cả. Đã như thế chắc chắn rằng không bao giờ một sự
kiện lịch sử lại xảy ra hai lần. Sự thật là không bao giờ chúng ta
có thể tắm hai lần trong một gióng sông, và lịch sử là một dòng
sông.
Để chứng minh cho quan điểm trên đây chúng ta đã thấy
rằng cơ hội phát triển dân tộc đến với chúng ta đã hai lần, nhưng
lần sau hoàn toàn khác lần trước, khác vì hoàn cảnh bên ngoài khác
và khác như chúng ta đã phân tích trên đây, vì hoàn cảnh nội bộ đã
khác.
Dưới đây chúng ta lại có dịp phân tích tỉ mỉ
hơn nữa về hai cơ hội phát triển dân tộc đó.
Ngoài
ba hậu quả tai hại nhất mà chúng ta đã kể ra trên đây và đã thử phân
tích và tìm hiểu nguyên nhân: không có người lãnh đạo, có sự gián
đoạn trầm trọng trong việc lãnh đạo quốc gia, và xã hội chúng ta tan
rã, thời kỳ thống trị của đế quốc còn để lại cho chúng ta nhiều hậu
quả khác, tuy cũng ảnh hưởng trên đời sống của dân tộc nhưng, so
sánh với ba loại mà chúng ta đã xem xét trên đây với nhiều chi tiết,
có thể vào hàng thứ yếu.
Sự bang giao và ranh giới giữa chúng
ta và các nước láng giềng, trong đó, có cả các nước đã hay không
cùng với chúng ta cùng chung lệ thuộc một đế quốc, là những hậu quả
của thời kỳ thực dân có thể liệt vào loại này. Vấn đề chuyển ngữ
trong đời sống của quốc gia là một hậu khác cũng nằm trong loại này.
Việt Nam đang cần phải Tây phương hóa để phát triển dân
tộc
Vì sao Tây phương hóa?
Kể từ thế kỷ 15, khi các nước Âu Châu chế ngự được kỹ thuật vượt
biển, và bắt đầu cuộc xâm chiếm thế giới, tất cả các quốc gia không
thuộc vào xã hội Tây phương, không trừ một nước nào đều bị sự tấn
công mãnh liệt của họ. Hoàn cảnh mỗi quốc gia bị tấn công đều khác,
nhưng chung qui tất cả các phản ứng'đều có thể liệt vào hai loại.
Các cuộc chinh phục thường thường tuần tự diễn ra theo một bối
cảnh không thay đổi. Trước hết, các chiến thuyền ngoại quốc đến yêu
cầu được trao đổi thương mãi với người bản xứ. Một thời gian sau họ
thương thuyết được đặt những thương quán thường trực tại các hải
cảng họ thường lui tới và theo liền với các thương quán, những phong
tục mới được đưa vào cùng với những người có nhiệm vụ thương mãi.
Nếu số người càng ngày càng đông thì chẳng bao lâu nhu cầu về
tinh thần lại đòi hỏi sự có mặt của những nhà tu sĩ.
Cho tới
giai đoạn này các nhà cầm quyền bản xứ, dầu có ngạc nhiên và ít
nhiều báo động đối với các kỹ thuật tiến bộ của người ngoại quốc,
cũng chưa thấy cần phải có một thái độ đối phó. Nhưng từ giai đoạn
này, mãnh lực của tín ngưỡng mà giáo lý Gia Tô đã hun đúc cho người
Tây phương trong mấy thế kỷ, bắt đầu làm cho các nhà cầm quyền bản
xứ lo ngại. Họ lo ngại trật tự cổ truyền của dân tộc sẽ bị sự xâm
nhập của một vật ngoại lai, bởi vì các tu sĩ Gia Tô, tin tưởng nơi
sứ mạng thiêng liêng của mình đối với nhân loại, nên lúc nào cũng
tìm cách thi hành phận sự truyền giáo.
Bản năng tự vệ
Phản ứng tự nhiên của các nhà cầm quyền bản xứ, là bản năng tự
vệ của một sinh vật đối với sự xâm nhập của một vật ngoại lai vào
trong nội bộ cơ thể của mình. Mà một tôn giáo mới là một vật ngoại
lai vô cùng nguy hiểm cho trạng thái điều hòa của một xã hội. Bởi
vậy cho nên, phản ứng của các nhà cầm quyền là bảo vệ trạng thái
điều hòa của xã hội bằng cách đóng cửa không để cho vật ngoại lai
xâm nhập. Trong thực tế và trong lĩnh vực chính trị một thái độ như
vậy có nghĩa là bài ngoại, và bế quan tỏa cảng không tiếp nhận những
luồng gió ở ngoài đưa vào. Đó là thái độ tự nhiên và hợp với bản
năng tự vệ của mọi sinh vật, và cũng là thái độ của hầu hết các dân
tộc bị Tây phương tấn công khi nhận thức nguy cơ đe dọa xã hội mình.
Lịch sử đã chứng minh rằng một thái độ như vậy sẽ đắc thắng nếu đồng
thời, kỹ thuật vật chất có đủ tiến bộ và lực lượng võ trang có đủ
hùng hậu để làm hậu thuẫn, bằng không, thái độ đó sẽ là một tử lộ.
Lý trí phản công
Thái độ thứ hai là thái
độ của một vài nước như Nga, Nhật và sau này là Thổ Nhĩ Kỳ. Thay vì
đóng cửa lại để sống trong nhà và phủ nhận thực tế đang xảy ra ngoài
ngõ mình, vì sợ vật ngoại lai xâm nhập vào và gây xáo trộn trong nội
bộ, các nước trên đây đã có can đảm để nhìn nhận sự thật và đủ lý
trí để trấn áp bản năng, phân tích thực tế và tìm được đường sống.
Một sự tình cờ lịch sử đã đặt vào nhiệm vụ lãnh đạo các quốc gia đó,
những người sáng suốt khác thường khả dĩ dẫn dắt dân tộc họ lựa chọn
tìm được sanh lộ trong một giai đoạn quyết định cực kỳ nguy hiểm.
Thái độ thứ nhất có tính cách phòng thủ và bản năng. Thái độ thứ
hai có tính cách lý trí và phản công. Đứng trước nguy cơ, thái độ
thứ nhất có nghĩa là thi hành một biện pháp dễ nhưng đưa đến thất
bại, thái độ thứ hai là thi hành một biện pháp khó nhưng đưa đến sự
thành công.
Trong thực tế, trong các quốc gia đã lựa chọn
thái độ thứ nhất, các nhà lãnh đạo đã đóng cửa các hải cảng, đánh
đuổi người ngoại quốc ra khỏi lãnh thổ, bài trừ tất cả các di tích
của họ để lại. Nhưng những người này, chẳng bao lâu sẽ trở lại với
những khí giới tân tiến hơn, và những lực lượng võ trang tổ chức
hoàn bị hơn và sẽ chiến thắng dễ dàng những khí giới lạc hậu và
những lực lượng vô tổ chức của người bản xứ. Và sau đó, tất cải điều
gì mà họ không chiếm được bằng lối thương thuyết thì họ lại chiếm
được bằng võ lực. Hơn nữa, sự giao hảo giữa hai quốc gia sẽ không
còn và nhường chỗ lại cho sự kiện người chiến thắng thống trị kẻ
chiến bại. Hậu quả dành cho các dân tộc lâm vào hoàn cảnh ấy như thế
nào, chúng ta đã rõ. Nguyên nhân của sự thảm bại cho nhiều dân tộc
chỉ ở chỗ bản năng tự vệ của họ quá mạnh lấn áp cả trí sáng suốt,
nên các nhà lãnh đạo không nhận thức rằng kỹ thuật lạc hậu của mình
kém xa kỹ thuật của địch, và kỹ thuật đã kém thế thì không làm thế
nào hậu thuẫn cho bất cứ chủ trương chính trị nào được.
Trái
lại, trong các quốc gia đã lựa chọn thái độ thứ hai, thì các nhà
lãnh đạo đã nhận thấy nguy cơ do vật ngoại lai mang đến cho trạng
thái điều hòa của xã hội mình. Tuy nhiên, đồng thời họ cũng đủ sáng
suốt và óc thiết thực để nhận xét rằng kỹ thuật lạc hậu của nước
mình không làm sao bảo đảm thắng lợi trong một cuộc chiến tranh. Và
vì vậy mà phương pháp hay nhất để bảo vệ xã hội bị đe dọa bởi các sự
vật ngoại lai lại chính là việc mở cửa để đón các luồng gió ngoại
lai vào. Bởi vì chỉ có cách đó mới giúp cho họ chế ngự được những kỹ
thuật của địch thủ, để chống lại địch thủ.
Như chúng ta đã
thấy, đằng nào chúng ta cũng không tránh được sự xâm nhập vào nội bộ
xã hội chúng ta của các vật ngoại lai. Nhưng trong thái độ thứ nhất
sự xâm nhập sẽ xảy ra bằng võ lực, ngoài ý muốn của chúng ta và
chúng ta sẽ không chủ động được. Trong thái độ thứ nhì, chúng ta tự
ý để cho sự xâm nhập thực hiện và vì vậy nên chúng ta chủ động được
sự xâm nhập đó. Và chính vì chúng ta chủ động được sự xâm nhập đó mà
các giá trị ngoại lai thay vì phá vỡ được trạng thái điều hòa của xã
hội chúng ta, chỉ có thể thay đổi được trạng thái đó. Trong khi đó
một sự xâm nhập không thể kiểm soát được sẽ làm sụp đổ trạng thái
điều hòa của xã hội. Và, trong một xã hội bình thường, việc thay đổi
trạng thái điều hòa là một sự kiện thông thường, trái lại sự sụp đổ
là một tai biến.
Tóm lại, đứng trước sự tấn công của Tây
phương, con đường chết là con đường bế quan tỏa cảng ngăn cấm không
cho văn minh Tây phương xâm nhập vào xã hội của nước bị tấn công;
con đường sống lại là con đường mở cửa đón rước văn minh Tây phương
để học chế ngự kỹ thuật của Tây phương mà chống lại Tây phương.
Nước Nga, sau nhiều thế kỷ chống lại sự tấn công của Tây phương,
đã tìm thấy sự thật như trên, và nhiều lần trong lịch sử nước Nga đã
chiến thắng các cường quốc Tây phương sau khi đã Tây phương hóa kỹ
thuật của mình. Nhưng cũng nhiều lần bị Tây phương chiến thắng vì kỹ
thuật của Tây phương tiến triển không ngừng trong khi người Nga
không làm cho kỹ thuật đã lấy của Tây phương phát triển. Đây cũng là
một điều vô cùng quan trọng trong việc Tây phương hóa mà chúng ta sẽ
phân tích tỉ mỉ sau này.
Những nhà lãnh đạo Nhật, trong giai
đoạn nước Nhật bị Tây phương tấn công, đã nhận thấy được ngay những
biện pháp cần thiết phải thi hành trong giờ phút quyết liệt cho dân
tộc. Thành công của họ như chúng ta mục kích ngày nay là một xác
nhận rõ rệt nhất về sự lựa chọn đúng hay không giữa hai thái độ.
Ngày nay, thái độ mà nước Nga và nước Nhật đã lựa chọn trước một
sự tấn công của một nước tiến bộ hơn về kỹ thuật, đã được công nhận
khắp nơi, và đã được nghiên cứu và đúc thành một giải pháp khoa học,
khả dĩ áp dụng cho các nước khác trong hoàn cảnh đó. Công cuộc mà
ngày nay Trung Hoa đang dốc hết cố gắng của toàn dân để thực hiện
chỉ là một sự chấp nhận thái độ của Nga và Nhật đã chọn. Và các nước
chậm tiến khác hiện nay cũng đang cố gắng đi vào con đường đó.
Tuy nhiên, trước đây có nhiều người lãnh đạo chủ trương một thái
độ vô cùng cực đoan. Sau khi chin bại rồi, và nước nhà đã bị ngoại
quốc thống trị, hay chủ quyền đã sứt mẻ, và vận mạng quốc gia không
còn do mình chủ động được nữa, nhiều nhà lãnh đạo vẫn chủ trương bảo
vệ cho đến kỳ cùng trạng thái điều hòa của xã hội cũ. Đó là một công
cuộc nhất định phải thất bại.
Bởi vì các giá trị tiêu chuẩn
của xã hội kết hợp thành một trạng thái điều hòa, cũng có một đời
sống như sinh vật. Nghĩa là giá trị tiêu chuẩn cũng sinh nở, phát
triển, trưởng thành, suy đồi và chết. Như vậy trong trường hợp chiến
bại, các giá trị tiêu chuẩn cổ truyền sẽ chết lần, vì chủ quyền
không phải người bản xứ trọn nắm, vận mạng quốc gia không phải họ
chủ động, thì các giá trị tiêu chuẩn cổ truyền một mặt không ai vun
tưới, một mặt bị các giá trị ngoại lai, đang chiến thắng, tấn công ồ
ạt và đả phá uy tín.
Như vậy, các sự kiện lịch sử, trong vòng
năm thế kỷ sau này, đã chứng minh rằng khi một nền văn minh bị một
nền văn minh khác, chế ngự được những kỹ thuật tinh xảo hơn, tấn
công, thì con đường sống của nền văn minh bị tấn công, là mở cửa đón
lấy các kỹ thuật của địch thủ.
Trường hợp Ấn Độ
Tuy nhiên, năm trăm năm là nhiều đối với đời sống của một người.
Nhưng với đời sống của các quốc gia, năm trăm năm không phải là
nhiều. Và chúng ta có thể tự hỏi rằng: thái độ trên, đành rằng là
thái độ lợi nhất mà các quốc gia bị tấn công phải lựa chọn, trong
thời gian vài thế kỷ. Nhưng nếu thời gian dài hơn, liệu thái độ ấy
có lợi cho quốc gia hơn thái độ cố gắng bảo vệ các giá trị tiêu
chuẩn cũ không? Chắc chắn rằng những người hành động không bao giờ
nghi ngờ nữa. Câu hỏi trên tiêu biểu cho quan điểm của một sử gia.
Và trường hợp Ấn Độ là một trường hợp có thể đưa ra để làm hậu
thuẫn cho thái độ cố gắng bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ. Sau thời
gian thống trị của đế quốc, các giá trị tiêu chuẩn cũ của Ấn Độ có
vẻ, chẳng những còn đủ sinh lực để hấp dẫn quần chúng, lại còn có vẻ
sáng chói ra khắp hoàn cầu, mang các thần-thể-tính của văn minh Ấn
Độ để đối chọi lại với tính cách kỹ thuật vật chất của văn minh Âu
Mỹ.
Các nghi vấn nói trên, có thể giải đáp bằng các
nhận xét dưới đây:
– Nếu năm trăm năm là một thời
gian chưa đủ dài để chứng minh rằng thái độ tiếp đón các kỹ thuật
ngoại lai là thích hợp nhất, chúng ta có thể tìm trong lịch sử,
những thời đại có những biến cố như thời đại của chúng ta, và lấy
phản ứng của các quốc gia lúc bấy giờ, làm tài liệu nghiên cứu để
soi tỏ thêm vấn đề.
Trong lịch sử, thời đại đế quốc La Mã
hưng thịnh và chinh phục các quốc gia trong cái thế giới được biết
lúc bấy giờ, là một thời đại có nhiều biến cố có thể so sánh được
với những biến cố của thời đại hiện nay. Cũng có một nước mạnh,
thuộc một nền văn minh tiến bộ, đi chinh phục những nước kém về kỹ
thuật, thuộc một nền văn minh đã suy nhược. Cũng có những quốc gia,
nhất định không theo mới, và, cuốn mình lại, sống cô lập và chết mòn
để bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn truyền thống. Cũng có những quốc
gia, mở cửa đón tiếp các kỹ thuật mới, và, thực hiện công cuộc phát
triển dân tộc, để sống ăn nhịp với các cường quốc. Lịch sử là một
bài học. Bài học của lịch sử Hy Lạp - La Mã mà chúng ta dẫn chứng
đây lại xác nhận rằng thái độ của các nước tiếp nhận kỹ thuật của kẻ
địch là đúng.
– Trường hợp của Ấn Độ là một trường hợp khác
thường khiến cho chúng ta nhận định sai lầm về thực tế. Ông Gandhi
là người đã chủ trương mạnh mẽ nhất thái độ bảo vệ các giá trị tiêu
chuẩn cũ và triệt để bài xích văn minh Tây phương. Ông cực đoan đến
nỗi hô hào đồng bào của ông, không nên mặc áo bằng vải dệt ở các
xưởng ở Anh quốc hay dệt ở Ấn Độ, trong các xưởng của người Anh nhập
cảng từ Anh quốc, mà chỉ nên mặc bằng vải tự tay mình dệt lấy.
Sức mạnh tinh thần của ông Gandhi rất phi thường và ông đã tỏ ra
nhìn thấy vấn đề một cách sâu sắc, do đó ông đã khắc phục được sự
trọng vọng của nhân loại. Và ngày nay, sự thất bại của ông bộc lộ rõ
rệt ở chỗ các đệ tử trung thành của ông đang xây dựng cho Ấn Độ một
bộ máy quốc gia theo kiểu Tây phương và các đồng bào của ông đang nỗ
lực Tây phương hóa.
Những cuộc tranh đấu anh dũng và uy tín
cá nhân sáng lạng của ông Gandhi, hợp với sự ca tụng, chính của
người Tây phương, đối với thần thể tính của triết lý Ấn Độ, cả,
trước và sau, thời kỳ bị đế quốc thống trị, làm cho một số đông có
cảm tưởng rằng thái độ bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ có thể thích
hợp hơn thái độ đón tiếp các kỹ thuật mới của Tây phương. Và, văn
minh Ấn Độ, xây dựng trên nền triết lý tôn trọng thần thể tính được
xem như có thể đối phó một cách đắc thắng với nền văn minh thường
được gọi là kỹ thuật và vật chất của Tây phương. Nhưng một cuộc phân
tích tỉ mỉ và một sự đối chiếu với thực tế không xác nhận cảm tưởng
trên.
Người Tây phương ca tụng thần thể tính của triết lý Ấn
Độ cũng như ca tụng bất cứ sáng tạo nào của nhân loại có một giá trị
thật là cao cả. Và thái độ khách quan, khoa học, và tìm hiểu đó là
một trong các bí quyết thành công của văn minh Tây phương. Cho nên
sự ca tụng của người Tây phương đối với triết lý Ấn Độ không có
nghĩa là triết lý của Tây phương khiếm khuyết thần thể tính. Và sự
kiện thần thể tính của triết lý Ấn Độ đạt đến chỗ cao siêu và hấp
dẫn lý trí thuần túy, lại không có nghĩa là triết lý Ấn Độ có thể
thiết thực giải quyết các thực tế đời sống cho nhân loại, mục đích
cuối cùng của mọi hệ thống triết lý.
Lý do của tình trạng đó
ở chỗ, khi phải lựa chọn một trong hai quan điểm căn bản cho các hệ
thống triết lý: nhận sự sống hay là không nhận sự sống, thì triết lý
Ấn Độ đã chọn quan điểm không nhận sự sống. Theo quan điểm ấy, cho
sự sống ở cuộc đời này là không có thực và nhân loại cần tìm và đạt
cho được sự sống ở một nơi ngoài thế gian này, chúng ta không phán
đoán xem quan điểm đó đúng hay là không đúng. Chúng ta chỉ nhận xét
rằng, ngay lúc khởi điểm, quan điểm ấy đã tự mâu thuẫn với mình bởi
vì, sự sống của nhân loại, nghĩa là sự phát triển hay suy vong của
các nền văn minh trên thế giới, cũng như sự sống hằng ngày của mỗi
người, là một sự kiện mà không ai có thể phủ nhận được. Tìm cách
giải quyết các vấn đề đặt ra bởi sự sống, bằng cách phủ nhận sự sống
thì đương nhiên các vấn đề đặt ra bởi sự sống không còn nữa. Nhưng
như thế thì hóa ra không giải quyết gì cả.
Chính vì chỗ đó mà
triết lý Ấn Độ, mặc dù đã đạt đến một mức độ cao siêu mà ít khi tư
tưởng của nhân loại đã với tới được lại không thể giải đáp được các
vấn đề của nhân loại cũng như đã không giải đáp được các vấn đề của
dân tộc Ấn.
Sau một thời gian biến hóa lâu dài, triết lý của
Tây phương, ngày nay xây dựng trên căn bản thiết thực nhận sự sống,
đã tẩy xuất được mâu thuẫn nguyên khởi giữa hệ thống tư tưởng và
thực tế của đời sống, mà các triết lý không nhận sự sống đều mắc
phải, nên đã thổi vào nền văn minh của Tây phương một sinh lực chưa
từng thấy trong lịch sử của nhân loại. Và chính sinh lực đó đã bảo
đảm cho người Tây phương ưu thế mà họ vẫn giữ đến ngày nay. Các sự
kiện trên càng rõ rệt hơn nữa, nếu chúng ta nhớ lại rằng, đã có một
thời, triết lý Tây phương cũng đã lấy sự không nhận sự sống làm căn
bản, và lúc bấy giờ nền văn minh của họ cũng đã trầm lặng thay vì
chói sáng và chinh phục như ngày hôm nay. Chỉ từ khi nền triết lý
của Tây phương thoát khỏi sự tự kiềm hãm mình trong một quan điểm
trừu tượng của lý trí, để mạnh bạo đụng đầu vào thực tế của đời
sống, thì văn minh của Tây phương mới phát triển như chúng ta thấy
ngày nay.
Nếu phải dùng một hình ảnh để cho lý luận được nhận
thức dễ dàng hơn, thì chúng ta có thể nói rằng triết lý của Tây
phương đã có lúc, một mình, lên đến và sống say mê trong không khí
cao siêu của đỉnh núi thần thể tính. Nhưng triết lý đó lại đủ khách
quan và can đảm để nhận thấy rằng nhiều vấn đề của nhân loại không
giải quyết được từ trên đỉnh núi đó, và, nếu các vấn đề của nhân
loại không giải quyết được thì triết lý đã thất bại trong nhiệm vụ
của mình.
Vì vậy cho nên triết lý Tây phương đã mạnh bạo từ
bỏ không khí cao siêu và thoát tục của đỉnh núi, vùi mình xuống đống
lầy của thực tế, sống với nhân loại để tìm cách giải quyết các vấn
đề của sự sống. Triết lý của Tây phương đang thành công, và hiện nay
nó đang cùng nhân loại leo lên triền của một ngọn núi khác. Nhưng
mặc dù đang thành công, triết lý Tây phương lại đầy cái khiêm tốn
của những người đã đụng chạm với thực tế và đang cố gắng đi lên.
Trái lại, triết lý của Ấn Độ vẫn còn say mê với không khí cao
siêu và thoát tục của đỉnh núi thần thể tính, không rứt nổi mình ra
khỏi không khí trong và thoát khỏi đó, nên chưa ý thức rằng, từ trên
đỉnh núi đó, các vấn đề mà đời sống đặt ra cho dân tộc Ấn không giải
quyết được. Ngày nay, khi đụng đầu với triết lý Tây phương và mặc
dù, hay, chính là vì, bị dồn vào thế yếu, triết lý Ấn Độ vẫn còn trù
trừ, chưa cương quyết lội xuống bùn lầy của thực tế vì sợ mất tính
chất cao siêu và thoát tục của mình. Vì tính chất cao siêu và thoát
tục là lý do hãnh diện của những người chưa có vật lộn với thực tế.
Nói một cách khác nữa, và dùng một hình ảnh thô sơ, thì triết lý
Tây phương có thái độ của các vị Bồ Tát và triết lý Ấn Độ có thái độ
của người nhập Niết Bàn.
Vì những lý do trên đây mà, mặc dầu
cái bề ngoài có vẻ trái ngược với luật chung, ngày nay xã hội Ấn Độ,
cũng như xã hội của tất cả quốc gia đã bị đế quốc thống trị, cùng
lâm vào một hoàn cảnh trầm trọng, như chúng ta thấy trên đây. Và các
biện pháp mà các nhà lãnh đạo Ấn Độ cần áp dụng cũng là những biện
pháp cần thiết cho các quốc gia đồng hoàn cảnh. Và công cuộc phát
triển dân tộc Ấn Độ mà chính phủ Nehru và chính phủ kế tiếp đang
theo đuổi hàm một sự thú nhận rõ rệt rằng Ấn Độ mặc dù có Gandhi và
mặc dù có một triết lý cổ truyền cao siêu, vẫn phải đương đầu với
các vấn đề thiết thực và vật chất của các quốc gia chậm tiến.
Tây phương hóa là một sự kiện không từ chối được
Trên đây chúng ta đã phi suy luận dong dài về trường hợp của Ấn
Độ. Bởi vì, công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa là
một công cuộc liên hệ đến sự sống còn của dân tộc. Và, mặc dầu đầy
khích động, nhưng sẽ đòi hỏi nhiều cố gắng liên tục trong nhiều năm,
ở mọi người, và đòi hỏi nhiều hy sinh nặng nề ở mọi tầng lớp nhân
dân. Cố gắng liên tục sẽ làm cho dân chúng mệt mỏi, hy sinh nặng nề
sẽ gây phẫn nộ cho dân chúng. Trong hoàn cảnh đó nếu người lãnh đạo
không quả quyết tin vào công cuộc phát triển, nếu toàn dân không tin
rằng công cuộc phát triển là con đường sống duy nhất của dân tộc,
thì công cuộc phát triển không sao thực hiện được.
Vì vậy
cho nên, một điều vô cùng thiết yếu là sự tin tưởng rằng, công cuộc
phát triển dân tộc chúng ta bằng cách Tây phương hóa là một sự kiện
lịch sử dĩ nhiên, không thể tránh được và ngoài công cuộc phát triển
ấy ra, dân tộc chúng ta không còn một lối thoát thứ hai. Một sự tin
tưởng tuyệt đối như vậy chỉ có thể có được khi nào các trường hợp
đều được xem xét một cách không thiếu sót để cho các nghi vấn đều
được giải đáp.
Và khi các điều kiện trên đã thỏa mãn đầy đủ
rồi, thì tất cả mọi người Việt Nam chúng ta đều phải quả quyết tin
rằng, chúng ta cần phải dốc hết nỗ lực để thực hiện công cuộc phát
triển dân tộc, bằng cách Tây phương hóa xã hội chúng ta, một cách
toàn diện mà không do dự.
Thật sự ra, công cuộc Tây phương
hóa xã hội chúng ta đã tự nó bắt đầu thực hiện từ ngày người Pháp
bước chân lên đất này. Chúng ta chỉ cần nhìn quanh chúng ta: nhà ở
cũng kiến trúc theo kỹ thuật và kiểu mẫu Tây phương, giải trí cũng
tổ chức theo Tây phương, thức ăn cũng nấu theo Tây phương. Phần lớn
các cử động trong đời sống của chúng ta đều rập khuôn theo Tây
phương. Nhìn lại chính con người của chúng ta, dù chúng ta ở thành
thị hay thôn quê, chúng ta thấy rằng tất cả con người chúng ta đều
Tây phương hóa từ đầu tới chân: tóc hớt theo Tây phương, áo và quần
cắt theo lối Tây phương, may bằng những cái máy do Tây phương sáng
chế, giây nịt và giày là sản phẩm của Tây phương. Đi ra, chúng ta
dùng xe đạp của Tây phương hay xe hơi của Tây phương. Vì vậy cho
nên, những người còn ngồi nhà mà nói là phải giữ lại phong tục Việt
Nam để bảo vệ quốc hồn quốc túy là những người tự dối mình.
Nếu đã như thế thì, trên kia chúng ta còn đặt thành vấn đề sự cần
thiết của công cuộc Tây phương hóa, có phải là một hành động thừa
không? Thừa, mà cũng không thừa.
Thừa đối với những người vẫn
chưa chịu nhận rằng, dầu họ không có muốn Tây phương hóa và họ có
chủ trương bảo cựu đến mức độ nào đi nữa, thì chính con người của họ
cũng đã Tây phương hóa đi rồi.
Không thừa, đối với chúng ta,
là những người mong muốn thực hiện được công cuộc phát triển dân tộc
bằng cách Tây phương hóa toàn diện. Công cuộc Tây phương hóa xã hội
chúng ta mà ngày nay chúng ta mục kích những hiện tượng, như trên đã
kể, là một công cuộc Tây phương hóa bắt buộc, dẫn dắt đến tình trạng
tan rã của xã hội chúng ta. Xã hội chúng ta bị Tây phương hóa, chớ
không phải tự ý Tây phương hóa. Vì vậy mà cuộc Tây phương hóa đã
được thực hiện một cách không đường hướng, không mục đích và chỉ lên
đến một mức độ thấp kém. Cũng vì vậy mà chúng ta không chủ động được
công cuộc Tây phương hóa đã qua của chúng ta, và không có thể dẫn
dắt nó vào một chiều hướng và đến một mức độ có ích cho công cuộc
phát triển dân tộc.
Trái lại công cuộc Tây phương hóa mà
chúng ta phải thực hiện cho dân tộc là một công cuộc Tây phương hóa
tự ý muốn, đo đó, có đường hướng và có mục đích. Chúng ta sẽ chủ
động cuộc Tây phương hóa này và sẽ đưa nó đến một mức độ đủ cao để
xã hội chúng ta tìm được những tiêu chuẩn giá trị mới khả dĩ tạo cho
nó một trạng thái điều hòa mới.
Như thế nào là Tây
phương hóa có đường hướng?
Dưới đây chúng ta sẽ
chứng minh rằng, trên phương diện dân tộc, một công cuộc Tây phương
hóa chỉ hữu hiệu khi nào được thực hiện toàn diện và đạt đến mức độ
đủ cao.
Như thế nào là Tây phương hóa toàn diện?
Trong số các nhà lãnh đạo các quốc gia bị Tây phương tấn công,
những người có thái độ đóng cửa bảo vệ giá trị cũ, như ở Trung Hoa
và ở Việt Nam, cũng như những người có thái độ mở cửa để đón văn
minh Tây phương như ở Nga và ở Nhật, tất cả đều sớm nhận định rằng
sở dĩ Tây phương thắng thế là, trước tiên, nhờ ở kỹ thuật võ trang
và kỹ thuật tổ chức.
Và giữa hai thái độ cực đoan như chúng
ta đã phân tích trên đây phần đông lại lựa chọn một thái độ dung hòa
và khôn ngoan nhất. Thái độ nửa chừng dựa trên lý luận sau đây:
Tây phương hóa có giới hạn
Chúng ta
chiến bại vì vũ khí của chúng ta kém về độ tinh xảo và quân đội
chúng ta thua về tổ chức. Vậy, để chống lại địch thủ một cách hiệu
quả và lâm thời thắng địch thủ, chúng ta chỉ cần học, một là kỹ
thuật sử dụng vũ khí tối tân, lúc đầu mua của chính những quốc gia
Tây phương, sau học kỹ thuật để chế tạo lấy; hai là kỹ thuật tổ chức
quân đội theo Tây phương. Với hai khí giới đó chúng ta có thể hy
vọng thắng địch để bảo vệ được các tiêu chuẩn giá trị truyền thống
của xã hội của chúng ta. Như thế có nghĩa là chúng ta chỉ cần canh
tân quân trang và cải tổ quân đội là đủ, mọi cơ cấu khác trong xã
hội vẫn giữ nguyên vẹn. Nhưng, lịch sử của các quốc gia đã áp dụng
thái độ đó trong hành động lại chứng minh rằng, sự thật thì các sự
kiện đã xảy ra không như những người lãnh đạo của các quốc gia ấy dự
định.
Sau khi đã quyết định canh tân quân trang và cải tổ
quân đội các nhà lãnh đạo nói trên một mặt gởi người xuất dương du
học các nước Tây phương để hấp thụ kỹ thuật mới, một mặt mướn người
chuyên viên Tây phương đến tại xứ để vừa huấn luyện người, vừa để
xây cất các xưởng chế tạo vũ khí.
Vì sao người Tây phương lại
đến nhận lãnh trách nhiệm chế tạo các vũ khí đó và vì sao các cường
quốc Tây phương nhận đào tạo các chuyên viên ngoại quốc như vậy, mặc
dù họ vẫn biết, cũng như mọi người đều biết, rằng làm như vậy là họ
sẽ trao cho địch thủ những khí giới đang bảo đảm ưu thế của họ? Có
nhiều lý do khiến cho người Tây phương, cũng như những cá nhân của
các quốc gia khác, đã hành động như vậy. Trước hết là vì bị quyền
lợi vật chất quyến rũ. Thứ hai giữa các cường quốc trong nội bộ xã
hội Tây phương cũng có nhiều mâu thuẫn chính trị khiến cho mỗi cường
quốc, trong một cuộc tranh giành ảnh hưởng ác liệt, sẵn sàng tìm
đồng minh cho mình ở những quốc gia ngoài xã hội Tây phương. Và sau
hết, trong thời kỳ đi chinh phục thế giới, kỹ thuật Tây phương đã
đạt đến một trình độ rất cao và tạo cho người Tây phương một sự hãnh
diện và tự tin mãnh liệt cho đến nỗi, nếu không phải vì lợi và vì
ngoại giao, thì họ cũng không ngần ngại mà hành động như họ đã làm.
Dầu sao, như chúng ta sẽ thấy sau này, những lý do trên là những yếu
tố thuận lợi, mà toàn bộ tạo thành cơ hội giúp cho các dân tộc ngoài
xã hội Tây phương thực hiện công cuộc phát triển của mình.
Tây phương hóa có giới hạn nhất định thất bại
Trở lại
vấn đề canh tân quân trang và cải tổ quân đội.
Sau
giai đoạn thi hành các biện pháp nói trên một thời gian, các nhà
lãnh đạo thu lượm được một kết quả mong muốn: quân đội, võ trang
bằng vũ khí của Tây phương và tổ chức theo lối của họ, đã trở thành
một lực lượng làm cho ngoại quốc phải kính nể. Nhưng, cũng chẳng bao
lâu sau đó, sang giai đoạn thứ hai, chính các nhà lãnh đạo đó lại
nhận thấy thêm rằng, nếu muốn duy trì cái lực lượng quí báu vừa mới
tạo được thì việc huấn luyện chuyên viên, chỉ giới hạn trong lãnh
vực quân sự, lại không đủ. Đi sâu vào một chút, lại tìm ra là tinh
xảo của vũ khí Tây phương bắt nguồn từ các phát minh của khoa học
Tây phương, và, ngoại trừ mọi vấn đề tổ chức vật chất, sức mạnh tinh
thần của quân đội Tây phương lại do tư tưởng cá nhân của mỗi người
chiến binh và tư tưởng cá nhân lại do hoàn cảnh xã hội tạo ra.
Như vậy, muốn nuôi dưỡng một lực lượng quân sự, đã được canh
tân, lại phải đặt vấn đề hấp thụ học vấn Tây phương và như thế, là
phải canh tân nền giáo dục. Và muốn gieo cho người chiến binh một
sức mạnh tinh thần như của người chiến binh Tây phương lại phải tạo
cho họ hoàn cảnh xã hội tương tự, nghĩa là phải cải tạo xã hội. Mà
cải tạo xã hội thì phải thay thế các giá trị tiêu chuẩn cũ. Như vậy
thì, rốt cuộc lại, phải bỏ giá trị tiêu chuẩn cũ, điều mà các nhà
lãnh đạo đang nói đây không dự định làm và cũng không muốn làm, vì
sở dĩ các nhà lãnh đạo này chủ trương canh tân quân đội là với mục
đích bảo vệ các giá trị truyền thống của xã hội của họ.
Ngoài
ra, sự canh tân quân đội lại đương nhiên mang đến một hậu quả khác
mà các nhà lãnh đạo cũng không ngờ. Những người muốn học về tổ chức
quân đội theo Tây phương, trước tiên phải học ngôn ngữ Tây phương để
đọc sách về kỹ thuật tổ chức quân đội của Tây phương. Nhưng khi đọc
được ngôn ngữ của Tây phương rồi, thì không làm thế nào cấm họ đọc
các sách khác của Tây phương trong những lĩnh vực khác: chính trị,
văn hóa, hay xã hội. Do đó, và vì đã sẵn trong đầu sự cảm phục chính
đáng đối với Tây phương trong lĩnh vực quân sự, những người này tự
nhiên nảy ra sự cảm phục Tây phương trong lĩnh vực xã hội và chính
trị. Và họ sớm nhận thức rằng sức mạnh của quân đội Tây phương cũng
như tính cách tinh xảo của vũ khí Tây phương là những kết quả đương
nhiên, trong lĩnh vực quân sự của tổ chức xã hội và chính trị của
Tây phương. Như vậy, họ tin rằng không thể nào có được một quân đội
hùng mạnh theo mới mà không có một tổ chức xã hội và chính trị theo
mới. Và chính những người này sẽ biến thành những cái mầm của cuộc
cách mạng chính trị và xã hội sau này. Các sự kiện trên đây lại giải
nghĩa cho chúng ta thấy vì sao mà ở một nước Thổ Nhĩ Kỳ, và nhiều
nước khác ở Cận Đông, chính quân đội lại hướng dẫn các cuộc cách
mạng chính trị và xã hội trong đầu thế kỷ hai mươi.
Trở lại
vấn đề canh tân quân đội trên đây, sau khi đã canh tân quân đội,
trong giai đoạn thứ nhất đến giai đoạn thứ hai, các nhà lãnh đạo sẽ
đứng vào một tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nếu họ tiếp tục cuộc
canh tân quân đội, thì bắt buộc họ phải đi đến chỗ cải tạo xã hội.
Đó là điều họ không thể làm được, bởi vì mục đích của họ khi canh
tân quân đội là để bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ.
Nhưng
nếu họ ngưng lại cuộc canh tân quân đội, thì việc bảo vệ các giá trị
tiêu chuẩn cũ, cũng sẽ không thực hiện được đối với sự tấn công của
Tây phương. Hơn nữa, một cuộc duy tân, một khi đã manh nha, tự nó sẽ
tạo ra trong cơ thể của xã hội, bắt đầu duy tân, những lực lượng
càng ngày càng bành trướng để phát triển cuộc duy tân. Nếu những lực
lượng ấy được hướng dẫn sẽ đưa đến một cuộc duy tân có mục đích, nếu
không, cuộc duy tân sẽ hỗn loạn. Nếu các nhà lãnh đạo lại dùng bạo
quyền, như đã xảy ra ở Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ hồi đầu thế kỷ hai mươi,
để hoặc là bãi bỏ công cuộc theo mới hoặc là ngưng cuộc canh tân
trong những giới hạn họ muốn, mặc dù họ vẫn biết rằng hành động như
vậy vẫn không cho phép họ bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ, thì lực
lượng cách mạng, lãnh đạo do những người ở trong quân đội đã hấp thụ
được, chẳng những kỹ thuật quân sự mới, mà lại thêm những tư tưởng
chính trị và xã hội mới, sẽ nổi lên lật đổ các nhà lãnh đạo này.
Công cuộc Tây phương hóa, nhất định phải toàn diện
Tóm lại, nếu đóng cửa không đón tiếp văn minh Tây phương, thì,
vì kém kỹ thuật, sẽ bị Tây phương chiến bại, và biến thành thuộc địa
hay bán thuộc địa. Sau khi chiến bại rồi sẽ bị Tây phương hóa nhưng
công cuộc Tây phương hóa sẽ không được hướng dẫn và sẽ đưa đến những
kết quả thảm hại mà chúng ta biết.
Nếu muốn Tây phương hóa có
giới hạn để bảo vệ các giá trị cũ thì, một là công cuộc bảo vệ sẽ
không thực hiện được và quốc gia sẽ lâm vào tình trạng của các nước
đóng cửa không tiếp đón kỹ thuật Tây phương. Hai là sẽ tạo hoàn cảnh
cho một cuộc cách mạng nội bộ để đưa đến một cuộc Tây phương hóa
toàn diện. Như vậy thì, đằng nào rồi những sự kiện lịch sử cũng sẽ
đưa đến một cuộc Tây phương hóa toàn diện. Nếu đã thế thì thượng
sách không phải là nên tự ý Tây phương hóa toàn diện hay sao? Có như
vậy một mặt chúng ta sẽ có thể rút ngắn thời gian, một mặt chúng ta
mới có thể chủ động được công cuộc Tây phương hóa để cho những chấn
động, mà chắc chắn một công cuộc như vậy sẽ gây ra cho xã hội ta,
không có thể phá hoại xã hội ta, như trong trường hợp một cuộc Tây
phương hóa không hướng dẫn.
Tóm lại, một công cuộc Tây phương
hóa chỉ hữu hiệu khi nào chúng ta được tự ý thực hiện nó và thực
hiện toàn diện, nghĩa là trên lĩnh vực quân sự, chính trị, xã hội và
theo đó là kinh tế và văn hóa.
Nếu ta tự ý Tây phương hóa,
thì chúng ta chủ động được công cuộc Tây phương hóa của chúng ta và
chúng ta sẽ bảo vệ được độc lập và xã hội, nhưng nhiều giá trị tiêu
chuẩn phải được đổi mới.
Nếu chúng ta không tự ý Tây phương
hóa thì rồi cũng bị Tây phương hóa. Nhưng cuộc Tây phương hóa sẽ
không được hướng dẫn, không đường lối và không mục đích. Sở dĩ sự
kiện phải diễn tiến theo cơ thức như đã phân tích trên đây là bởi vì
một nền văn minh là một toàn bộ quân bình, gồm có các tiêu chuẩn giá
trị, có hiệu lực trong các lĩnh vực.
Nếu chúng ta thâu nhận
những thực hiện của Tây phương trong một lĩnh vực nào đó thì sớm hay
muộn những thực hiện đó cũng lần lần kéo đến và bắt buộc chúng ta
thâu nhận những thực hiện của Tây phương trong một lĩnh vực khác có
liên hệ. Một mặt khác, nếu chúng ta đã thâu nhận những kỹ thuật
trong một lĩnh vực thì lần lần chúng ta sẽ thâu nhận những nguyên
tắc khoa học, đã làm căn bản cho sự phát minh ra các kỹ thuật đó. Và
nếu chúng ta thâu nhận các nguyên tắc khoa học, thì chúng ta lại đi
đến chỗ thâu nhận lối suy luận đã tạo ra các nguyên tắc khoa học.
Nghĩa là cơ thức của sự Tây phương hóa đi từ phạm vi hẹp đến phạm vi
rộng, và từ cương vị thấp đến cương vị cao, từ lĩnh vực cụ thể đến
lĩnh vực trừu tượng. Và sự diễn biến, tự nhiên sẽ đến không có gì
ngăn trở được. Bởi vì những yếu tố, mà toàn bộ hợp thành một trạng
thái thăng bằng, trong một nền văn minh, không thể tách rời ra được.
Sự sống, của từng yếu tố, tùy thuộc sự có mặt của các yếu tố khác.
Nếu chúng ta nhận yếu tố kỹ thuật quân sự, sớm muộn gì chúng ta cũng
phải nhận yếu tố khoa học, bởi vì, mỗi yếu tố, không thể sống một
mình được, tất sẽ tự gây lại trạng thái thăng bằng từ đó nó đã phát
sinh, và trong đó nó có thể sống mạnh.
Trong sự liên lạc giữa
hai văn minh, một việc này lại mang đến một việc khác và tuần tự sẽ
mang đến hết toàn bộ văn minh mới.
Ví dụ, nếu chúng ta mặc
vải dệt ở các nhà máy Tây phương, thì chẳng bao lâu chúng ta lại
nhập cảng những nhà máy tương tự để dệt vải theo Tây phương tại xứ
ta. Lần lần, chúng ta lại sản xuất các nhà máy tại chỗ, và, chừng đó
người nông dân của chúng ta lại bỏ đồng ruộng để lên làm việc tại
các nhà máy, và lúc bấy giờ, ngoài giờ làm việc họ lại thích các lối
giải trí của Tây phương, và lần lần đầu óc của họ cũng nghĩ theo Tây
phương, và cuối cùng, họ sẽ Tây phương hóa, từ vật chất lẫn tinh
thần. Đó là một định luật xã hội nghiêm khắc.
Như thế
nào là Tây phương hóa đến mức độ đủ cao
Bài
học của nước Nga
Trong lĩnh vực này lịch sử
của nước Nga là một bài học vô cùng quí báu.
Nước
Nga ở phía Đông Âu châu. Đối với Âu châu, nước Nga là một tiền đồn,
mỗi khi các bộ lạc du mục Mông Cổ và Hung-nô ở các đồng hoang phía
Đông Bắc Á châu xua quân đánh phá các dân tộc đã định cư trên hai
đại lục Âu, Á. Vị trí địa dư ấy, đã dẫn dắt đến các sự kiện lịch sử
quan trọng sau đây. Quan trọng đến nỗi, sau mấy ngàn năm biến cố
khuynh đảo, nó vẫn còn chi phối nặng nề các nguyên tắc ngoại giao
giữa Nga và các cường quốc Âu Mỹ. Và đây là một ví dụ, hết sức sáng
tỏ, để chứng minh rằng, trong đời sống của một dân tộc, một thời
gian mấy thế kỷ hay mấy ngàn năm vẫn chưa thấm vào đâu. Và cuộc cách
mạng Sô Viết của nước Nga lại làm cho các sự kiện này trở thành một
bằng cớ hết sức đích xác để chứng minh rằng dĩ vãng của một dân tộc
do hoàn cảnh địa dư và sự kiện lịch sử tạo thành, không có thể san
bằng được dù là bằng một cuộc cách mạng vô cùng táo bạo, để xây dựng
tương lai.
Ngay từ thế kỷ thứ X, nước Nga đã có những sự liên
lạc thường xuyên và chặt chẽ với đế quốc La Mã; khi đế quốc này chỉ
còn ảnh hưởng ở phía Đông Địa Trung Hải và đặt kinh đô tại
Constantinople, phía Bắc nước Hy Lạp, Gia Tô giáo cũng đã chia làm
hai phái, Tây phái, Giáo chủ ở tại La Mã và Đông phái, Giáo chủ ở
tại Constantinople, chống báng nhau vì nhiều điểm về hành giáo và
nghi lễ. Nước Nga, vì liên lạc với Constantinople nên ngả theo Gia
Tô Đông phái, trong khi các nước Âu châu đều được Tây phái La Mã
truyền giáo. Sự kiện này vừa là cái mầm chia rẽ giữa nước Nga và các
nước Âu châu, lại vừa là một di sản tinh thần chung cho hai bên. Vì
vậy mà trong lịch sử bang giao giữa Nga và Âu châu, tùy theo hoàn
cảnh, có lúc thì sự kiện trên có hiệu lực như là một cái mầm chia
rẽ, có lúc lại có hiệu lực là một di sản tinh thần chung.
Từ
thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIII, tính cách di sản tinh thần chung
lấn thế, nên sự mậu dịch rất thịnh hành giữa hai bên. Và nhiều cuộc
hôn nhân chính trị, một yếu tố vô cùng quan trọng trong thời quân
chủ, đã xảy ra giữa dòng vua Nga và các dòng vua Anh Pháp. Nếu tình
trạng này kéo dài thì, mặc dầu những điểm dị đồng giữa hai phái Gia
Tô, di sản tinh thần chung có lẽ đã thắt chặt các nước Âu châu và
nước Nga lại làm thành một khối, và lịch sử đã có nhiều sự thay đổi
lớn lao.
Nhưng sau đó, vào thế kỷ thứ XIII, các bộ lạc Mông
Cổ, dưới sự lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn và các vị vua kế tiếp đã
đưa quân đánh chiếm gần hết Châu Á và một phần lớn Âu châu, lập
thành một đế quốc gồm các nước Đông Âu ngày nay (Ba Lan, Hung Gia
Lợi, Ru-ma-ni, Bulgarie) cả nước Nga, hết trung bộ Châu Á, nội Mông
Cổ, Tây Tạng và hết nước Tàu. Sự đế quốc Mông Cổ thống trị nước Nga
trên 150 năm, ngày nay, vẫn còn lưu lại nhiều di tích vật chất và
nhất là một sự kiện mà hậu quả lịch sử vô cùng lớn lao trong nhiều
thế kỷ: sự thống trị của Mông Cổ đã cắt đứt hết các dây liên lạc nối
liền nước Nga với khối văn minh Tây phương đang phát triển.
Trong khi nước Nga bị xâm chiếm, và, nhờ vị trí tiền đồn của nước
Nga mà các nước khác ở Tây Âu đã thoát sự đô hộ của Mông Cổ, thì các
nước này, chẳng những không có lúc nào tìm cách cứu viện một đồng
minh cùng chung một di sản tinh thần, ngược lại, đã lợi dụng hoàn
cảnh suy vong của Nga, để cắt xén và chiếm nhiều phần đất thuộc lãnh
thổ Nga.
Trong những lúc đó, chính là tính cách mầm chia rẽ
đã thắng tính cách di sản tinh thần chung của sự kiện mà chúng ta
vừa nêu lên ở trên. Và sau khi đế quốc Mông Cổ tan rã, nước Nga thâu
hồi độc lập, thì từ đó sự bang giao giữa Nga và các nước Tây Âu lúc
nào cũng mang dấu vết cay đắng của thời kỳ vừa qua. Do đó, lịch sử
của cuộc bang giao giữa hai bên chỉ là một cuộc chiến đấu không
ngừng, kéo dài cho tới ngày nay, lúc thì Tây Âu chiến thắng, lúc thì
Nga chiến thắng, và chúng ta đang sống vào một thời kỳ mà Nga đang
chiến thắng Tây Âu.
Luôn luôn, Tây Âu nắm phần thắng những
lúc nào mà kỹ thuật của họ tiến bộ hơn của Nga. Nhưng yếu tố dân
đông và đất rộng của Nga, lần nào, cũng cứu Nga thoát khỏi một sự
chiến bại hoàn toàn. Sau đó, các nhà lãnh đạo Nga lại tìm cách thâu
thập các kỹ thuật mới và khi hai bên đã ngang nhau trên phương diện
kỹ thuật thì yếu tố dân đông lại đưa phần thắng cho Nga. Thời gian
qua, kỹ thuật của Tây phương lại tiến bộ hơn trước và đồng thời mang
thắng lợi về cho Tây phương. Tấn tuồng lại cứ như thế mà tiếp tục
diễn tiến, qua nhiều thế kỷ, lúc bên này được bên kia thua, và lúc
bên kia được bên này thua.
Thâu thập kỹ thuật
Lúc đầu sự thâu nhập kỹ thuật Tây phương không khó khăn, bởi vì
sự cách biệt giữa hai nền kỹ thuật chỉ nằm trong một vài phát minh
được xem như là những bí mật quan trọng.
Kỹ thuật chưa tiến
bộ nhiều, phương pháp nghiên cứu chưa có qui củ, các phát minh còn
thô sơ và rời rạc, thỉnh thoảng tình cờ mới tìm được một phát minh
mới. Và quốc gia nào nắm được một phát minh mới, tuy thô sơ nhưng
hiếm có đó, thì đã nắm được trong tay một sức mạnh vô địch làm
nghiêng hẳn cán cân lực lượng về phía mình.
Ở Trung Hoa, thời
đại nhà Đường, vào thế kỷ thứ VII, sự tình cờ đã đưa đến cho Đường
Thế Dân một phát minh, ngày nay chúng ta xem là thông thường, nhưng
đã làm đảo lộn thế giới lúc bấy giờ: yên ngựa có chân đứng. Trước
đó, ngưi cưỡi ngựa chỉ ngồi trên ngựa, hai chân buông lỏng, vì vậy
mà thăng bằng không vững và kỵ binh chỉ là một phương tiện vận tải.
Với phát minh mới, người ngồi trên lưng ngựa vững như dính liền với
thú và kỵ binh trở thành một khí giới tấn công vô cùng sắc bén và
dũng mãnh. Chỉ nhờ có hai sợi dây da thô sơ buộc vào yên ngựa, nhưng
lại có một tầm quan trọng rộng lớn không ngờ, mà nhà Đường, đã
chuyển thế lâm nguy của Trung Hoa lúc bấy giờ, đang sống dưới sự đe
dọa xâm lăng thường xuyên của các dân tộc du mục Trung Á, thành một
thế chiến thắng. Và nhà Đường chẳng những đã đánh bại các dân tộc
xâm lăng, giữ vững độc lập cho Trung Hoa, lại còn chinh phục ngược
lại các lãnh thổ của họ, lập thành một đế quốc hùng cường mà nền văn
minh đã chói sáng khắp thế giới lúc bấy giờ trong hơn ba thế kỷ. Tất
cả những thành tựu đó chỉ nhờ cặp chân đứng yên ngựa.
Hơn thế
nữa, cặp chân đứng yên ngựa, sau khi đã chấn hưng Trung Hoa đến cực
độ, lại còn mãnh lực xoay chiều luồng sóng chinh phục, lúc đó đang
chảy từ Tây sang Đông, thành một luồng sóng chinh phục từ Đông sang
Tây. Các dân tộc du mục Trung Á sau khi bị Trung Hoa chinh phục và
đồng thời thâu thập được phát minh mới, nguyên nhân chính yếu của
sức mạnh của nhà Đường, đã quay lại chinh phục các dân tộc láng
giềng ở phía Tây và lần hồi làn sóng chinh phục lại chuyển từ Đông
sang Tây. Phát minh chân đứng yên ngựa cũng theo làn sóng đó mà đi
từ Đông sang Tây.
Cuối thế kỷ VII cặp chân đứng yên ngựa đã
nhập vào xã hội Hồi Giáo, và nhờ nó mà xã hội này đã chinh phục gần
hết các phần đất bao quanh Địa Trung Hải.
Ví dụ trên kia cho
ta thấy vai trò vô cùng quan trọng của kỹ thuật trong đời sống của
các dân tộc. Lịch sử, trong thời kỳ khoa học chưa phôi thai, còn
nhiều trường hợp như vậy: làm chủ được một phát minh kỹ thuật mới có
nghĩa là làm bá chủ một vùng.
Nhưng, cũng chính ký ức những
trường hợp như vậy đã làm cho những nhà lãnh đạo các quốc gia ngoài
xã hội Tây phương, sau này, như chúng ta đã thấy, lầm tưởng rằng,
chỉ thâu nhận được kỹ thuật mới của Tây phương là đủ bảo vệ nền văn
minh cũ. Họ lầm bởi vì, sau khi khoa học đã phát triển sự nghiên cứu
đã có qui củ, sự tìm tòi đã có phương pháp, các phát minh không còn
rời rạc nữa và trở thành một toàn bộ di sản của một nền văn minh.
Cho nên, như chúng ta đã biết, nếu chúng ta thâu thập một kỹ thuật
Tây phương thì chúng ta phải thâu thập hết toàn bộ kỹ thuật Tây
phương.
Trở lại vấn đề cuộc chiến đấu giữa Nga Sô và các
cường quốc Tây phương, chúng ta hiểu rõ vì sao, lúc đầu, sự thâu
thập kỹ thuật Tây phương không khó đối với Nga. Nhưng về sau, từ lúc
khoa học đã bắt đầu phôi thai, các phát minh kỹ thuật càng phức tạp
hơn, và sự thâu thập càng khó khăn hơn.
Chúng ta thấy rõ sự
tiến triển của cường độ khó khăn, khi chúng ta ý thức rằng lúc đầu
sự thâu thập một kỹ thuật mới có thể thực hiện được một cách âm
thầm, sau các chiến trận hoặc trong những cuộc trao đổi thương mãi.
Nhưng về sau, có lúc chính đại đế Pierre nước Nga đã phải đích thân
hai lần cải trang sang viếng các nước Âu Châu cùng với một đội binh
chuyên viên để thâu thập kỹ thuật Tây phương. Và sau đó đã bắt đầu
kêu gọi đến kỹ thuật gia Tây phương bằng những lợi lộc hấp dẫn.
Thâu thập khả năng sáng tạo kỹ thuật
Sự
thâu thập càng ngày càng khó khăn này là một lý do khả dĩ giải thích
một phần vì sao mà trong cuộc chiến đấu với Tây phương, Nga nhiều
lần bị kỹ thuật của Tây phương lấn áp. Lý do thứ hai dưới đây, có
tính cách trừu tượng hơn nhưng lại minh biện hơn.
Trong việc
thâu thập kỹ thuật, Nga vẫn theo các nếp cũ, cho nên vẫn tìm cách
thâu thập các kỹ thuật, chớ không bao giờ tìm cách thâu thập khả
năng của lý trí, khả dĩ sáng tạo được kỹ thuật. Do đó, một khi Nga
vừa chế ngự được một 'mớ kỹ thuật, thì óc sáng tạo của Tây phương đã
đẻ ra những kỹ thuật mới, tinh xảo hơn. Thành ra lối thâu thập cũ
nếu có thể áp dụng ở thời kỳ tiền khoa học, thì vào thời kỳ khoa học
chỉ vừa đủ để cho những người áp dụng chạy theo đuôi Tây phương.
Nguyên do ở chỗ trước kia các phát minh kỹ thuật là một sự tình
cờ, thỉnh thoảng mới nảy ra lúc thì nơi này lúc thì nơi khác. Nhưng
từ ngày xã hội Tây phương đã chế ngự được khoa học, phương pháp hóa
sự nghiên cứu, qui củ hóa sự tìm tòi thì các cuộc phát minh trở
thành liên tục và biến thành một thế độc quyền của những ai chế ngự
được khả năng sáng tạo khoa học. Vì vậy mà vấn đề thâu thập kỹ thuật
trước kia đơn sơ và ở vào trình độ bắt chước, sau khi khoa học đã
phát triển, phải được đưa lên đến trình độ chế ngự khả năng sáng tạo
khoa học. Phải như vậy, nếu những người thâu thập kỹ thuật Tây
phương không muốn lúc nào cũng chỉ chạy theo đuôi Tây phương và lúc
nào cũng bị kỹ thuật Tây phương chi phối.
Nghĩa là công cuộc
Tây phương hóa chỉ hữu hiệu khi nào được thực hiện đúng đến mức độ
đủ cao.
Đó là bài học mà nước Nga, sau nhiều thế kỷ kinh
nghiệm và bằng một giá rất đắt, đã thâu thập được. Và đó là một bài
học vô giá cho các nước ở trong tình trạng phải Tây phương hóa để
bảo vệ sự sinh tồn của mình.
Chính nước Nga đã áp dụng ngay
bài học đó trong cuộc cách mạng 1917. Và chung qui cuộc cách mạng
1917 của Nga chỉ là một cuộc Tây phương hóa toàn diện và tự đặt cho
mục đích phải đến mức độ đủ cao. Nghĩa là phải làm thế nào khắc phục
được khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương. Cuộc Tây phương hóa
ở Nga đã toàn diện, nhưng cuộc Tây phương hóa của Nga đã đến mức độ
đủ cao chưa?
Thời gian còn sớm quá nên chúng ta chưa có thể
trả lời quả quyết được. Tuy nhiên, sự sáng tạo các hỏa tiễn liên lục
địa, các vệ tinh và hành tinh nhân tạo, các phi thuyền không gian,
và nhiều phát minh khác trong mọi lĩnh vực, tuy không kích thích dư
luận đại chúng, nhưng vẫn không kém phần quan trọng trên địa hạt
khoa học, vượt hẳn khả năng sáng tạo của nhiều quốc gia Tây phương,
là những triệu chứng cho chúng ta đoán rằng Nga đã thành công. Tuy
nhiên, hãy còn sớm quá để chúng ta trả lời một cách dứt khoát. Ví dụ
dưới đây lại thêm phần rõ rệt về tính cách tối quan trọng của mức độ
đủ cao của công cuộc Tây phương hóa.
Trường hợp của
Nhật
Cái hay phi thường của các nhà lãnh đạo Nhật
thời Minh Trị lúc bị Tây phương tấn công, là, mặc dầu không có cái
kinh nghiệm chiến đấu trong mấy thế kỷ chống Tây phương như Nga, lại
nhìn thấy ngay sự cần thiết của một công cuộc Tây phương hóa toàn
diện. Nhưng có lẽ quan niệm về cao độ của công cuộc Tây phương hóa
không được rõ rệt lắm cho nên đến ngày nay, mặc dầu công cuộc Tây
phương hóa của Nhật đã thành tựu một cách không ai phủ nhận được, sự
chế ngự khả năng sáng tạo khoa học của Nhật chưa có dịp xuất lộ một
cách rõ rệt như của Nga. Trái lại một vài trường hợp lịch sử chứng
minh rằng người Nhật trong công cuộc Tây phương hóa toàn diện, chưa
đạt đến mức độ đủ cao.
Lúc khởi đầu cuộc chiến tranh Thái
Bình Dương giữa Nhật và Mỹ, các phi công Mỹ đều khiếp sợ thành tích,
tốc độ tầm hoạt động, sự dễ lái, hỏa lực và sức chịu đựng của loại
phi cơ khu trục của Nhật gọi là Zéro. Và các cường quốc đều xem khu
trục cơ của Nhật là một thực hiện bậc nhất trong thế giới của khoa
học hàng không Nhật. Nhưng sau hai năm chiến tranh, trong khi Mỹ lần
lần cho xuất hiện những loại phi cơ vượt hẳn loại phi cơ Zéro về mọi
mặt; thì Tổng Tham Mưu Nhật và kỹ thuật hàng không Nhật vẫn không
sáng chế được một loại phi cơ nào hơn loại Zéro được. Do đó sự làm
chủ không phận lọt vào tay Mỹ và chiến thắng cuối cùng về Mỹ như
chúng ta đều biết.
Có thể nhiều yếu tố đã ảnh hưởng cùng một
lúc để đưa đến sự kiện trên. Nhưng một điều chắc chắn là trong số
các yếu tố đó, có sự kiện là cuộc Tây phương hóa của Nhật, mặc dù đã
kết quả rất tốt đẹp, vẫn chưa đi đến chỗ chế ngự một cách đầy đủ khả
năng sáng tạo khoa học của Tây phương.
Trong thời bình, mặc
dầu những bí mật của quốc phòng vẫn được mỗi quốc gia giữ gìn kỹ
lưỡng, các tin tức khoa học vẫn được trao đổi giữa các cường quốc
tiến bộ, hoặc bằng lối trao đổi văn hóa thông thường, hoặc bằng lối
tình báo bí mật.
Do đó, sự chênh lệch giữa các nước về kỹ
thuật không đến đỗi to tát lắm. Nhưng trong thời kỳ chiến tranh, cố
nhiên là những luồng giao hoán đều gián đoạn và mỗi nước phải sống
với cái vốn sáng tạo riêng của mình. Lúc bấy giờ, nếu trình độ chế
ngự khả năng sáng tạo khoa học của nước mình chưa đủ cao thì kỹ
thuật sẽ sút kém và ảnh hưởng nặng nề đến chiến cuộc.
Trường hợp trên đây của Nhật xác nhận hai điểm:
Tây phương hóa đến mức độ đủ cao
1. Tính cách thiết yếu
của sự đạt đến mức độ đủ cao của công cuộc Tây phương hóa.
2.
Đạt đến mức độ đủ cao của công cuộc Tây phương hóa là một điều vô
cùng khó khăn.
Nếu chúng ta không đạt đến mức độ đủ cao trong
công cuộc Tây phương hóa thì chính là mục đích của công cuộc Tây
phương hóa chúng ta không đạt được. Nghĩa là những kết quả của một
công cuộc Tây phương hóa không đủ cao, sẽ không giúp cho chúng ta
bảo vệ được sự tồn tại của dân tộc, lý do chính, vì đó mà chúng ta
nhận định rằng công cuộc Tây phương hóa là cần thiết.
Nước
Nhật, trong công cuộc Tây phương hóa của họ, đã đạt được nhiều kết
quả mà, chẳng những chúng ta và các nước cùng đang theo đuổi công
cuộc Tây phương hóa, đều thán phục, mà đến các nước Âu Mỹ cũng ngợi
khen. Thế mà, trong giờ phút quyết liệt của cuộc chiến đấu quyết
định sự thắng bại của dân tộc, thì kỹ thuật của họ vẫn chưa sánh kịp
với kỹ thuật Tây phương. Xem thế đủ biết rằng, việc chế ngự được khả
năng sáng tạo khoa học không phải là việc dễ làm. Nếu chúng ta đã
quan niệm rằng sự đạt đến mức độ đó là thiết yếu, thì việc đạt được
vẫn còn là một việc vô cùng khó khăn. Nay nếu chúng ta không đặt vấn
đề ấy là cần thiết, thì chắc chắn là không bao giờ chúng ta chế ngự
được khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương. Và như thế là chúng
ta đã đầu hàng trước khi ra trận.
Tất cả các điều trình bày
trên kia lại càng xác nhận quan điểm cho rằng, công cuộc Tây phương
hóa toàn diện và việc đạt được đến mức độ đủ cao là thiết yếu cho sự
sống còn của dân tộc chúng ta. Và bởi vì một công cuộc Tây phương
hóa như vậy sẽ vô cùng khó khăn và đòi hỏi ở toàn dân những nỗ lc
lớn lao và những hy sinh nặng nề, thì nếu không phải chính chúng ta
chủ trương và lãnh đạo lấy, thì chắc chắn rằng không làm thế nào
chúng ta có thể thực hiện được công cuộc Tây phương hóa của chúng
ta.
Độc lập để Tây phương hóa
Sau khi
đã phân tích như vậy rồi, chúng ta mới nhận thấy rằng chủ trương của
một số nhà cách mạng trước đây, đề nghị nên hợp tác với Pháp để duy
tân Việt Nam, là một chủ trương sai lầm. Sai lầm vì những người ấy
đã không phân tích vấn đề thấu đến tâm, nên tưởng rằng người ngoại
quốc có thể trách nhiệm một công cuộc Tây phương hóa như chúng ta đã
trình bày ở trên. Thật sự, trong thời kỳ người Pháp ở đây, chúng ta
đã có một cuộc Tây phương hóa.
Nhưng chính vì sự thống trị
của người Pháp ở đây, nên cuộc Tây phương hóa đó không làm sao được
hướng dẫn theo một chiều hướng có ích lợi cho đần tộc. Vì vậy cho
nên, đã mang đến những hậu quả vô cùng tai hại, mà chúng ta đều
biết.
Như thế, điều kiện tiên quyết và thiết yếu để thực
hiện cho được công cuộc Tây phương hóa là phải độc lập. Có độc lập
chúng ta mới chủ động được vận mạng của chúng ta và lãnh đạo được
công cuộc Tây phương hóa, mà sự thành hay bại quyết định tương lai
của chúng ta trong mấy thế kỷ sắp tới đây.
Theo đó thì, những
nhà cách mạng đã chủ trương hợp tác với Pháp đã đi sai đường lối.
Chủ trương của họ chỉ có thể dung nạp với tác dụng của một chiến
thuật giai đoạn, để có thể đỡ khổ cho dân chúng. Chính chủ trương
của những nhà cách mạng chống Pháp một cách cực đoan là một chủ
trương đúng. Vì vậy mà như chúng ta đã biết, và như chúng ta sẽ phân
tích chi tiết hơn sau này, các nhà lãnh đạo Việt Nam theo đường lối
Cộng sản, đã hành động đúng hoàn cảnh khi họ tự qui tụ dưới lá cờ
Cộng sản của Nga Sô trong giai đoạn chiến đấu giành độc lập. Nhưng
độc lập không phải là mục đích, mà chỉ là một điều kiện khẩn thiết,
như chúng ta vừa thấy trên đây, để có thể thực hiện được cuộc phát
triển dân tộc Và khi bước sang giai đoạn phát triển dân tộc, sự tự
qui tụ dưới lá cờ Cộng sản còn có phải là một hành động lợi ích cho
dân tộc không? Sau này chúng ta sẽ trả lời với chi tiết câu hỏi đã
nêu lên. Bây giờ ta chỉ nên biết rằng mặc dầu sự tự qui tụ dưới lá
cờ Cộng sản, đã đưa đến nhiều kết quả trong công cuộc chiến đấu
giành độc lập. Nhưng không phải vì những thành tích ấy mà có thể quả
quyết rằng nếu muốn đạt đến những thành tích khả quan tương tự trong
giai đoạn phát triển, chúng ta lại cần phải qui tụ dưới lá cờ Cộng
sản, như nhiều người đã nghĩ. Hoàn cảnh đã thay đổi và vấn đề đã
thay đổi, thì giải pháp không thể giữ như cũ được.
Tây phương hóa và bản chất dân tộc
Trong phạm vi vấn
đề Tây phương hóa, chúng ta còn phải trả lời một câu hỏi. Nếu chúng
ta phải thực hiện cuộc Tây phương hóa toàn diện và đến mức độ đủ cao
như trên đã nói thì liệu bản chất của dân tộc chúng ta có còn tồn
tại nữa không? Và, nếu sau cuộc Tây phương hóa mà bản chất của dân
tộc đã mất, thì công cuộc Tây phương hóa có còn đáng để chúng ta
theo đuổi để thực hiện với tất cả sự gian lao và hy sinh của toàn
dân chăng? Và đã như vậy thì chúng ta thực hiện công cuộc Tây phương
hóa để bảo vệ cái gì?
Trước hết chúng ta nên nhận xét các sự
kiện đã xảy ra nếu chúng ta không tự ý Tây phương hóa. Như chúng ta
đã thấy, nếu chúng ta không tự ý Tây phương hóa, thì trước hết chúng
ta sẽ mất độc lập và sẽ mất chủ quyền định đoạt vận mạng của dân tộc
chúng ta. Sau đó, cuộc Tây phương hóa vẫn sẽ thực hiện đối với chúng
ta, nhưng không phải chúng ta lãnh đạo và hường dẫn. Một cuộc Tây
phương hóa không được hướng dẫn sẽ mang đến sự tan rã của xã hội
chúng ta.
Và nếu thật sự một cuộc Tây phương hóa tự ý và có
lãnh đạo không làm tan rã xã hội, lại có thể làm mất bản chất của
dân tộc, thì chúng ta có thể quả quyết rằng một cuộc Tây phương hóa
bắt buộc và không hướng dẫn, làm tan rã xã hội, chắc chắn sẽ làm mất
mười lần hơn bản chất dân tộc của chúng ta.
Như vậy giữa hai
thái độ tự ý Tây phương hóa và bắt buộc Tây phương hóa, không còn có
thể do dự nữa. Làm thế nào cũng phải lựa thái độ tự ý Tây phương
hóa, dù mà, vì cuộc Tây phương hóa đó mà bản tính dân tộc của chúng
ta có bị mất. Nếu thật sự có mất, ít ra chúng ta cũng còn bảo vệ
được độc lập chủ quyền, sự toàn vẹn của xã hội.
Nhưng chúng
ta sẽ chứng minh dưới đây rằng, không có gì có thể cho chúng ta quả
quyết là công cuộc Tây phương hóa, như chúng ta chủ trương, sẽ đưa
đến sự mất bản chất dân tộc.
Trước hết chúng ta cần phải tìm
hiểu một công cuộc Tây phương hóa toàn diện đòi hỏi ở chúng ta những
thực hiện gì.
Sau đó chúng ta cũng tìm hiểu một công cuộc
Tây phương hóa đến mức độ đủ cao đòi hỏi ở chúng ta những thực hiện
gì? Dựa trên đó chúng ta sẽ có đủ tài liệu để trả lời câu hỏi nêu
lên ở đầu chương này.
Cơ thức Tây phương hóa
Như đã trình bày trên đây, nguồn gốc của một cuộc Tây phương hóa
tự ý, trước tiên hết, là ý chí muốn thâu thập kỹ thuật tổ chức quân
đội và kỹ thuật võ trang quân đội.
Thường thường thì các nhà
lãnh đạo, chủ trương thâu thập các kỹ thuật trên, đều có ý định muốn
ngừng lại sau giai đoạn đó. Nhưng mà như thế là phủ nhận một định
luật xã hội không làm sao tránh được: khi hai nền văn minh gặp nhau,
liền tháo chốt cho một dòng sự kiện tuần tự diễn tiến theo một cơ
thức nhất định. Và với tất cả nỗ lực và phương tiện có thể vận dụng
được, thì ngay ở giai đoạn này, các nhà lãnh đạo, đã bắt đầu công
cuộc Tây phương hóa cũng không còn có thể ngưng lại được nữa. Công
cuộc Tây phương hóa sẽ thực hiện với họ hay là không có họ. Theo một
cơ thức nhất định, sau lĩnh vực quân sự, làn sóng Tây phương hóa sẽ
làm tràn đến lĩnh vực cơ cấu chính trị. ít khi mà lĩnh vực cơ cấu
chính trị được Tây phương hóa một cách êm ái, trừ ra khi nào chính
các nhà lãnh đạo đã ý thức được rõ rệt vấn đề tự ý Tây phương hóa,
như ở nước Nhật. Thường thường thì sau nhiều cuộc chánh biến, các cơ
cấu chính trị của chế độ cũ, nhường chỗ cho những cơ cấu chính trị
theo kiểu Tây phương. Ví dụ chế độ quân chủ chuyên chế nhường chỗ
cho một chế độ quân chủ lập hiến theo kiểu Anh hay một chế độ cộng
hòa theo kiểu Pháp, hoặc một chế độ Tổng Thống chế theo kiểu Mỹ. Bởi
vì lĩnh vực chính trị là một lĩnh vực chi phối tất cả đời sống của
quốc gia, cho nên sức kháng cự lại làn sóng Tây phương hóa thường
mạnh nhất ở lĩnh vực này, và công cuộc Tây phương hóa cũng đẫm máu
nhiều nhất ở lĩnh vực này.
Nhưng sau đó, từ lĩnh vực cơ cấu
chính trị sang lĩnh vực giáo dục và sản xuất kinh tế thì công việc
lại trở nên dễ dàng và như không còn gặp trở lực nữa. Bắt đầu từ
đây, công cuộc Tây phương hóa lại bước sang một giai đoạn mới. Từ
trước chủ trương Tây phương hóa chưa hoàn toàn thắng lợi và phải
nhiều cam go lắm mới lọt vào được nội thành của xã hội bị tấn công.
Nhưng từ đây, chủ trương đã chiếm được
thành rồi, sang giai
đoạn mới, công cuộc Tây phương hóa toàn diện sẽ không gặp những trở
lực do chủ trương thủ cựu dựng lên nữa. Sự thành tựu hay không của
công cuộc Tây phương hóa, từ lúc này, chỉ còn tùy thuộc ở quan niệm
một công cuộc Tây phương hóa đến mức hay không đến mức của người
lãnh đạo.
Tây phương hóa sâu và rộng, hay là thất bại
và sụp đổ
Giai đoạn mới này lại còn có một đặc điểm
khác. Từ trước tới đây chủ trương Tây phương hóa chỉ liên quan đến
số người lãnh đạo. Chủ trương Tây phương hóa cũng họ mà chống đối
cũng họ. Nhưng từ đây trở đi, vấn đề Tây phương hóa, đã ngã ngũ ở
trong giới của họ, mới bắt đầu lan ra đại chúng. Và cuối cùng thì sự
thành công hay thất bại của công cuộc Tây phương hóa lại ở chỗ sự
Tây phương hóa có thật sự lan rộng và ăn sâu đến đại chúng không?
Nếu sự Tây phương hóa có lan rộng và ăn sâu đến đại chúng thì, trong
một thời giai ngắn hay dài, tùy theo những biện pháp áp dụng để thực
hiện công cuộc Tây phương hóa, sự Tây phương hóa sẽ ăn rễ ở quần
chúng. Và ngược lại những sinh lực phát sinh từ quần chúng đã bắt
đầu Tây phương hóa, lại hợp thành một hậu thuẫn vừa củng cố vừa thúc
đẩy công cuộc Tây phương hóa.
Trái lại, nếu sự Tây phương hóa
không lan rộng và ăn sâu đến đại chúng thì, trong một thời gian
ngắn, quần chúng sẽ ly khai với nhóm người lãnh đạo, và xã hội sẽ
rơi vào một tình trạng phân ly rất là nguy hiểm cho sự tiến bộ của
cộng đồng. Một bên, một thiểu số Tây phương hoá, một bên, khối đại
đa số vẫn sống theo các giá trị tiêu chuẩn cũ. Sự cách biệt sẽ rất
trầm trọng giữa hai bên, và công việc lãnh đạo không thể thi hành
được, giữa hai khối người không sử dụng cùng một lối suy tưởng và
không cùng tôn trọng những giá trị tiêu chuẩn chung. Trong trường
hợp đó, sự nắm chính quyền của nhóm người, đã ly khai với đại chúng,
là một hiện trạng bất thường chỉ duy trì được bằng những biện pháp
cảnh sát cứng rắn. Tình thế đã chín mùi cho một cuộc cách mạng. Cách
mạng sẽ bùng nổ, khi nào khối quần chúng được một lãnh tụ qui tụ
bằng uy tín cá nhân, hay được một đảng phái qui tụ bằng một đường
lối, hay nữa, khi nào có một cuộc ngoại xâm. Xem thế chúng ta nhận
thấy rõ tất cả các nguy hại nếu công cuộc Tây phương hóa thất bại
trong giai đoạn này và đồng thời cũng ý thức tính cách thiết yếu của
một sự thành công.
Tây phương hóa nửa chừng
Bây giờ chúng ta trở lại các giai đoạn tiến triển của công cuộc
Tây phương hóa. Những công cuộc Tây phương hóa, phân nửa thất bại,
của các quốc gia ở Cận Đông giúp cho chúng ta một bản kê khai, khá
đầy đủ, về sự tiến triển của công cuộc Tây phương hóa trong từng
giai đoạn. Nhờ đó chúng ta được biết chắc chắn các sự kiện dưới đây.
Từ lúc chủ trương Tây phương hóa đã lọt vào thành nội cơ cấu
chính trị của một quốc gia rồi, thì từ đó sự lan tràn sang lĩnh vực
giáo dục và kinh tế không gặp khó khăn nữa.
Từ hai lĩnh vực
này, công cuộc Tây phương hóa mới bắt đầu ăn sâu và lan rộng vào đại
chúng. Ở nhiều quốc gia Cận Đông ý chí Tây phương hóa đến mức này là
mãn hạn, vì sự kém khả năng huy động quần chúng của chính quyền
Trung ương.
Trong trường hợp đó, công cuộc Tây phương hóa sẽ
bắt đầu thất bi và sẽ mang đến những hậu quả không tốt, như chúng ta
đã thấy trên kia. Cũng nhờ ở những sự tht bại, nhận thy ở trên, mà
chúng ta được biết rằng trong các lĩnh vực của đời sống quốc gia,
thì lĩnh vực đời sống thông thường, mà ngày nay chúng ta quen gọi là
lĩnh vực xã hội và lĩnh vực văn hóa, là hai lĩnh vực có sức kháng cự
nhiều nhất đối với sự Tây phương hóa, sau lĩnh vực tín ngưỡng mà
chúng ta sẽ bàn đến, một cách riêng biệt, sau này.
Sở dĩ như
vậy, là vì hai lý do. Trước hết sự Tây phương hóa càng đi sâu vào
những lĩnh vực liên quan đến số đông người, sức kháng cự càng mạnh,
bắt nguồn ở sức thụ động của quần chúng. Lý do thứ hai là, sức kháng
cự càng mạnh khi đụng đến các lĩnh vực liên quan đến những di sản
tinh thần của dân tộc. Nếu hai lý do trên lại có cơ hội gặp nhau ở
một lĩnh vực thì sức kháng cự lại còn mãnh liệt hơn nữa: Ví dụ như
lĩnh vực tín ngưỡng và tôn giáo.
Cho đến ngày nay, chưa có
một cuộc Tây phương hóa nào, kể cả hai cuộc Tây phương hóa thành
công nhất của Nga Sô và của Nhật, đã vượt qua được lĩnh vực tôn
giáo. Sự kiện này giải thích vì sao mà thế giới hiện nay, mặc dầu ở
dưới sự chi phối hoàn toàn của kỹ thuật Tây phương, vẫn chia ra làm
nhiều khu vực văn hóa và tôn giáo rõ rệt.
Ghi chú:
(1)
Tr
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Phần II
6.
VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM
TRONG KHUNG
CẢNH THẾ GIỚI
(MỘT VÍ DỤ
LỊCH SỬ)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Nếu
có người nghĩ rằng, có lẽ thời gian chưa đủ dài, để cho các công
cuộc Tây phương hóa nói trên, hoàn
toàn xâm nhập vào các lĩnh vực tôn giáo, thì chúng ta có thể lấy
trường hợp của đế quốc Hy Lạp La Mã khi xưa đối với các quốc gia ở
trong khu vực ảnh hưởng của mình, để thêm một bằng cớ rằng công cuộc
Tây phương hóa ngày nay không vượt qua được lĩnh vực tôn giáo.
Xưa kia, các nước nằm trong đế quốc La Mã, hoàn toàn La Mã hóa
trên mọi lĩnh vực, trừ ra lĩnh vực tôn giáo, mặc dù sự thống trị của
đế quốc La Mã đã kéo dài gần một ngàn năm. Hơn thế nữa, sau đó,
chính một tôn giáo Đông phương, Gia Tô giáo, đã thống trị ngược lại
hết đế quốc La Mã Hy Lạp lúc bấy giờ. Nhưng đó là một vấn đề thuộc
về một địa hạt lớn lao mà chúng ta không thể đề cập ở đây được. Nay
chỉ cần ghi nhớ thêm một điểm: Công cuộc Tây phương hóa không vượt
qua được lĩnh vực tôn giáo. Sau này chúng ta sẽ trở lại vấn đề này.
Trên lĩnh vực văn hóa, tình trạng có hơi khác. Văn hóa dân tộc
bắt nguồn từ di sản tinh thần thừa hưởng của dĩ vãng gồm, một mặt,
các sáng tác văn hóa khẩu truyền hay thư loại, một mặt, đặc thức suy
tưởng của dân tộc mà di sản đó đã hun đúc trong nhiều thế hệ. Nay,
mở cửa tiếp văn minh Tây phương có nghĩa là thâu nhận thêm nhiều
sáng tác văn hóa.
Nhưng sự thâu nhận, dù có lên đến một mức
độ quan trọng nào cũng không phủ nhận được di sản tinh thần của dĩ
vãng.
Do đó, đặc thức suy tưởng cổ truyền của dân tộc, nếu
có bị ảnh hưởng ít nhiều, vẫn giữ nguyên bản chất. Như vậy ta nên
chia lĩnh vực văn hóa làm hai phần: phần thứ nhất là phần văn hóa
hấp thụ, và phần thứ hai là phần văn hóa sáng tạo. Phần hấp thụ sẽ
thu nhận văn hóa Tây phương và chịu Tây phương hóa. Nhưng phần sáng
tạo chắc chắn sẽ giữ đặc tính của dân tộc vì chịu ảnh hưởng đặc thức
suy tưởng cổ truyền.
Như vậy chúng ta có thể tin rằng công
cuộc Tây phương hóa sẽ không làm mất tính chất dân tộc, nếu chúng
ta, sau khi chế ngự được các kỹ thuật của Tây phương, lên đến mức độ
sáng tạo với những phương tiện kỹ thuật đó. Những sự kiện dưới đây
có thể xem như là những bằng cớ để xác nhận điều quả quyết trên đây.
Các dân tộc ở Âu châu đều sống trong một nền văn minh kỹ thuật
chung. Chẳng những tất cả các phương tiện kỹ thuật về sản xuất, về
vận chuyển, về thông tin, vân vân, đều như nhau, mà cho đến những
chi tiết trong đời sống hằng ngày cũng giống nhau, mặc cùng một thứ
quần áo, ăn cùng một thức ăn. Nhưng tất cả các sáng tác trong mỗi
ngành của mỗi dân tộc đều khác. Ví dụ âm nhạc của một người Đức,
không bao giờ giống âm nhạc của một người Anh. Nghĩa là, mặc dù sống
trong một không khí văn minh kỹ thuật duy nhất, nhưng các di sản
tinh thần của mỗi dân tộc vẫn cứ bộc lộ trong các sáng tạo của dân
tộc đó.
Sau hơn bốn mươi năm của một công cuộc Tây phương hóa
triệt để, thâm nhập mọi lĩnh vực của đời sống, các sáng tạo văn hóa
của Nga Sô vẫn mang đặc tính dân tộc người Nga.
Sau hơn một
trăm năm Tây phương hóa toàn diện, các sáng tạo văn hóa của Nhật vẫn
mang đặc tính dân tộc Nhật.
Có lẽ tới đây chúng ta không cần
kéo dài cuộc biện luận nữa. Chúng ta có thể quả quyết rằng một công
cuộc Tây phương hóa toàn diện không làm mất bản chất dân tộc, miễn
là chúng ta phải vượt lên được đến mức sáng tạo. Dưới mức này, cố
nhiên là dân tộc tính không bộc lộ được, và trong không khí ồ ạt của
văn minh kỹ thuật Tây phương, dân tộc tính có vẻ như bị mất. Nay,
nếu chúng ta phán đoán theo vẻ bên ngoài ấy thì chúng ta sẽ rụt rè
như các cụ, xưa kia, sợ mất quốc hồn quốc túy và công cuộc Tây
phương hóa của chúng ta sẽ thất bại và mang đến tất cả các hậu quả
tai hại, mà chúng ta biết.
Ảnh hưởng tương phối giữa
tôn giáo và sự kiện Tây phương hóa
Trước khi sang
vấn đề Tây phương hóa đến mức độ đủ cao, chúng ta trở lại một chút
về vấn đề tôn giáo và công cuộc Tây phương hóa. Công cuộc Tây phương
hóa không vượt qua được lĩnh vực tôn giáo và tín ngưỡng. Vấn đề này
đã được đề cập đến nhân khi bàn đến giới hạn ảnh hưởng của công cuộc
Tây phương hóa. Tuy nhiên tự nó vấn đề tôn giáo không quan hệ đối
với một công cuộc Tây phương hóa.
Trước đây xã hội Tây phương
xây dựng trên căn bản tinh thần của đạo giáo Gia Tô. Nhưng sau đó
nhiều sự mâu thuẫn nội bộ về giáo lý đã làm nguồn gốc cho những cuộc
chiến tranh tôn giáo tàn khốc làm suy giảm tín ngưỡng của đại chúng.
Và kế đó, sau khi thoát khỏi sự gò bó tư tưởng của giáo hội La Mã,
khoa học Tây phương mới phát triển được đến mức độ ngày nay và trang
bị xã hội Tây phương với những phát minh hùng mạnh. Sự giảm tin
tưởng vào một tôn giáo, đã có một thời chủ trương những tư tưởng
chật hẹp về vũ trụ, đã làm lung lay đến tận nền tảng cơ sở tôn giáo
của xã hội Tây phương. Nhưng vừa đúng lúc khi văn minh Tây phương
chứng kiến sự suy giảm của đức tin vào sức mạnh tín ngưỡng mà Gia Tô
giáo đã hun đúc trong nhiều thế kỷ, thì văn minh Tây phương lại được
khoa học tạo cho mình một đức tin vào sức mạnh kỹ thuật, mà tính
cách hữu hiệu trong công cuộc chinh phục thế giới còn hơn bội phần
sức mạnh tín ngưỡng đã mất.
Gần đây, sau khi khoa học đã tỏ
ra không đủ khả năng để giải quyết một mình các vấn đề căn bản của
nhân loại, thì tinh thần tôn giáo lại phục hưng. Nhưng cho đến ngày
nay, sự phục hưng tinh thần tôn giáo trong xã hội Tây phương chưa
lên đến một mức độ đủ cao để cho sự thâu thập văn minh Tây phương,
mặc nhiên, bắt buộc sự thâu thập tôn giáo Tây phương.
Do đó,
trong thời kỳ hiện nay, có thể gọi là thời kỳ hậu tôn giáo của văn
minh Tây phương, vấn đề tôn giáo không quan trọng đối với công cuộc
Tây phương hóa. Nhưng vấn đề tôn giáo lại có một ảnh hưởng vô cùng
quan trọng cho công cuộc phát triển dân tộc như chúng ta sẽ thấy sau
này.
Công cuộc Tây phương hóa đến mức độ đủ cao
Mấy trăm năm kinh nghiệm của Nga và gần một thế kỷ kinh nghiệm
của Nhật chỉ cho chúng ta thấy hai điều:
Trước hết là, một
khi, để chống lại với sự tấn công của văn minh Tây phương, chúng ta
đã lao mình vào công cuộc Tây phương hóa, và, nếu công cuộc Tây
phương hóa của chúng ta không đạt đến một mức độ đủ cao thì, sự đe
dọa nói trên vẫn còn mãi, và mục đích của cuộc Tây phương hóa sẽ
không đạt được. Bởi vì, như chúng ta đã thấy trong trường hợp của
hai nước kể trên đây, và nhất là trong thời kỳ đầu của trường hợp
Nga, nếu chúng ta không Tây phương hóa đến mức độ đủ cao thì lúc nào
chúng ta cũng chạy theo đuôi kỹ thuật Tây phương và do đó sự đe dọa
không chấm dứt được.
Điều thứ hai lại do điều thứ
nhất mà ra.
Muốn không chạy theo đuôi kỹ thuật Tây
phương nữa thì chúng ta phải chế ngự cho được khả năng sáng tạo khoa
học của Tây phương. Lúc bấy giờ, như Nga Sô ngày nay, chúng ta sẽ có
đủ khả năng để góp phần vào công cuộc sáng tạo kỹ thuật chung của
nhân loại. Thực hiện được sự góp phần này đương nhiên chúng ta sẽ tự
cung cấp hai thắng lợi: thứ nhất chúng ta sẽ trở thành ngang hàng
với các nước trên thê giới trên phương diện đóng góp vào văn minh
nhân loại, và thứ hai là sự ngang hàng đó, cũng như kỹ thuật đã tiến
bộ của chúng ta, sẽ bảo đảm cho chúng ta thoát khỏi sự uy hiếp của
các nước lớn, mối đe dọa truyền kiếp cho chúng ta đến ngày nay. Có
một quan niệm sai lầm cho rằng công cuộc Tây phương hóa của một nước
lên đến mức độ đủ cao khi nào nước đó có thể tự túc về các sản phẩm
kỹ thuật và khoa học của Tây phương. Quan niệm đó sai lầm ở chỗ nó
phản lại bản chất bao quát và nhân loại của khoa học. Và một khoa
học cô lập là một khoa học không tiến bộ nữa. Nhưng vấn đề này lại
thuộc một địa hạt rộng lớn khác.
Trở lại vấn đề Tây phương
hoá đến mức độ đủ cao, các đoạn trên này cho chúng ta thấy rằng Tây
phương hóa đến mức độ đủ cao, có nghĩa là Tây phương hóa đến khi nào
chúng ta chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương. Cho
đến khi nào chúng ta chưa ra khỏi giai đoạn hấp thụ khoa học và kỹ
thuật Tây phương, thì chúng ta vẫn chưa thoát lên đến mức độ đủ cao.
Chỉ khi nào chúng ta sử dụng được, chẳng những là khoa học và kỹ
thuật Tây phương, mà lại còn cả phương tiện sáng tạo khoa học và kỹ
thuật, thì chúng ta mới đạt đến mức độ đủ cao trong công cuộc Tây
phương hóa.
Vì vậy cho nên, khi nào chúng ta còn thấy tự mãn
sau khi đã hấp thụ được kỹ thuật và khoa học của Tây phương, thì
công cuộc Tây phương hóa đã bắt đầu thất bại. Trong thực tế bao giờ
mà các chuyên viên của chúng ta gởi đi du học ngoại quốc còn lấy làm
tự mãn sau khi vừa hấp thụ xong các kỹ thuật và khoa học của ngành
mình, thì công cuộc Tây phương hóa của chúng ta còn ở vào một mức độ
thấp và lúc nào cũng bị sự thất bại đe dọa. Chỉ khi nào các chuyên
viên của chúng ta, sau khi đã hấp thụ được các kỹ thuật và khoa học
của ngành mình, lại ý thức rõ rệt rằng, chỉ vừa bước đi qua một giai
đoạn sơ khởi, và còn cần phải nỗ lực để đạt đến chỗ chế ngự được khả
năng sáng tạo trong ngành của mình, thì lúc bấy giờ cuộc Tây phương
hóa của chúng ta mới đi đúng đường và có hy vọng thành công.
Sự kiện trên đây giải thích cho chúng ta hiểu vì sao, trong thời kỳ
Pháp thuộc khối người mới vừa Tây phương hóa được đến một mức độ rất
thấp, chiếm được vài cái bằng cao cấp, đã lấy làm tự mãn, và từ đó
sự tiến bộ đã ngừng hẳn. Sự kiện này chứng minh một cách rõ ràng
rằng công cuộc Tây phương hóa của chúng ta ở thời kỳ Pháp thuộc,
không được hướng dẫn, không có lãnh đạo cho nên những người “theo
mới” không biết đi đến mức nào là đúng. Chưa chi đã lấy làm tự mãn
thì làm sao còn có ý chí để thực hiện một công cuộc Tây phương hóa
đến mức độ đủ cao, đòi hỏi nhiều nỗ lực và nhiều hy sinh.
Một
công cuộc Tây phương hóa đến mức độ đủ cao là một điều thiết yếu cho
sự phát triển dân tộc, nhưng làm thế nào cho công cuộc Tây phương
hóa đạt đến mức độ ấy?
Sau khi đã phân tích như trên kia rồi
thì chúng ta không còn lọt vào sự lầm lẫn thông thường cho rằng hấp
thụ kỹ thuật và khoa học là đã đạt đến mức độ đủ cao. Và chúng ta
biết rằng muốn đạt đến mức độ đó thì phải chế ngự cho được khả năng
sáng tạo khoa học và kỹ thuật. Nghĩa là phải học cho được cái bí
quyết của người Tây phương đã giúp cho họ đẻ ra khoa học và kỹ
thuật.
Đặc tính của văn minh Tây phương
Sau khi hấp thụ khoa học và kỹ thuật Tây phương, thì mọi người
đều công nhận khoa học và kỹ thuật Tây phương có những đặc tính sau
đây: suy luận chính xác, tổ chức ngăn nắp và minh bạch. Và phần đông
đều nghĩ rằng chính tinh thần khoa học Tây phương đã tạo những đặc
tính ấy. Đó là một sự lầm lẫn thông thường rất tai hại và nếu đã
nghĩ như vậy thì không làm sao tìm được bí quyết đã giúp cho Tây
phương sáng tạo khoa học và kỹ thuật.
Sự thật là những đặc
tính: chính xác về lý trí, ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức là
đặc tính của nền văn minh Tây phương. Và chính nhờ có những đặc tính
này, mà nền văn minh Tây phương đã sáng tạo ra khoa học. Khoa học
mang những đặc tính ấy như là những đặc tính bẩm sinh, chớ không
phải khoa học tạo ra các đặc tính ấy. Vì vậy cho nên sự hấp thụ khoa
học và kỹ thuật của Tây phương không, không đủ tạo cho người hấp thụ
khả năng sáng tạo khoa học, tiêu chuẩn của một công cuộc Tây phương
hóa thành công đến mức độ đủ cao.
Trước khi khoa học phát
minh và phát triển như ngày nay, tập quán của người Tây phương đã
chính xác trong suy luận và ngăn nắp minh bạch trong tổ chức. Trái
lại lối suy luận, ví dụ của người ở xã hội Đông Á là lối suy luận
trực giác, hình ảnh, và do đó, mơ hồ. Nhưng chính người Tây phương
đã thừa hưởng những đặc tính đó của văn minh Hy Lạp và La Mã. Chính
xác về lý trí, ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức đã nằm sẵn trong
lối kiến trúc câu văn của Hy Lạp cũng như của La Mã.
Sau khi
đế quốc La Mã phía Tây, đóng đô ở Roma đã sụp đổ, xã hội Tây phương
trải qua một thời đại đen tối vì hai lý do. Trước hết sự xâm chiếm
của các bộ lạc man rợ đã cắt đứt xã hội Tây phương với nguồn gốc Hy
Lạp, La Mã. Lý do thứ hai là, vì sự tồn tại của xã hội Gia Tô giáo
Tây phương, giáo hội La Mã, trong một thời kỳ vô cùng hỗn độn đã bắt
buộc áp dụng một chủ trương đóng khung tư tưởng đến cực độ. Vì đó
mà, nếu giáo hội với tư cách là người thụ thác của văn minh Hy Lạp
La Mã khi xưa đã cứu vớt được tập quán ngăn nắp và minh bạch trong
đời sống, đã không bảo vệ được, đặc tính chính xác về lý trí của văn
minh Hy Lạp và La Mã.
Sau đó, nhờ tình hình tương đối ổn
định, sự nối lại với nguồn gốc văn minh Hy Lạp La Mã đã thực hiện
được và xã hội Tây phương bước vào thời kỳ thường gọi là Phục Hưng,
phục hưng tinh thần văn minh Hy Lạp và La Mã, đồng thời cởi bỏ được
sự đóng khung tư tưởng của giáo hội. Và từ đó lần lần với sự củng cố
chính trị của các quốc gia trong xã hội Tây phương, khoa học mới
phát minh và nảy nở.
Sở dĩ các sự kiện lịch sử trên đây được
nhắc lại là để chứng minh rằng bí quyết đã giúp cho người Tây phương
sáng tạo được khoa học và kỹ thuật là ba đức tính ngăn nắp, minh
bạch trong tổ chức và chính xác về lý trí. Họ đã dùng những đức tính
ấy như những khí cụ giải phẫu sắc bén để tìm hiểu vũ trụ và tạo hóa.
Nếu không có những khí cụ thám cứu đó, sự tìm hiểu vũ trụ và tạo hóa
không thực hiện được. Và nếu sự tìm hiểu vũ trụ và tạo hóa không
thực hiện được thì khoa học không phát minh và nảy nở được. Tưởng
nên nhắc lại một lần nữa rằng người Tây phương không phải chỉ ngăn
nắp, minh bạch trong tổ chức và chính xác về lý trí riêng trong lĩnh
vực khoa học mà thôi. Họ đã ngăn nắp, minh bạch tổ chức và chính xác
về lý trí trong câu văn, lời nói, hành động và đời sống hàng ngày.
Trải qua nhiều thế kỷ các đức tính ấy đã được hun đúc thành tinh
thần kỹ thuật Tây phương.
Trở lại việc tìm hiểu vũ trụ và tạo
hóa trên kia, chúng ta nên thêm rằng một khi đã có trong tay những
khí cụ thám cứu, việc tìm hiểu vũ trụ chưa chắc đã có kết quả được,
nếu chúng ta có một quan niệm chấp nhận vũ trụ như Thượng Đế đã ban
cho, và vì vậy, không cần tìm hiểu thêm nữa. Nhưng đây là một điểm
đã lọt sang lĩnh vực tôn giáo và công cuộc Tây phương hóa dưới đây.
Sự kiện đã như vậy thì, nếu chúng ta muốn chế ngự khả năng sáng
tạo khoa học chúng ta cần tạo cho dân tộc các đức tính nói trên kia.
Nói rõ hơn nữa đồng thời với vấn đề hấp thụ khoa học và kỹ thuật
đương nhiên phải có, chúng ta phải gieo sâu vào trí não của mọi
người tập quán ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức, và chính xác về lý
trí. Chính đó mới là căn bản của một cuộc Tây phương hóa chính danh
có đường hướng và có mục đích. Vấn đề đã đặt ra như vậy, chúng ta
mới ý thức rõ rệt tính cách vĩ đại của công cuộc Tây phương hóa mà
chúng ta cần phải thực hiện. Không phải Tây phương hóa một nhóm
người, mà Tây phương hóa toàn thể dân tộc. Không phải Tây phương hóa
trên mặt, chỉ bắt chước lối sống của người Tây phương mà phải Tây
phương hóa cho đạt đến cái tinh túy văn minh Tây phương. Công cuộc
đã vĩ đại như vậy, thì, tuy chúng ta chưa bàn đến chi tiết thực
hành, nhưng chúng ta cũng quan niệm được, ngay bây giờ, tính cách
lớn lao của các phương tiện cần phải vận dụng, cũng như tính cách
nặng nề của những hy sinh đòi hỏi và tính cách liên tục và trường kỳ
của những nỗ lực phi thường cần thiết.
Chúng ta phải ngăn
nắp, minh bạch trong tổ chức và chính xác về lý trí, không phải
riêng cho lĩnh vực nào, mà trong tất cả các lĩnh vực của đời sống,
không phải riêng cho một trình độ trí thức nào, mà cho tất cả các
trình độ trí thức.
Nghĩa là ngăn nắp, minh bạch trong tổ
chức và chính xác về lý trí phải chi phối tất cả hoạt động của chúng
ta, trong gia đình cũng như ngoài gia đình, từ phạm vì sinh hoạt
thông thường đến những phát triển cao nhất của lý trí. Do đó, vai
trò của mỗi người đều quan trọng, và do đó, vai trò của các người
đàn bà trong gia đình vô cùng mật thiết với sự phát triển dân tộc.
Xem như thế, chúng ta lại còn phân biệt rõ rệt đặc tính của hai
cuộc Tây phương hóa. Cuộc Tây phương hóa bắt buộc, không đường
hướng, không mục đích, dưới thời Pháp thuộc, chỉ là một cuộc Tây
phương nông cạn, của một mớ người. Thậm chí, đến các người phụ nữ
cũng bị gạt ra khỏi việc theo mới: trong khi các ông mặc âu phục, ăn
theo Tây và nói tiếng Tây, thì các bà vẫn phải vận ta, ăn theo ta,
nói tiếng ta, để mà bảo vệ phong tục Việt Nam.
Trái lại, công
cuộc Tây phương hóa tự ý, có lãnh đạo, có mục đích, như chúng ta
quan niệm ngày nay, là một cuộc Tây phương hóa toàn diện cho mọi
người và đến mức độ đủ cao để cho mục đích của công cuộc Tây phương
hóa đạt được.
Cố nhiên một công cuộc đại qui mô như vậy đòi
hỏi ở toàn dân, những nỗ lực phi thường một cách liên tục và trường
kỳ, những hy sinh lớn lao và nặng nề. Nhưng thực hiện công cuộc phát
triển dân tộc to tát đến tầm mức ấy, là một hành động có mãnh lực
hấp dẫn đến tột bậc, tất cả các phần tử của dân tộc.
Một công
cuộc phát triển dân tộc vĩ đại đến tầm mức ấy, hùng mạnh như nước
hải triều đang lên, hấp dẫn và lôi cuốn mọi người, vì đó là lẽ sống
của dân tộc.
Công cuộc Tây phương hóa tự ý
Một công cuộc Tây phương hóa tự ý, có đường hướng và có mục
đích, phải toàn diện và đến mức độ đủ cao. Sự Tây phương hóa phải ăn
sâu và lan rộng đến toàn dân. Ngược lại một công cuộc Tây phương hóa
bắt buộc như thời Pháp thuộc, không có lãnh đạo, không có mục đích,
hỗn độn và nông cạn, chỉ giới hạn trong một nhóm người thường tiếp
xúc với người Pháp. Công cuộc Tây phương hóa thời Pháp thuộc, là một
công cuộc tự nó phát sinh như cỏ dại, đụng đâu mọc đấy, không ai
chăm nom và cũng không ai thiết đến.
Công cuộc Tây phương hóa
chúng ta chủ trương là một công cuộc do chúng ta tạo ra như trồng
một cây quí, lúc nào cũng phải săn sóc, vun phân, tưới nước.
Vì các lý do trên, cho nên các nỗ lực Tây phương hóa của chúng ta
phải đặt trọng tâm vào đại chúng. Mà ở xứ ta đa số quần chúng là ở
nông thôn. Và lý luận đã dần dần dẫn dắt chúng ta đến một kết luận
tối quan trọng cho hành động của chúng ta sau này: Công tác Tây
phương hóa của chúng ta phải dồn nỗ lực về nông thôn, nơi tập trung
đa số nhân lực và tài sản của quốc gia. Nếu chúng ta không làm như
vậy thì chúng ta sẽ rơi vào cái sai lầm của các nhà lãnh đạo các
quốc gia ở Cận Đông mà chúng ta đã thấy trên kia: đương nhiên công
cuộc Tây phương hóa của chúng ta sẽ giới hạn trong một nhóm nhỏ.
Công cuộc Tây phương hóa, sẽ thất bại và lần lần đại chúng sẽ tách
rời với nhóm lãnh đạo, và tình trạng đó sẽ tạo hoàn cảnh thuận tiện
cho một cuộc cách mạng tiêu diệt nhóm người Tây phương hóa một cách
riêng biệt.
Sở dĩ chúng ta chủ trương một công cuộc Tây
phương hóa đến mức độ đủ cao, mục đích là để chế ngự được khả năng
sáng tạo khoa học và kỹ thuật. Khoa học và kỹ thuật của Tây phương
mà chúng ta đã hấp thụ là những phương tiện. Những đức tính ngăn nắp
và minh bạch trong tổ chức, chính xác về lý trí, sẽ cho chúng ta khả
năng chẳng những để sử dụng, mà còn cải tạo những phương tiện trên.
Như vậy khi nào chúng ta đạt đến mức độ đủ cao trong công cuộc Tây
phương hóa, là chúng ta đã đạt lên đến lĩnh vực sáng tạo, và chúng
ta đã thấy rằng đến mức đó, thì công cuộc Tây phương hóa không làm
cho mất bản chất dân tộc.
Vả lại, ví dụ mà bản chất dân tộc
có phải mất vì lẽ chúng ta tự tạo cho chúng ta được những đức tính
ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức, và chính xác về lý trí, thì có lẽ
bản chất dân tộc gồm những đặc tính ngược lại với những đức tính
trên. Nếu như thế thì, dù có phải mất bản chất dân tộc, để mà thâu
phục được những đức tính trên, thì cũng đáng mất.
Trong khi
tìm những lý lẽ để trả lời câu hỏi nêu lên ở đầu chương này chúng ta
đã đương nhiên đề cập đến và giải thích như thế nào là một công cuộc
Tây phương hóa toàn diện và đến mức độ đủ cao.
Tôn
giáo và công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa
Mục đích của công cuộc Tây phương hóa là để phát triển dân tộc,
và chúng ta cũng thấy rằng, nếu tôn giáo không quan trọng đối với
công cuộc Tây phương hóa, thì trái lại tôn giáo lại là một yếu tố vô
cùng quan trọng đối với công cuộc phát triển dân tộc. Tính cách
thiết yếu của công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa
không cần phải chứng minh nữa. Trên căn bản đó, dưới đây chúng ta
trở lại ảnh hưởng của tôn giáo đối với công cuộc phát triển dân tộc.
Tất cả các giáo lý đều xây dựng trên một toàn bộ khái niệm về vũ
trụ, trong đó đời sống của nhân loại ở thế gian này và ở thế giới
bên kia là phần quan trọng nhất. Đi vào chi tiết hơn, các khái niệm
sẽ liên quan đến các dây liên hệ giữa người và vũ trụ, và đến tính
cách huyền bí của sự con người xuất ra từ vũ trụ. Hồi giáo và Gia Tô
giáo, chú trọng về phần sau của mệnh đề trên đây, nên cả hai giải
thích về số mệnh của con người sau khi rời cõi trần. Phật giáo, Lão
giáo lại chú trọng về phần trước của mệnh đề, dẫn dạy rất nhiều về
tiền kiếp. Ấn Độ giáo chú trọng về cả hai phần của mệnh đề, và xây
dựng thuyết linh hồn vũ trụ. Khổng giáo không phải là một tôn giáo.
Chúng ta lại có thể chia các giáo lý ra làm hai loại
theo tiêu chuẩn dưới đây:
- Loại thứ nhất là các
giáo lý công nhận đời sống ở thế gian này là sự thật và tìm cách
giải quyết các vấn đề của nhân loại ngay trong cõi đời này.
-
Loại thứ hai là các giáo lý phủ nhận đời sống ở thế gian này, không
tìm cách giải quyết các vấn đề của nhận loại trong đời sống ở thế
gian này và chỉ chú trọng đến đời sống ở thế giới bên kia.
Gia Tô giáo và Hồi giáo thuộc loại thứ nhất. Phật giáo, Lão giáo và
Ấn Độ giáo thuộc loại thứ hai.
Ở đây không phải chỗ đê luận
về tôn giáo nhưng để tìm hiểu ảnh hưởng tôn giáo đến công cuộc phát
triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa.
Công nhận đòi
sống và phủ nhận đời sống
Đời sống trên thể gian
này, dù chúng ta có công nhận hay phủ nhận, thì tự nó đã có. Đó là
sự hiển nhiên. Và đối với chủ trương phủ nhận đời sống, thì chính là
vì có đời sống, nên mới có người trụ vào đó mà phủ nhận đời sống.
Như vậy thì, các giáo lý phủ nhận đời sống, đương nhiên đã ôm trong
lòng, ngay từ lúc đầu, một mâu thuẫn không bao giờ gỡ được. Các giáo
lý công nhận đời sống, không có cái mâu thuẫn đó.
Mâu
thuẫn đó ảnh hưởng thực tế như thế nào?
Các giáo lý
phủ nhận đời sống, đương nhiên, giảng dạy các tín đồ không chú trọng
về đời sống hiện tại, và chỉ tìm cách giải quyết các vấn đề vật chất
trong thế gian này, vừa đủ để nuôi sống, chờ đợi ngày sang thế giới
bên kia. Nhưng, mâu thuẫn nội bộ đã bộc lộ ra trong các giáo điều
ấy, vì như thế, thì các tín đồ sẽ sống mà không sống, hay sẽ không
sống mà sống.
Các giáo lý công nhận đời sống, mặc dù không
phủ nhận đời sống bên kia thế giới, vẫn giảng dạy các tín đồ tìm
cách giải quyết ngay các vấn đề vật chất ở thế gian này, và, sống
cho đúng mức và sống cho đáng sống.
Do đó, các tín đồ của các
giáo lý phủ nhận đời sống, sẽ có xu hướng trốn tránh cuộc đời, từ
chối cuộc chiến đấu để sống, và không sẵn sàng đương đầu với các khó
khăn khổ não của cuộc đời. Nghĩa là sẽ không muốn và cũng không dám
sống mạnh.
Ngược lại, các tín đồ của các giáo lý công nhận
đời sống sẽ có xu hướng tìm sống, công nhận cuộc chiến đấu để sống,
và sẵn sàng đương đầu với các sự khó khăn và khổ não của cuộc đời.
Nghĩa là sẽ muốn sống mạnh và dám sống mạnh.
Tôn giáo
và phát triển dân tộc
Và tôn giáo sẽ ảnh hưởng quan
trọng đến công cuộc phát triển dân tộc ở chỗ này. Một công cuộc phát
triển dân tộc bằng cách lấy Tây phương hóa là một công trình vĩ đại,
và, như chúng ta sẽ thấy, sẽ đòi hỏi ở toàn dân nhiều nỗ lực phi
thường, nhiều hy sinh lớn lao, và như vậy một cách liên tục và
trường kỳ. Như vậy, mặc dầu một công cuộc phát triển vĩ đại sẽ hấp
dẫn đến tột độ, đời sống đã là một cuộc chiến đấu tự nó đã gian lao,
đặt vào khuôn khổ một công cuộc phát triển dân tộc, đời sống sẽ gian
lao hơn bội phần. Trừ một vài hoàn cảnh rất đỗi thuận lợi và hiếm
có, mà chúng ta sẽ xét ở một đoạn sau, chúng ta có thể quả quyết
rằng ít hay nhiều, công cuộc phát triển của dân tộc sẽ diễn ra trong
không khí khổ hạnh cho mọi người. Các trường hợp của Nga Sô và của
Nhật là những ví dụ rất hùng biện. Nếu may ra, hoàn cảnh của chúng
ta tương tự như hoàn cảnh của Nhật, thì không khí khắc khổ sẽ giảm
đi, nhưng dầu thế nào, vẫn có.
Trong những điều kiện như vậy,
cố nhiên là tín đồ của các giáo lý, thuộc loại thứ nhất, sẵn sàng
tham gia một công cuộc phát triển dân tộc, như chúng ta đã tả trên
đây, hơn là tín đồ của các giáo lý thuộc loại thứ hai. Bởi vì những
người trước để tâm đến đời sống hiện tại hơn, trong khi những người
sau này, dù không phải nhận được đời sống hiện tại, vẫn không tích
cực tìm cách giải quyết các vấn đề, liên quan đến đời sống ở thế
gian này. Lúc gặp gian khổ, xu hướng tự nhiên của những người này là
tránh phấn đấu, tìm cách yên phận cho qua cuộc đời tạm bợ. Trái lại,
trong hoàn cảnh đó, xu hướng tự nhiên của những người trước là cố
sức phấn đấu để tìm cách giải quyết các vấn đề ngay trong đời sống
hiện tại.
Những công cuộc phát triển dân tộc đã thành công có
chứng minh lý luận trên đây không? Nhật Bản đã thành công trong công
việc phát triển dân tộc, trong khi đó tôn giáo, của đa số quần chúng
ở Nhật, là một môn phái của đạo Phật gọi là đạo Thiền. Như vậy
trường hợp của nước Nhật mới xem qua, không xác nhận lý luận trên.
Thật ra thì, mặc dù đạo Thiền là một môn phái của đạo Phật, nhưng
sau khi sang đất Nhật rồi, đụng với dân tộc tính của Nhật, giáo lý
nhà Phật đã thay đổi một cách sâu xa đến nỗi, thuyết bất bạo động
của Phật đã biến thành tín ngưỡng của những nhà quí phái say máu của
Nhật gọi là Samourai. Và giáo lý phủ nhận đời sống của Phật đã biến
thành giáo lý công nhận đời sống của đạo Thiền. Hơn nữa các nhà lãnh
đạo Nhật Bản thời Minh Trị, chủ trương và hướng dẫn công cuộc Tây
phương hóa nước Nhật đã đưa Thần đạo lên hàng Quốc đạo. Căn bản của
giáo lý Thần đạo là tôn sùng tạo hóa dưới tất cả hình thức nghĩa là
công nhận đời sống hiện tại, một cách hùng biện.
Trường hợp
thứ nhì của một công cuộc Tây phương hóa thành công là Nga Sô. Như
chúng ta đã biết nước Nga theo Gia Tô giáo Đông phái. Gia Tô Đông
phái ở Hy Lạp và Tây phái ở La Mã, đã phân ly với nhau, không phải
vì những nguyên nhân về giáo lý mà vì những điều thuộc về nghi lễ và
sử dụng tượng Thánh. Nghĩa là dân chúng Nga vẫn có tâm lý của những
người tín đồ của một tôn giáo công nhận đời sống hiện tại. Tuy
nhiên, trong trường hợp của Nga, yếu tố tôn giáo lại có một ảnh
hưởng, không phải tích cực mà lại tiêu cực bởi vì phương pháp áp
dụng bởi các nhà lãnh đạo Cộng sản là một phương pháp cưỡng bách đến
tột độ. Do đó mức độ tham gia, đòi hỏi ở dân chúng vượt xa khỏi mức
độ sẵn sàng tham gia của tín đồ một tôn giáo công nhận đời sống.
Trường hợp thứ ba là công cuộc Tây hương hóa có kết quả nửa
chừng của Thổ Nhĩ Kỳ. Nguyên do của sự kết quả nửa chừng này ở chỗ
các nhà lãnh đạo Thổ Nhĩ Kỳ không quan niệm đúng mức sự cần thiết
phải làm cho công cuộc Tây phương hóa ăn sâu và lan rộng vào quần
chúng, hơn là ở chỗ tham gia thiếu hăng hái của quần chúng, vì một
lý do tôn giáo. Đáng lý ra, các tín đồ Hồi Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ, theo
đúng nhận xét trên đây, có thể đóng góp một sự tham gia tích cực vào
công cuộc phát triển dân tộc Thổ, nhưng cơ hội không đến với họ chỉ
vì các nhà lãnh đạo không nghĩ rằng sự tham gia của họ là thiết yếu.
Ngay đối với các dân tộc đang nỗ lực tìm phát triển, ảnh hưởng
tôn giáo đến công cuộc phát triển cũng có thê nhận thức được.
Công cuộc phát triển của dân tộc Ấn Độ chậm hơn công cuộc phát
triển của dân tộc Trung Hoa không phải chỉ vì Trung Hoa áp dụng biện
pháp cưỡng bách của khối Cộng sản, trong khi Ấn Độ áp dụng biện pháp
thuyết phục của khối Tự Do.
Cho đến ngày Cộng sản lên cầm
quyền ở Trung Hoa, phản ứng tự nhiên của mỗi người Tàu, trước mọi
vấn đề liên quan với đời sống, đều ăn khớp với luân lý Khổng Mạnh.
Và đã là luân lý thì đương nhiên công nhận đời sống hiện tại và
lý do sinh tồn của luân lý chính là để giải quyết các vấn đề của đời
sống ngay trong cõi thế gian này. Đa số dân chúng Ấn Độ theo Ấn Độ
giáo mà bản chất là phủ nhận đời sống hiện tại. Vì thế cho nên chúng
ta không nên lấy làm lạ mà nhận xét ở dân chúng Ấn Độ một sự tham
gia kém hăng hái vào công cuộc phát triển của dân tộc hơn là dân
chúng ở Trung Hoa. Giả sử mà hai khối dân chúng Ấn Độ và Trung Hoa
có ở vào ngoại cảnh chính trị giống nhau đi nữa, thì chắc chắn là
vẫn sẽ có sự khác nhau về thái độ nói trên trước công cuộc phát
triển.
Nói rộng ra hơn nữa, chúng ta có thể nhìn vào bản đồ
các tôn giáo trên thế giới đính kèm theo quyển sách này mà tiên đoán
dân tộc nào sẽ góp một phần tích cực vào công cuộc phát triển và dân
tộc nào sẽ tham gia một cách khó khăn hơn khi, vì lẽ sống còn, các
nhà lãnh đạo bắt buộc thực hiện công cuộc phát triển dân tộc.
Trên đây, chúng ta đề cập đến ảnh hưởng của tôn giáo đến công
cuộc phát triển dân tộc, chỉ vì mỗi tôn giáo, đương nhiên, rèn đúc
cho tín đồ một tâm lý xã hội ăn nhịp với các khái niệm về vũ trụ và
về đời sống của tôn giáo đó. Các khái niệm về đời sống đó đã ăn sâu
vào tiềm thức của mỗi người trước những sự kiện của đời sống, đều
thích hợp với các khái niệm trừu tượng ấy.
Ảnh hưởng mà chúng
ta muốn nói trên kia đối với công cuộc phát triển dân tộc chính là
ảnh hưởng vô hình đó. Và chúng ta đã cố ý để ra ngoài và không đề
cập đến một thứ ảnh hưởng chính trị thiết thực của tôn giáo, khi một
giáo phái nào tự xem mình là một lực lượng quần chúng có thể dùng
làm một hậu thuẫn chính trị. Hay là khi một giáo phái nào, đã bị nhà
đương quyền của một quốc gia liệt vào hàng một nơi ẩn trú của những
người chống đối lại với chủ trương chính trị của họ. Trường hợp sau
này là trường hợp của các quốc gia có một chính thể độc tài như
chính thể Cộng sản.
Hai trường hợp trên đều là hai trường hợp
bất thường của một giáo phái đã tự ý hay bắt buộc đưa mình xuống một
hình thức thấp hơn hình thức tôn giáo một bậc. Và như thế sớm hay
muộn tôn giáo sẽ trải qua một cơn khủng hoảng vô cùng mãnh liệt.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Phần II
7.
VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM
TRONG KHUNG
CẢNH THẾ GIỚI
(PHÁT TRIỂN
DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Nước
Việt Nam, theo truyền thống văn hóa, nằm trong xã hội Trung Hoa và
chịu ảnh hưởng văn hóa của
Tàu.
Về phương diện tôn giáo, Phật giáo và Lão giáo đã ăn sâu vào đại
chúng. Nhưng, cũng như ở Trung Hoa, sự phủ nhận đời sống hiện tại
của hai giáo lý này đã được luân lý xã hội của Khổng Mạnh quân bình.
Nhờ đó mà có thể nói rằng quần chúng Việt Nam sẵn sàng tham gia một
công cuộc phát triển dân tộc. Nếu có trở lực, thì chắc chắn trở lực
không phải ở chỗ tiềm thức của dân tộc quá thiên về các giáo lý phủ
nhận đời sống, nhưng mà ở chỗ xã hội chúng ta bị tan rã, nên các tín
hiệu tập hợp không còn, dù là các tín hiệu tập hợp lấy trong giáo
điều của luân lý Khổng Mạnh.
Sau thời kỳ Pháp thuộc, và sau
một công cuộc Tây phương hóa không có lãnh đạo, một thiểu số đáng kể
đã theo Thiên Chúa giáo. Theo sự kiện phân tích trên đây thiểu số
tín đồ Thiên Chúa giáo, sẽ đóng góp một sự tham gia tích cực vào
công cuộc phát triển dân tộc. Bởi vì, trước hết, ảnh hưởng quân bình
của luân lý Khổng Mạnh đã chế bớt rất nhiều xu hướng trốn tránh cuộc
đời của những tín đồ Phật giáo. Lẽ thứ hai là ngay trong Phật giáo
cũng có hai thái độ. Thái độ xuất thế, để tìm sự cứu rỗi cho bản
thân, không phải trong đời sống này mà cho đời sống bên kia thế
giới. Thái độ nhập thế, để tìm cách cứu độ chúng sanh ngay trong cõi
đời này. Tuy nhiên suy nghiệm theo lời nguyện của các vị Bồ Tát,
hiện thân của thái độ nhập thế, thì mục đích của sự nhập thế này,
không phải làm để giúp cho chúng sanh giải quyết các vẩn đề vật chất
ngay trong đời sống này, nhưng mà để độ chúng sanh khỏi kiếp luân
hồi, nghĩa là để thoát khỏi cuộc đời này. Như thế thì ngay trong
thái độ nhập thế đã hàm một hậu ý xuất thế. Sự kiện này làm bộc lộ
một cách rõ rệt mâu thuẫn nội tâm, về đời sống, mà chúng ta đã nói ở
một đoạn trên. Nhưng dù sao thái độ nhập thế đã là một thái độ công
nhận đời sống hơn là thái độ xuất thế. Và do đó, trong công cuộc
phát triển dân tộc, thái độ nhập thế của các vị Bồ Tát sẽ thích hợp
với nhu cầu quốc gia hơn. Nhưng sự kém sống mạnh, có thể dẫn dắt đến
một sự tham gia thiếu tích cực vào công cuộc phát triển dân tộc, của
các tín đồ Phật giáo, vẫn nằm ở mâu thuẫn nguyên lai, phủ nhận đời
sống hiện tại, của giáo lý nhà Phật.
Hai cơ hội phát
triển
Trong các giai đoạn trên chúng ta nhiều lần
nói đến hai cơ hội phát triển cho các quốc gia thuộc xã hội Đông Á.
Dưới đây chúng ta sẽ tìm xem:
* Như thế nào là
một cơ hội phát triển.
* Và hoàn cảnh nào tạo ra cơ hội phát
triển.
Xét lại lịch sử các cuộc phát triển dân tộc
bằng cách Tây phương hóa đã thành công như trường hợp của Nhật, của
Nga, đã phân nửa thành công như của Thổ Nhĩ Kỳ, sở dĩ các công cuộc
đó thực hiện được là vì có một sự đồng thời hiếm có của hai loại sự
kiện. Loi thứ nhất, liên hệ đến tình trạng nội bộ của mỗi quốc gia,
có thể gọi là sự kiện chủ quan.
Loại thứ hai, liên hệ đến
hoàn cảnh bên ngoài, do tình trạng chính trị của thế giới lúc bấy
giờ tạo ra, và có thể gọi là sự kiện khách quan.
Trong số các
sự kiện chủ quan, các đoạn trên đây đã cho chúng ta thấy rằng có hai
sự kiện quan hệ nhất. Trước hết là sự có mặt, trong những giờ phút
nghiêm trọng, và tại các giềng mối của bộ máy quốc gia, của những
lãnh đạo, đủ sáng suốt, để nhận thức sự cần thiết của công cuộc Tây
phương hóa để phát triển dân tộc. Điều thứ hai là dân chúng có một
tâm trạng sẵn sàng hưởng ứng công cuộc Tây phương hóa do người lãnh
đạo đề xướng.
Các điều kiện khách quan lại thuộc về một loại
cụ thể hơn. Như chúng ta đã thấy trên đây, công cuộc Tây phương hóa
đòi hỏi rất nhiều kỹ thuật, vì, chính trọng tâm của công cuộc Tây
phương hóa là hấp thụ những kỹ thuật và khoa học Tây phương. Nhưng
ngoài kỹ thuật ra, công cuộc Tây phương hóa còn đòi hỏi rất nhiều
vốn để xây dựng các kỹ nghệ căn bản làm cơ sở phát triển cho các kỹ
nghệ sản xuất, rất nhiều vốn để trang bị các cơ sở chính trị, quân
sự, văn hóa và xã hội, trong khi các lợi tức của quốc gia chưa thỏa
mãn được nhu cầu của dân tộc.
Kỹ thuật phải hoàn toàn ở ngoài
đưa vào, đại đa số vốn phải ở ngoài đưa vào. Điều kiện khách quan
được thỏa mãn, khi nào tình hình chính trị thế giới tạo một hoàn
cảnh thuận tiện để cho kỹ thuật và vốn được đưa vào để giúp cho công
cuộc Tây phương hóa.
Như vậy thì, cơ hội đối với các nước
đang tìm phát triển, như chúng ta ngày nay, là khi nào hoàn cảnh bên
ngoài, thuận tiện đế cho kỹ thuật và vốn được đưa vào. Nắm được cơ
hội hay không là do hai điều kiện nội bộ, như trên vừa kể ra.
Cơ hội thứ nhất
Vào khoảng các năm 30
của thế kỷ 19, sự phát triển và bành trướng của cường quốc Âu châu
đã lên đến một mức độ tối cao. Trong nội bộ, những phát minh mới về
khoa học và kỹ thuật đã tạo cho các quốc gia trong xã hội Tây phương
một sự tự tin dũng mãnh. Tín ngưỡng Gia Tô giáo đã hướng dẫn công
cuộc chinh phục thế giới của văn minh Tây phương trong năm thế kỷ
vừa qua. Sau đó, nhiều phát minh của khoa học lại tạo cho xã hội Tây
phương một sinh lực mới, có phần dồi dào hơn sinh lực cũ do tín
ngưỡng đã hun đúc trong nhiều thế kỷ. Trên phương diện thực tế,
những thực hiện kỹ nghệ và kỹ thuật đã đặt trong tay các cường quốc
Tây phương những khí giới chiến đấu có một sức mạnh chưa bao giờ
thấy.
Dưới sự thúc đẩy của các sự kiện trên, và, sau khi củng
cố địa vị ở đại lục Ấn Độ và các quần đảo Nam Dương và Phi Luật Tân,
bao vây các quốc gia thuộc xã hội Đông Á, các cường quốc Tây phương
bắt đầu tấn công ngay vào các quốc gia này. Năm 1842 người Anh gây
chiến tranh Nha Phiến ở Trung Hoa và mở màn cho một cuộc tổng tấn
công vào xã hội Đông Á. Sự dùng võ lực để mở hải cảng Uraga của Nhật
năm 1853 của Đại tá Hải quân Mỹ Perry và cuộc pháo kích Đà Nẵng năm
1856 của chiến thuyền Catinat của Pháp đều là những sự kiện đồng
thời và do một nguyên nhân sanh ra.
Đứng trước mối nguy cơ
chung, các quốc gia, thuộc xã hội Đông Á, có những phản ứng tự vệ
khác nhau, như chúng ta đã biết. Nguy cơ tuy lớn lao thật, nhưng,
đồng thời, lại là một cơ hội để Tây phương hóa, phát triển dân tộc.
Bởi vì, sự bành trướng mạnh mẽ của hai Đế quốc Anh và Pháp, vừa là
một nguồn mâu thuẫn giữa, một bên, hai đế quốc lớn, một bên, các
quốc gia khác ở Tây phương. Thêm vào đó, nước Mỹ, vừa chấn chỉnh
xong nội bộ quốc gia, cũng bắt đầu gấm ghé thực hiện ý định có mặt ở
Thái Bình Dương.
Mâu thuẫn tạo cơ hội
Tất cả các mâu thuẫn chằng chịt đó là cơ hội cho các quốc gia bị
tấn công, để Tây phương hóa, phát triển dân tộc và bảo vệ chủ quyền
của mình. Những mâu thuẫn trên đã tạo ra một hoàn cảnh chính trị thế
giới, làm cho công cuộc xâm lăng, chiếm đóng thật sự trở thành một
việc vô cùng khó khăn, và vạn bất đắc dĩ. Nếu bây giờ, sự lãnh đạo
quốc gia được phần nào sáng suốt và hàng ngũ xã hội được bền chặt,
thì, đương nhiên các mâu thuẫn trên đã trở thành những đồng minh,
giúp cho các nước bị tấn công, bảo tồn sự độc lập của mình. Hơn thế
nữa, các mâu thuẫn trên, nghĩa là sự tranh giành ảnh hưởng giữa các
đê quốc, sẽ mang lại kỹ thuật và vốn tư bản, để cho các nước bị tấn
công thực hiện công cuộc phát triển dân tộc của mình.
Cơ hội
đã như vậy đó, nhưng, trong các quốc gia bị tấn công, chỉ có Nhật
Bản là có đủ điều kiện chủ quan để nắm cơ hội do các điều kiện khách
quan đưa đến. Sự thành công của các nhà lãnh đạo Nhật Bản như thế
nào, tất cả chúng ta đều biết.
Điều kiện chủ quan của quốc
gia Trung Hoa, lúc bấy giờ, không có, bởi vì, người cầm quyền lại
thuộc một dân tộc ngoại lai, mà người Trung Hoa oán ghét. Chẳng
những thế, với thời gian, lịch sử còn chứng minh sự thiếu sáng suốt
của các nhà lãnh đạo Mãn Thanh lúc bấy giờ. Tuy nhiên, những mâu
thuẫn nội bộ giữa các cường quốc Tây phương cũng đã, đương nhiên,
bảo vệ độc lập, ít ra, trên danh từ, cho Trung Hoa và tránh cho quốc
gia này một sự thống trị trực tiếp như Việt Nam. Nhưng Trung Hoa
cũng đã bỏ lỡ cơ hội thứ nhất để phát triển.
Hoàn
cảnh nội bộ của Việt Nam lại càng bi đát hơn nữa.
Sau một cuộc nội chiến, tàn khốc và tiêu hao, kéo dài từ năm 1620
đến năm 1802, nhà Nguyễn vừa thống nhất quốc gia được bốn mươi năm,
thì họa xâm lăng Tây phương lại ồ ạt kéo đến. Những điều kiện chủ
quan, như trên đã trình bày, quốc gia Việt Nam hoàn toàn không có.
Nhân tâm còn ly tán, chính trị của nhà Nguyễn không thâu phục được
lòng dân, nội loạn không lúc nào dứt. Các nhà lãnh đạo của chúng ta,
lại không kịp thời nhận thức vấn đề của dân tộc, trong một giai đoạn
quyết liệt. Các tài liệu lịch sử về sự lãnh đạo quốc gia, trong thời
kỳ này còn giữ lại, không thấy đề cập đến vấn đề Tây phương hóa.
Nhiều nhân vật có để lại những bản sớ, nói về tính cách cần thiết
của sự thu thập kỹ thuật Tây phương, nhưng không thấy đề cập đến một
công cuộc Tây phương hóa, như người Nhật quan niệm lúc bấy giờ.
Chính những chương trình do ông Nguyễn Trường Tộ đề nghị mặc dù có
những kiến thức rất tiến bộ và sáng suốt, cũng vẫn là một chủ trương
cải cách nhút nhát. Nếu có mang ra mà thi hành, thì có lẽ, cũng chỉ
dẫn dắt đến một cuộc Tây phương hóa thất bại mà thôi, vì điều kiện
chủ quan hoàn toàn không rõ rệt và rất sơ sài.
Hơn nữa, các
tài liệu lịch sử, trong giai đoạn quyết liệt này, không thấy có ý
thức gì về các mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương. Trong khi
đó, chính các mâu thuẫn này là lợi khí sắc bén nhất, trong cơ hội
đưa đến cho chúng ta. Vì thế cho nên, ví dầu mà chương trình của
Nguyễn Trường Tộ có đem ra thực hiện, thì tính cách ấu trĩ của thuật
ngoại giao của chúng ta, lúc bấy giờ, cũng không cho phép chúng ta
thực hiện được công cuộc phát triển dân tộc. Xem thế, chúng ta càng
nhận thấy kiến thức hẹp hòi của các nhà lãnh đạo lúc bấy giờ, và
quan niệm chưa trưởng thành của họ về việc lãnh đạo quốc gia.
Các sự kiện trên càng làm bộc lộ rõ rệt quan niệm, Việt Nam là
một thuộc quốc đối với Trung Hoa, của các nhà lãnh đạo lúc bấy giờ.
Sự thiếu sót về ngoại giao trên đây, do một quan niệm thấp và hẹp về
ý thức độc lập, là nguyên nhân chính làm cho chúng ta không lợi dụng
được các mâu thuẫn, giữa các cường quốc Tây phương, để bảo vệ độc
lập và chủ quyền cho dân tộc. Trong khi đó Thái Lan, lúc bấy giờ là
Xiêm, mặc dầu không thực hiện được cuộc phát triển dân tộc nhưng ít
ra, cũng cứu vãn được độc lập bằng cách khai thác các mâu thuẫn giữa
các cường quốc.
Cơ hội thứ nhất đã lỡ, hậu quả của sự lỡ cơ
hội tai hại như thế nào, dân tộc chúng ta đã ghi vào xương máu bài
học kinh nghiệm đắt giá đó. Nhưng, giá hết sức cao mà chúng ta đã
phải trả, để mua kinh nghiệm lỡ cơ hội lần thứ nhất, có đủ để làm
cho các nhà lãnh đạo, đương thời của chúng ta, nhận thức sự cần
thiết phải vận dụng hết nỗ lực để nắm cho được cơ hội thứ hai, đang
đến với chúng ta, để phát triển dân tộc không?
Cơ hội thứ
nhất đến ngay vào lúc những mâu thuẫn giữa các quốc gia Tây phương
đi vào một giai đoạn rất gây cấn.
Sự tranh giành ảnh hưởng
đã đến một trình độ hết sức căng thẳng giữa các đế quốc Anh, Pháp,
Đức và Nga. Các yếu tố quân bình, trong khung cảnh chính trị cổ
truyền của Âu châu, được mang áp dụng giữa các cường quốc đi chinh
phục. Hòa ước Bắc Kinh, ký kết năm 1861 giữa Trung Hoa và các cường
quốc chiến thắng, là một tài liệu thừa nhận sự phân chia nước Tàu
làm nhiều vùng ảnh hưởng giữa các đế quốc.
Nhưng, đồng thời
và trước hết, đó là một tài liệu chứng tỏ sự cạnh tranh quyết liệt
giữa các cường quốc Tây phương.
Tuy nhiên, với sự biến
chuyển của tình hình chính trị, các mâu thuẫn có thể tạm thời dẹp
một bên bằng những thỏa hiệp. Đối với các quốc gia bị Tây phương tấn
công, đó là lúc mà cơ hội mất. Riêng đối với Việt Nam thì cơ hội đã
mất, ngay khi chủ quyền đã mất.
Cơ hội thứ hai
Gần một thế kỷ sau, mâu thuẫn nội bộ giữa các cường quốc Tây
phương lại bộc phát lên một cách dữ dội và dẫn dắt đến hai cuộc thế
giới chiến tranh mà chúng ta đều biết.
Chiến tranh chưa chấm
dút, sự tranh chấp, giữa hai quốc gia đã chiến thắng trong trận thế
chiến thứ hai, nay lãnh đạo hai khối chính trị trên thế giới, đã tạo
ra cho các quốc gia, bị Tây phương xâm chiếm một cơ hội duy nhất để
tranh giành độc lập và phát triển dân tộc. Sự tranh chấp giữa Nga Sô
và khối Tây phương ngày nay, là hiện trạng của một cuộc tranh đấu
không ngừng đã diễn ra từ hơn bốn trăm năm nay. Lúc gay cấn đến xảy
ra chiến tranh, lúc ngấm ngầm, khi bên này thắng, bên kia thua, cuộc
tranh đấu không bao giờ ngừng vì những lý do mà chúng ta đã tìm hiểu
trong nhiều đoạn ở trên.
Sở dĩ mà ngày nay, cuộc tranh chấp
trở thành vĩ đại và bao trùm hết thế giới và mọi lĩnh vực của đời
sống, là vì, như chúng ta đã thấy trong cc chưng đầu của tập này,
lúc mở màn cho giai đoạn hiện tại, vị trí của hai bên như sau đây:
Tây phương, lúc bấy giờ, chiếm gần hết thế giới. Thuộc địa của
những đế quốc Tây phương nằm khắp năm đại lục.
Lực lượng quân
sự của Tây phương đóng giữ các vị trí chiến lược hiểm trở trên địa
cầu. Chiến thuyền của Tây phương tung hoành, rẽ sóng bốn biển. Lưới
kinh tế của Tây phương bủa vây thế giới.
Đối với một địch
thủ, nắm trong tay một lực lượng kinh khủng như vậy, nếu Nga Sô tiếp
tục chiến đấu theo quan niệm cổ truyền, và đóng khung nỗ lực của
mình trong giới hạn lãnh thổ Nga, thì chắc chắn đã nắm phần bại về
mình, ngay từ lúc chưa ra quân. Bởi vì, một chiến lược như thế có
nghĩa là Nga Sô sẽ bị Tây phương siết chết trong một vòng vây không
lối thoát. Các nhà lãnh đạo Nga Sô, ngay khi cách mạng tháng Mười ở
Mạc Tư Khoa chưa bùng nổ, đã đủ sáng suốt để nhận thức rằng, muốn
tiếp tục công cuộc chiến đấu của dân tộc một cách thắng lợi, điều
kiện tiên quyết, là phải đưa chiến lược lên một lãnh vực bao trùm
khắp thế giới, bởi vì địch thủ đã áp dụng một chiến lược bao quát
như vậy.
Ngày nay cuộc chiến đấu vĩ đại vượt lên cả không
gian, và lâm le thâu gồm vào vòng chiến lược các hành tinh của Thái
Dương hệ, cũng vì lẽ, không một địch thủ nào muốn để cho bên kia bao
vây mình.
Trở lại lúc đầu giai đoạn hiện tại của cuộc chiến
đấu giữa Nga Sô và Tây phương, sở dĩ Nga Sô, lúc bấy giờ, quan niệm
và thực hiện được một chiến lược mênh mông, như nói trên, là nhờ ở
những điều kiện dưới đây:
Mâu thuẫn nội bộ
Trước hết những mâu thuẫn nội bộ giữa các đế quốc Tây phương lúc
nào cũng có. Chính những mâu thuẫn này, trong những giai đoạn khủng
hoảng, đã gây ra hai cuộc thế giới chiến tranh vừa qua.
Thuyết Các-mác Lê-nin lúc nào cũng nhắc đến các mâu thuẫn này và xem
đó là đặc tính của xã hội tư bản. Và theo thuyết ấy, chính các mâu
thuẫn đó sẽ đưa xã hội tư bản đến chỗ chết. Nếu chúng ta đồng ý với
thuyết trên, về sự có mặt của các mâu thuẫn nội bộ nói đây trong xã
hội tư bản, thì, chúng ta lại nên thêm rằng, những mâu thuẫn nội bộ
tương tự sẽ có, không cứ gì trong xã hội tư bản, mà, bất cứ trong xã
hội nào gồm nhiều phần tử mà quyền lợi bất đồng. Ngày nay, chúng ta
đang mục kích nhiều mâu thuẫn nội bộ trong khối Cộng sản. Nhưng lý
do, phát sinh những mâu thuẫn này, cũng tương tự và đương nhiên, như
những lý do, phát sinh những mâu thuẫn, đang nói trên kia, trong xã
hội Tây phương. Tuy nhiên, sự kiện, các mâu thuẫn này, có phải hay
không phải là đặc tính của xã hội tư bản, không quan hệ.
Điều
quan hệ là sự có mặt của các mâu thuẫn ấy.
Nội tuyến
Điều kiện thứ hai là trong thời kỳ, cuối thế kỷ 18 sang đầu thế
kỷ 19, xã hội Tây phương trải qua một cuộc khủng hoảng vô cùng trầm
trọng, do chính các phát minh khoa học và kỹ nghệ gây ra. Các phát
minh khoa học và kỹ nghệ là những lực lượng sản xuất mới, đã được
đưa vào và áp dụng, một cách quá đột ngột, trong một xã hội chưa sẵn
sàng để đón nó, vì các cơ cấu vẫn còn giữ một lối tổ chức, theo nề
nếp cũ, của một xã hội thủ công nghiệp. Bất cứ xã hội nào, trong
hoàn cảnh đó, cũng bị một cuộc khủng hoảng như vậy.
Sự kiện
này đã mang đến sự ly khai giữa các quần chúng và các nhà lãnh đạo
trong xã hội Tây phương, vì những hậu quả mà chúng ta không cần biết
chi tiết ở đây, của các phát minh nói trên. Cuộc khủng hoảng trầm
trọng đến nỗi, tất cả tầng lớp xã hội đều bị ảnh hưởng của cuộc chấn
động. Và nhiều nhà triết học đã phải nghĩ đến một cuộc cải cách xã
hội toàn diện, để cho các cơ cấu ăn khớp với những lực lượng sản
xuất mới. Trong số đó, Engels, và Karl Marx là danh tiếng hơn cả.
Như vậy, chúng ta thấy rõ rằng, lý thuyết Các-Mác, trước tiên là một
phương thuốc do một số người Tây phương đề nghị, để chữa bệnh cho xã
hội Tây phương, trong một cơn khủng hoảng.
Vì lý do nào mà
thuyết ấy trở thành căn bản tư tưởng chiến đấu của Nga Sô, một quốc
gia đang dấn thân vào một cuộc chiến đấu sống chết với Tây phương?
Trước hết các nhà lãnh đạo Cộng sản nhận thức rằng tình trạng
của xã hội Tây phương, lúc bấy giờ, sẽ là tình trạng, có lẽ, dưới
một hình thức còn trầm trọng hơn, của xã hội họ, một khi, trong
khuôn khổ công cuộc Tây phương hóa mà họ đang chủ trương, họ sẽ đưa
vào xã hội Nga Sô các lực lượng sản xuất mới, vừa nói trên kia. Như
thế thì, thái độ hợp lý không phải là thâu nhận ngay, và trước cả
Tây phương, những tư tưởng và phương pháp xây dựng một xã hội thích
hợp với các lực lượng sản xuất mới do khoa học phát minh sao? Bởi
vì, như thế, thì Nga sẽ chắc chắn đi trước và thắng Tây phương.
Trên đây là một lý do xây dựng cho xã hội Nga Sô.
Nhưng
còn một lý do khác, thuộc lãnh vực chiến thuật, trong cuộc chiến đấu
với Tây phương. Lý do nào đã nặng hơn?
Điều đó khó mà biết
được. Chỉ biết rằng cả hai lý do đều có, nếu chúng ta nhận xét ở các
diễn biến, tiếp theo sau, của cuộc chiến đấu.
Đang lúc xã hội
Tây phương có sự rạn nứt giữa cấp lãnh đạo và quần chúng, tạo ra một
tình trạng thuận lợi để cho cách mạng bùng nổ, thì bất cứ người nào
chủ trương một lý thuyết, mang nhiều hứa hẹn tương lai cho đời sống
của quần chúng Tây phương, chắc chắn sẽ được quần chúng Tây phương
hưởng ứng. Nếu người chủ trương là Nga Sô thì, quần chúng Tây
phương, một khi đã hưởng ứng, sẽ biến thành một khối đồng minh vô
giá, của Nga Sô ở ngay trong lòng kẻ địch của họ. Thật là một mưu
tính thâm và cao.
Do hai lý do vừa kể trên, thuyết Cộng sản,
một sản phẩm của Tây phương, đã đương nhiên biến thành một lợi khí,
trong tay của Nga Sô, để đánh lại Tây phương trên hai mặt, trong và
ngoài.
Thuyết Cộng sản có thích nghi cho một xã hội kỹ nghệ
hóa hay không? Chúng ta khó trả lời câu hỏi này mà khỏi lọt vào một
cuộc luận chiến trường kỳ vô tận, cũng như mỗi khi chúng ta đặt cuộc
tranh luận vào lĩnh vực triết lý. Nhưng một điều mà chúng ta có thể
làm được, với những thực tế của lịch sử làm căn bản là xem xã hội
Tây phương đã vượt qua những giai đoạn nào, sau khi đã từ chối
thuyết Cộng sản.
Dầu sao, tính toán chiến thuật của các nhà
lãnh đạo Nga Sô, như trên đây đã trình bày, thật sự, đã mang đến cho
họ, những kết quả ngoài sự mong mỏi. Sau khi Nga Sô đã tuyên bố tự
nhận mình là thành trì của thuyết Các-mác, là quốc gia lãnh đạo cuộc
cách mạng xây dựng xã hội Cộng sản, tất cả các đảng Cộng sản, ở các
quốc gia Tây phương, đương nhiên, biến thành những đồng minh chiến
đấu của Nga Sô.
Hơn thế nữa, quần chúng Tây phương, đang
chống đối với các thiểu số lãnh đạo của mình, cũng hướng về Nga Sô
như hướng về một người giải phóng. Do đó, nước Nga, với những vũ khí
vật chất và trong thời kỳ cực thịnh của họ về kỹ thuật, chưa bao giờ
đã gây được trong xã hội Tây phương những chấn động kinh khủng, như
lúc bấy giờ, với một vũ khí tinh thần và trong một thời kỳ kém hẳn
Tây phương về kỹ thuật và khoa học.
Tuy nhiên, các nhà lãnh
đạo Tây phương đã đủ già tay ấn để dẫn dắt xã hội Tây phương vượt
qua được các cơn sóng gió. Sự phát triển, vẫn hùng mạnh, trong xã
hội Tây phương hiện nay, chứng minh rằng xã hội này, đã vượt qua cơn
khủng hoảng và đã xây dựng được những cơ cấu xã hội thích nghi với
các lực lượng sản xuất mới, mà không cần phải áp dụng phương thuốc
Cộng sản. Như vậy, chúng ta không cần phải thảo luận về tính cách,
thích nghi hay không, của một xã hội Cộng sản đối với các lực lượng
sản xuất kỹ nghệ và đối với một khoa học kỹ thuật tiến bộ. Chúng ta
chỉ cần nhận xét rằng, trong thực tế, đã có một hình thức xã hội
khác thích nghi, một cách hữu hiệu, với các lực lượng đó.
Và
chính từ lúc Tây phương đã tìm được các phương thuốc xã hội, khác
hơn những phương thuốc Cộng sản, để chữa cơn khủng hoảng nội bộ của
mình, thì, từ lúc đó, thuyết Cộng sản đã thấy hấp lực của mình, ngày
càng suy giảm đối với quần chúng Tây phương. Đấy là nguyên do chính
của sự khủng hoảng nội bộ của các đảng Cộng sản Tây phương hiện nay.
Thuyết Cộng sản không còn lý do tồn tại nữa, trong một xã hội đã
được lành mạnh hóa, và đã được cải tạo theo một chiều hướng thích
nghi với các lực lượng sản xuất đã gây ra cuộc khủng hoảng. Và ngày
nay, điều này rất đỗi quan hệ cho chúng ta, sự bang giao giữa Nga Sô
và các cường quốc Tây phương không còn đặt trên lĩnh vực lý thuyết
nữa, như trước đây ba mươi năm. Sự bang giao này chỉ là một sự bang
giao thông thường đặt trên những mâu thuẫn của các cường quốc với
nhau.
Hợp tung
Bây giờ chúng ta đến
điều kiện thứ ba đã giúp cho Nga Sô thành công trong việc quan niệm
và áp dụng một chiến lược thế giới để đương đầu với khối Tây phương
đang ngự trị hoàn cầu.
Chính vì Tây phương đã chiếm gần hết
thế giới, nên khắp thế giới, chỗ nào Tây phương cũng có kẻ thù. Vì
thế cho nên, hợp tung tất cả kẻ thù của Tây phương vào trong một mặt
trận, bao phủ địa cầu sẽ tăng cường hiệu quả của chiến lược của các
nhà lãnh đạo Nga Sô. Một mặt khác, các lãnh tụ các quốc gia bị xâm
chiếm, sau nhiều năm chiến đấu vô hiệu quả, và nhiều phen thất bại
đau đớn, cũng đã lần lần nhận thấy rằng muốn chiến thắng một kẻ thù,
mà nanh vuốt bao trùm khắp thế giới, thì một cuộc chiến đấu, giới
hạn trong khuôn khổ một quốc gia, không làm sao đưa đến kết quả được
Vì lý do này, mà lời kêu gọi Đồng Minh của Nga Sô để chống kẻ thù
chung, là Tây phương, được rất nhiều nhà lãnh đạo quốc gia hưởng
ứng, một cách thành thật và nồng nhiệt. Hầu hết các nhà lãnh đạo các
quốc gia bị Tây phương xâm chiếm đều qui tụ dưới lá cờ Cộng sản của
Nga Sô. Chỉ có một số nhà lãnh đạo sáng suốt, đã soi thấu thâm ý
chiến lược của Nga Sô, mới từ chối lời kêu gọi đồng minh của Nga.
Trong số này, có Gandhi và Nehru của Ấn Độ.
Chúng ta vừa
thấy, do đường ngõ nào, mà lý tưởng tranh đấu Cộng sản đã chuyển từ
Nga Sô sang các quốc gia đã bị thuộc địa hóa, nhất là các thuộc địa
ở Á châu. Bởi vì trong số các thuộc địa, các quốc gia này là những
quốc gia đã có một nền văn minh cổ truyền, một cơ cấu xã hội vững
chãi, khả dĩ huy động một sức đề kháng đáng kế, đối với Tây phương.
Vì vậy mà Cộng sản quốc tế ặc biệt ch trọng đến Á Châu. Chúng ta
cũng vừa thấy cơ thức, theo đó, lý tưởng tranh đấu Cộng sản, mà mục
đích nguyên thủy là một cuộc cách mạng xã hội tại Tây phương, để xây
dựng một trật tự mới thích hợp với các lực lượng sản xuất do những
phát minh khoa học tạo ra, sang Nga, đã biến thành một lợi khí vừa
để lũng đoạn nội bộ Tây phương vừa để phát triển dân tộc, và sang Á
Đông, biến thành một lợi khí tranh đấu để giải phóng các dân tộc bị
đế quốc thống trị. Khác với các tác phẩm của Các-mác, các tác phẩm
của Lê-nin đề cập nhiều đến các thuộc địa của đế quốc, nhất là các
thuộc địa Á châu, vì những lý do trên đây.
Sự đồng minh giữa
các nhà lãnh đạo Nga Sô và các nhà lãnh đạo Á Đông, không vì sự khác
biệt giữa hai mục đích, mỗi bên đang riêng theo đuổi, mà kém chặt
chẽ và kém hiệu quả. Bởi vì lý do phát sinh và tồn tại của sự liên
kết là chống Tây phương, kẻ thù chung.
Các nhà lãnh đạo Á
Đông còn bị lôi cuốn vào cuộc đồng minh bởi một lý do thứ hai. Lý
thuyết Các-mác đem đến cho các nhà lãnh đạo này một kiểu mẫu xã hội
tiền chế mệnh danh là một xã hội thích nghi với lực lượng sản xuất
mới do khoa học đẻ ra. Chính vì lý do này, một phần mà các nhà lãnh
đạo Nga Sô đã thâu nhận một lý thuyết Tây phương làm một lý thuyết
tranh đấu cho dân tộc Nga.
Trên kia chúng ta đã nêu câu hỏi:
kiểu mẫu xã hội tiền chế đó có thật thích nghi với các lực lượng mới
không? Và chúng ta đã từ chối không trả lời, chỉ nhận xét rằng,
trong thực tế, đã có một hình thức xã hội khác thích nghi, một cách
hiệu quả, với các lực lượng đó. Hình thức nào thích nghi hơn? Còn
lâu lắm các sử gia mới trả lời được. Chỉ biết rằng hình thức xã hội
Cộng sản không thể giữ độc quyền tổ chức nhân loại. Và chỉ biết rằng
hình thức xã hội Cộng sản chưa hoàn thành và còn trong thời kỳ mò
mẫm xây dựng. Trái lại, hình thức xã hội Tây phương cải tạo, đã
thành hình và đang phát triển hùng mạnh.
Cũng trong phạm vi
này, một nhận xét khác rất quan hệ cho chúng ta vì nó làm cho vấn đề
thêm sáng tỏ. Các quốc gia, đã và đang, tìm phát triển dân tộc bằng
cách Tây phương hóa, trong đó có cả Nga Sô, và Trung Cộng, đều, đã
và đang nỗ lực thâu thập kỹ thuật Tây phương. Như thế thì, trong
lĩnh vực kỹ thuật tổ chức xã hội, cũng như trong tất cả mọi lĩnh vực
kỹ thuật, nếu cần phải học hỏi, thì đương nhiên là nên học hỏi trực
tiếp với Tây phương, hơn là học hỏi với những người, đã và đang, học
hỏi với Tây phương. Như thế, ngoài sự từ chối không làm học trò hạng
nhì, chắc chắn chúng ta còn tránh được nhiều lỗi lầm của người học
trò hạng nhất, ví dụ như “cái nhảy vượt bậc” và “phong trào nhân dân
công xã” của các nhà lãnh đạo Trung Cộng.
Với thời gian qua,
và nhờ ánh sáng của những sự kiện lịch sử đã xảy ra, từ lúc mới chớm
nở cuộc Đồng Minh, giữa Nga Sô và các quốc gia bị thuộc địa hóa, đến
ngày nay, chúng ta có thể có hai nhận xét căn bản, có ảnh hưởng
nhiều đến đường lối của dân tộc sau này.
Hai nhận xét
Trước hết, mục đích giải phóng dân tộc, và hoàn cảnh bi đát của
các phong trào kháng chiến quốc gia lúc bấy giờ, có thể để thuyết
minh cho sự liên kết với Nga Sô của các lãnh tụ Á Đông. Mạnh hơn
nữa, chúng ta có thể quả quyết rằng con đường liên kết với các lãnh
tụ Nga Sô, lúc bấy giờ, là con đường có nhiều bảo đảm trong giai
đoạn tranh giành độc lập cho dân tộc. Nhưng, chúng ta cũng không nên
quên rằng, có nhiều nhà lãnh đạo, nhìn thấu thâm ý chiến lược của
Nga Sô, như Gandhi và Nehru, đã từ chối sự liên kết trên, nhưng vẫn
đạt đến kết quả giải phóng dân tộc của họ. Và, một chủ trương đã
đúng trong một giai đoạn, không phải vì đó, mà sẽ đúng trong tất cả
các giai đoạn. Nghĩa là, sau khi độc lập đã khôi phục, dân tộc
chuyển sang giai đoạn phát triển, bằng cách Tây phương hóa toàn
diện, chính sách Cộng sản, nghĩa là đường lối và phương pháp Cộng
sản có còn thích hợp không?
Nếu có những nước, như Nga Sô, đã
thực hiện được công cuộc phát triển bằng đường lối Cộng sản, thì
cũng có những nước, như Nhật Bản, thực hiện được công cuộc phát
triển, với một trình độ không kém, bằng một đường lối không Cộng
sản. Chúng ta, sau này, sẽ bàn đến sự thích nghi hay không của đường
lối Cộng sản trong giai đoạn phát triển dân tộc của chúng ta. Nay
chỉ cần ghi nhớ một điểm là, ít ra cũng có một đường lối khác để
phát triển dân tộc, không kém hiệu quả hơn đường lối Cộng sản.
Có thể có người nói rằng, nếu Việt Nam không theo đường lối Cộng
sản thì Trung Cộng đã không giúp cho phương tiện để chiến thắng ở
Điện Biên Phủ. Về sự viện trợ của ngoại quốc, chúng ta sẽ đề cập đến
một cách chi tiết dưới đây. Nay, giải đáp thắc mắc trên đây chúng ta
có thể nói rằng thời kỳ Điện Biên Phủ vẫn còn nằm trong giai đoạn
tranh giành độc lập. Vả lại Trung Cộng giúp khí giới, kỹ thuật và
phương tiện cho Việt Nam chiến thắng vì Trung Cộng thân Việt Nam hơn
là bài Mỹ hay là bài Mỹ hơn thân Việt Nam? Và khi viện trợ như vậy,
Trung Cộng xem Việt Nam là một đồng chí Cộng sản hay là một phần đất
cũ xưa kia, và nay sắp sửa được gồm thâu vào lãnh thổ của họ?
Nhận xét căn bản thứ hai là như sau đây.
Trong cuộc đồng minh giữa Nga Sô và các quốc gia Á Đông bị Tây
phương thống trị, Nga Sô theo đuổi trước hết và trên hết mục đích
phát triển dân tộc của mình. Trong khi đó các quốc gia Á Đông lại
theo đuổi trước hết và trên hết mục đích giải phóng dân tộc thoát
khỏi ách để quốc thực dân.
Sự khác biệt mục đích này đã đưa
đến hai hậu quả đương nhiên. Khi nào có những biến cố xảy ra cho các
đảng Cộng sản bạn, làm cho những đảng này cần sự giúp đỡ sẽ không
đến. Trường hợp này đã xảy ra rất nhiều lần, và thái độ của Staline
đối với đảng Cộng sản Trung Hoa trong thời kỳ bỉ cực là rõ rệt hơn
cả. Bởi thế cho nên, mặc dầu có một cuộc liên minh, quốc tế và trên
lý tưởng, vì kẻ thù chung, nhưng quyền lợi của dân tộc là trên hết.
Điều này chúng ta nên khắc sâu vào tâm não.
Hậu quả thứ hai
là, khi nào một bên đã đạt được mục đích rồi, thời sự đồng minh
không còn lý do tồn tại nữa, trừ ra nếu có những lý do chính trị do
hoàn cảnh đương thời tạo nên. Ngày nay, Nga đã đạt được mục đích
phát triển dân tộc, thì lý do của cuộc đồng minh, đối với Nga, đã
giảm giá đi rất nhiều. Nếu Nga còn thấy cần đồng minh nữa, thì cũng
chỉ vì cuộc chiến đấu cổ truyền với Tây phương vẫn tiếp tục, chớ
không phải vì một lý tưởng. Ngày nào cuộc tranh đấu này đi vào một
thời kỳ êm dịu, như chúng ta sẽ thấy dưới đây, thì lý do đồng minh,
đối với Nga, sẽ không còn nữa.
Những sự kiện trên đây giải
thích một phần rất lớn, vừa những mâu thuẫn xảy ra giữa Nga và các
đảng Cộng sản Á châu, vừa những sự xung đột giữa Nga và Trung Cộng.
Như vậy là chúng ta đã xét qua ba điều kiện đã giúp cho Nga
Sô chuyển cuộc tranh đấu cổ truyền với Tây phương trong phạm vi quốc
gia, thành một cuộc tranh đấu vĩ đại, trong đó Nga Sô đã huy động
được, vừa lớp người bất mãn, trong nội bộ của Tây phương, vừa kẻ
thù, khắp thế giới, của Tây phương để nỗ lực đánh bại Tây phương.
Và Tây phương suýt bị đánh bại thật.
Nếu
trong trận đại chiến thử hai vừa qua, mà Nga Sô, vì một lẽ gì, đứng
'được ngoài cuộc chiến tranh, thì, ngày nay cuộc diện thế giới đã
chuyển theo một chiều khác vô cùng thắng lợi cho Nga Sô. Đại chiến
thứ hai cũng như đại chiến thứ nhất, trước tiên, là cuộc chiến
tranh, giữa các cường quốc Tây phương, để thanh toán những mâu thuẫn
nội bộ với nhau.
Lúc đầu của cuộc đại chiến, Nga Sô đã vận
dụng nỗ lực để đứng ngoài chiến trận. Đó là một thái độ khôn ngoan
nhất, vì, nếu để hai phe, đồng minh và trục, tiêu diệt lực lượng lẫn
nhau đến kiệt quệ, thì sau đó, với lực lượng nguyên vẹn của mình,
Nga Sô sẽ nắm bá quyền Âu châu và ngày nay Tây phương sẽ yếu thế hơn
nhiều.
Vì vậy mà, đứng về quan điểm Tây phương, theo đó, Nga
là một kẻ thù cổ truyền, sự tấn công, vào đất Nga của Đức Quốc Xã,
là một hành động hợp lý. Và phe đồng minh liên kết với Nga là một
hành động phản lịch sử, chỉ do những nhu cầu nhất thời về chính trị
quyết định. Và chắc chắn là, sau này trong lịch sử tranh đấu giữa
Nga và Tây phương, hành động của Đức Quốc Xã sẽ được ghi nhớ là một
công trạng đối với Tây phương. Bởi vì chính là nhờ ở sự tấn công
Nga, làm cho Nga phải tiêu hao lực lượng nên sau khi chiến tranh
chấm dứt, sự quân bình giữa Tây phương và Nga mới còn được như ngày
nay.
Đi sâu vào hơn một chút nữa, mặc dù Nga đã tiêu hao lực
lượng rất nhiều, áp lực của Nga có thể, đối với Tây phương, sau khi
chiến tranh chấm dứt, còn mạnh mẽ hơn nhiều, nếu Tây phương chưa
phát minh và chế ngự được nguyên tử năng. Sự phát minh này đã đưa kỹ
thuật của Tây phương lên một trình độ vượt hẳn kỹ thuật của Nga Sô.
Và chính vì sự chênh lệch đó mà Nga Sô đã phải giảm hạ áp lực thật
sự của mình đi rất nhiều. Chỉ sau đó nhiều năm, khi, nhờ sự đóng góp
kỹ thuật của Đức, Nga bắt kịp Tây phương về nguyên tử năng, thì, lúc
bấy giờ, áp lực của Nga mới trở thành mạnh mẽ và đi đến thế quân
bình ngày nay. Và nhờ khoảng thời gian mấy năm đó, mà các cường quốc
Tây Âu mới băng bó các vết thương chiến tranh, hưng vượng lại được
và phát triển theo một đà mới, như chúng ta đã thấy ngày nay.
Cơ hội
Đồi với các quốc gia bị Tây
phương thống trị, các biến cố xảy ra đã tạo nên một cơ hội hiếm có
không ngờ. Giả sử mà mâu thuẫn nội bộ giữa các quốc gia Tây phương
không gay cấn đến nỗi xảy ra chiến tranh, thì Nga Sô sẽ không lợi
dụng cơ hội mà tăng cường ảnh hưởng của mình được. Đã như thế thì
các thuộc địa sẽ chưa được giải thoát. Giả sử mà chiến tranh có xảy
ra thật, nhưng các cường quốc Tây phương đều nhận thức, theo như
Đức, rằng chính Nga mới là kẻ thù chính tông và kịp thời, thỏa hiệp
Đức, để quay tất cả lực lượng về đánh Nga, như nhiều lần Đức đã đề
nghị, thì kết quả cũng sẽ tương tự như trường hợp trên.
Giả
sử mà sau đại chiến thứ hai, các cường quốc Tây phương chưa phát
minh được nguyên tử năng, thì áp lực và ảnh hưởng của Nga đã lan
tràn khắp Tây âu. Thế lực của Nga trên thế giới lấn át thế lực của
Tây phương. Tây phương sẽ thâu hẹp vòng kiểm soát của họ lại nơi khu
vực Bắc Mỹ và một vài nơi khác trên thế giới, như Úc châu và Nam
Phi, thì các thuộc địa sẽ rơi từ vòng thống trị của Tây phương sang
vòng thống trị của Nga Sô. Công cuộc giải thoát dân tộc chưa chắc đã
thực hiện dược, công cuộc phát triển thì quả quyết là xa vời hơn
nữa.
Đằng này, các biến cố đã thật sự xảy ra đều không nằm
vào một trong ba trường hợp trên. Nga không bị dồn vào một thế yêu
quá, mà cũng không lấn áp được địch thủ. Tây phương không chế ngự
được địch thủ, nhưng cũng không bị địch thủ chế ngự. Chính sự thể
hai bên đồng sức và kình chống nhau đó đã tạo ra cho chúng ta, nghĩa
là cho các quốc gia bị thống trị, hoặc các quốc gia đang tìm phát
triển, cơ hội duy nhất từ một thế kỷ, để phục hồi độc lập và phát
triển dân tộc.
Vì cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương
dừng vào một giai đoạn quyết liệt, bên nào cũng nỗ lực tìm đồng
minh, cho nên một mặt Tây phương lần hồi trả độc lập lại cho các
nước bị trì, giúp đỡ phương tiện phát triển bằng Liên Hiệp Quốc,
bằng kế hoạch Colombo, bằng viện trợ trực tiếp, v.v. Một mặt khác
cũng với mục đích tìm đồng minh, Nga đã giúp đỡ các cuộc chiến tranh
giải phóng và cũng giúp đỡ phương tiện phát triển cho nhiều quốc
gia.
Từ hai mươi năm nay, từ ngày đại chiến thứ hai chấm
dút, chính trị thế giới giữa hai khối, tự do và Cộng sản, đều do các
sự kiện trên đây quyết định. Sự viện trợ cho các cường quốc Tây âu
theo kế hoạch Marshall sự phục hưng Tây Đức và Nhật Bản, sự viện trợ
cho các quốc gia vừa độc lập, tất cả đều nằm trong một kế hoạch hoàn
cầu của Tây phương để liên kết các đồng minh, trong một chiến lược
vĩ đại bao vây Nga Sô. Đối lại, sự giúp đỡ cho Trung Hoa phát triển,
sự viện trợ cho các quốc gia chống Mỹ như Cuba, tất cả đều nằm trong
một chiến lược hoàn cầu của Nga Sô để phá vòng vây. Cho đến các phát
minh về không gian cũng được dùng vào việc liên kết đồng minh trong
cuộc chiến đấu vĩ đại giữa Tây phương và Nga Sô.
Đối Với Các
quốc gia, trước kia đã bị bán thuộc địa hóa, hay bị thuộc địa hóa,
các sự kiện trên thật không phải là một cơ hội hiếm có, vô cùng quí
báu hay sao? Tự nhiên độc lập được phục hồi và tự nhiên được viện
trợ để phát triển.
Cho đến ngày nay, bao nhiêu quốc gia đã
nắm được cơ hội để phát triển? Chúng ta chỉ thấy có Trung Hoa.
Việt Nam nắm được cơ hội chưa?
Việt Nam
chúng ta trong hai mươi năm nay, chẳng những chưa lợi dụng được mâu
thuẫn nói trên đây, giữa Tây phương và Nga Sô, để phát triển dân
tộc, lại còn bị lọt vào cái vòng mâu thuẫn đó. Do đó, chẳng những
chúng ta không phát triển được, lại còn bị tiêu hao nhân lực và tài
lực đến một mức độ rất đáng lo ngại.
Nếu lần này, các nhà
lãnh đạo dân tộc lại làm sẩy cơ hội thứ hai này nữa, thì, dựa theo
kinh nghiệm thất bại lần trước, chúng ta cũng có thể đoán được hoàn
cảnh nào đang chờ đợi dân tộc chúng ta. Và trách nhiệm thất bại, mà
thế hệ chúng ta phải mang, đối với các thế hệ sau này, sẽ vô bờ bến.
Một cơ hội hiếm có như vậy, lại đã kéo dài trong hai mươi
năm, mà chúng ta chưa nắm được. Các nhà lãnh đạo dân tộc hiện nay,
xem thế cũng phải lấy làm khiếp đảm và tự khiển trách đến cực độ.
Nếu chúng ta lại còn lỡ cơ hội nữa, thì các nhà lãnh đạo hiện nay sẽ
mang nặng, đối với dân tộc, một lỗi lầm không có gì tha thứ được.
Các nhà lãnh đạo, phía Nam và phía Bắc, của chúng ta đã nhận
thức tình trạng, vô cùng nguy ngập và khẩn cấp cho chúng ta, như
trên đây đã trình bày chưa? Nếu chúng ta, căn cứ trên các biển cố
xảy ra từ hai mươi năm nay, và nhất là từ mười năm nay, chúng ta
phải thú nhận rằng chưa có một triệu chứng gì bảo đảm cho chúng ta
rằng, nguy cơ đang đe dọa dân tộc đã được các nhà lãnh đạo, phía Nam
và phía Bắc, ý thức.
Chúng ta sống ở phía Nam, nên trong hai
mươi năm vừa qua, có mấy dịp nhận thấy rằng các nhà lãnh đạo, liên
tục kế tiếp nhau thọ lãnh trách nhiệm về vận mạng của quốc gia, chưa
có lúc nào tỏ ra nhìn thấy vấn đề căn bản mà dân tộc cần phải giải
quyết trong giai đoạn này. Đã không nhìn thấy vấn đề căn bản, thì cố
nhiên là không nhìn thấy tình trạng vô cùng nguy ngập đang đe dọa
dân tộc.
Đối với các nhà lãnh đạo phía Bắc, nghiên cứu các
sáng tác về chính trị cũng như các hành động chính trị của họ, chúng
ta công nhận rằng, nhờ sự nghiệp nghiên cứu các thực tế lịch sử của
Cộng sản quốc tế, vấn đề căn bản của dân tộc có thể đã được họ nhìn
thấy rõ hơn. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Nga Sô đã sử dụng thuyết
Cộng sản như là một lợi khí để chiến đấu với Tây phương, như chúng
ta đã nhận thức trong các trang trên đây và chính Mao Trạch Đông đã
viết câu sau đây về thuyết Cộng sản.
“Sở dĩ chúng ta nghiên
cứu thuyết Các-mác không phải vì luận điệu tốt đẹp của nó, cũng
không phải vì nó đựng một phép thần diệu để trừ ma quỉ. Nó không
đẹp, nó cũng không thần diệu. Nó chỉ ích lợi. Có nhiều người cho nó
là thần dược trừ bá chứng. Chính những người này đã xem thuyết
Các-mác là một giáo lý. Phải nói cho những người này hiểu rằng giáo
lý của họ không có ích lợi bằng phân bón. Phân bón còn làm giàu
ruộng đất, giáo lý không làm được việc đó.”
Nghĩa là các lãnh
tụ tối cao của khối Cộng sản đều xem thuyết Cộng sản là một phương
tiện. Họ chế ngự phương tiện tinh thần đó – do Tây phương phát minh
ra – cũng như những phương tiện vật chất khác của Tây phương. Ngược
lại, các sáng tác chính trị của các nhà lãnh đạo phía Bắc, lại chứng
tỏ rằng, những người lãnh đạo này còn đang say mê thuyết Cộng sản và
đương nhiên tôn nó lên hàng một chân lý. Đưa một phương tiện chiến
đấu của người, lên làm một chân lý của mình, là mặc nhiên hạ mình
xuống thấp hơn một bậc đối với các lãnh tụ Cộng sản quốc tế và tự
biến mình thành một thứ nô lệ trí thức để cho người sử dụng. Vì vậy
cho nên, trong nhiều hành động chính trị của các nhà lãnh đạo phía
Bắc, lý thuyết Cộng sản được để lên trên quyền lợi của dân tộc, điều
ấy chứng tỏ rằng, trong lĩnh vực ngoại giao giữa các quốc gia, họ
tin rằng một sự đồng minh về lý thuyết có thể đặt trên quyền lợi của
dân tộc.
Do các lý lẽ trên đây chúng ta có thể quả quyết
rằng các nhà lãnh đạo phía Bắc vẫn chưa nhận thức nguy cơ đang đe
dọa dân tộc và những ngày đen tối của chúng ta vẫn còn tiếp tục.
Cơ hội thứ hai đã mất chưa?
Ngày nay
chúng ta đã lỡ cơ hội thứ hai để phát triển dân tộc chưa?
Như
ta đã thấy cơ hội nói trên được tạo ra do những mâu thuẫn phát sinh
từ một cuộc tranh đấu giữa Tây phương và Nga Sô. Vậy cơ hội sẽ mất
trong hai trường hợp:
1. Mâu thuẫn vẫn còn, nhưng chiến lược
hai bên đều thay đổi, cho nên sự liên kết đồng minh không cần thiết
nữa.
2. Mâu thuẫn không còn.
Trong cuộc tranh đấu
hiện nay giữa Tây phương và Nga Sô, Tây phương do Mỹ lãnh đạo về
quân sự và Anh, Mỹ lãnh đạo về đường lối.
Trên phương diện
quân sự, chiến lược của Mỹ không phải là một chiến lược tấn công,
nhưng là một chiến lược phản công kịp thời bằng võ khí nguyên tử,
ngay vào các trung tâm chiến lược của Nga Sô. Do đó, và bởi vì lúc
đầu của giai đoạn hiện tại của cuộc tranh đấu, tầm hoạt động của phi
cơ, phi đạn đều có giới hạn cho nên Mỹ cần một số căn cứ chiến lược
bao quanh Nga Sô từ Âu sang Á. Đó cũng là nguyên nhân của công cuộc
Mỹ viện trợ các nước không phải là Tây phương. Nơi nào Mỹ đóng căn
cứ là nơi đó Mỹ viện trợ. Sau đó khi bộ máy viện trợ đã thành và
chạy đều, nhiều sự kiện chính trị hay kinh tế chiến lược khác cũng
thành những lý do viện trợ.
Để phá vòng vây của Mỹ, Nga cũng
viện trợ cho các quốc gia đó, để cho sự cần thiết đối với Mỹ kém đi
thì các quốc gia liên hệ có thể từ chối không cho Mỹ đặt căn cứ trên
lãnh thổ mình. Đồng thời Nga Sô nỗ lực chế các loại phi đạn có tầm
hoạt động xa để bắn tới các trung tâm chiến lược của Mỹ.
Các
quốc gia tốt số đó, được hai bên ưu đãi và nếu ý thức được vấn đề
căn bản của mình, thì dùng viện trợ đó để phát triển dân tộc.
Vì Mỹ có căn cứ ở gần Nga Sô, mà Nga Sô không có căn cứ ở gần Mỹ
cho nên Nga Sô mới dồn hết nỗ lực kỹ thuật và kỹ nghệ của mình vào
việc sáng chế các phi đạn trường xạ trình liên lục địa và đã tiến bộ
hơn Mỹ về điểm này. Và, đương nhiên, tiến bộ hơn Mỹ về không gian
phi hành, bởi vì ngành này phải dùng loại phi đạn trường xạ trình.
Mỹ ỷ lại vào các căn cứ đã có gần Nga Sô, nên không chú trọng đến
các phi đạn trường xạ trình.
Tuy nhiên bởi vì sự tuyên truyền
của Nga Sô, nên các căn cứ quân sự của Mỹ, ở các nơi trên thế giới,
gây ra nhiều thất bại về chính trị, ví dụ, như ở Nhật, khi Tổng
Thống Eisenhower sắp sửa sang viếng Đông Kinh năm 1960. Cân nhắc kỹ,
cái lợi quân sự không bù cái hại về chính trị, cho nên Mỹ lại xoay
sang chiến lược thay thế các căn cứ cố định trên đất liền, bằng
những căn cứ phóng hỏa tiễn trung xạ trình, lưu động: Các tiềm thủy
đĩnh nguyên tử.
Trên phương diện quân sự, sự thay đổi chiến
lược này, có nghĩa như là Mỹ đã tăng gia được tầm hoạt động của các
phi đạn và không cần các căn cứ quân sự chung quanh Nga nữa.
Căn cứ không cần đặt, thì viện trợ sẽ rút. Khi nào số tiềm thủy đĩnh
nguyên tử của Mỹ lên đến số lượng đủ dùng để thay thế các căn cứ
trên lục địa, thì viện trợ Mỹ sẽ chấm dứt.
Và cơ hội phát
triển của các nước nghèo sẽ bớt đi nhiều.
Công cuộc rút này
đã bắt đầu thi hành ở nhiều nơi. Tuy nhiên, nếu trường hợp này xảy
ra, mâu thuẫn Nga Sô - Tây phương vẫn còn, và các nước nhỏ mặc dầu
phát triển có khó khăn, nhưng vẫn còn có hy vọng phát triển và độc
lập không đến nỗi bị đe dọa.
Đường lối của Tây phương, trong
công cuộc chiến đấu với Nga Sô, do Anh, Mỹ lãnh đạo. Căn bản chính
yếu của đường lối này, càng ngày càng bộc lộ rõ rệt. Các nhà lãnh
đạo Tây phương nhận thức hai điều.
Trước hết lý do chính, vì
đó mà Nga Sô đã dốc hết nhân lực và lài lực của mình vào công cuộc
chiến đấu vĩ đại với Tây phương, là ý chí của Nga Sô để thực hiện
công cuộc phát triển dân tộc.
Điều thứ hai là Nga Sô đã thực
hiện được công cuộc phát triển dân tộc và nay trở thành một cường
quốc mà sức mạnh và năng lực đáng được kính nể.
Đường
lối của Tây phương
Tất cả đường lối của Tây phương
trong cuộc chiến đấu với Nga Sô đã được xây dựng từ trên hai nhận
xét căn bản.
Như chúng ta đã thấy, trong một giai đoạn trên
đây bàn về nước Nga, nước Nga và Tây phương có một di sản tinh thần
chung: Đạo Gia Tô. Nhưng Tây phương theo Gia Tô Tây phái, Giáo chủ ở
tại La Mã; Nga Sô theo Gia Tô Đông phái, Giáo chủ lúc đầu ở Hy Lạp.
Và hai nền văn minh Tây phương và Nga do đó có nhiều điểm giống
nhau. Nhưng vì một sự kiện lịch sử, mà chúng ta đã biết, di sản tinh
thần chung, có thời kỳ, có hiệu lực là một yếu tố liên hợp giữa hai
bên, lại, có thời kỳ, có hiệu lực là một mầm chia rẽ.
Mặc dù
phải võ trang đến cực độ và thủ thế với nhau từng hành động và từng
lời nói, đường lối của Tây phương hiện nay đối với Nga Sô là, kêu
gọi đến tính cách liên hiệp của di sản tinh thần chung, mục đích đưa
Nga trở về với xã hội Tây phương và khối người cùng một nền văn
minh.
Tất cả nỗ lực ngoại giao của Tây phương đều hướng về
mục đích trên, từ những hành động nhỏ nhặt, của từng cá nhân, đến
những trao đổi văn hóa và những hiệp ước thương mại hay quân sự,
giữa Nga Sô và các quốc gia Tây phương.
Ví dụ, không phải
tình cờ mà người Anh đặt tên cho vệ tinh đầu tiên sắp bắn lên quĩ
đạo là “Britnik”. Nhưng mà là cố ý tỏ lòng thán phục những vệ tinh
“Spoutnik' của Nga. “Brit” là British (của người Anh), “nik” để nhắc
rằng những vệ tinh của loài người bắn lên không gian trước hết là
của Nga Sô. Ngụ ý của sự lựa chọn trên, là để thỏa mãn lòng tự ái
của Nga Sô lâu nay vẫn bị Tây phương xem là thấp kém, và nhắc nhở
Nga Sô rằng Nga Sô và Tây phương đều cùng chung một nền văn minh.
Không phải tình cờ mà ông Paul Reynaud cựu Thủ tướng Pháp, trong
cuộc thăm viếng nước Nga đã long trọng tuyên bố với Thủ tướng
Krutchev: “Nếu các ông tiếp tục viện trợ cho nước Tàu, trong vài
mươi năm nữa, một tỷ dân Trung Hoa sẽ đè bẹp các ông và Âu châu.”
Những sự hoan nghinh và tiếp rước nồng hậu các phi hành gia Nga,
ở các kinh đô Tây phương, cũng hàm cùng một ý nghĩa. Những sự trao
đổi về văn hóa và khoa học, trong hội nghị quốc tế, hay những cuộc
viếng thăm của những phái đoàn văn nghệ của hai bên đều là những
hành động có tính toán, chuẩn bị dư luận của hai bên, để dẫn dắt lần
lần quần chúng của hai bên đến chỗ thông cảm với nhau.
Báo
chí Tây phương không ngớt ca ngợi những thành tích khoa học và xã
hội của Nga Sô và luôn luôn nhắc nhở đến những thời kỳ mà sự liên
lạc giữa các nước Nga và Tây phương rất là thân hữu. Tất cả các hành
động trên, trong tất cả các lĩnh vực, đều dọn đường để cho Nga Sô
trở về với xã hội Tây phương.
Cuối cùng và quan hệ hơn hết,
là những nỗ lực để phát huy di sản tinh thần chung. Sau khi đã ly
khai với nhau trong nhiều thế kỷ, giáo chủ Gia Tô Tây phái ở Roma là
Giáo Hoàng Gioan XXIII đã mời và tiếp kiến các vị giáo chủ Tin Lành
và các vị giáo chủ Gia Tô Đông phái. Các báo chí Tây phương đều hết
sức hoan nghinh những cuộc tiếp xúc trên, để chuẩn bị cho công cuộc
thống nhất Gia Tô giáo.
Sự tổ chức Công Đồng Vatican I tiếp
tục chính sách trên và thích hợp với một đường lối chính trị của Tây
phương. Vì vậy cho nên, sau khi Gioan XXIII đã từ trần, thì dĩ nhiên
Phao Lô VI sẽ tiếp tục chính sách trên và tổ chức Công Đồng Vatican
II, trong đó, các giáo chủ các phái Gia Tô, ngoài Tây phái, đều được
mời tham dự với tư cách là quan sát viên.
Xem thế, chúng ta
nhận thấy một cách rõ rệt, xuyên qua không khí phức tạp và rối rắm,
của sự bang giao giữa hai khối, những nét chính yếu của đường lối
Tây phương đối với Nga Sô.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Phần II
8.
TRÍ CỦA VIỆT NAM
TRONG KHUNG CẢNH
THẾ GIỚI
(CHỈNH ĐỐN NỘI
BỘ)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Đồng
thời với sự thi hành đường lối nói trên với Nga Sô, và cũng để làm
hậu thuẫn cho đường lối ấy, Tây
phương đang vận dụng nỗ lực của mình để chinh đốn lại nội bộ xã hội
Tây phương.
Các cường quốc Tây Âu ngày nay trải qua một giai
đoạn, có nhiều điểm tương đồng với thời đại Chiến Quốc bên Tàu và
thời kỳ các đô thị quốc gia của Cổ Hy Lạp hay là thời kỳ các đô thị
quốc gia của Ý vào các thế kỷ X đến XIV.
Đại khái, các đô thị
quốc gia Cổ Hy Lạp ngày xưa cũng là nơi đã phát sinh một nền văn
minh sáng lạng và cường thịnh. Người Hy Lạp cũng đã vượt sóng chinh
phục các dân tộc ở khắp ven biển Địa Trung Hải. Hạt giống văn minh
do họ gieo rắc, đã nảy mầm nhiều nơi, và ở những nơi này, nhiều quốc
gia nhờ dân đông và đất rộng đã phát triển mạnh bạo, trở thành những
lực lượng hùng hậu lấn áp cả uy thế của mẫu quốc.
Và nhiều
quốc gia mới đã trở lại chinh phục các đô thị quốc gia Hy Lạp. Lúc
đó các đô thị quốc gia này đã phải sụp đổ vì không thắng nổi những
sự tranh chấp cổ truyền để thống nhất lực lượng, chống xâm lăng.
Ngày nay, các cường quốc Tây Âu cũng vậy. Đó là nơi phát sinh
nền văn minh Tây phương đã chinh phục thế giới.
Hạt giống văn
minh của họ đã nảy mầm khắp nơi trên địa cầu ở nhiều nơi này, nhờ
dân đông và đất rộng, nhiều quốc gia đã phát triển mạnh bạo trở
thành những lực lượng đe dọa cả các cường quốc Tây âu. Ví dụ Nga Sô
hay Mỹ.
Rút kinh nghiệm thất bại của các đô thị quốc gia Cổ
Hy Lạp, các nhà lãnh đạo Tây Âu đang huy động hết nỗ lực của mình để
thực hiện, sự thống nhất Âu châu. Những hiệp ước quan thuế sáu nước,
hiệp ước quan thuế bảy nước, và, ngay đến Thị Trường Cộng Đồng Âu
Châu đều là những thực hiện đầu tiên và cụ thể của những cố gắng nói
trên.
Sau khi, vì mâu thuẫn nội bộ mà suýt bị đánh bại, và vì
mâu thuẫn với Nga Sô mà mất hết các thuộc địa, trước kia là nguồn
cung cấp thiên sản cho họ, các cường quốc Tây Âu nhận thức rằng con
đường sống duy nhất của họ là thanh toán các mâu thuẫn nói trên. Và
chính đó là điều mà họ đang làm.
Đối với chúng ta, các quốc
gia đã bị đế quốc thống trị, các mâu thuẫn trên đã tạo cho chúng ta
cơ hội ngày nay.
Vậy thì, ngày nào, các cường quốc Tây Âu và
Tây phương, thành công trong dự tính của họ, các mâu thuẫn trên
không còn nữa, và cơ hội của chúng ta cũng sẽ mất. Vậy câu hỏi là:
các cường quốc Tây phương đã thành công chưa?
Trong công việc
thanh toán mâu thuẫn nội bộ, có nhiều triệu chứng chỉ rằng họ có thể
thành công và đang thành công. Triệu chứng quan trọng nhất là ý
thức, ngày càng rõ rệt, của quần chúng Âu châu đối với quan niệm “Âu
châu quốc gia chung”. Trên phương diện này, những hành động, có đượm
tính cách di hận cá nhân của tướng De Gaulle đối với các nhà lãnh
đạo Anh, Mỹ, thành ra một trở lực cho công cuộc thanh toán mâu thuẫn
nội bộ Âu châu. Vì vậy, mà chúng l có thể đoán rằng tướng De Gaulle
còn sống, uy tín cá nhân của De Gaulle sẽ che chở cho chính sách của
mình, nhưng lần hồi nước Pháp sẽ bị cô lập. Tướng De Gaulle chết đi
công cuộc thanh toán các mâu thuẫn nội bộ của Âu châu sẽ tiến hành
dễ dàng hơn.
Đối với chúng ta, những mâu thuẫn nội bộ, giữa
các cường quốc Tây phương, ngày nay, không còn quan hệ như những mâu
thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương nữa. Bất quá đó chỉ là những mâu
thuẫn có thể dùng được trong công cuộc ngoại giao thông thường.
Vậy, Tây phương đã thành công trong công việc thanh toán mâu
thuẫn giữa Nga và Tây phương chưa? Cố gắng của Tây phương trong công
việc thanh toán mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương, vừa nhằm mục
đích tránh cho nhân loại một chiến tranh nguyên tử thảm khốc, vừa
nhằm mục đích cứu thoát văn minh Tây phương khỏi một sự tiêu diệt
chắc chắn, nếu một cuộc chiến tranh nguyên tử bùng nổ giữa Nga Sô và
Tây phương.
Thái độ của Nga Sô
Nga
Sô, ngày nay, đứng trước hai lời kêu gọi. Một bên, lời kêu gọi của
Tây phương là lời kêu gọi của gia đình những người cùng một văn minh
và cùng một di sản tinh thần. Một bên, là lời kêu gọi của gia đình
những người cùng một lý tưởng Cộng sản.
Chính trị thượng tầng
của thế giới ngày nay, sẽ được qui định bởi thái độ của Nga Sô trước
hai lời kêu gọi trên. Ở vào một trình độ phát triển, như trình độ
của Nga Sô ngày nay, Nga Sô có thể đáp lời kêu gọi của Tây phương.
Nhưng ký ức cuộc tranh đấu gay go với Tây phương, trong suốt mấy thế
kỷ, cũng chưa có thể sớm chiều phai mờ trong trí các nhà lãnh đạo
Nga Sô.
Nga Sô có thể đáp lại lời kêu gọi của gia đình các
đồng chí lý tưởng Cộng sản. Nhưng các nhà lãnh đạo Nga Sô, cũng thừa
hiểu rằng lý tưởng Cộng sản làm một phương tiện tranh đấu, đã giúp
cho Nga Sô thực hiện cuộc phát triển dân tộc và chỉ còn giá trị khi
còn một ích lợi nào cho cuộc tranh đấu giữa Nga Sô và Tây phương. Mà
cuộc tranh đấu của Nga Sô đối với Tây phương ngày nay không còn như
xưa nữa. Lý tưởng Cộng sản hết còn là một lợi khí sắc bén trong lòng
địch Tây phương nữa, bởi vì Tây phương đã tìm được những phương
thuốc có khả năng loại lý tưởng Cộng sản ra ngoài xã hội của họ.
Vậy Nga Sô sẽ ngả về bên nào? Khó mà biết được.
Nhưng có lẽ thái độ chính trị thiết thực nhất, là Nga Sô sẽ
tùy theo hoàn cảnh thực tế, mà có lúc ngả bên này và có lúc ngả bên
kia. Có điều chắc chăn là lý tưởng Cộng sản đối với Nga Sô đã giảm
giá trị đi rất nhiều. Vì lý do này, và vì lý do Nga Sô có lúc tỏ ra
thiên về Tây phương, cho nên mới gây nhiều sự tranh luận lý thuyết
với Trung Cộng.
Nhưng trong giai đoạn này, Nga Sô
đang ngả về đâu?
Thuyết sống chung hòa bình của Nga
có thể là một kế hoạch ru ngủ đối với Tây phương, nhưng chắc hơn là
Nga Sô cũng trông thấy sự tai hại của một cuộc chiến tranh nguyên tử
đối với nhân loại, và nhất là đối với văn minh Tây phương. Và chủ
trương sống chung hòa bình, đương nhiên, đồng ý với Tây phương để
cứu thoát văn minh Tây phương khỏi họa tiêu diệt. Và gần đây, thái
độ của quần chúng Nga Sô, đối với các phái đoàn văn hóa Tây phương,
tỏ ra nhiều cảm tình, đó là một triệu chứng Nga Sô thiên về Tây
phương.
Một triệu chứng khác về sự Nga Sô hiện nay có lẽ đang
thiên về Tây phương là phản ứng vô cùng mạnh bạo của Trung Cộng đối
với thái độ dung hòa của Nga Sô. Trung Cộng đang ở vào một tình
trạng, tương tự như của chúng ta, nghĩa là của một quốc gia vừa độc
lập và đang tìm phát triển.
Trung Cộng cũng đang cần có sự
mâu thuẫn giữa Nga và Tây phương để phát triển. Chỉ khác với chúng
ta một điều là khối người của Trung Cộng là một yếu tố vô cùng quan
trọng, có thể dùng đó mà làm lệch cán cân chính trị thế giới.
Vì vậy cho nên Trung Cộng ảnh hưởng được đến sự bang giao giữa
Nga Sô và Tây phương. Nhưng cũng vì số người to tát này mà công cuộc
phát triển của Trung Cộng vô cùng khó khăn. Khi nhìn thấy Tây phương
đang tìm cách thanh toán các mâu thuẫn giữa mình và Nga Sô, và xem
chiều Nga Sô muốn thiên về Tây phương, thì Trung Cộng, lấy tư cách
là một phần tử quan trọng trong gia đình lý tưởng Cộng sản, phản đối
rất gay gắt. Chắc chắn rằng các nhà lãnh đạo Trung Cộng hiện nay rất
lo âu về việc mâu thuẫn giữa Nga và Tây phương có thể hết trong khi
công cuộc phát triển của Trung Cộng chưa hoàn thành.
Dầu sao,
nếu chưa mất hết hẳn, thì mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương đã
giảm đi nhiều. Và đồng thời cũng giảm đi cơ hội phát triển cho chúng
ta, nếu chúng ta không sớm tỉnh ngộ để nắm lấy dịp mà phát triển dân
tộc. Kinh nghiệm thất bại lần trước đủ cho chúng ta thấy hoàn cảnh
bi đát mà chúng ta sẽ lọt vào kỳ này, nhất là nếu kỳ này người láng
giềng khổng lồ của chúng ta phát triển được dân tộc của họ.
Tuy nhiên, trong một thế giới gồm nhiều cường quốc như thế giới hiện
tại, nếu loại mâu thuẫn này chấm dứt, thì thế nào giữa các cường
quốc cũng nảy sinh ra những loại mâu thuẫn khác. Sự sinh tồn của các
quốc gia nhỏ bé như quốc gia chúng ta căn cứ trên sự khai thác đúng
mức các loại mâu thuẫn. Vì vậy cho nên, miễn là thiểu số lãnh đạo
xứng danh của chúng ta còn, là chúng ta còn cơ hội phát triển. Cơ
hội phát triển của chúng ta khác với cơ hội phát triển của các khối
lớn, như Trung Hoa hay Ấn Độ, là ở chỗ đó.
Trong các đoạn
trên đây chúng ta đã cố gắng tìm hiểu công cuộc mà dân tộc chúng ta
cần phải thực hiện, trong giai đoạn này, để bảo vệ độc lập và mưu
hạnh phúc cho toàn dân.
Công việc đã nhìn thấy, hoàn cảnh bên
ngoài có thuận tiện, vậy thực hiện được hay không còn phụ thuộc điều
kiện nội bộ của chúng ta. Trong phần sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu
những điều kiện nội bộ nói trên.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Phần III
9. ĐIỀU KIỆN NỘI BỘ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Thật
ra thì, vì sự minh bạch của vấn đề trình bày, nên, trong các phần
trước, có nhiều điều kiện nội bộ đã
được
đề cập đến. Dưới đây, chúng ta sẽ xem lại toàn thể các điều kiện nội
bộ, và nếu cần sẽ nhắc lại các điều kiện đã bàn đến. Ngoài ra, chúng
ta cũng sẽ gồm vào phần này những điều kiện phát sinh ra do sự liên
lạc của Việt Nam với các phần tử khác trong xã hội Đông Á, và với
các quốc gia đang tìm phát triển. Sự liên lạc, với các quốc gia
trong xã hội Đông Á, có thể xem là điều kiện nội bộ của chúng ta,
bởi vì chúng ta là một phần tử trong xã hội đó. Sự liên lạc, giữa
chúng ta và các nước đang tìm phát triển, có thể xem là điều kiện
nội bộ, bởi vì trong một thế giới do Tây phương và Nga Sô phân chia
ảnh hưởng như ngày nay, chúng ta và các nước đang tìm phát triển,
đều ở vào những hoàn cảnh có nhiều điểm tương đồng.
Thật đúng
ra thì, trong phần này chúng ta sẽ phân tích tất cả các điều kiện
đã, hay có thể, gây cho chúng ta một cái vốn thuận hay một cái vốn
nghịch, trong sự thực hiện công cuộc phát triển dân tộc của chúng
ta.
Liên lạc với Trung Hoa
Từ khi lập
quốc, năm 939, đến khi bị sự tấn công của Tây phương và biến thành
một thuộc địa của đế quốc Pháp, hai sự kiện hoàn toàn chi phối chín
trăm năm lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Hai sự kiện đó là sự
liên lạc với Trung Hoa và công cuộc Nam tiến.
Trong lịch sử
bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, các biến cố xảy ra đều do hai
tâm lý đối chọi nhau. Từ năm 972, sau khi đã nhìn nhận độc lập của
Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đã mất một phần lãnh
thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu
gồm phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên kia, Việt Nam lúc
nào cũng nỗ lực mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của mình.
Tất cả các sự kiện, xảy ra giữa hai quốc gia, đều do sự khác nhau
của hai quan niệm trên.
Ngay năm 981, nghĩa là vừa ba năm
sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam, Tống triều thừa lúc nội
chính Việt Nam có biến, vì Đinh Tiên Hoàng vừa mất, và sự kế vị
không giải quyết được, gởi sang Việt Nam hai đạo quân, do đường thuỷ
và đường bộ, để đặt lại nền thống trị của Trung Hoa.
Quan niệm Trung Quốc
Ý cố định của Trung Hoa là đặt
lại nền thống trị và không lúc nào Trung Hoa thỏa mãn với sự thần
phục và triều cống của chúng ta. Ngay những lúc mà quân đội chúng ta
hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa, thì các nhà lãnh
đạo của Việt Nam cũng khôn ngoan, tìm cách thỏa thuận với Trung Hoa
và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng, điều mà Trung Hoa muốn
không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa, suốt
gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà
Trung Hoa coi như bị tạm mất.
Trong 900 năm, t năm 939 đến
năm 1840, khi Tây phương tấn công vào xã hội Đông Á làm cho nhng mu
thuẫn, nội bộ của xã hội này, tạm ngưng hoạt động, Trung Hoa đã bảy
lần toan chiếm lại nước Việt Nam. Hai lần do nhà Tống chủ trương, ba
lần nhà Nguyên, một lần nhà Minh và một lần nhà Thanh. Một hành động
liên tục như vậy, nhất định có nghĩa là tất cả các triều đại Trung
Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt lại nền thống trị trên lãnh
thổ Việt Nam. Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh tế ấn
định: lưu vực sông Hồng Hà là đường thoát ra biển thiên nhiên của
các tỉnh Tây Nam của Trung Hoa, và ngược lại cũng là con đường xâm
nhập cho các đạo quân chinh phục vào nội địa Trung Hoa. Đã như vậy
thì, ngay bây giờ, ý định của Trung Cộng vẫn là muốn thôn tính, nếu
không phải hết nước Việt Nam, thì ít ra cũng Bắc phần. Cũng chỉ vì
lý do này mà, năm 1883, Lý Hồng Chương, thừa lúc Tự Đức cầu viện để
chống Pháp, đã, thay vì gửi quân sang giúp một nước cùng một văn hóa
để chống ngoại xâm, và thay vì cứu viện một thuộc quốc mà Trung Hoa
đáng lý ra phải có nhiệm vụ bảo vệ, lại thương thuyết một kế hoạch
chia đôi Việt Nam với Pháp, Trung Hoa dành cho mình các phần đất gồm
các vùng bao bọc lưu vực sông Hồng Hà để lấy đường ra biển. Và ngay
chính phủ Tưởng Giới Thạch năm 1945, dành phần giải giới quân đội
Nhật Bản từ vĩ tuyến 17 trở lên phía Bắc, cũng vì lý do trên.
Xem thế đủ biết rằng, đối với dân tộc chúng ta họa xâm lăng là
một mối đe dọa thường xuyên.
Họa xâm lăng của Trung Hoa vừa
tạm ngưng, vì sự tấn công của Tây phương, là chúng ta lọt ngay vào
sự thống trị của đế quốc Pháp.
Ngày nay, ách thực dân vừa mới
cởi được, nhưng cái họa xâm lăng đối với chúng ta không thể vì thế
mà thuyên giảm. Bởi vì họa xâm lăng, do vị trí địa dư của chúng ta
và tình trạng nội bộ của chúng ta mà ra, và bao giờ hai yếu tố đó
chưa thay đổi được thì họa xâm lăng vẫn còn.
Tâm lý
thuộc quốc
Họa xâm lăng đe dọa dân tộc chúng ta đến
nỗi, trong suốt một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, trở thành một
ám ảnh cho tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta. Và do đó mà lịch sử
ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một tâm lý
thuộc quốc.
Hai lần Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ tìm cách đả
phá không khí lệ thuộc đó. Nhưng mặc dầu những chiến công lừng lẫy
và tài ngoại giao rất khéo, hai nhà lãnh đạo trứ danh của dân tộc
vẫn phải khuất phục trước thực tế.
Tâm lý thuộc quốc đè nặng,
chẳng những trên sự bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, lại còn
lan tràn sang lĩnh vực bang giao giữa chúng ta và các nước láng
giềng. Nếu, đối với Trung Hoa, chúng ta là thuộc quốc, thì đối với
các nước chung quanh, chúng ta lại muốn họ là thuộc quốc. Tâm lý đó
làm cho sự bang giao, giữa chúng ta và các nước láng giềng, lúc nào
cũng gay go. Đã đành rằng công cuộc Nam tiến của chúng ta, là một
công trình mà dân tộc đã thực hiện được, Nhưng chúng ta còn thiếu
tài liệu để cho các sử gia có thể xét đoán xem, nếu chính sách ngoại
giao của chúng ta khoáng đạt hơn, tựa trên những nguyên tắc phong
phú hơn thì, có lẽ sự bành trướng của chúng ta sẽ không một chiều
như vậy. Ví dụ, một câu hỏi mà chúng ta không thể tránh được: chúng
ta là một dân tộc ở sát bờ biển, nhưng sao nghệ thuật vượt biển của
chúng ta không phát triển? Nếu chính sách ngoại giao của chúng ta
phong phú hơn, và không bó hẹp vào một đường lối duy nhất, có lẽ sự
bành trướng của dân tộc chúng ta, đã sớm phát ra nhiều ngõ, và sinh
lực của chúng ta không phải chỉ dồn vào mỗi một công cuộc Nam tiến.
Nước chúng ta ở vào giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Với
một chính sách ngoại giao khoáng đạt hơn, sự liên lạc quốc tế của
chúng ta có lẽ đã rộng rãi hơn, và do đó, vị trí của chúng ta sẽ,
đương nhiên, được củng cố bằng những biện pháp dồi đào và hữu hiệu
hơn.
Nhưng thực tế là vậy đó. Họa xâm lăng của Trung Hoa đè
nặng vào đời sống của dân tộc chúng ta, đến nỗi, tất cả các nhà lãnh
đạo của chúng ta đều bị ám ảnh bởi sự đe dọa đó. Và, để đối phó lại,
họ chỉ có hai con đường, một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng
bờ cõi về phía Nam.
Sở dĩ, khi bị Tây phương tấn công, mà các
nhà lãnh đạo triều Nguyễn của chúng ta lúc bấy giờ, không có đủ khả
năng quan niệm một cuộc ngoại giao rộng rãi, để khai thác mâu thuẫn
giữa các cường quốc Tây phương, là vì các nhà lãnh đạo của chúng ta
không lúc nào vùng vẫy, đả phá nổi không khí tâm lý thuộc quốc đã
đời đời đè nặng lên lịch sử ngoại giao của chúng ta. Hành động ngoại
giao duy nhất lúc bấy giờ là gởi sứ bộ sang cầu cứu với Trung Hoa.
Chúng ta đã biết Trung Hoa đã hưởng ứng như thế nào lời kêu gọi của
nhà Nguyễn. Nhưng Trung Hoa cũng đang bị đe dọa như chúng ta, nếu
không có lẽ Trung Hoa đã lại thừa cơ hội mà đặt lại nền thống trị ở
Việt Nam.
Các sứ bộ của chúng ta gởi sang Pháp lại cũng với
mục đích điều đình, thần phục với Pháp như chúng ta quen điều đình,
thần phục với Trung Hoa, chớ không phải với mục đích đương nhiên
phải có của một hành động ngoại giao, là khai thác các mâu thuẫn để
mưu lợi cho mình.
Vì thế cho nên, nếu chúng ta có cho rằng,
công cuộc Nam tiến thành công là một kết quả của chính sách ngoại
giao một chiều như trên đã trình bày, thì cân nhắc kết quả đó với
những sự thất bại mà cũng chính sách ngoại giao đó đã mang đến cho
chúng ta trong một ngàn năm lịch sử, thì có lẽ những sự thất bại
nặng hơn nhiều.
Sự bành trướng của chúng ta đã thâu hẹp lại
và chỉ theo có một chiều, bỏ hẳn cửa biển bao la đáng lý ra phải là
cái cửa sống cho chúng ta.
Nền ngoại giao của chúng ta ấu trĩ
nên, lúc hữu sự, không đủ khả năng để bảo vệ chúng ta. Trong khi đó,
đối với một quốc gia nhỏ lúc nào cũng bị họa xâm lăng đe dọa, thì
ngoại giao là một trong các lợi khí sắc bén và hữu hiệu để bảo vệ
độc lập và lãnh thổ.
Lỗi lầm trước đã như vậy đó.
Trong chín trăm năm, từ ngày lập quốc, chúng ta đã bị ngoại xâm tám
lần, bảy lần do Trung Hoa và một lần do Tây phương. Chúng ta đẩy lui
được sáu lần, chỉ có lần thứ sáu nhà Minh đặt lại nền thống trị,
trong hai mươi năm, và lần thứ tám đế quốc Pháp xâm chiếm toàn lãnh
thổ và thống trị chúng ta trong hơn tám mươi năm.
Chống ngoại xâm
Vì vậy cho nên, chống ngoại xâm là
một yếu tố quan trọng trong chính trị của Việt Nam. Chính trị cổ
truyền, của các triều đại Việt Nam không được quan niệm rộng rãi
nên, nếu có phân nửa kết quả đối với sự xâm lăng của Trung Hoa, thì
lại hướng chúng ta vào một chính sách chật hẹp về ngoại giao. Do đó
tất cả sinh lực phát triển của dân tộc, thay vì mở cho chúng ta được
nhiều đường sống, lại được dốc hết vào một cuộc chiến đấu tiêu hao
chỉ để tranh giành đất dung thân. Một mặt khác, chính sách ngoại
giao chật hẹp đã đưa chúng ta vào một thế cô lập cho nên lúc hữu sự,
các nhà lãnh đạo của chúng ta không đương đầu nổi với sóng gió, và
lưu lại nhiều hậu quả tai hại cho nhiều thế hệ.
Chính
sách chống ngoại xâm
Cái họa ngoại xâm đối với chúng
ta hiển nhiên và liên tục như vậy. Vì sao những biện pháp cổ truyền,
của các nhà lãnh đạo của chúng ta trước đây, thành công phân nửa,
trong công cuộc chống ngoại xâm Trung Hoa, nhưng thất bại trong công
cuộc chống ngoại xâm Tây phương?
Trước hết, các biện pháp cổ
truyền đã đặt vấn đề ngoại xâm của Trung Hoa là một vẩn đề chỉ liên
quan đến hai nước: Trung Hoa và Việt Nam. So sánh hai khối Trung Hoa
và Việt Nam, thì như thế là đương phải với mục đích đương nhiên,
chúng ta đã thất bại rồi. Những sự thần phục và triều cống chỉ là
những biện pháp hoãn binh. Và vấn đề chống ngoại xâm chưa bao giờ
được các triều đại Việt Nam đặt thành một chính sách đương nhiên và
nguyên tắc, đối với một nước nhỏ, như nước chúng ta. Vì thế cho nên,
những biện pháp cần được áp dụng, như biện pháp ngoại giao, đã không
hề được sử dụng khi Tây phương xâm chiếm nước ta.
Lý do thứ
hai, là công cuộc chống ngoại xâm chỉ được chuẩn bị trên lĩnh vực
quân sự. Nhưng, nếu chúng ta không thể phủ nhận tính cách cần thiết
và thành quả của các biện pháp quân sự trong các chiến trận chống
các triều đại Trung Hoa: nhà Tống, nhà Nguyên cũng như nhà Minh, nhà
Thanh, chúng ta phải nhìn nhận rằng nỗ lực quân sự của chúng ta rất
là giới hạn. Và ngày nay, độc lập rồi, thì nỗ lực quân sự của chúng
ta chắc chắn cũng rất là giới hạn.
Như vậy, đối với một nước
nhỏ, trong một công cuộc chống ngoại xâm, biện pháp quân sự không
thể làm sao đủ được. Trên kia, chúng ta có đề cập đến những biện
pháp ngoại giao, đặt trên căn bản khai thác mâu thuẫn giữa các cường
quốc để bảo vệ độc lập cho chúng ta.
Tuy nhiên biện pháp cần
thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta,
là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ý
thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị
khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc
gia được nhiều người thấu triệt.
Nếu ý thức quốc gia và dân
tộc được ăn sâu vào tâm não của toàn dân, và độc lập và tự do được
mọi người mến chuộng, thì các cường quốc xâm lăng, dầu có đánh tan
được tất cả các đạo quân của chúng ta và có thắng chúng ta trong các
cuộc ngoại giao đi nữa, cũng không làm sao diệt được ý chí quật
cường của cả một dân tộc.
Nhưng ý chí quật cường đó đến cao
độ, mà không người lãnh đạo thì cũng không làm gì được đối với kẻ
xâm lăng.
Vì vậy cho nên, đồng thời với những biện pháp quần
chúng nói trên, cần phải áp dụng những biện pháp giáo dục, làm cho
mỗi người dân đều quen biết với vấn đề lãnh ạo, và, điều này còn
chính yếu hơn nữa, làm cho số người thấu triệt vấn đề lãnh đạo quốc
gia càng đông bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Bởi vì, có như thế,
những người lãnh đạo mới không bao giờ bị tiêu diệt hết được. Tiêu
diệt người lãnh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các cường
quốc xâm lăng.
Nhân đề cập đến vấn đề chống xâm lăng trên
đây, lý luận đã dẫn dắt chúng ta đến một vấn đề vô cùng quan trọng.
Trước tiên chúng ta nhận thức rằng đối với một nước nhỏ như
chúng ta, họa xâm lăng là một đe dọa thường xuyên.
Để chống
xâm lăng, chúng ta có những biện pháp quân sự và ngoại giao. Nhưng
hơn cả các biện pháp quân sự và ngoại giao, về phương diện hữu hiệu
và chủ động, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân,
phát huy ý thức quốc gia và dân tộc, và mở rộng khuôn khổ giới lãnh
đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.
Sự thể đã như vậy, thì đương nhiên một chính thể chuyên chế và
độc tài không làm sao đủ điều kiện để bảo vệ quốc gia chống ngoại
xâm được. Bởi vì bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là
tiêu diệt tận gốc rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm não của
mọi người, để biến mỗi người thành một động cơ hoàn toàn không có ý
chí, dễ điều khiển, dễ đặt để, và dễ sử dụng như một khí cụ.
Bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là giữ độc quyền
lãnh đạo quốc gia cho một người hay một số rất ít người, để cho sự
thấu triệt các vấn đề căn băn của quốc gia trở thành, trong tay họ,
những lợi khí sắc bén, để củng cố địa vị của người cầm quyền.
Hơn nữa, giả sử mà chính thể chuyên chế hay độc tài chưa tiêu
diệt được hẳn tinh thần tự do và độc lập trong ý thức của mọi người,
thì, tự nó, một chính thể chuyên chế hay độc tài cũng là một lợi khí
cho kẻ ngoại xâm. Bởi vì, dưới một chế độ như vậy, nhân dân bị áp
bức, sẽ đâm ra oán ghét người lãnh đạo họ, và hướng về, bất cứ ai
đánh đổ người họ oán ghét, như là hướng về một người giải phóng, mặc
dầu đó là một kẻ xâm lăng. Lịch sử xưa nay của các quốc gia trên thế
giới đều xác nhận điều này: Chỉ có những dân tộc sống tự do mới
chống được ngoại xâm.
Riêng về dân tộc chúng ta, chắc chắn
rằng sự kháng cự của chúng ta đối với sự xâm lăng của Tây phương sẽ
mãnh liệt hơn bội phần nếu trước đó, nhà Nguyễn, thay vì lên án tất
cả những người bàn về quốc sự, đã nuôi dưỡng được tinh thần tự do và
độc lập của mỗi người và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc trong
nhân dân.
Ngược lại, mấy lần dân tộc thắng được ngoại xâm, từ
nhà Trần đánh đuổi Mông Cổ, đến nhà Lê đánh quân Minh và Quang Trung
chiến thắng Mãn Thanh, đều nhờ ở chỗ các nhà lãnh đạo đã khêu gợi
được ý chí tự do và độc lập của toàn dân.
Và vấn đề vô cùng
quan trọng mà chúng ta đã nêu ra trên kia là vấn đề chính thể của
nước Việt Nam. Vì những lý do trình bày trên đây, chính thể thích
nghi cho dân tộc chúng ta, không phải định đoạt do một sự lựa chọn
căn cứ trên những lý thuyết chính trị, hay là những nguyên nhân
triết lý, mà sẽ được qui định một cách rõ rệt bởi hoàn cảnh địa dư
và lịch sử của chúng ta, cùng với trình độ phát triển của dân tộc.
Nếu bây giờ chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải như
thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng chính
thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là
một thái độ rất rõ rệt.
Công cuộc Nam tiến của dân
tộc Việt Nam
Công cuộc Nam tiến và sự bang giao với
Trung Hoa là trung tâm điểm của 900 năm lịch sử Việt Nam từ ngày lập
quốc năm 939, đến lúc lâm vào sự thống trị của đế quốc Pháp.
Thật ra, chính vì áp lực, quá mạnh bạo của nước Trung Hoa to lớn,
và, vì sự sống còn của dân tộc, mà chúng ta bị dồn vào thế Nam tiến.
Bị đặt vào những điều kiện lịch sử và địa dư, như những điều kiện mà
chúng ta phải đương đầu, ngay lúc vừa lập quốc, một dân tộc quen
sống về nông nghiệp như chúng ta, có thể đưa công cuộc bành trướng
của chúng ta theo một hướng khác không?
Vì sao mà trong 900
năm, chúng ta đi dọc theo bờ biển từ Bắc chí Nam, mà không lúc nào
chúng ta bị sự quyến rũ của trùng dương, đến mức vượt biển tìm đất
sống? Sự bành trướng duy nhất về phía Nam có phải là giải pháp duy
nhất không?
Nếu, thay vì Nam tiến, chúng ta vượt dãy Trường
Sơn và mang sinh lực của dân tộc lên chinh phục vùng Cao Nguyên, thì
vận mạng của dân tộc có trở thành hứa hẹn nhiều hơn ngày nay không,
cả về phương diện trù phú cho toàn dân, về phương diện tính khí của
con người và về sự tiến hóa của văn minh của chúng ta. Trả lời tất
cả những câu hỏi trên đây là một điều vô cùng quan trọng, một mặt để
tìm hiểu cái hay và cái dở của sự lãnh đạo dân tộc trong dĩ vãng, và
một mặt khác, để nhận thức sự phát triển trong tương lai của dân
tộc.
Và, sớm muộn gì, các nhà lãnh đạo của chúng ta, dưới sự
thúc đẩy của thực tế, và sức bành trướng tự nhiên của dân tộc, cũng
phải tìm câu trả lời thiết thực cho các câu hỏi trên.
Trong
các dòng dưới đây, mặc dầu tính cách quan trọng của các vấn đề vừa
mới nêu lên, chúng ta sẽ cố tình gạt bỏ một bên và không đề cập đến
những vấn đề đó. Chúng ta chỉ tìm phân tích cuộc Nam tiến của chúng
ta, từ dãy Hoành Sơn đến vịnh Thái Lan, trên phương diện hậu quả mà
cuộc Nam tiến ấy đã để lại cho dân tộc, và thử đánh giá cái vốn
thuận hay nghịch mà ngày nay chúng ta đang thừa hưởng.
Lịch trình Nam tiến
Cuộc Nam tiến của chúng
ta bắt đầu thật sự năm 1069. Và chính Lý Thường Kiệt – một trong hai
nhân vật Việt Nam duy nhất đã tìm cách đập phá không khí thần phục
nước Tàu lúc nào cũng bao trùm sự bang giao giữa chúng ta và Trung
Hoa – đã mở màn cho cuộc Nam tiến. Sau khi bị Lý Thường Kiệt đánh
bại, vua Chàm là Chế Củ bị bắt và cầm tù. Để chuộc mạng, Chế Củ cắt
ba châu, Bố Chánh, Địa Lý và Ma Lĩnh nhượng cho vua Thánh Tông nhà
Lý, hiện nay là tỉnh Quảng Bình, và phía Bắc Quảng Trị. Công cuộc di
dân bắt đầu, vào năm 1075 và dưới sự lãnh đạo của chính Lý Thường
Kiệt với tư cách Tổng trấn Thanh Hóa.
Hơn hai trăm năm sau,
năm 1301, vua Nhân Tôn nhà Trần, để củng cố sự giao hảo giữa hai
nước, Chàm và chúng ta, đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chàm
là Chế Mân. Năm 1306, để rước Huyền Trân về triều, Chế Mân cắt
nhường cho vua Anh Tông nhà Trần hai châu Ô và Rí, nay là Nam Quảng
Trị và Thừa Thiên. Dân tộc Việt đã xuống đến đèo Hải Vân.
Một
trăm bảy chục năm sau, năm 1471, vua Thánh Tông nhà Lê đánh bại vua
Chàm Ban-ta-trà-toàn. Sau đó tất cả phần đất từ đèo Hải Vân đến đèo
Cù Mông, gồm các tỉnh hiện nay là Quảng Nam và Quảng Ngãi, Bắc Bình
Định được xáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam.
Năm 1558, khi
Nguyễn Hoàng vào trấn tại Thuận Hóa, thì lãnh thổ Việt Nam đã gồm
tới đèo Cù Mông từ gần một trăm năm rồi, và nước Chàm đã được xem
như là bị tiêu diệt.
Do đó, sự thôn tính phần đất còn lại của
Chàm do Nguyễn Hoàng và con cháu, không còn khó khăn như xưa nữa.
Năm 1611, Nguyễn Hoàng, muốn tăng cường lực lượng của mình để
đương đầu với chúa Trịnh phía Bắc, chiếm thêm phần đất chạy từ đèo
Cù Mông xuống đến Sông Cầu, Phú Yên ngày nay.
Năm 1653, để
trừng phạt vua Chàm là Bá Thâm, vì tội muốn lợi dụng mậu thuẫn nội
bộ của gia đình họ Nguyễn, chúa Hiền lại chiếm cứ vùng đất chạy đến
sông Phan Rang, hiện nay là tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1693, Quốc
Chúa, Nguyễn Phúc Chú thôn tính tất cả nước Chàm đến Bình Thuận ngày
nay, sau khi bắt giam vua Chàm là Bá Tranh.
Trước khi nước
Chàm bị hoàn toàn thôn tính, Việt Nam đã bắt đầu di dân sang các
phần đất bỏ hoang của nước Cam-Bốt tại hai địa điểm Mô Xóa (Bà Rịa)
và Đồng Nai (Biên Hòa). Từ thế kỷ XV, nước Cam-bốt, vì nội loạn và
sự tấn công không ngừng của Thái Lan đã bắt đầu suy sụp. Năm 1658,
cuộc khủng hoảng nội bộ trầm trọng đến nỗi vua Cam-Bốt xin thần phục
chúa Hiền, và cam kết triều cống và bảo vệ Việt kiều. Bắt đầu từ năm
đó, làn sóng Nam tiến của chúng ta đã tràn sang Cam-bốt.
Năm
1690, thừa cơ hội một cuộc nội chiến ở Cam-bốt, và vì lý do vua
Cam-bốt không giữ lời cam kết, Chúa Mại đặt dưới quyền cai trị trực
tiếp của Việt Nam, các vùng đất có Việt kiều ở. Và năm 1698, để
chính thức hóa tình trạng trên, Chúa Mại thành lập hai tỉnh Tân Biên
(Biên Hòa) và Phiên Trấn (Gia Định) gồm các vùng có Việt kiều và
người Tàu đã thần phục nhà Nguyễn, mà hiện nay là các tỉnh Miền
Đông, Gia Định, Long An và một phần Định Trường.
Năm 1732 các
tỉnh Tiền Giang hiện nay, lại được đặt làm phủ huyện của Việt Nam,
và năm 1757, các tỉnh Hậu Giang, trừ An Xuyên, Hà Tiên và một phần
Kiên Giang. Tất cả các phần đất sau này, do Mạc Thiên Tứ chiếm cứ và
mở mang, mặc dầu đã được đặt thuộc quyển nhà Nguyễn từ năm 1708,
nhưng mãi đến năm 1780, Việt Nam mới kể là hoàn toàn chiếm cứ.
Hai giai đoạn Nam tiến
Cuộc Nam tiến tạo
thành lãnh thổ hiện nay của chúng ta có thể xem là đã kéo dài từ năm
1069 đến 1780, chia làm hai giai đoạn lớn. Giai đoạn từ 1069 đến
1693 đi từ dãy Hoành Sơn đến Bình Thuận và chiếm cứ các đồng bằng
nhỏ bé dọc theo Trường Sơn. Giai đoạn từ 1690 đến 1780, và chiếm cứ
hết đồng bằng hạ lưu sông Cửu Long.
Thời gian hơn 600 năm,
để chiếm cứ những vùng đất nhỏ hẹp ở Trung Việt, và thời gian không
đầy một trăm năm, để chiếm cứ các vùng đất mênh mông của đồng bng
sông Cửu Long.
Sự khác biệt giữa hai thời gian trên là nguyên
nhân của những hậu quả vô cùng quan trọng mà chúng ta phân tích dưới
đây.
Ngoài ra, những sự kiện lịch sử, đã xảy ra trong hai
khoảng thời gian đó, góp một phần rất nặng vào những hậu quả nói
trên.
Trong khoảng thời gian từ 1061 đến 1693, sự chiếm cứ
tất cả các phần đất mới lấy được của Chàm, mặc dù chúng ta phải đối
phó với những phản ứng đôi khi mãnh liệt của dân tộc Chàm, không hề
bị ảnh hưởng tai hại của các biến cố nội bộ. Vì đó mà việc di dân và
tổ chức các đất mới, theo cơ cấu xã hội Việt Nam được thực hiện một
cách có qui củ và liên tục từ ngày chiếm cứ.
Trái lại sự
chiếm cứ các đất ở phía Nam, lấy được của Cam-bốt vào khoảng cuối
thế kỷ 17, chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc chiến tranh giữa Nguyễn
Ánh và Tây Sơn, gây điêu tàn cho cả dân tộc từ Bắc chí Nam. Vì vậy
mà, các phần đất mới chiếm được, từ khoảng này về sau không được
hưởng một sự di dân và một sự đặt cơ cấu mới, có qui củ và liên tục.
So sánh những phần đất chiếm được ở Trung và ở Nam trong cuộc Nam
tiến chúng ta nhận thấy các điều như sau:
* Các phần
đất ở Trung nhỏ hẹp.
* Các phần đất ở Nam rộng lớn.
Trong sáu trăm năm chúng ta mới chiếm được các phần đất ở Trung
đi từ dãy Hoành Sơn đến Bình Thuận.
Trong không đầy một trăm
năm chúng ta chiếm được cả đồng bằng hạ lưu sông Mê-kông.
Các
phần đất ở Trung phần sau khi chiếm được, chúng ta đều có một thời
gian dài và yên ổn để di dân và tổ chức cơ cấu xã hội.
Đối
với các phần đất ở Nam phần, vừa sau khi chiếm được, chúng ta bị
chiến tranh nội bộ tàn phá, cho nên cuộc di dân rất hỗn độn và sự tổ
chức cơ cấu xã hội vô cùng thiếu sót.
Vì những lý do trên cho
nên sự chiếm cứ các vùng đồng bằng ở Trung phần tuy là chưa hoàn bị
nhưng cũng có thể xem là tạm xong. Trái lại cuộc chiếm cứ đồng bằng
hạ lưu sông Mê-kông hoàn toàn chưa xong.
Sau khi thống nhất
quốc gia năm 1802, Nguyễn Triều bắt tay ngay vào việc kiến thiết
quốc gia, nhưng chỉ năm mươi năm sau, chúng ta bị Tây phương tấn
công, và tiếp theo đó, bị đế quốc Pháp thống trị. Trong khoảng năm
mươi năm, dầu nỗ lực đến đâu, nhưng với cái tốc độ của những biện
pháp lúc bấy giờ, nhà Nguyễn cũng chỉ có thể củng cố địa vị, và
nhiều lắm là tạm hàn gắn các vết thương của mấy thế kỷ nội chiến. Và
năm chục năm, vừa hơn một thế hệ, chưa đủ để cho sự tổ chức cơ cấu
xã hội, ở các vùng mới chiếm cứ, có thời giờ ăn rễ một cách đủ bảo
đảm cho sự tồn tại của các truyền thống dân tộc. Đó là trong trường
hợp mà các nhà đương quyền có thật sự nhận thức việc tổ chức cơ cấu
xã hội là một công cuộc tối quan hệ, cần được xem là trọng tâm.
Nhưng về điểm này, các sử gia của chúng ta sau này, cần sưu tầm
xem việc tổ chức cơ cấu xã hội ở các vùng mới chiếm cứ trong Nam, có
phải là mối lo âu của Nguyễn triều không. Tới nay, chưa có tài liệu
nào xác nhận điều đó.
Nhiều hậu quả
Một sự kiện có thể là một nguyên nhân khác, thuộc về loại nhân sinh,
của sự chiếm cứ chưa rồi của chúng ta, đối với miền Nam. Trong tám
trăm năm, dân số của chúng ta, sinh sống ở đồng bằng sông Hồng Hà và
các đồng bằng con con ở Trung Việt, đã có một mức gia tăng trung
bình. Mỗi khi nhân khẩu lên cao, áp lực thúc đẩy chúng ta chiếm thêm
đất cày ruộng. Nếu căn cứ theo nhận xét rằng, trong sáu trăm năm áp
lực nhân khẩu của chúng ta có thể thỏa mãn được, bằng sự chiếm cứ
thêm các vùng đồng bằng con con ở Trung Việt, thì áp lực ấy không to
lớn lắm, và do đó, tỷ lệ gia tăng của dân số có một mức nhất định.
Đột nhiên, chúng ta mở được cửa của vùng đồng bằng Mê-kông. Nhu cầu
di dân, để chiếm cứ các vùng đất mới, vượt quá sức sinh sản của
chúng ta. Do đó, chúng ta không đủ dân số để chiếm cứ đồng bằng sông
Cửu Long. Sự kiện trên đây cần được xác nhận bằng những con số về
dân số của chúng ta từ những năm 1000 trở về sau, điều mà, trong
tình trạng hiện nay, khó cho chúng ta có được.
Đúng ra, sự
chiếm cứ có thể thực hiện được bằng những cuộc di dân lớn lao và có
tổ chức, để, đồng thời, tháo áp lực nhân khẩu miền Bắc và di dân vào
Nam. Đằng này, chúng ta chỉ thấy sử sách chép lại tổ chức đinh điền
và đồn điền của Nguyễn Tri Phương ở miền Nam, một biện pháp đã có
thành quả khi chiếm cứ miền Trung, nhưng rõ ràng không xứng đáng với
công cuộc chiếm cứ đang đợi ở miền Nam. Trong khi đó triều Nguyễn
phải dồn nhiều nỗ lực mở mang miền Bắc để nuôi dân, như công cuộc
khai khẩn của Nguyễn Công Trứ ở Thái Bình và Ninh Bình.
Các
sự kiện trên chứng tỏ quan niệm không thích nghi của nhà Nguyễn đối
với các đại công tác trên lĩnh vực quốc gia lúc bấy giờ, vừa trên
phương diện trọng tâm vừa trên phương diện vị trí địa dư. Những lý
do chính trị, trong đó sự kiện lòng dân chưa định là một, có thể ảnh
hưởng đến các quyết định của Nguyễn triều đối với miền Bắc. Nhưng,
chúng ta sẽ thấy dưới đây, hậu quả chính trị của các biện pháp trên
của Nguyễn triều còn tai hại gấp mấy lần các hậu quả kinh tế và nhân
sinh.
Một phần đất mới chiếm cứ, trên đó dân cư thưa thớt, tổ
chức xã hội chưa có, tập quán cổ truyền của dân tộc chưa cố định
trong đời sống thường ngày của dân chúng, ý thức quê hương xứ sở
chưa ăn rễ vào khung cảnh mới, là một nhược điểm trên thân thể quốc
gia, về phương diện quốc phòng. Đó là những nơi mà kẻ xâm lăng đánh
vào trước hết, bởi vì họ cũng ý thức rằng, sức kháng cự của một lớp
dân chúng chưa mọc rễ vào địa phương chắc chắn sẽ không đáng kể. Và,
đương nhiên, những nơi đó là những vùng mà họa xâm lăng, một đe dọa
thường trực đối với các quốc gia nhỏ, như quốc gia chúng ta, có thể
bắc cầu, một cách hiệu quả, để lan tràn khắp đất nước. Vì vậy mà,
miền Nam dưới Triều Nguyễn, đã trở thành một vùng hiểm địa cho toàn
lãnh thổ.
Lịch sử đã xác nhận các sự kiện trên. Người Pháp
hai lần tấn công nước ta, đều đánh trước tiên vào miền Nam, lần đầu
năm 1860 và các năm kế tiếp. Lúc bấy giờ như trên chúng ta đã thấy,
sự chiếm cứ của chúng ta đối với miền Nam hoàn toàn còn đang dở
dang. Tám mươi lăm năm dưới sự thống trị của Pháp, cố nhiên là,
chẳng những các dinh điền của Nguyễn Tri Phương đều bị tan rã, mà
lại sự chiếm cứ của chúng ta, nếu có tiếp tục vì áp lực nhân khẩu
đương nhiên, đã được thực hiện một cách hỗn độn, vì thể theo quyền
lợi của các tổ chức kinh tế thực dân Pháp, chớ không làm sao theo
đường lối ấn định bởi quyền lợi của dân tộc. Vì thế cho nên, sau tám
mươi lăm năm, sự chiếm cứ của chúng ta đối với miền Nam vẫn ở trong
tình trạng dở dang như trước. Và vì thế cho nên, lần thứ hai năm
1945, người Pháp, ngoài các lý do kinh tế và quân sự, lại đánh chiếm
miền Nam trước, một lần nữa.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Phần III
10. CƠ SỞ HẠ TẦNG VÔ TỔ CHỨC
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Tình
trạng vô tổ chức, của hạ tầng cơ sở nông thôn của chúng ta, lúc quân
Pháp đến, đã là một lợi khí cho
họ. Đối với chúng ta, là một lỗi lầm quan trọng vì nhiều lý do.
Trước hết, khi Gia Long tức vị thì người Y Pha Nho đã chiếm cứ
Phi Luật Tân từ ba trăm năm. Người Anh và người Pháp đã đổ bộ lên ấn
Độ từ một trăm năm chục năm. Người Hòa Lan và người Anh giành nhau
Nam Dương quần đảo từ một trăm năm. Cả người Hòa Lan, người Anh và
người Pháp tranh giành ảnh hưởng với nhau tại Thái Lan từ cuối thế
kỷ 17. Người Anh đã đánh bạt người Hòa Lan ra khỏi Mã Lai, và chiếm
bán đảo này từ hơn năm chục năm. Nghĩa là sự tấn công của Tây phương
vào các quốc gia Á châu đã có từ lâu và các vị trí của họ đã bao vây
Việt Nam. Triều Nguyễn không thể không biết tình trạng đó, nhất là
khi chính Gia Long đã liên lạc chặt chẽ với Tây phương và nhờ kỹ
thuật của họ mà chiếm lại được chính quyền. Gia Long không thể không
biết sức mạnh của kỹ thuật Tây phương và cũng không thể không biết ý
chí xâm lăng của Tây phương khi tình trạng của các quốc gia chung
quanh chúng ta như đã trình bày trên đây.
Như thế thì, vì lý
do gì mà chúng ta không cố tìm cách đoán trước cái họa xâm lăng đã
đến gần một bên?
Trong nội bộ, những biện pháp quốc phòng
không có, đối ngoại, trong khi những biến cố đang dồn dập xảy ra cho
các quốc gia láng giềng như chúng ta vừa thấy, thì quan niệm ngoại
giao của chúng ta vẫn chật hẹp và đóng cửa như xưa.
Mãi đến
năm 1839, khi người Anh can thiệp bằng võ lực vào nội địa Trung Hoa
trong cuộc chiến tranh Nha phiến, thì lúc bấy giờ, Minh Mạng mới ý
thức được tình trạng nguy ngập của quốc gia và vội vã và đột ngột
gửi hai phái bộ sang Anh và Pháp. Nhưng tình thế đã muộn. Vả lại,
một phái bộ ngoại giao gửi đi một cách đột ngột không chuẩn bị,
không lót đường, không thương thuyết sơ khởi, làm sao mang đến kết
quả gì?
Và sau đó, các sự kiện đã dồn dập xảy ra như chúng ta
đều biết, và hai mươi năm sau chúng ta lâm vào ách thống trị của đế
quốc.
Các sử gia thường cho rằng, nguyên nhân của trạng thái
không dự bị của triều Nguyễn đối với họa xâm lăng, và lý do của
những hành động kém sáng suốt trong giai đoạn quyết liệt ấy, là tâm
lý của những người, đã trải qua nhiều đời, thấm nhuần nho học cho
nên, ngoài văn minh Trung Hoa ra, không còn nhìn thấy có thể có
những sự phát triển nào khác cho nhân loại. Vì vậy cho nên, họ nhất
định nhắm mắt trước các sự kiện đang dồn dập xảy đến. Ngoài lý do
trên, sự bị giam hãm trong một nền ngoại giao cổ truyền chật hẹp,
căn cứ trên tâm lý thuộc quốc đối với Trung Hoa, là một trở lực to
tát.
Tâm lý này bộc lộ ra rõ rệt trong phản ứng của chúng ta
lúc bấy giờ. Trước khi chính Trung Hoa bị tấn công, thì phản ứng của
chúng ta như là không có đối với sự tấn công của Tây phương vào các
quốc gia Á châu láng giềng. Ngược lại sau khi Trung Hoa bị tấn công,
thì lúc bây giờ phản ứng của chúng ta là vội vã gửi hai phái bộ sang
Pháp và Anh, mà không có một sự chuẩn bị ngoi giao nào cả. Lối gởi
phái bộ như vậy là lối gởi sứ bộ sang Tàu xưa nay. Và sự gởi hai
phái bộ sang Pháp và Anh, theo lối gởi sứ bộ sang Tàu xưa nay, lại
càng làm cho chúng ta nhận thức, một cách rõ rệt hơn nữa, quan niệm
về ngoại giao của chúng ta lúc bấy giờ mang nặng “tâm lý thuộc
quốc”, đến mức độ nào.
Và ngay trong lúc này, chúng ta đang
thừa hưởng cái hậu quả tai hại của tình trạng chiếm cứ dở dang của
chúng ta đối với miền Nam. Tình trạng vô tổ chức của làng mạc trong
miền Nam, như trên chúng ta đã thấy, là một tình trạng thuận lợi cho
kẻ xâm lăng, nghĩa là cho kẻ tấn công bao nhiêu, thì bất lợi cho kẻ
cố thủ bấy nhiêu. Trong thời gian kháng cự với Pháp, sự kiện này
càng thể hiện rõ rệt. Quân Pháp tấn công rất dễ vào các làng do quân
kháng chiến kiểm soát, cũng như quân kháng chiến tấn công rất dễ vào
các làng do quân Pháp kiểm soát. Trong khi đó, ở miền Bắc và miền
Trung, sự tấn công của một bên này, vào một làng do bên kia chiếm
giữ là một hành động vô cùng khó khăn.
Và ngay bây giờ, sở dĩ
du kích quân của miền Bắc phá rối dễ dàng các vùng nông thôn của
miền Nam, là vì theo chiến lược du kích của Mao Trạch Đông, họ đóng
vai trò tấn công vào các làng mạc vô tổ chức, mà chúng ta cố thủ.
Trong trường hợp đó, và trước một thực tế hiển nhiên, liên quan
đến sự thiếu tổ chức của chúng ta trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở nông
thôn, chúng ta chỉ có thể chặn được du kích ở nông thôn, nếu, hoặc
là, chúng ta không nhận vai trò cố thủ các làng, xoay chiến lược, để
chính chúng ta sẽ tấn công vào các làng từ những cứ điểm có tổ chức
và phòng thủ được, hoặc là, chúng ta tổ chức các làng trước, rồi mới
cố thủ sau.
Sự chiếm cứ dở dang của chúng ta đối với miền Nam
lại còn có nhiều ảnh hưởng nặng nề về nhân sinh, về xã hội và về
kinh tế mà chúng ta sẽ nhìn thấy rõ khi xét về hình thức vật chất
các làng của chúng ta từ Bắc chí Nam.
Hình thức vật
chất của làng
Trước hết, chúng ta sẽ không vội vã,
như phần đông các sử gia và kinh tế gia của chúng ta, khen ngợi và
hãnh diện với tổ chức làng mạc của chúng ta, mà những người này xem
là một sáng kiến kỳ đặc của dân tộc. Những người này thường ca tụng
tính cách dân chủ trong sự tổ chức tự trị của làng và tính cách độc
lập của làng đối với chính quyền trung ương. Nhưng thật ra thì, bất
cứ dưới triều đại nào của chúng ta, tùy lúc, sự kiểm soát của trung
ương có thể, hoặc chặt chẽ, hoặc nới rộng, đối với làng mạc. Trong
những thời kỳ mà sự kiểm soát của trung ương chặt chẽ đối với làng
thì, công việc hành chính của làng do một quan viên của trung ương
bổ nhậm phụ trách. Trong những thời kỳ mà sự tự trị của làng được
rộng rãi hơn, thì công việc hành chính do người trong làng đảm
trách. Điều thứ hai là tính cách dân chủ nhận xét ở trong sự tự trị
của các làng chỉ là hình thức tập hợp xã hội thấp nhất của loài
người, mà các bộ lạc nào cũng có.
Chúng ta tự gạt bỏ các sự
kiện trên đây ra một bên, và chỉ chú trọng đến hình thức vật chất
trong sự tổ chức làng, để căn cứ trên đó mà đo trình độ tổ chức hạ
tầng cơ sở của chúng ta, trên phương diện nhân sinh, xã hội và văn
hóa.
Nhận xét kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng làng chúng ta ở miền
Bắc được tổ chức một cách trù mật: nghĩa là, trong phạm vi lãnh thổ
của làng, vuông rào của làng xây trên một đất hẹp, lại gồm nhiều nóc
gia và dân cư đông đúc. Lối đi và nhà cửa trong làng sắp xếp như
trong một thành phố nho nhỏ, tất cả các cơ sở công cộng, trường,
đình, chùa, công sở, vân vân, đều phục vụ toàn thể dân làng. Nếp
sống tập thể giữa những người trong làng đó sẽ đương nhiên, và ý
thức cộng đồng thành một tập quán của dân làng. Hai chữ “Làng tôi”
khêu gợi một vũ trụ nho nhỏ, một tập thể trong đó có tôi.
“Làng” là một đơn vị xã hội sau gia đình, một đơn vị quốc phòng,
hành chánh của quốc gia, và một đơn vị kinh tế cho vùng. Hình thức
này là hình thức nguyên khởi của làng chúng ta, và chúng ta tìm thấy
hình thức nguyên khởi này ở tất cả làng miền Bắc, Bắc miền Trung,
đến Quảng Bình và Quảng Trị.
Các vùng đó gồm lãnh thổ chúng
ta khi mới lập quốc và phần đất đầu tiên chiếm được của Chàm, năm
1069, dưới thời nhà Lý.
Từ phía Nam Quảng Trị đến Bình Thuận,
hình thức của làng bớt tính cách trù mật, nghĩa là vòng rào rộng hơn
và nhà trong làng thưa hơn. Sợi dây liên lạc giữa các người trong
làng vẫn còn, nhưng đã giãn ra vì sự chung đụng bớt đi khi con đường
đất dài ra, và tinh thần tập thể, cũng vì đó, mà bắt đầu nhường chỗ
cho một lối sống riêng tư.
Từ Thừa Thiên đến Bình Thuận,
vuông rào của làng càng xuống phía Nam thì càng mở rộng, nhưng sự mở
rộng không vượt quá một giới hạn. Do đó hình thức vẫn được tôn
trọng.
Các vùng này gồm các đất chiếm được của Chàm dưới
triều Trần, và Nguyễn. Đối với dân làng, tính cách đơn vị xã hội sau
gia đình bắt đầu lỏng lẻo cũng như tính cách đơn vị quốc phòng đối
với quốc gia. Tính cách hành chánh còn nguyên vẹn.
Nhưng bắt
đầu từ Bình Tuy hiện nay, đến miền Đông và các tỉnh Tiền Giang, thì
hình thức trù mật đã bể. Nhà cửa trong làng đã bắt đầu rải rác, cách
nhau thật xa. Vuông rào của làng khi xưa không còn mà chỉ còn những
vuông rào cho một xóm, gồm nhiều nhà của một dòng họ, hay những
vuông rào cho từng nhà một.
Càng đi sâu vào phía Nam, các nóc
gia càng cách xa nhau và nhà cửa càng ở rải rác khắp nơi trong phần
đất của làng. Hình thức xưa không còn nữa và cùng với hình thức xưa
nề nếp sống tập thể cũng không còn. Đối với dân làng, tính cách đơn
vị xã hội sau gia đình của làng không còn nữa.
Đối với quốc
gia, tính cách đơn vị quốc phòng không còn nữa, mà chỉ còn tính cách
đơn vị hành chánh. Các cơ sở công cộng không còn giúp ích cho toàn
thể dân làng nữa vì đường đất đã quá rộng.
Sang miền Tây, các
cánh đồng bao la của Hậu Giang hoàn toàn nuốt mất hình thức nguyên
khởi của làng Việt Nam. Trên những khoảng rộng lớn, hay dọc theo bờ
sông và bờ kinh, các nóc gia ở rải rác, hoặc gom lại từng khóm nhỏ
nhỏ, năm ba cái nhà, và chạy dài đến mươi và vài mươi cây số ngàn.
Hai chữ “Làng tôi” chỉ còn khêu gợi một tổ chức hành chánh có nhiều
bức sách.
Lý do của sự nở dần, đến vỡ tung ra, của hình thức
vật chất của làng chúng ta, từ Bắc xuống Nam, thường được xem là vì,
tại phía Bắc, đất hẹp và dân đông, phía Nam, đất rộng và thưa dân.
Lý do này, một mình không đủ để giải thích tất cả các sự kiện đã
nhận thức trên kia, bởi vì có nhiều nơi đất hẹp, như Thừa Thiên, lại
có những làng rộng hơn ở Thái Bình, hay ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, nơi
mà đất lại rộng hơn. Và, nếu ở vùng đất hẹp không thể tổ chức làng
rộng được thì trái lại ở vùng đất rộng vẫn có thể chức làng trù mật
được. Chắc chắn là đồng thời với lý do trên, một quan niệm sai lầm
về sự tổ chức làng, của những người phụ trách công cuộc chiếm cứ các
vùng đất mới, là một lý do rất nặng.
Càng xa trung ương, hình
thức nguyên khởi của làng và những hậu quả đắc lợi của hình thức đó,
lại càng bị quên.
Chỉ còn nhớ rằng làng thì cố định, có
chùa, có công sở, là đủ, mà quên rằng các cơ sở cộng cộng đó, chỉ
phục vụ hiệu quả khi nào hình thức trù mật được tôn trọng.
Hậu quả của hình thức vật chất
Nhưng dù lý
do nào, thì, sự kiện thực tế đã như vậy, và mang theo nhiều hậu quả
rất là bất lợi cho chúng ta ngày nay.
Những hậu quả bất lợi
về quốc phòng, như chúng ta đã biết, là những hậu quả tai hại cấp kỳ
nhất.
Kế đó là những hậu quả về nhân sinh, về xã hội và về
văn hóa và kinh tế, tai hại không kém, nhưng lâu ngày mới đến.
Trước hết là, sống trong khuôn khổ một hình thức trù mật, tinh
thần tập thể mới nảy nở được. Hình thức trù mật mất đi, tinh thần
tập thể cũng mất. Đó là một điều vô cùng tai hại, bởi vì lúc nào
quốc gia, một tập thể to lớn, vẫn còn và vẫn đòi hỏi ở người dân một
ý thức tập thể mà họ đã mất.
Kế đó, sống trù mật, người dân
sẽ không cô lập, sẽ dựa vào tập thể mà phát triển cá nhân. Nhờ ở sự
tương trợ giáo dục tự nhiên, kinh nghiệm của người trước truyền cho
người sau, ít thất lạc trong một tập thể và hợp thành truyền thống
của tập thể. Sống trù mật sự tiến hóa của cá nhân không bị gián
đoạn.
Sau hết, là sự liên lạc từ nhân dân lên chính quyền
trung ương, cũng như từ chính quyền trung ương xuống nhân dân, sẽ
thông suốt, dễ dàng, nếu nhân dân sống trong một hình thức trù mật.
Các cơ sở công ích mang đến cho nhân dân những phương tiện kinh tế,
xã hội hay văn hóa, để nâng cao đời sống, chỉ có thể tổ chức được
trong hình thức sống trù mật. Và lẽ dĩ nhiên là nếu hình thức sống
trù mật không có, thì tất cả những hậu quả trên kia đều không có.
Nghĩa là không hình thức trù mật, người dân sẽ sống lẻ loi, truyền
thống của tập thể mất lần, cá nhân không phát triển, ý thức tập thể
không còn. Chính quyền đến với người dân một cách gián đoạn và người
dân cũng không biết đến chính quyền.
Ngoài những dây liên lạc
gia đình ra, người dân sống cô lập không còn biết xã hội và quốc gia
là gì.
Những sự kiện tai hại trên đây, càng trở nên trầm
trọng dưới thời Pháp thuộc, bởi vì đời sống của nhân dân không phải
là mối lo âu của người thống trị.
Tình trạng xã hội của người
dân đã như vậy, tất nhiên ảnh hưởng nặng nề đến mức sản xuất kinh tế
bởi vì các kỹ thuật sản xuất, nhất là về nông nghiệp, lĩnh vực thiên
sản chính của chúng ta, đã thô sơ, lại càng ngày càng suy đồi.
Vì vậy mà chúng ta không lấy làm lạ, khi đọc những tờ trình
nghiên cứu của các chuyên viên về khả năng tăng gia sản xuất của
chúng ta trong ngành nông nghiệp. Những người này ước lượng rằng,
mức sản xuất ở miền Bắc có thể tăng lên ít nhất là năm mươi phần
trăm, ở miền Trung ít nhất là một trăm phần trăm, và ở miền Nam hai
trăm phần trăm.
Con số sai biệt, giữa ba con số đánh giá khả
năng tăng gia sản xuất của ba miền, chỉ do sự sai biệt giữa trình độ
thủ thuật sản xuất hiện tại ở ba miền.
Những trang trên đây
giúp cho chúng ta nhìn thấy rõ rằng sự chiếm cứ của chúng ta, đối
với phía Nam miền Trung chưa hoàn bị, và đối với miền Nam hoàn toàn
chưa rồi.
Để bắt tay vào công cuộc phát triển, việc đầu tiên
mà chúng ta phải thực hiện là hoàn tất công cuộc chiếm cứ nói trên,
bằng cách tổ chức lại, trên căn bản sống trù mật và tập thể, các cơ
sở hạ tầng của chúng ta ở nông thôn.
Như thế thì, việc tổ
chức lại các làng mạc ở phía Nam miền Trung và ở miền Nam, không
phải chỉ có tác dụng quân sự, đối với sự phá quấy của du kích quân
miền Bắc, mà chính là để đặt nền tảng cho công cuộc phát triển dân
tộc trên mọi lĩnh vực, nhân sinh, kinh tế và văn hóa.
Đúng
hơn nữa, hai tác dụng trên phải đi đôi với nhau. Nghĩa là, tác dụng
quân sự, đối với sự phá quấy của du kích miền Bắc, sẽ đạt được dễ
dàng hơn, nếu chúng ta đặt nó vào khuôn khổ bao quát của một công
cuộc phát triển dân tộc rộng lớn. Lý do của sự kiện này là như sau
đây:
Cộng sản, nói chung toàn bộ lý thuyết và phương pháp
hành động, là một phương tiện tranh đấu đã khắc phục được sự tin
tưởng của các nhà lãnh đạo miền Bắc. Sự tin tưởng của họ bắt nguồn
từ hai sự kiện. Trước hết là phương tiện đó đã tỏ ra có hiệu lực
trong giai đoạn giải phóng quốc gia khỏi ách thực dân, bởi vì đã
mang đến cho chúng ta những đồng minh quốc tế trong cuộc tranh đấu
lẻ loi của mỗi quốc gia, như chúng ta đã biết. Sự kiện thứ nhì là
gương phát triển của Nga Sô. Đối với hoàn cảnh của Việt Nam sự tin
tưởng có thích nghi không, chúng ta đã đề cập đến trên đây và sau
này sẽ trở lại.
Dầu thế nào, do sự tin tưởng trên, các nhà
lãnh đạo miền Bắc đã áp dụng phương pháp Cộng sản để thực hiện công
cuộc phát triển, như chúng ta đã trình bày ở phần hai, trong đó có
cuộc xâm chiếm miền Nam. Vì vậy mà, biện pháp quân sự đối với họ chỉ
là một phần trong một toàn bộ chương trình. Do đó những hành động
của họ có những khả năng lôi cuốn được quần chúng, mà riêng những
biện pháp quân sự của họ, không làm sao có được. Nói một cách khác,
biện pháp quân sự của họ không thể tách rời và đứng riêng một mình,
ngoài phạm vi công cuộc mà họ chủ trương.
Như vậy, để chống
lại những sự phá rối của du kích quân miền Bắc thì biện pháp quân sự
không thôi là không đủ. Ví dụ mà chúng ta có đánh bại họ về quân sự
đi nữa, chúng ta cũng chưa thắng họ được, bởi vì lực lượng chính yếu
của họ không phải là quân lực, nhưng là một toàn bộ chương trình.
Và chúng ta đã biết, chương trình đó không gì khác hơn là một
công cuộc phát triển theo lối Cộng sản.
Cũng như chúng ta đã
thấy trên kia, khi Nga Sô mở màn cho giai đoạn hiện tại của cuộc
tranh đấu với Tây phương thì điều kiện trước tiên để bảo đảm thắng
lợi là đưa cuộc tranh đấu của họ lên tầm quốc tế, bởi vì địch thủ là
Tây phương, đã bủa giăng lưới thống trị trên khắp địa cầu. Trường
hợp của chúng ta ngày nay trong công cuộc đánh dẹp du kích quân miền
Bắc cũng tương tự như vậy. Vì miền Bắc đặt vấn đề, du kích quân phá
rối tại miền Nam, trong khuôn khổ toàn quốc của một công cuộc phát
triển theo lối Cộng sản. Như vậy muốn đánh dẹp du kích quân, chúng
ta phải đặt công cuộc đánh dẹp đó trong khuôn khổ toàn quốc của một
công cuộc phát triển dân tộc theo lối Tự Do. Nghĩa là, những biện
pháp của chúng ta dùng phải là những biện pháp không giới hạn trong
lĩnh vực quân sự mà là những biện pháp thuộc tất cả các lĩnh vực gồm
trong khuôn khổ của công cuộc phát triển dân tộc. Và chương trình
của chúng ta phải được quan niệm, không phải chỉ cho miền Nam, mà
cho toàn quốc.
Những cái vốn của lịch sử
Ngoài hai vấn đề, “Sự liên lạc với Trung Hoa” và “Công cuộc Nam
tiến của dân tộc” đương nhiên đè nặng trên cái vốn hiện tại của dân
tộc, chúng ta đã thấy trong một đoạn trên đây, tám mươi năm thống
trị của người Pháp đã để lại cho chúng ta một di sản mà ngày nay
chúng ta còn phải mang những hậu quả rất là tai hại. Chỉ cần nhắc
lại ba gánh nặng nhất mà thời kỳ Pháp thuộc đã lưu lại cho chúng ta.
Tây phương hóa bắt buộc
Trước hết là một
công cuộc Tây phương hóa bắt buộc đối với chúng ta. Bắt buộc, bởi vì
chúng ta đã không có ý Tây phương hóa, nhưng vì sinh lực mạnh bạo
của một nền văn minh đã chiến thắng văn minh chúng ta, làm cho chúng
ta mất tin tưởng vào các giá trị tiêu chuẩn cũ, và miễn cưỡng thâu
thập nền văn minh mới. Kẻ thống trị không có quyền lợi gì để biết
đến sự Tây phương hóa của lớp người bị trị.
Vận mạng của
chúng ta lại không phải do chúng ta nắm. Vì vậy mà công cuộc Tây
phương hóa, mà chúng ta đã phải chịu nhận từ một thế kỷ nay, là một
công cuộc Tây phương hóa bắt buộc, không mục đích, không được hướng
dẫn. Dân chúng bị lôi cuốn vào một phong trào Tây phương hóa, mà
không hiểu Tây phương hóa để làm gì, Tây phương hóa đến mức nào là
đủ, và Tây phương hóa làm sao là đúng.
Xã hội tan rã
Tình trạng đó đã dẫn dắt đến sự tan rã của xã hội chúng ta. Các
giá trị tiêu chuẩn cũ đã mất hết hiệu lực đối với tập thể mà giá trị
tiêu chuẩn mới thì không có. Do đó, tín hiệu tập hợp các phần tử
trong xã hội đã mất. Đó là một điều vô cùng bất hạnh cho dân tộc
trong giai đoạn này, vì chính lúc này là lúc mà chúng ta cần phải
thực hiện công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa. Một
công cuộc như vậy đòi hỏi, như chúng ta đã biết, nhiều nỗ lực liên
tục của toàn dân và nhiều hy sinh lớn lao của mọi người. Vì vậy cho
nên, sự có một tín hiệu tập hợp vô cùng cần thiết, để toàn dân trông
vào và tin tưởng, mới có đủ nghị lực mà cung cấp cố gắng trong một
hoàn cảnh khổ hạnh. Và chính vào một thời kỳ như vậy chúng ta lại
mất các tín hiệu tập hợp.
Giả sử chúng ta có một sự tin tưởng
vào một nhân vật tượng trưng, như người Nhật tin vào Thiên Hoàng của
họ, thì sự tin tưởng đó thật là quí báu vô cùng. Cho nên, sự lỡ cơ
hội phát triển lần đầu tiên, khi mà xã hội chúng ta chưa tan rã, là
một điều hết sức tai hại. Ngày nay, chúng ta phải phát động công
cuộc phát triển, từ một khởi điểm rất thấp, so với khởi điểm chúng
ta đã có thể có được, nếu chúng ta nắm ngay cơ hội lần đầu tiên.
Sự thiếu tín hiệu tập hợp tự nhiên cho dân tộc, đã và sẽ dẫn dắt
các nhà lãnh đạo chúng ta đến một hoàn cảnh phải xử dụng những tín
hiệu tập hợp chiến lược và cố nhiên là giai đoạn. Nhưng đó là một sự
thay thế bất đắc dĩ, bởi vì những tín hiệu tập hợp giai đoạn, tự nó
đã không bền, tất nhiên phải nhiều lần thay đổi với thời gian, và sẽ
làm mất sự tin tưởng của nhân dân đối với người lãnh đạo.
Sự gián đoạn trong vấn đề lãnh đạo quốc gia
Gánh nặng thứ ba, mà thời kỳ thống trị của đế quốc đã để lại cho
chúng ta, là sự gián đoạn trong vấn đề lãnh đạo quốc gia. Chúng ta
đã thấy rằng chúng ta lâm vào một sự gián đoạn đến một trình độ trầm
trọng nhất. Sự chuyển quyền không thể thực hiện được giữa lớp người
trước và lớp người sau. Bí mật quốc gia và bí mật lãnh đạo đều bị
mất. Thuật lãnh đạo không truyền lại được. Người lãnh đạo không có
đủ di sản dĩ vãng không bảo tồn được, văn khố thất lạc và bị cướp
bóc.
Một trong các nguyên nhân chính yếu của sức mạnh của các
cường quốc là một sự liên tục lãnh đạo quốc gia trong nhiều thế hệ.
Trong thời gian đó, kinh nghiệm lãnh đạo chồng chất và lưu truyền
cho các thế hệ. Chỉ tưởng đến cái hậu thuẫn kinh nghiệm súc tích
hằng mấy thế kỷ của họ, chúng ta cũng khiếp, khi nhìn lại mấy tờ
giấy kinh nghiệm làm hậu thuẫn cho chúng ta ngày nay. Quan niệm quét
sạch tàn tích trước, để xây dựng tương lai là một quan niệm ấu trĩ
của quần chúng, không được huấn luyện về ý thức chính trị.
Không người lãnh đạo nào, kể cả những người cách mạng cuồng nhiệt
nhất, có quyền nuôi một ý tưởng như vậy. Bởi vì không có một hành
động nào mà sát hại một dân tộc bằng hành động quét sạch tàn tích
trước để xây dựng tương lai, vì như thế có nghĩa là không bao giờ
chúng ta xây dựng được một kho tàng kinh nghiệm để làm hậu thuẫn cho
sự lãnh đạo quốc gia.
Thêm vào các gánh nặng trên đây, mà đế
quốc đã lưu lại cho chúng ta, sự thiếu người lãnh đạo trong các
ngành, như chúng ta đã biết, là một trở lực to tát cho công cuộc
phát triển đang đợi chờ chúng ta.
Vấn đề phân chia
lãnh thổ
Chúng ta đã thấy, trong một đoạn trên,
những điều bất lợi cho chúng ta, trong một công cuộc phát triển dân
tộc, bởi vì nước Việt Nam là một nước nhỏ. Nay thay vì một công cuộc
phát triển thực hiện cho toàn quốc, tình trạng chia đôi đặt chúng ta
vào hoàn cảnh phải quan niệm công cuộc phát triển cho từng phân nửa
quốc gia. Như thế, việc chia đôi lãnh thổ tự nó đã là một trở lực
vật chất, cho công cuộc phát triển của chúng ta.
Mâu
thuẫn và cơ hội
Một nước nhỏ và yếu, như nước chúng
ta, chỉ sống nhờ những mâu thuẫn giữa các nước lớn. Chính sự mâu
thuẫn, giữa khối Cộng sản và khối Tây phương, đã giúp cho các quốc
gia bị đế quốc thống trị thâu hồi được độc lập và cũng nhờ các mâu
thuẫn giữa các cường quốc Tây phương hồi thế kỷ 19 mà nước Nhật đã
thực hiện được công cuộc phát triển dân tộc.
Ngày nay, mâu
thuẫn giữa khối Cộng sản và khối Tự Do, cũng như mâu thuẫn giữa khối
Nga Sô, khối Tây phương và khối Trung Cộng đang thành hình, hay là
những mâu thuẫn giữa các quốc gia của khối Cộng sản hay giữa các
quốc gia của khối Tự Do, tất cả đều là những phương tiện giúp cho
Việt Nam và các quốc gia, đồng thuyền vi Việt Nam, thực hiện công
cuộc phát triển của mình.
Mâu thuẫn càng nhiều, cơ hội càng
thuận lợi; mâu thuẫn giảm đi, cơ hội trở nên khó khăn và mâu thuẫn
mất đi, cơ hội cũng mất.
Trong hai mươi năm, từ ngày đại thế
chiến thứ hai chấm dứt, như chúng ta đã phân tích trong một đoạn
trên, cơ hội đã đến cho các quốc gia như chúng ta để phát triển.
Nhưng riêng đối với Việt Nam, vì sự phân chia lãnh thổ, cho nên,
chẳng những chúng ta không khai thác được các mâu thuẫn để phát
triển, mà chúng ta lại còn rơi vào cái thế tranh chấp giữa hai yếu
tố của mâu thuẫn Tây phương và Nga Sô. Mặc dù cơ hội phát triển vẫn
còn, nhưng vị trí của chúng ta không cho phép chúng ta nắm lấy cơ
hội.
Nếu lần này cơ hội lại mất như cách đây một trăm năm,
thế hệ của chúng ta và nhất là các nhà lãnh đạo đã vì một tính toán
sai lầm, trong một giai đoạn quyết định, tạo ra tình trạng phân chia
lãnh thổ, sẽ chịu sự nguyền rủa oán hận của các thế hệ sau này, cũng
như chúng ta đã phê bình nghiêm khắc lớp người lãnh đạo thời Nguyễn
triều.
Chúng ta đã ghi vào xương máu các hậu quả đau khổ của
sự lỡ cơ hội lần thứ nhất, và chúng ta cũng có thể đoán biết những
hậu quả tai hại gấp mấy lần hơn, của sự lỡ cơ hội này trong khi mà
các dân tộc đồng thuyền với chúng ta đều nỗ lực nắm lấy cơ hội phát
triển và nhiều dân tộc đã thật sự nắm lấy được
Hiện
trạng tâm lý
Sự phân chia lãnh thổ còn tạo ra một
hiện trạng tâm lý, thuộc về tình cảm, ăn sâu và lan rộng trong quần
chúng. Mỗi người Việt Nam ở phía Nam cũng như phía Bắc đều cảm thấy
như đã bị cưỡng đoạt một phần di sản của tổ tiên. Vì tính cách sâu
và rộng trong quần chúng của hiện tượng tâm lý trên, mà mọi cuộc vận
động chính trị, ở phía Nam cũng như phía Bắc, đều tìm cách khai thác
vấn đề thống nhất lãnh thổ, cho chủ trương giai đoạn của mình.
Phân chia và phân tranh
Đứng trước sự
phân chia lãnh thổ, phần đông liên tưởng đến cuộc Nguyễn, Trịnh phân
tranh hồi thế kỷ thứ 17, đến cuộc phân tranh giữa Tây Sơn và Nguyễn
Ánh hồi thế kỷ thứ 18 và đến cảnh điêu tàn của đất nước sau gần hai
trăm năm nội loạn. Tuy nhiên, các cuộc phân tranh trước đây trong
lịch sử và cuộc phân chia hiện tại khác nhau về bản chất của các
nguyên nhân, về giai đoạn tiến hóa của xã hội Việt Nam và về tính
chất của các hậu quả lưu lại cho các thế hệ sau.
Trước hết,
nguyên nhân các cuộc phân tranh trước đây đều do những sự tranh
giành ảnh hưởng nội bộ giữa những nhà lãnh đạo của chúng ta. Cuộc
phân chia ngày nay là hiện tượng địa phương của sự tranh chấp giữa
ba khối Tây phương, Nga Sô và Trung Cộng. Sở dĩ chúng ta phải gánh
chịu hậu quả của một cuộc tranh chấp ngoại lai như vậy, là vì điều
kiện gian lao của cuộc tranh giành độc lập đã dẫn dắt một số nhà
lãnh đạo của chúng ta vào phe Đồng Minh với Nga Sô, và sau đó họ đã
không đủ khéo léo để kịp thời rút ra khỏi cuộc Đồng Minh nói trên,
khi cuộc Đồng Minh đó đã chấm dứt hiệu lực.
Các cuộc phân
tranh trước đây đã xảy ra trong một thời kỳ tiến hóa liên tục của xã
hội Việt Nam. Nghĩa là, trước và sau các cuộc phân tranh trước đây,
xã hội Việt Nam đều sống theo một loại giá trị tiêu chuẩn. Vì vậy,
cuộc phân tranh sau khi chấm dứt, không lưu lại một sự gián đoạn nào
trong đà tiến hóa của xã hội chúng ta.
Cuộc phân chia ngày
nay xảy ra trong một giai đoạn mà chúng ta đang cần đặt lại các giá
trị tiêu chuẩn, cho sự tiến hóa của xã hội chúng ta. Trước sự phân
chia, các giá trị tiêu chuẩn của xã hội cũ đã chết, mà các giá trị
tiêu chuẩn mới thì chưa có. Do đó, xã hội của chúng ta tan rã và con
thuyền của chúng ta trôi giạt, không có định hướng. Vì vậy mà, như
chúng ta đã biết, công cuộc phát triển dân tộc, trong cơ hội thứ hai
này, sẽ diễn ra trong một hoàn cảnh vô cùng nghiêm khắc so với hoàn
cảnh, trong đó công cuộc phát triển dân tộc có thể thực hiện được,
nếu chúng ta đã nắm lấy được cơ hội thứ nhất.
Nếu trước đây,
chúng ta dưới thời nhà Nguyễn, đã nắm được cơ hội thứ nhất để phát
triển dân tộc, như người Nhật, thì ngoài ra sự thâu thập kỹ thuật
Tây phương, chúng ta chỉ cần phải tìm một trạng thái thăng bằng mới
để thâu nạp một số giá trị tiêu chuẩn mới dính liền với các kỹ thuật
Tây phương, bởi vì các giá trị tiêu chuẩn cũ của chúng ta vẫn còn đủ
sinh lực.
Nhưng trong hoàn cảnh của xã hội chúng ta ngày nay,
một công cuộc phát triển dân tộc đương nhiên gồm một phần rất quan
hệ, là đặt lại các giá trị tiêu chuẩn mới cho sự tiến hóa của dân
tộc và chính trên lĩnh vực này, sự phân chia ngày nay mới lưu lại
những hậu quả tai hại nhất cho các thế hệ tương lai.
Dân tộc
chúng ta ở vào một thời kỳ mà công cuộc phát triển dân tộc bằng cách
Tây phương hóa là một vấn đề sống còn mà chúng ta phải thực hiện cho
kỳ được. Chúng ta đã dành rất nhiều trang cho vấn đề này cũng là vì
tính cách vô cùng thiết yếu của nó.
Với sự phân chia ngày
nay, chắc chắn là phía Nam sẽ phát triển theo lối Mỹ và phía Bắc sẽ
phát triển theo lối Nga.
Giả sử mà hai miền, mặc dầu chưa
thực hiện rồi công cuộc phát triển, nhưng đều bước một bước dài
trong công cuộc đó, thì đương nhiên, nhân dân ở hai miền sẽ hưởng
ứng với những tín hiệu tập hợp khác nhau, sẽ tin tưởng vào những giá
trị tiêu chuẩn khác nhau và sẽ có những tập quán xã hội hoàn toàn
khác nhau.
Các sự kiện này không sao tránh được, bởi vì, miền
Bắc, áp dụng phương pháp Cộng sản trong công cuộc phát triển, sẽ tôn
sùng, với mục đích huy động quần chúng, nhiều giá trị tiêu chuẩn
chiến lược, giai đoạn, và đối chọi lại với các giá trị tiêu chuẩn,
di sản của văn minh nhân loại. Chỉ khi nào mục đích phát triển đã
đạt như ở Nga Sô ngày nay, thì những giá trị tiêu chuẩn chiến lược
và giai đoạn đó mới sẽ được thay đổi và nhường chỗ lại cho những giá
trị tiêu chuẩn thích nghi với di sản văn minh nhân loại. Ví dụ cách
đây hơn bốn mươi năm, lúc cách mạng Nga Sô đang cao trào, các nhà
lãnh đạo Nga Sô vì lý do huy động nhân dân, hết sức khuyến khích ái
tình tự do, phá hủy gia đình, cực lực tiêu diệt quyền tư hữu, đả phá
tôn giáo. Nhưng bốn mươi năm sau, các nhà lãnh đạo Nga Sô, sau khi
mục đích phát triển đã đạt, lần lần không làm sao không trở về với
các giá trị tiêu chuẩn đã được chứng minh là những di sản của văn
minh nhân loại: tôn trọng gia đình, nhìn nhận quyền tư hữu, kính
trọng tôn giáo.
Trong khi đó, miền Nam, phát triển theo lối
Mỹ, chắc chắn sẽ tôn trọng những giá trị tiêu chuẩn chống lại các
giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn của miền Bắc.
Trong hoàn cảnh như trên vừa trình bày, trong thời gian đương phát
triển cho hai miền, một sự thống nhất không thể nào thực hiện được
mà không mang đến những trạng huống đau khổ cho toàn dân, bởi vì một
sự thống nhất như vậy sẽ tạo ra một số người thất cước là phân nửa
dân tộc trong một thế hệ.
Như vậy thì, vấn đề đã trở nên rõ,
hoặc chúng ta phải thống nhất trước khi phát động công cuộc phát
triển bằng cách Tây phương hóa, hoặc chúng ta chỉ có thể thống nhất
sau khi mục đích phát triển đã đạt.
Như vậy thì, để bên ngoài
mọi lý do tình cảm và mọi hậu ý khai thác vấn đề thống nhất với mục
đích chiến thuật chính trị, và chỉ nhắm vào vấn đề cần phải giải
quyết của cộng đồng dân tộc, chúng ta phải có thái độ như thế nào
trước sự phân chia lãnh thổ?
Để có đủ yếu tổ trả lời câu hỏi
trên đây, trước hết chúng ta tìm xem nguyên nhân nào đã dẫn dắt đến
tình trạng phân chia ngày nay. Tuy nhiên, trước khi có điều kiện trả
lời đích xác chúng ta cũng có thể nhận xét rằng, miễn là công cuộc
phát triển được bảo đảm, cái lợi cho dân tộc là thâu nhận những giá
trị tiêu chuẩn có tính cách vĩnh viễn thay vì những giá trị tiêu
chuẩn giai đoạn và chiến lược.
Nguyên nhân của sự
phân chia lãnh thổ
Từ ngày Việt Nam bị chia đôi,
thời gian qua mới có mười năm. Thời giờ còn chưa đủ dài để cho các
tài liệu lịch sử, vô tư xứng danh, có thể nổi lên trên khối tài liệu
bị thiên kiến của người đương cuộc chi phối. Tuy nhiên, một số sự
kiện lịch sử khắc tín cũng đã bắt đầu thành hình. Và chính chúng ta
trong các trang trên cũng đã nhìn thấy và dẫn chứng một ít nhiều.
Xét các biến cố, đã xảy ra, cho Việt Nam và cho các quốc gia
đồng thuyền với chúng ta trước đây, từ năm 1945, chúng ta nhận thấy
trước tiên, ảnh hưởng của hai lối đế quốc – lối đế quốc kiểu Anh và
lối đế quốc kiểu Pháp – đến công cuộc tranh đấu giành độc lập của
các nước bị thống trị và đến các biến chuyển chính trị trong các
nước ấy, từ khi độc lập đã thâu hồi.
Chính sách thuộc
địa của Pháp
Chính sách thuộc địa của Pháp, chúng ta
đã biết, không có phân minh giữa hai hình thức thuộc địa, thuộc địa
di dân và thuộc địa khai thác.
Đối với các thuộc địa khai
thác, chính sách của người Anh rất rõ rệt. Họ nhìn xa và biết thế
nào rồi cũng có ngày họ phải ra đi và trả độc lập lại cho người bổn
xứ. Vì thế cho nên, chính phủ Anh đã dự trù sẵn cho những nơi đó một
chương trình gồm, vừa vấn đề đào tạo những người lãnh đạo sẽ thay
thế họ, vừa vấn đề chuyển quyền một cách ôn hòa từ tay họ sang cho
những người vừa thoát khỏi ách thống trị.
Trong khi đó, ngay
đối với các thuộc địa mà bản chất phải là một thuộc địa khai thác,
người Pháp, vì một quan điểm thiển cận, không hề dự liệu một chương
trình rút lui nào cả. Đến khi các biến chuyển chính trị đặt họ trước
một tình thế phải thoái triệt và thừa nhận độc lập của các dân tộc
bản xứ, thái độ của các chính phủ Pháp, vì sự thiếu chính sách, lúc
nào cũng là một sự dằng co giữa việc đi và việc ở.
Nước Pháp
đã phải trả bằng một giá rất đắt sự thiếu một chính sách dài hạn
sáng suốt và một chương trình hành đng cương quyết lúc tình thế đòi
hỏi.
Các sự kiện trên cũng là nguyên nhân đã làm cho các cựu
thuộc địa, như Việt Nam và Algérie, phải hy sinh nhiều xương máu và
chịu đựng nhiều gian lao trong cuộc chiến đấu giành độc lập. Chúng
ta không phủ nhận rằng một sự độc lập mua bằng nhiều hy sinh và
nhiều gian lao, là một sự độc lập quí giá, khả dĩ nêu cao tính kiêu
hùng của dân tộc.
Nhưng sinh lực của cộng đồng là một của
báu, lúc nào cũng thiết yếu cho sự phát triển và sự tiến hóa, nhà
lãnh đạo nào cũng phải tự đặt cho mình một nghiêm luật phải bảo vệ
và tiết kiệm, khi quyền lợi của cộng đồng bắt buộc phải sử dụng đến.
Giả sử mà chúng ta đã giành được độc lập một cách ít hao tốn
sinh lực của dân tộc, như trong trường hợp của các cựu thuộc địa
Anh, thì bao nhiêu gian lao và hy sinh mà chúng ta đã phải đổ vào
cuộc kháng chiến, chúng ta đã có thể dành cho công cuộc phát triển,
mà vì sự sống còn của cộng đồng dân tộc, chúng ta phải thực hiện cho
được bằng mọi cách. Độc lập không phải là mục đích. Phát triển dân
tộc mới là mục đích.
Các sử gia Tây phương sau này, sẽ vô
cùng nghiêm khắc đối với nước Pháp, vì sự thiếu chính sách của Pháp
trong một giai đoạn quyết định đã làm giảm ưu thế của Tây phương
trong cuộc tranh đấu vĩ đại giữa Tây phương và Nga Sô. Các sử gia
Việt Nam sau này cũng sẽ vô cùng nghiêm khắc với Pháp, vì sự thiếu
chính sách của Pháp đã gây ra một cuộc chiến tranh tàn phá sinh lực
của dân tộc Việt Nam.
Các sử gia của Việt Nam sau này cũng sẽ
vô cùng nghiêm khắc đối với số người lãnh đạo đã không đủ sáng suốt
nhận thức bản chất thực tế của cuộc tranh chấp vĩ đại giữa Tây
phương và Nga Sô để khai thác mâu thuẫn, thâu phục được phương tiện
độc lập cho chúng ta mà khỏi phải trả bằng một sự phí phạm sinh lực
to tát, có thể tránh được.
Chính hai loại sự kiện trên,
chính sách thuộc địa thiển cận của Pháp và sự không thấu triệt vấn
đề của một số nhà lãnh đạo của chúng ta, chẳng những tạo cho chúng
ta một cuộc tranh giành độc lập vô cùng tiêu hao, lại còn dẫn dắt
đến tình trạng phân chia ngày nay, một trở lực vô cùng tai hại cho
công cuộc phát triển dân tộc chúng ta.
Chính sách
Pháp dẫn dắt đến phân chia
Trong khuôn khổ sự tranh
chấp vĩ đại giữa Nga Sô và Tây phương, liền sau khi Đại thế chiến
thứ hai chấm dứt, người Anh nhận thức rằng trong cuộc diện của sự
tranh đấu lúc bấy giờ, kẻ thù chính của Tây phương là Nga Sô và các
Đồng Minh của họ. Vì vậy cho nên, thi hành một chương trình đã dự
trù từ lâu, người Anh cấp thời thực hiện sự giao hoàn độc lập lại
cho các thuộc địa khai thác. Và trong các cuộc thương thuyết với các
nhà lãnh đạo bổn xứ, cũng như trong các chương trình đào tạo người
thay chân lâu nay, người Anh cương quyết loại bỏ ngoài vòng các lãnh
tụ Cộng sản. Thêm vào đó, các chương trình viện trợ phát triển được
thực hiện để hậu thuẫn cho chính sách biến các cựu thuộc địa thành
những đồng minh của Tây phương trong cuộc tranh chấp với Nga Sô.
Toàn bộ các sự kiện trên, như chúng ta đã biết, là cơ hội để cho các
quốc gia trước đây bị đế quốc thống trị phát triển dân tộc.
Mặc dầu là một phần tử quan trọng của xã hội Tây phương, nước Pháp
vì sự thiếu chính sách như trên đã nói, và vì sự thăng trầm của
chiến sự trong Đại thế chiến thứ hai, không có cái nhìn bao quát cần
thiết và thích hợp với cuộc diện của sự tranh chấp vĩ đại giữa Nga
và Tây phương.
Trong các thuộc địa, người Pháp vẫn tiếp tục
một chính sách đã áp dụng lâu nay, vừa không hợp thời vừa nhỏ nhen,
mục đích bảo vệ những quyền lợi đã lỗi thời. Đi, ở lưỡng nan, người
Pháp dùng thủ đoạn thông thường quân bình giữa các lực lượng cách
mạng Quốc Gia và Cộng sản, vừa nuôi dưỡng, vừa tiêu hao cả hai bên
để thủ lợi. Điều bất ngờ cho người Pháp là khi thời cơ đến ở Việt
Nam, sức quật cường của dân tộc mạnh cho đến đỗi tất cả đều đặt công
cuộc kháng chiến chống Pháp lên trên mọi kỳ thị đảng phái. Nhờ các
sự kiện đó, và nhờ sự tổ chức tinh vi và sự hiểu vấn đề, cả hai, đều
thừa hưởng của Cộng sản quốc tế, đảng Cộng sản đã nắm được chính
quyền ở Việt Nam.
Chẳng những thế, người Pháp có một lý do
khác để thúc đẩy cho cuộc kháng chiến của chúng ta rơi vào sự lãnh
đạo của Cộng sản. Quốc gia kiệt quệ vì chiến bại và sự chiếm đóng
của Đức trong bốn năm, nước Pháp cần tiền để kiến thiết. Ngoài các
số viện trợ trong khuôn khổ chương trình Marshall mà chúng ta đã
biết, nước Pháp đã giành trực tiếp hoặc gián tiếp vào sự tái thiết
nội bộ, một số lớn viện trợ của Tây phương, nói là để chận đứng sự
bành trướng của Cộng sản ở Việt Nam. Vì vậy mà người Pháp cần duy
trì chiến cuộc ở Đông Dương và đưa sự kháng chiến quốc gia rơi vào
sự lãnh đạo của Cộng sản.
Nếu chúng ta ý thức rằng, sau Đại
thế chiến thứ hai, các biến chuyển chính trị trên thế giới, và tất
nhiên là ở Việt Nam, đều bị động trong khuôn khổ cuộc tranh chấp vĩ
đại giữa Nga Sô và Tây phương, thì chúng ta thấy rằng, ngay từ lúc
người Pháp thi hành các thủ đoạn chính trị của họ ở Việt Nam, mầm
mống sự chia đôi đất nước của chúng ta đã không tránh được.
Các mưu mô toan tính của Pháp không hoàn toàn kết quả, vì Pháp không
thể mãi mãi, vô tình hay cố ý, nhắm mắt trước cuộc diện sự tranh
chấp giữa Nga Sô và Tây phương, và một mình, đi ngược lại chính sách
của Tây phương, chủ trương biến các thuộc địa cũ thành những Đồng
Minh chống lại Nga Sô. Pháp đã phải rút khỏi bán đảo Đông Dương để
cho Tây phương thi hành chính sách nói trên. Và chính Pháp, sau vụ
Việt Nam và Algérie, cũng phải áp dụng chính sách đối phó với các
thuộc địa còn lại để củng cố vị trí cho Tây phương.
Chẳng
riêng gì trong phạm vi vấn đề Việt Nam, mà trong tất cả các phạm vi
khác, trong khuôn khổ sự tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương, hành
động của Pháp lúc nào cũng mang nặng tinh thần thiếu đoàn kết với
Tây phương.
Nguyên nhân ở chỗ thảm trạng về chiến sự của Pháp
trong Đại thế chiến thứ hai, đã tạo ra cho các nhà lãnh đạo Pháp một
tâm trạng tự ty mặc cảm và một sự di hận cay đắng đối với các Đồng
Minh của họ trong khối Tây phương.
Ở Việt Nam, tinh thần hậu
thế chiến của nước Pháp đã lưu lại cho chúng ta những hậu quả vô
cùng tai hại: chính tinh thần đó và một chính sách thuộc địa thiếu
sáng suốt phải chịu trách nhiệm, như chúng ta vừa trình bày, sự phân
chia lãnh thổ Việt Nam hiện nay.
Đồng Minh với cộng
sản
Như chúng ta đã biết, nước Pháp không quan niệm
sẵn, ngay từ lúc chưa có sự thúc đẩy của các biến cố, một chính sách
thuộc địa sáng suốt, nên khi tình thế đòi hỏi, không có một chương
trình hành động thích đáng. Nhưng giả sự, mặc dầu hoàn cảnh đó, nước
Pháp ngay sau khi chính phủ Hồ Chí Minh đã thành lập, đã có điều
kiện để thi hành một chính sách trả thuộc địa như người Anh và thành
thật áp dụng một chính sách như vậy. Trong trường hợp đó, chính phủ
Hồ Chí Minh mặc dầu tư cách lãnh tụ Đông Dương Cộng sản Đảng của
người lãnh đạo, đã có đủ khả năng và ý chí để đưa nước Việt Nam ra
ngoài vòng ảnh hưởng của hai khối, tránh cho dân tộc một cuộc chiến
tranh tàn phá, và một sự chia đôi lãnh thổ, vừa xúc động trên phương
diện tâm lý và vừa di hại trên phương diện chính trị, và sau đó đứng
trên vị trí toàn quốc, khai thác các mâu thuẫn để phát triển dân tộc
không?
Vấn đề chính cho dân tộc là vấn đề phát triển
Chính trị của một nước nhỏ, như nước chúng ta hoàn toàn bị động
trong cái thế của cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương.
Như chúng ta đã biết, cũng vì có sự tranh chấp này mà các nhà lãnh
đạo Á Đông đã đồng minh với Nga Sô để tranh giành độc lập cho dân
tộc.
Nhưng chúng ta cũng còn nhớ rằng Nga Sô sở dĩ liên kết
với các thuộc địa của Tây phương là bởi vì Nga Sô cần có đồng minh
trong công cuộc chiến đấu trường kỳ và vĩ đại với Tây phương, mà mục
đích trước hết và trên hết, là phát triển dân tộc Nga. Tính cách
thiêng liêng giữa các đồng chí của lý tưởng cách mạng xã hội thế
giới chỉ là một tín hiệu tập hợp qui tụ kẻ thù của Tây phương vào
một mặt trận phục vụ một chiến lược tranh đấu của dân tộc Nga. Ngày
nay, mục đích phát triển của Nga đã đạt. Sự thay thế các giá trị
tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn của Nga Sô bằng những giá trị
tiêu chuẩn, di sản của văn minh nhân loại, như chúng ta đã thấy
trong một đoạn trên, là một bằng cớ hùng biện nhất, soi sáng lập
trường của Nga. Trung Cộng tố cáo Nga phản bội chủ nghĩa Các-mác
Lê-nin vì những sự kiện trên. Trung Cộng lại muốn thay thế Nga, nhân
danh chủ nghĩa Các-mác Lê-Nin hô hào qui tụ các nước kém mở mang, để
phục vụ công cuộc phát triển cho dân tộc Trung Hoa. Ngày nào mục
đích phát triển đã đạt, thì cuộc đồng minh mới này do Trung Cộng đề
xướng cũng không còn hiệu lực đối với Trung Cộng, cũng như cuộc đồng
minh trước đây do Nga đề xướng, ngày nay, không còn hiệu lực đối với
Nga. Và mục đích cuối cùng của cuộc tranh đấu vẫn là mục đích dân
tộc.
Nhiều nhà lãnh đạo Á Đông mà quốc gia cũng đã bị Đế
quốc thống trị, đã đủ sáng suốt để nhìn thấu thâm ý chiến lược của
Nga Sô. Gandhi và Nehru, từ chối sự đồng minh với Cộng sản vì lý do
trên.
Các nhà lãnh đạo Cộng sản của chúng ta đồng minh với
Nga Sô vì điều kiện gian lao của một cuộc tranh đấu giành độc lập
gay go với người Pháp.
Nhưng, họ chỉ có thể thoát ra ngoài
vòng ảnh hưởng của hai khối để lãnh đạo công cuộc phát triển của dân
tộc, như chúng ta nêu lên trong câu hỏi đầu mục này, nếu các điều
kiện sau đây được họ nhận thức rõ rệt:
1. Bản chất thực tế
của cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương.
2. Thâm ý
chiến lược của Nga Sô
3. Cuộc đồng minh với Nga Sô, đã hết
hiệu lực đối với Nga Sô, khi mục đích phát triển của Nga Sô đã đạt.
4. Lý thuyết Các-mác Lê-nin là một phương tiện tranh đu và phát
triển của Nga trước đây, cũng như là một phương tiện tranh đấu và
phát triển của Trung Cộng ngày nay.
5. Sự đồng minh với Cộng
sản phải được chấm dứt kịp thời khi nó không còn hiệu lực đối với
dân tộc.
6. Đối với dân tộc Việt Nam, Trung Hoa của Mao Trạch
Đông, cũng như Trung Hoa của các triều đại Nguyên, Tống, Minh, Thanh
là một đe dọa truyền kiếp.
Sự đồng minh với cộng sản
thúc đẩy phân chia
Chúng ta chưa có một tài liệu hay
một triệu chứng nào chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc hiện nay
đã nhận thức các điều kiện trên. Ngược lại, các thơ loại chính trị
của miền Bắc còn đang ca tụng như là những chân lý những giá trị
tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn mà Nga Sô đã bỏ. Như thế thì có
lẽ dân tộc chúng ta còn phải bất hạnh mục kích các nhà lãnh đạo miền
Bắc của chúng ta tôn thờ như một chân lý, một lý thuyết mà Nga Sô và
Trung Cộng chỉ dùng làm một phương tiện tranh đấu và Nga Sô bắt đầu
sa thải khi mục đích phát triển đã đạt.
Như thế thì, giả sử
mà người Pháp có thật sự thi hành một chính sách trả thuộc địa, như
người Anh, đối với Việt Nam, thì các nhà lãnh đạo miền Bắc cũng chưa
chắc đã đưa chúng ta ra được ngoài vòng chi phối trực tiếp của hai
khối để khai thác mâu thuẫn mà phát triển dân tộc.
Trong hoàn
cảnh mà cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối nặng nề
hành động chính trị của các quốc gia nhỏ, lập trường Cộng sản, lệ
thuộc Trung Cộng, của các nhà lãnh đạo miền Bắc, đương nhiên gây
phản ứng của Tây phương và sự phân chia lãnh thổ cũng không tránh
được.
Như vậy, tư cách Cộng sản của các nhà lãnh đạo miền
Bắc là một điều kiện thuận lợi giúp cho người Pháp thi hành những
toan tính chính trị của họ ở Việt Nam. Và lập trường Cộng sản lệ
thuộc Nga Sô và Trung Cộng là một nguyên nhân của sự phân chia lãnh
thổ Việt Nam, trong khung cảnh chính trị của thế giới, sau Đại chiến
thứ hai, do sự tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối.
Tóm lại nguyên nhân sâu xa của sự phân chia lãnh thổ Việt Nam
ngày nay là chính sách thuộc địa của Pháp và lập trường Cộng sản lệ
thuộc Nga Sô và Trung Cộng của các nhà lãnh đạo miền Bắc.
Các biến cố chính trị dẫn dắt đến sự phân chia
Trong thực tế, sự phân chia đã nảy mầm khi hai quốc gia Tây
phương Anh và Mỹ, để dọn đường cho một giải pháp chấm dút sự bế tắc
của Pháp ở Việt Nam, nhìn nhận và bắt dầu viện trợ cho quốc gia Việt
Nam. Tuy nhiên, viện trợ quân sự và kinh tế đều qua tay chính phủ
Pháp. Và một phần lớn, đã được sử dụng trực tiếp hay gián tiếp trong
công cuộc tái thiết nước Pháp đã bị chiến tranh tàn phá. Thời gian
qua, xét kỹ thì thời kỳ này lại là thời kỳ mà những thủ đoạn chính
trị của Pháp ở xứ này mang đến nhiều kết quả nhất.
Bên khối
Cộng sản, Nga và Trung Cộng cũng nhìn nhận Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam
và cũng bắt đầu viện trợ.
Từ đây, chiến cuộc Việt Nam, biến
thành một chiến trường quân sự và địa phương của cuộc tranh chấp
giữa Nga Sô và Tây phương. Những mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương
mà, đúng lý ra, phải được dùng để phát triển dân tộc, lại trở thành
những khí giới gieo rắc sự chết cho toàn dân. Những yếu tố của một
cơ hội phát triển đã biến thành những khí cụ của một tai họa.
Đồng thời, điều này vô cùng quan trọng cho chúng ta, sự chi phối
của Trung Hoa, và sau lưng sự chi phối, sự đe dọa xâm lăng của Trung
Hoa, mà chúng ta đã biết là vô cùng nặng nề, một cách liên tục, cho
chúng ta trong hơn tám trăm năm, tạm thời đình chỉ trong gần một thế
kỷ Pháp thuộc, đã bắt đầu hoạt động trở lại dưới các hình thức viện
trợ và cố vấn quân sự cho quân đội của Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam.
Chúng ta thừa hiểu rằng sự phát triển của Tàu, là mục đích trước
và trên hết trong mọi cuộc Đồng Minh hiện nay của các nhà lãnh đạo
Trung Cộng, cũng như sự phát triển của Nga là mục đích trước và trên
hết trong mọi cuộc Đồng Minh trước đây của các nhà lãnh đạo Nga.
Sự phát triển của một khối to lớn như Trung Cộng là một sự đe
dọa cho cả thế giới, dù mà các nhà lãnh đạo Trung Cộng không nuôi
dưỡng những tham vọng bành trướng như hiện nay. Bởi vì, sự phát
triển của một khối gần tám trăm triệu dân, tự nó đã mang trong mình
một sự đe dọa xâm chiếm ghê gớm đối với các cộng đồng quốc gia khác.
Và sự đe dọa bao giờ cũng gây phản ứng. Vì thế cho nên sự phát triển
của Trung Cộng, ngoài trở lực đương nhiên và nội bộ của một công
cuộc phát triển, còn phải gặp nhiều trở lực do các phản ứng bên
ngoài gây ra.
Trái lại, sự phát triển của một nước nhỏ như
nước Việt Nam, sẽ không gặp phản ứng, vì sẽ không là một mối đe dọa
cho ai cả. Do đó, ngoài những cố gắng nội bộ mà một công cuộc phát
triển đương nhiên sẽ đòi hỏi, các trở lực bên ngoài sẽ hầu như không
có. Nếu cuộc phát triển của chúng ta, tự nó dễ thực hiện hơn cuộc
phát triển của Trung Cộng, thì sự gắn liền vận mạng của chúng ta vào
vận mạng của Trung Cộng, là một hành động di hại cho dân tộc, dù mà,
đối với chúng ta, Trung Cộng có thật sự nuôi nhiều thiện chí.
Nhưng chúng ta đã biết chính sách liên tục của các triều đại
Trung Hoa đối với Việt Nam, căn cứ trên những lý do lịch sử và địa
dư.
Trở lại vấn đề phát triển của Trung Cộng. Các nhà lãnh
đạo Trung Cộng ý thức hoàn cảnh phát triển nghiêm khắc của quốc gia
họ, nên đã dốc nhiều nỗ lực để vận động thành lập một mặt trận đồng
minh rộng rãi trong khắp thế giới làm hậu thuẫn cho chương trình
phát triển riêng của dân tộc Trung Hoa.
Và trong tinh thần
này, Trung Cộng đã viện trợ cho Bắc Việt. Tuy nhiên, vị trí địa dư
của Bắc Việt còn là nguồn gốc của hai động cơ khác thúc đẩy sự viện
trợ nói trên. Đồng bằng Bắc Việt và con sông Nhị Hà là con đường
tháo ra biển của tất cả vùng Tây Nam nước Tàu. Với công cuộc phát
triển đang thực hiện, nước Tàu của Mao Trạch Đông còn cần dùng con
đường ra biển đó, hơn cả các triều đại trước đây của Trung Hoa. Viện
trợ cho Bắc Việt, trên quan điểm đó, là để dành quyền sử dụng con
đường ra biển lúc thời cơ đến.
Trong khi ảnh hưởng của Tây
phương còn ưu thế trên thế giới, viện trợ cho Bắc Việt cũng là một
công tác phòng thủ cho Trung Hoa, vì con đường tháo ra biển cũng là
con đường xâm nhập vào Trung Hoa của các đạo quân chinh phục.
Dầu sao, sự Trung Cộng viện trợ cho Bắc Việt, không làm cho
chúng ta quên rằng, trong thời kỳ mà xã hội Đông Á bị Tây phương bắt
đầu tấn công, nhân cơ hội vua Tự Đức nhà Nguyễn phái sứ sang cầu
viện, nhà Thanh, thay vì cứu viện, đã thỏa thuận với Pháp để chia
đôi Việt Nam. Nước Tàu như chúng ta đã biết, giữ về phần mình, tất
cả các vùng thuộc đồng bằng sông Nhị Hà, nghĩa là con đường tháo ra
biển của vùng Tây Nam Trung Hoa.
Phân chia thật sự
Sự phân chia thật sự năm 1954, sở dĩ thực hiện được là bởi vì
hai bên, Tây phương và Cộng sản đều tìm thấy ở giải pháp đó nhiều
điều lợi cho riêng khối của mình.
Đối với Tây phương, Hội
nghị Genève là một vận động triển kỳ để chỉnh đốn lại những lỗi lầm
chính trị của Tây phương tại Việt Nam, do sự thiếu chính sách của
Pháp đã gây ra. Kế hoạch của Tây phương là chặn đứng sự bành trướng
của Cộng sản xuống Đông Nam Á, để có thời gian mang áp dụng vào Việt
Nam chính sách của Anh đối với các cựu thuộc địa. Do đó, đồng thời
với Hiệp định Genève, Pháp bị đưa ra khỏi bán đảo Ấn Độ Chi Na.
(Đông Dương)
Đối với khối Cộng sản, các biến cố chính trị sau
đây, đã làm bối cảnh cho lập trường tại Hội nghị của Nga Sô và Trung
Cộng.
Năm 1953, Staline vừa từ trần, một cuộc khủng hoảng tìm
người kế vị, xảy ra một cách ác liệt giữa các lãnh tụ Nga Sô. Các
cuộc thanh trừng đẫm máu vừa làm rung chuyển chính trường của Nga
Sô, vừa bộc lộ nhược điểm của bộ máy lãnh đạo theo kiểu Cộng sản.
Tình hình bất ổn định trong nội bộ của Nga Sô, kéo dài trong nhiều
năm, đã làm cho Trung Cộng trở thành một đồng minh quí giá, chẳng
những đối với cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương, mà lại còn
đối với cuộc tranh chấp giữa các phe trong nội bộ đảng Cộng sản Nga.
Vai trò của Trung Cộng đương nhiên, trở nên quan trọng ở Á châu và ở
Hội nghị. Và lập trường của khối Cộng sản tại Hội nghị có thể xem
gần như là lập trường của Trung Cộng.
Điều lợi thứ nhất cho
Trung Cộng ở Hội nghị Genève là một thắng lợi ngoại giao bởi vì Hội
nghị là cuộc dàn xếp quốc tế đầu tiên có Trung Cộng tham dự. Sự có
mặt của Mỹ tại Hội nghị, đối với Trung Cộng, là một sự mặc nhiên thú
nhận rằng, mặc dầu Mỹ chưa nhìn nhận Trung Cộng, Mỹ không thể phủ
nhận sự có mặt của Trung Cộng trong các vấn đề Á châu và thế giới.
Điều lợi thứ nhì cho Trung Cộng là một thắng lợi về ranh giới và
lãnh thổ. Lúc đầu, phái đoàn Bắc Việt yêu sách lấy vĩ tuyến 13 làm
ranh giới giữa hai miền. Hậu ý của phái đoàn Bắc Việt là thâu gồm
các tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi, mà Cộng sản đã kiểm soát từ trong
nhiều năm. Nhưng về sau, dưới áp lực của Trung Cộng ranh giới đã lui
lại đến vĩ tuyến 17. Giả sử có lui lại đến vĩ tuyến 19 như phái đoàn
Pháp yêu cầu, Trung Cộng cũng bằng lòng. Bởi vì, dù ranh giới có đặt
ở vĩ tuyến 17 hay 19, thì những tham vọng về đất đai của Trung Cộng
đối với Việt Nam cũng đã thỏa mãn.
Như chúng ta đã biết, vùng
đất thiết yếu cho nước Tàu là các vùng hai bên sông Nhị Hà, con
đường tháo ra biển, thiên nhiên của vùng Tây Nam Trung Hoa. Với thỏa
hiệp tại vĩ tuyến 17, thì dù mà ảnh hưởng của Tây phương có còn ở
miền Nam, sự lệ thuộc của chính phủ miền Bắc cũng đủ bảo đảm cho nhu
cầu đất đai của Trung Cộng trong tương lai.
Điều lợi thứ ba
cho Trung Cộng l một sự kin quốc phòng. Ảnh hưởng của Tây phương tuy
vẫn hùng mạnh ở Đông Nam Á, nhưng đã cách Trung Cộng bằng một quốc
gia trái độn.
Việc ấn định ranh giới ở vĩ tuyến 17, vừa xác
nhận tham vọng đất đai, bất di bất dịch của Tàu đối với Việt Nam,
vừa chứng minh sự lệ thuộc của chính phủ Bắc Việt đối với Trung
Cộng.
Và đồng thời, Hội nghị Genève lại là một sự kiện không
thể bác bỏ, chứng tỏ rằng chính trị của một nước nhỏ như nước chúng
ta hoàn toàn nằm trong một thế bị động bởi cuộc tranh chấp giữa Tây
phương và Nga Sô.
Thái độ
Chúng ta
vừa phân tích xong các nguyên nhân của sự phân chia lãnh thổ ngày
nay, và vừa duyệt lại các sự kiện dẫn dắt đến sự phân chia thật sự.
Như thế, các yếu tố đã có, để chúng ta có thể loại bỏ bên ngoài tất
cả mọi lý do tâm lý, và mọi ý định sử dụng tình trạng phân chia lãnh
thổ vào một cuộc vận động chính trị, hầu khách quan ấn định một thái
độ lợi nhất cho dân tộc trước sự phân chia hiện tại.
Như
chúng ta đã biết, vấn đề thiết yếu mà dân tộc chúng ta cần phải giải
quyết trong giai đoạn này là công cuộc phát triển dân tộc bằng cách
Tây phương hóa.
Dĩ nhiên để thực hiện công cuộc đó, trường
hợp thích đáng nhất là thống nhất lãnh thổ, và trên vị trí toàn
quốc, khai thác mâu thuẫn giữa các khối để mang vào Việt Nam tư bản
và kỹ thuật cần thiết cho nỗ lực phát triển. Nhưng vì những lý do đã
xét, trong các đoạn trên, chúng ta không ở vào trường hợp trên.
Vậy thì, chúng ta phải nỗ lực thống nhất hai phần trước, rồi
thực hiện công cuộc phát triển toàn quốc sau, hay thực hiện trước
cuộc phát triển riêng cho hai phần và thống nhất sau?
Thái độ thứ nhất
Giả sử, chúng ta chọn thái độ trước.
Sự phân chia lãnh thổ Việt Nam như chúng ta đã biết, là hậu quả
của một hiện tượng địa phương và quân sự của cuộc tranh chấp giữa
Tây phương và Cộng sản. Đã như thế thì, chúng ta đã không chủ động
được sự phân chia, cũng như chúng ta sẽ không chủ động được sự thống
nhất, ngày nào chúng ta chưa loại trừ được hiện tượng nói trên ra
khỏi Việt Nam. Nhưng, nếu, trước khi hiện tượng đó thành hình, một
sự lãnh đạo sáng suốt có thể chủ động được sự ngăn cấm hiện tượng
phát sinh, bởi vì các yếu tố tạo ra hiện tượng chưa trực tiếp chi
phối chính sự của chúng ta. Sau khi hiện tượng đã cụ thể hóa, chúng
ta không còn chủ động được sự loại trừ hiện tượng nữa, bởi vì các
yếu tố nuôi dưỡng hiện tượng đã trực tiếp chi phối chính sự của
chúng ta.
Nhưng giả sử mà, mặc dầu hoàn cảnh nghiêm khắc nói
trên, chúng ta vì vận dụng hết nỗ lực trong một thời gian, cố nhiên
là phải lâu dài, có thể thực hiện được thống nhất, thì chẳng những
sẽ tiêu hao sinh lực của dân tộc, đáng lẽ phải được dùng vào công
cuộc phát triển, mà lại là cơ hội phát triển có thể không còn nữa.
Nghĩa là chúng ta sẽ thống nhất mà không phát triển. Chúng ta đã
biết sự lỡ cơ hội phát triển lần này sẽ di hại cho các thế hệ tương
lai đến mức độ nào.
Hơn nữa, vì những lý do mà chúng ta đã
biết, sự tồn tại của dân tộc cũng sẽ bị đe dọa. Và trong hiện tình
chính trị, một sự thống nhất sẽ đương nhiên làm mất cơ hội phát
triển.
Giả sử, sự thống nhất do Bắc Việt thực hiện, thì với
sự chị phối nặng nề của Trung Cộng đối với Bắc Việt, sự phát triển
dân tộc Việt Nam chắc chắn sẽ không thực hiện được vì hai lý do.
Công cuộc phát triển của nước Tàu, mục đích trên hết và trước
hết của các nhà lãnh đạo Trung Cộng, như chúng ta đã biết, là một
công cuộc vô cùng khó khăn. Nếu Việt Nam dính liền vận mạng của dân
tộc với Trung Cộng, thì công cuộc phát triển của chúng ta cũng trở
thành vô cùng khó khăn. Hơn nữa, nhu cầu của Việt Nam trong công
cuộc phát triển sẽ đương nhiên ở vào hàng thứ yếu đối với nhu cầu
phát triển của Trung Cộng. Và trên phương diện Tây phương hóa, chúng
ta sẽ là một thứ học trò hạng ba, sẽ dẫm chân vào những lỗi lầm
không tránh được của người học trò hạng nhì.
Đó là trong
trường hợp mà Trung Cộng chỉ có thiện chí đối với Việt Nam. Căn cứ
trên một ngàn năm lịch sử bang giao giữa hai quốc gia, chúng ta có
thể quả quyết rằng trường hợp này không bao giờ phát triển được, mà
lại chúng ta sẽ tròng vào cổ dân tộc cái ách nô lệ mà tổ tiên chúng
ta, trong một ngàn năm đã đổ nhiều xương máu để loại trừ.
Giả sử sự thống nhất do Nam Việt thực hiện, Việt Nam sẽ rơi vào sự
chi phối của Tây phương. Các quốc gia Tây phương không có những nhu
cầu phát triển. Tây phương lại đang theo đuổi một chính sách biến
các cựu thuộc địa thành những đồng minh trong cuộc tranh chấp giữa
Nga Sô và Tây phương. Những phương tiện dồi dào được Tây phương sử
dụng vào các chương trình viện trợ mà chúng ta đều biết.
Nhưng, mặc dù như vậy, chúng ta cũng phải ý thức rằng, nếu chúng ta
lọt vào sự chi phối hoàn toàn của Tây phương, cơ hội phát triển cũng
có thể mất, bởi vì những mâu thuẫn phát sinh ra cơ hội sẽ mất đối
với chúng ta.
Như thế thì, vì công cuộc phát triển của dân
tộc bằng cách Tây phương hóa, mà chúng ta phải thực hiện cho kỳ
được, thái độ thứ nhất nói trên đây không thể chấp nhận được.
Thái độ thứ hai
Giả sử chúng ta
chọn thái độ thứ hai.
Sau khi đã thừa nhận một tình
trạng thực tế mà chúng ta không chủ động được, hai phần sẽ dốc hết
nỗ lực của mình để thực hiện riêng công cuộc phát triển cho phần, và
bằng đường lối của mình chủ trương. Cơ hội phát triển hiện nay vẫn
còn vì cuộc tranh chấp Tây phương và Nga Sô chưa chấm dút, thêm vào
đó cuộc tranh chấp, Tây phương, Nga Sô và Trung Cộng vừa phát sinh.
Hơn nữa, vì hai bên Tây phương và Cộng sản đều muốn chứng minh
tính cách hiệu quả của phương pháp phát triển của mình, hai phần
Việt Nam sẽ đương nhiên được hưởng nhiều viện trợ kỹ thuật và tư
bản.
Tuy nhiên, thái độ này sẽ không tránh được hai khuyết
điểm. Hai công cuộc phát triển kinh tế và kỹ thuật, quan niệm riêng
cho hai miền, cho thích nghi với nhau trên lĩnh vực toàn quốc không?
Công cuộc phát triển dân tộc gồm sự thâu nhận những giá trị tiêu
chuẩn mới. Nếu hai phần phát triển theo hai phương pháp khác, cố
nhiên các giá trị tiêu chuẩn cũng khác nhau. Như thế, sự phát triển
thành công có là một trở lực cho sự thống nhất trong tương lai
không?
Khuyết điểm thứ nhất không quan hệ bởi vì một chương
trình phát triển kinh tế có thể quan niệm vừa rộng cho nhiều xứ và
vừa hẹp cho từng xứ. Và kinh tế và kỹ thuật mà hai phần đều thâu
thập, cùng là kinh tế và kỹ thuật của Tây phương.
Khuyết điểm
thứ hai, liên quan đến lĩnh vực tinh thần của công cuộc phát triển,
quan hệ hơn nhiều. Và có cơ biến thành một trở lực cho sự thống nhất
dân tộc sau này hơn.
Tuy nhiên, chúng ta đã chứng minh rằng
một công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa không làm
mất bản chất dân tộc. Như thế, mặc dầu miền Nam phát triển theo kiểu
Tây phương, và miền Bắc theo kiểu Cộng sản, hai miền vẫn không mất
bản chất dân tộc.
Bài học của Nga Sô lại cho chúng ta thấy
rằng, mặc dầu các giá trị tiêu chuẩn của Cộng sản đối chọi với các
giá trị tiêu chuẩn của Tây phương, nhưng các giá trị tiêu chuẩn của
Cộng sản là những giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn có mục
đích huy động quần chúng, hậu thuẫn cho chế độ độc tài của Đảng Cộng
sản, để thực hiện công cuộc phát triển.
Một khi mục đích
phát triển đã đạt, Nga Sô, chính vì sự tồn tại của xã hội, đã bắt
buộc phải thay thế những giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn
bằng những giá trị tiêu chuẩn thích nghi với di sản tinh thần của
văn minh nhân loại.
Đã như thế thì, một khi mục đích phát
triển đã đạt, một điều chắc chắn là miền Bắc sẽ thay thế các giá trị
tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn và các giá trị tiêu chuẩn của hai
miền sẽ không khác nhau. Chỉ có một điều là, sự thống nhất chỉ có
thể thực hiện được khi nào mục đích phát triển đã đạt.
Như
thế thì vấn đề đã sáng tỏ. Vì sự sống còn của dân tộc, thế hệ của
chúng ta phải nắm cho được cơ hội hiện tại phát triển dân tộc bằng
cách Tây phương hóa. Trong hoàn cảnh chính trị hiện tại của quốc
gia, chúng ta có thể nắm được cơ hội, nếu chúng ta loại bỏ mọi xúc
động tâm lý và mọi toan tính lợi dụng chính trị ngắn hạn, can đảm
nhìn thẳng vấn đề phân chia lãnh thổ và nhìn nhận rằng phải tạm thời
giữ nguyên tình trạng đến khi mục đích phát triển đã đạt riêng cho
hai miền Nam và Bắc.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Phần III
11. VAI TRÒ CỦA MIỀN NAM
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Các
đoạn phân tích trên đây còn giúp cho chúng ta nhận thức vai trò
trọng yếu của Nam Việt trong giai
đoạn
hiện tại của lịch sử dân tộc.
Vì lệ thuộc đối với một chủ
nghĩa, mà cả Nga Sô lẫn Trung Cộng đều sử dụng như là một phương
tiện chiến đấu khả dĩ làm cho dân tộc họ, các nhà lãnh đạo Cộng sản
Việt Nam đã tạo thời cơ cho thực dân Pháp thực hiện được những thủ
đoạn chính trị của họ, mà hậu quả đã đưa đến sự chia đôi lãnh thổ
ngày nay.
Sự lệ thuộc nói trên và sự chia đôi lãnh thổ đã tạo
hoàn cảnh cho sự chi phối và sự toan thống trị của nước Tàu đối với
Việt Nam tái hiện dũng mãnh, sau gần một thế kỷ vắng mặt. Ký ức của
những thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta còn ghi
trong mỗi trang lịch sử của dân tộc và trong mỗi tế bào của thân thể
chúng ta.
Các nhà lãnh đạo miến Bắc, khi tự đặt mình vào sự
chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ
kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu
diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự
tồn tại của dân tộc.
Sở dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của
Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính
trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh
hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự
thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung
Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.
Trong
hoàn cảnh hiện tại, sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho
dân tộc thoát khỏi ách thống trị của Trung Cộng, vừa là một bảo đảm
một lối thoát cho các nhà lãnh đạo Cộng sản Bắc Việt, khi họ ý thức
nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nào họ vẫn tiếp tục thực
hiện ý định xâm chiếm miền Nam thì họ vẫn còn chịu sự chi phối của
chính sách chiến tranh xâm lăng của Trung Cộng, thay vì chính sách
sống chung hòa bình của Nga Sô.
Vì vậy cho nên, sự mất còn
của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất
còn trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả nỗ lực của chúng ta
trong giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc lập, và sự
phát triển cho miền Nam để duy trì lối thoát cho miền Bắc và cứu dân
tộc khỏi ách thống trị một lần nữa.
Những cái vốn
khác: Vốn nhân lực.
Trong một công cuộc phát triển
dân tộc số lượng và phẩm lượng của nhân công đóng một vai trò quan
trọng tương đương với tài nguyên của xứ sở. Dưới đây chúng ta sẽ tìm
hiểu giá trị hiện hữu của vốn về nhân lực và vốn về tài nguyên của
chúng ta. Chúng ta sẽ tự ý để một bên mọi chương trình tài chính và
kỹ thuật để sử dụng tài nguyên và nhân lực một cách hữu hiệu đến mức
tối đa trong công cuộc phát triển. Các chương trình như thế thuộc
thẩm quyền các kinh tế gia.
Khuôn khổ chính trị.
Ngoài giá trị hiện hữu của vốn nhân lực và vốn tài nguyên, chúng
ta cũng đề cập đến khuôn khổ chính trị, trong đó hai cái vốn trên sẽ
được sử dụng một cách có lợi nhất cho dân tộc trong giai đoạn này.
Khuôn khổ chính trị, như chúng ta sẽ thấy dưới đây, sẽ quy định cách
thức sử dụng hai cái vốn trên và ấn định giới hạn khai thác vốn nhân
lực. Trong các nước chưa phát triển như chúng ta, ngoài cái vốn tài
nguyên là một thứ vốn thụ động, nghĩa là tự nó không sinh lợi được
cái vốn hoạt động duy nhất mà chúng ta có thể sử dụng được hết sức
rộng rãi là vốn nhân lực.
Do đó, các kinh tế gia chỉ nhìn
nhận vào mục đích trước mắt là khai thác đến tận cùng cái vốn duy
nhất của chúng ta có thể sử dụng được trong công cuộc phát triển dân
tộc, dễ bị cám dỗ bởi những phương pháp lãnh đạo khả dĩ giúp cho họ
huy động được mà không gặp trở lực cái vốn nhân lực đến mức tối đa.
Phương pháp lãnh đạo thích nghi với quan niệm trên đây là phương
pháp độc tài đảng trị, ví dụ như của Cộng sản hay của Đức Quốc Xã.
Sự thành công của Nga Sô, và sự có thể thành công của Trung Cộng
tăng nhiều uy tín cho phương pháp trên và nhiều nhà lãnh đạo bị
những phương pháp đó cám dỗ.
Phương pháp độc tài đảng
trị.
Phương pháp độc tài Đảng trị dựa trên căn bản
chặt hết các dây liên hệ của từng cá nhân bất cứ dưới hình thức gia
đình, xã hội, tôn giáo, và văn hóa, và thay thế vào đó bằng những
dây liên hệ duy nhất với một đảng chính trị duy nhất, nắm chính
quyền. Từ trên căn bản đó các biện pháp được quan niệm cho mọi lĩnh
vực. Cái lợi của phương pháp trên là biến mỗi cá nhân thành ra một
bộ phận rất dễ sai khiến, dễ uốn nắn của một bộ máy khổng lồ nhiều
khả năng nhưng cũng dễ sử dụng trong tay người lãnh đạo. Vì vậy,
nhiều người lãnh đạo, khi có một chương trình vĩ đại cần phải thực
hiện trong một thời gian ngắn, dễ bị cám dỗ bởi một phương pháp hấp
dẫn như thế, và dễ quên rằng những phương tiện mà họ muốn sử dụng
như vậy không phải là những phương tiện vô tri, nhưng là những người
mà trách nhiệm của người lãnh đạo là mưu hạnh phúc cho.
Nhưng
hiệu lực của phương pháp trên như thề nào, đối với công cuộc phát
triển toàn diện bằng cách Tây phương hóa, mục đích mà, vì sự sống
còn của dân tộc, chúng ta phải đạt cho kỳ được.
Một công cuộc
phát triển bằng cách Tây phương hóa, như chúng ta đã biết, không
phải chỉ giới hạn trong sự thâu thập kỹ thuật Tây phương, nhưng còn
bao gồm sự thâu nhận nhiều tiêu chuẩn giá trị mới. Như thế thì, công
cuộc phát triển bằng cách Tây phương hóa sẽ đương nhiên dẫn dắt đến
sự cần thiết phải tìm cho xã hội được phát triển một trạng thái điều
hòa mà trong đó các giá trị tiêu chuẩn mới sống chung với nhiều giá
trị tiêu chuẩn cũ.
Như thế thì, tiêu chuẩn thành công hay
thất bại của một công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương
hóa là sự kiện xã hội được phát triển có tìm được hay không một
trạng thái điều hòa mới để bảo đảm cho sự tiến bộ của xã hội trong
tương lai.
Một xã hội điển hình, đã phát triển bằng cách Tây
phương hóa theo phương pháp độc tài Đảng trị Cộng sản, là xã hội Nga
Sô. Vậy xã hội Nga Sô đã thành công trong công cuộc phát triển dân
tộc chưa? Nghĩa là xã hội Nga Sô đã tìm được trạng thái điều hòa
mới, khả dĩ bảo đảm sự tiến hóa trong tương lai chưa? Về vấn đề vô
cùng quan trọng này, trong các đoạn trên, chúng ta nhận thấy hai sự
kiện.
Trước hết các giá trị tiêu chuẩn của Nga Sô, trong phạm
vi lãnh đạo, bất lực trong vấn đề bảo đảm một sự lãnh đạo quốc gia
liên tục, vì không thực hiện được một sự chuyển quyền điều hòa, mỗi
khi phải thay đổi người lãnh đạo.
Sự kiện thứ hai là sự kiện
Nga Sô, sau khi mục đích kỹ thuật của công cuộc phát triển đã đạt,
đã phải thay thế các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn của
thuyết Các-Mác, bằng những giá trị tiêu chuẩn có tính cách di sản
của văn minh nhân loại, như chúng ta đã thấy trong một đoạn ở trên.
Chúng ta phải ý thức rằng một sự thay thế những giá trị tiêu chuẩn
như vậy, đương nhiên, đả phá đến tận nền tảng chủ nghĩa Các-mác
Lê-nin.
Đã như thế thì, chắc chắn rằng không bao giờ các nhà
lãnh đạo Nga Sô chấp nhận một sự thay đổi giá trị tiêu chuẩn như
trên, nếu đã không bị thực tế lịch sử dồn vào cái thế không làm sao
không thay đổi được. Thực tế lịch sử đó là các giá trị tiêu chuẩn
chiến lược và giai đoạn của thuyết Cộng sản không thực hiện được một
trạng thái điều hòa mới khả dĩ bảo đảm sự tiến hóa của cộng đồng.
Các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn đó, ví dụ, như
chúng ta đã thấy, đề cao ái tình tự do, đả phá gia đình, phủ nhận
quyền tư hữu, bài trừ tôn giáo, vân vân, đã nhân danh quyền lợi của
cộng đồng mà bóp chết cá nhân, do đó đương nhiên tiêu diệt trạng
thái thăng bằng động tiến căn bản trong một cộng đồng giữa quyền lợi
cá nhân và quyền lợi cộng đồng. Trạng thái thăng bằng động tiến mất,
vì hai lực lượng tương phản không còn để tạo ra một cuộc phối hợp
sáng suốt. Sinh lực sáng tạo không có thì sự tiến hóa trong tương
lai của cộng đồng không được bảo đảm.
Như thế thì, chính là
một đe dọa đến sự tồn tại của xã hội Nga Sô, đã thúc đẩy các nhà
lãnh đạo Nga Sô phải thay thế các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và
giai đoạn của thuyết Cộng sản.
Và như thế thì vần đề đã rõ,
bài học của Nga Sô chứng minh rằng, phương pháp độc tài Đảng trị
Cộng sản không thể bảo đảm được sự thành công của một công cuộc phát
triển dân tộc toàn diện, bằng cách Tây phương hóa, như chúng ta đã
định nghĩa.
Nếu bây giờ, chúng ta lại giới hạn mục đích công
cuộc phát triển, chỉ trong phạm vi một sự thâu thập kỹ thuật Tây
phương, thì phương pháp độc tài Đảng trị Cộng sản, thật sự, có nhiều
hiệu lực như các nhà lãnh đạo đã bị phương pháp đó cám dỗ mong tưởng
không?
Tiêu chuẩn thành công hay thất bại của một công cuộc
thâu thập kỹ thuật Tây phương là, như chúng ta đã biết, sự thâu thập
có hay không lên được đến mức độ chế ngự được khả năng sáng tạo kỹ
thuật Tây phương.
Theo tiêu chuẩn đó, các kiến thức hiện tại
chưa cho phép chúng ta trả lởi đích xác câu hỏi trên, vì kỹ thuật
Tây phương vẫn còn đang ở trong thời kỳ phát triển hùng mạnh và các
quốc gia ngoài Tây phương vẫn còn đang nỗ lực chế ngự các kỹ thuật
đó cho kỳ được.
Chúng ta chỉ có thể có hai nhận xét.
Từ khi nước Anh mở màn cho công cuộc phát triển dân tộc đến nay,
trong xã hội Tây phương nhiều quốc gia đã thực hiện công cuộc phát
triển kỹ thuật của mình. Sau Anh, nước Đức, nước Pháp, nước Mỹ, nước
Ý và nhiều quốc gia nhỏ ở Bắc Âu, Tây Âu và Đông Âu đều lần lượt
thực hiện công cuộc phát triển kỹ thuật. Các thuộc địa di dân của
Tây phương như Úc châu, Tây Tây Lan và Nam Phi cũng có thể kể vào số
các quốc gia trên. Trong tất cả các quốc gia trên, không có một quốc
gia nào đã cần đến phương pháp độc tài đảng trị để thực hiện công
cuộc phát triển kỹ thuật của mình.
Ngoài Tây phương, nước
Nhật, nước Nga và Thổ Nhĩ Kỳ đã thực hiện công cuộc phát triển kỹ
thuật. Ấn Độ và Trung Hoa đang dồn nỗ lực vào công cuộc phát triển.
Nghĩa là, ngoài Tây phương, nếu có quốc gia đã thực hiện công cuộc
phát triển kỹ thuật bằng phương pháp độc tài đảng trị như Nga, thì
cũng có những quốc gia như Nhật đã thực hiện công cuộc phát triển kỹ
thuật đến một trình độ không kém, bằng một phương pháp không phải là
phương pháp độc tài đảng trị.
Như thế thì, trong xã hội Tây
phương, không có một công cuộc phát triển kỹ thuật nào đã được thực
hiện bằng phương pháp độc tài đảng trị. Ngoài xã hội tây phương,
phương pháp độc tài đảng trị không giữ độc quyền thực hiện công cuộc
phát triển kỹ thuật.
Riêng đối với Việt Nam chúng ta, ngoài
những sự kiện phân tích trên đây, chúng ta đã thấy rằng hoàn cảnh
lịch sử và vị trí địa dư của chúng ta không cho phép chúng ta áp
dung một phương pháp độc tài đảng trị trong công cuộc phát triển của
chúng ta.
Thăng bằng động tiến
Trong
căn bản, chấp nhận áp dụng phương pháp độc tài đảng trị là đã lựa
chọn con đường dễ nhất, giữa hai con đường. Việc lãnh đạo một tập
thể cũng phức tạp như là đời sống. Nếu đời sống nào cũng là một
thăng bằng động tiến giữa lực lượng phá hoại và lực lượng kiến
thiết, hay là một sự hòa hợp giữa hai khí âm và dương, thì vũ trụ
cũng là một thăng bằng động tiến giữa những lực lượng có những ảnh
hưởng trái ngược và chống đối nhau. Luật thăng bằng động tiến là một
luật thiên nhiên của vũ trụ, áp dụng cho các hiện tượng trong thế
giới mênh mông và bao la của các tinh tú, cũng như cho các hiện
tượng thiếu cực, và vô hình của các nguyên tử. Đời sống của nhân
loại, trong mọi lĩnh vực và trong mọi giới hạn, đều do luật thăng
bằng động tiên chi phối. Vì thế cho nên, sống hợp với vũ trụ là sống
theo luật thăng bằng động tiến, nghĩa là trong mọi trường hợp, trước
tiên, tìm cho được hai đối tượng nào phải chịu luật thăng bằng động
tiến và sau đó con đường sống là nuôi dưỡng và phát triển sự thăng
bằng đã tìm thấy. Ngược lại, con đường chết, không hợp với vũ trụ là
phá hủy sự thăng bằng đó.
Việc lãnh đạo một tập thể là việc
giữ thăng bằng giữa những khối của tập thể, bởi vì quyền lợi của mỗi
khối khác nhau, là việc giữ thăng bằng giữa nhu cầu dài hạn của tập
thể và nhu cầu ngắn hạn của đời sống của các phần tử trong tập thể.
Là việc giữ thăng bằng giữa sinh lực bành trướng của nội bộ và áp
lực bên ngoài đưa vào. Nếu chúng ta lại nhớ rằng các thăng bằng nói
trên không phải là thứ thăng bằng chết, thăng bằng tỉnh chỉ, mà là
một thứ thăng bằng sống, thăng bằng động tiến, thì chúng ta nhận
thức rằng lúc nào người lãnh đạo cũng phải hết sức linh động, để mỗi
lúc, thay thế một trạng thái thăng bằng đã bị phá vỡ, bằng một trạng
thái thăng bằng mới thích nghi với sự biến chuyển của tình thế. Và
tất cả công tác trên lại phải được thi hành trong khuôn khổ một
chương trình đã hoạch định, và với một mục đích bất biến.
Chúng ta có thể hình dung được một cách cụ thể công việc của người
lãnh đo bằng hình ảnh rất thông thường của người cỡi xe đạp. Người
cỡi xe đạp lúc nào cũng phải dời đổi vị trí của trọng tâm của toàn
bộ hệ thống người và xe đạp, để duy trì một thăng bằng luôn luôn
thay đổi tùy theo tình trạng của con đường. Sự thăng bằng của người
cỡi xe đạp giữ được dễ dàng khi nào xe đạp tiến tới. Người cỡi xe
đạp là hình ảnh cụ thể rất trung thành của một trạng thái thăng bằng
động tiến. Lúc nào xe đạp tiến là thăng bằng còn giữ được. Xe đạp
ngừng, thăng bằng mất. Có tiến tới mới có thăng bằng, có thăng bằng
mới có tiến. Đó là căn bản của một trạng thái thăng bằng động tiến.
Vì những lý do trên mà chọn phương pháp độc tài đảng trị để lãnh
đạo, là đương nhiên không thừa nhận sự cần thiết phải duy trì trạng
thái thăng bằng động tiến, giữa nhu cầu dài hạn của tập thể và nhu
cầu ngắn hạn của đời sống của những phần tử của tập thể. Chọn như
thế có nghĩa là, thay vì cố gắng giữ thăng bằng giữa hai lực lượng
tương phản, đã ngã hẳn về một lực lượng. Sự giữ thăng bằng động tiến
bao giờ cũng khó hơn sự tự buông cho ngã về với một lực lượng.
Cũng như giữ cho xe đạp vững và tiến tới bao giờ cũng khó hơn để
cho xe đạp ngã hẳn về một bên và đứng lại. Vì vậy mà chọn phương
pháp lãnh đạo độc tài đảng trị với hy vọng thỏa mãn nhu cầu dài hạn
của tập thể bằng cách bóp nghẹt nhu cầu ngắn hạn của nhân dân là
chọn một con đường dễ, sánh với con đường, trong đó lúc nào cũng
phải giữ một thăng bằng động tiến giữa hai nhu cầu nói trên.
Và đương nhiên con đường dễ không phải lúc nào cũng là con đường
sống. Riêng hoàn cảnh của Việt Nam, như chúng ta đã thấy, con đường
sống không phải là con đường dễ.
Lý luận trên đây lại cho
chúng ta thấy rõ rằng khuôn khổ chính trị trong đó việc sử dụng cái
vốn nhân lực và tài nguyên rất đỗi quan trọng. Vì vậy sau này chúng
ta sẽ trở lại vấn đề này một lần nữa một cách chi tiết hơn.
Nhược điểm một: dân số ít
Cái vốn nhân lực
của chúng ta cũng là đáng kể. Theo các con số đáng tin cậy nhất,
miền Bắc hiện nay có 17 triệu dân và miền Nam 14 triệu. Hơn ba chục
triệu dân là xấp sỉ dân số của Nhật lúc bắt đầu Tây phương hóa. Tuy
nhiên, vào giữa thế kỷ 19, khi Nhật Bản mở cửa đón tiếp văn minh Tây
phương, các lực lượng kinh tế trên thế giới, ví dụ, Anh, Pháp hay
Đức đều có một dân số tương đương. Ngày nay tình thế đã khác. Sự
nghiên cứu những phương pháp sản xuất kỹ thuật khả dĩ sinh lợi nhiều
nhất, đồng thời với những kỹ thuật sản xuất càng ngày càng tinh vi,
đã dẫn dắt đến việc tập trung các cơ sở kỹ nghệ lại thành những
phương tiện sản xuất vĩ đại. Đồng thời, những khối kinh tế thích
nghi với những phương tiện trên cũng bành trướng theo cùng một nhịp.
Ngày nay những khối kinh tế kỹ nghệ sống mạnh được nhờ sản xuất
nhiều và tiêu thụ nhiều phải là những khối to lớn như Mỹ, khối Nga
hay khối Trung Cộng đang hình thành. Sự thật này hiển nhiên cho đến
đỗi, ngay các khối kinh tế kỹ nghệ Tây Âu khác, đều đến một trình độ
phát triển đáng kính, muốn tồn tại cũng đang phải nỗ lực hợp nhất
lại thành một khối một để đương đầu với các khối kinh tế khác trên
thế giới.
Trên đây lại là một sự kiện chỉ cho chúng ta thấy
một lần nữa, tai hại của sự lỡ cơ hội của chúng ta, bởi vì điều kiện
phát triển lúc bấy giờ ít khắc nghiệt hơn này nay. Và nếu chúng ta
lại lỡ cơ hội lần thứ hai này nữa thì không cần phải nói, điều kiện
phát triển sau này lại còn khắc nghiệt hơn nữa.
Nhất là nếu
Trung Cộng thực hiện được công cuộc phát triển dân tộc của họ ngay
trong cơ hội này, điều mà phần đông đều cho là rất có thể.
Nhược điếm hai: thiếu tính khí
Bản tính của
người Việt Nam lại cần cù và chịu khó, và bẩm chất rất là thông
minh. Sự khiếm khuyết về tính khí không phải là một trở lực bởi vì
đó là một đức tính mà giáo dục có thể đào tạo được, trong khi khiếu
thông minh là một thiên tính. Sự khiếm khuyết về tính khí do nhiều
nguyên nhân lịch sử gây ra, trong số đó có những yếu tố mà chúng ta
đã nhắc đến trong đoạn trên đây về vấn đề Nam tiến của dân tộc.
Ngoài ra, tình hình rối loạn ở nội bộ trong mấy thế kỷ liền là
một trở lực vô cùng to tát cho sự phát triển của tính khí. Tiếp theo
đó sự thống trị của Pháp, làm tan rã xã hội Việt Nam, càng thúc đẩy
sự tiêu diệt tính khí của người Việt Nam. Bởi vì tính khí xây dựng,
trước hết, trên căn bản của một sự tin tưởng mãnh liệt vào các giá
trị tiêu chuẩn của xã hội. Các giá trị tiêu chuẩn bị mất, thì tính
khí cũng không còn.
Trong đời sống của một tập thể, tính khí
của mỗi cá nhân cần thiết cho tập thể hơn là các đức tính khác về lý
trí kể cả bẩm chất thông minh. Nhưng chỉ có lối sống tập thể mới
phát huy được tính khí, vì thế cho nên, các môn thể thao tập thể
đóng góp rất nhiều vào công cuộc đào tạo tính khí.
Chúng ta
càng nhận thấy sự cần thiết của tính khí đối với tập thể hơn cả các
đức tính khác, khi chúng ta biết rằng các sử gia đều công nhận sự
thành công của người Anh trong lịch sử là nhờ tính khí mà nền giáo
dục đã hun đúc cho họ được đến một cao độ hiếm có, và được phổ cập
rộng rãi trong đại chúng.
Vì thế cho nên, vấn để đào tạo tính
khí là một nhiệm vụ vô cùng khẩn yếu cho công cuộc giáo dục của
chúng ta lúc này. Trong công cuộc Tây phương hóa, sự thâu thập các
kiến thức của văn minh Tây phương là một điểm quan trọng như thế nào
chúng ta đã biết. Nếu phải cần một mức để so sánh, chúng ta có thể
nói rằng nhiệm vụ đào tạo tính khí cho nhân dân lại còn quan trọng
hơn nhiệm vụ truyền bá những kiến thức mới của Tây phương.
Tuy nhiên, chúng ta không nên quên rằng một nhược điểm chính của cái
vốn nhân lực chúng ta là sự thiếu kỹ thuật trong mọi lĩnh vực. Sở dĩ
vấn đề trang bị về kỹ thuật không được đặc biệt đề cập đến trong
đoạn này, là vì công cuộc Tây phương hóa đương nhiên gồm sự trang bị
về kỹ thuật đối với cái vốn nhân lực của chúng ta.
Nhược điểm ba: vô tổ chức
Nhược điểm thứ ba của cái
vốn nhân lực của chúng ta là sự vô tổ chức.
Như chúng ta đã
thấy, ở trên, trong đoạn nói về hậu quả của cuộc Nam tiến của chúng
ta, nhân dân Việt Nam, nhất là ở Nam miền Trung và miền Nam, thiếu
tinh thần sống tập thể, bởi vì tổ chức hạ tầng của chúng ta không
có. Đó là một nhược điểm vô cùng tai hại bởi vì tập thể quốc gia cần
đòi hỏi ở người dân một tinh thần tập thể mà không ai hun đúc cho họ
trong mấy thế kỷ.
Chúng ta không bàn đến sự tổ chức quần
chúng chặt chẽ, như một tổ chức quân đội, theo lối Cộng sản. Mục
đích của Cộng sản vượt xa sự đưa quần chúng vào khuôn khổ một lối
sống tập thể, bởi vì Cộng sản nhắm trước tiên mục tiêu chặt đứt hết
dây liên hệ của người dân, trên các lĩnh vực gia đình, xã hội và tôn
giáo, thay thế vào đó bằng những dây liên hệ duy nhất của đảng, để
biến người dân thành một bộ phận hoàn toàn dễ điều khiển của một bộ
máy chung mà họ là những người sử dụng.
Không nói chi đến
hình thức tổ chức cực đoan đó, ngay đến hình thức tổ chức tôn trọng
tự do cá nhân đến đỗi, nhiều người quen gọi nó là tự do phóng túng,
của nhiều quốc gia Tây phương, chúng ta cũng không có. Ngoài một hệ
thống hành chánh, thời kỳ thống trị của đế quốc Pháp đã để lại cho
chúng ta một xã hội hoàn toàn vô tổ chức. Chính cái tổ chức, có vẻ
chặt chẽ, của các làng mạc của chúng ta ở miền Bắc cũng bị lung lay
đến tận gốc rễ. Ngoài tổ chức gia đình ra, người dân Việt Nam, lúc
bấy giờ, không còn biết một tổ chức xã hội hay chức nghiệp nào nữa.
Song song với một xã hội vô tổ chức và rời rạc, một hệ thống hành
chánh chuyên phục vụ quyền lợi của kẻ thống trị. Đó là một phác họa
thô sơ nhưng xác đáng của xã hội chúng ta.
Trong hoàn cảnh
vô tổ chức như vậy, không có một công tác gì của tập thể có thể thực
hiện được. Nếu ngày nay, chúng ta bắt tay vào một công cuộc vĩ đại,
như công cuộc Tây phương hóa để phát triển dân tộc, chắc chắn chúng
ta không thể làm gì được với tình trạng vô tổ chức đó. Và công việc
đầu tiên mà chúng ta phải làm trước khi bắt tay vào công cuộc Tây
phương hóa là tổ chức cái vốn nhân lực của chúng ta.
Tổ chức quần chúng
Vấn đề tổ chức quần chúng quan
trọng đến mức quyết định sự thành công hay thất bại của chúng ta sau
này.
Bất cứ trong xã hội nào, Tự Do hay Cộng sản, các tổ
chức quần chúng đều có, và đương nhiên, đóng vai trò trung gian giữa
chính quyền và các cá nhân. Không có tổ chức quần chúng, chính quyền
không đi tới với nhân dân được.
Không có tố chức quần chúng,
nhân dân không làm sao bày tỏ ý kiến cho chính quyền. Các tổ chức
quần chúng còn là những yếu tố quân bình giữa nhu cầu dài hạn của
tập thể và nhu cầu ngắn hạn của các phần tử trong tập thể. Các tổ
chức quần chúng ở xã hội Tự Do hay Cộng sản đều có một vai trò như
nhau, chỉ khác một điều là ở xã hội Tự Do các tổ chức quần chúng do
nhân dân tổ chức và điều khiển, với sự kiểm soát của chính quyền,
còn ở trong xã hội Cộng sản các tổ chức quần chúng đều do chính
quyền tổ chức và điều khiển.
Trong trường hợp của chúng ta,
trong khi quần chúng của chúng ta còn quen lối sống rời rạc và chưa
có ý thức tập thể, sáng kiến hợp thành tổ chức chắc chắn không thể
phát sinh từ trong nhân dân. Và kinh nghiệm tổ chức và điều khiển
cũng không làm sao dồi dào được. Do đó, sự hướng dẫn của chính quyền
rất cần thiết trong lúc đầu.
Chúng ta cần ý thức rõ rằng, sự
hướng đẫn tổ chức quần chúng, như chúng ta quan niệm, không thể là
một sự xâm phạm tự do cá nhân. Trong một tập thể, phải có sự thăng
bằng động tiến giữa nhu cầu dài hạn của tập thể và nhu cầu ngắn hạn
của các phần tử của tập thể. Nếu xã hội Cộng sản là một trạng thái,
trong đó nhu cầu của cá nhân hoàn toàn bị hy sinh cho nhu cầu của
tập thể, thì trong xã hội chúng ta hiện nay, nhu cầu của tập thể
hoàn toàn b hy sinh cho nhu cầu của một số ít cá nhân. Trong hai
trường hợp sự thăng bng động tiến đu bị đổ vỡ, cho nên xã hội chúng
ta hiện nay không tiến được, mà xã hội Cộng sản tiến một cách miễn
cưỡng.
Ngoài ra, sự hướng dẫn của chúng ta không thể xem là
một sự xâm phạm tự do cá nhân được. Bởi vì mục đích của chúng ta,
khuyến khích và hướng dẫn các tổ chức quần chúng, là đặt cho mỗi cá
nhân thêm nhiều dây liên hệ xã hội, nghề nghiệp, văn hóa, kinh tế,
nhờ đó mà quyền lợi của cá nhân được bảo đảm hơn từ trước tới nay,
khi cá nhân chỉ có những sợi dây liên hệ gia đình và quen thuộc.
Trong khi mục đích của Cộng sản là chặt hết các dây liên hệ và thay
thế vào đó bằng dây liên hệ duy nhất giữa cá nhân và Đảng.
Tính cách thiết yếu của các tổ chức quần chúng
Chúng ta cần phải nhấn mạnh đến tính cách cần thiết của tổ chức
quần chúng. Trong một tình thế bình thường, các tổ chức quần chúng
đã là những bộ phận thiết yếu cho sự điều hòa đời sống của một quốc
gia. Không có tổ chức quần chúng huyết mạch của quốc gia không chạy
được từ trung ương xuống hạ tầng,và không trở về được từ hạ tầng đến
trung ương. Nguồn sống bị chặn nghẹt.
Trong những giai đoạn
quyết định của một cộng đồng sự cần thiết của tổ chức quần chúng cho
tập thể quốc gia lại tăng thêm bội phần. Không có tổ chức quần chúng
việc lãnh đạo quốc gia không làm sao thực hiện được. Nhân dân không
biết hướng mà đi và người lãnh đạo không làm sao hướng dẫn quần
chúng được.
Xưa kia, trong xã hội Việt Nam, các làng mạc tự
trị là những tổ chức quần chúng có tính cách xã hội. Bộ máy hành
chánh của triều đình bao trùm lên trên các tổ chức quần chúng đó.
Trong các vùng của lãnh thổ Việt Nam, nơi nào mà tổ chức làng mạc đã
lỏng lẻo, như phía Nam miền Trung và miền Nam, thì nơi đó, tập thể
quốc gia mất giá trị và biện pháp hành chánh mất hiệu quả. Như thế
cũng đủ cho chúng ta nhận thấy tính cách cần thiết của các tổ chức
quần chúng và sự vô hiệu lực, đối với quốc gia, của bộ máy hành
chánh nếu không có tổ chức quần chúng.
Sở dĩ chúng ta mất ý
thức quần chúng và không quan niệm được tính cách cần thiết của sự
tổ chức quần chúng trong đời sống của quốc gia, vì trong gần một
trăm năm, chúng ta đã sống trong chế độ thống trị của đế quốc, trong
đó tổ chức quần chúng bị tuyệt đối cấm đoán. Đế quốc thống trị dân
tộc chúng ta chớ không lãnh đạo dân tộc chúng ta. Thực dân khai thác
dân tộc bị trị, và không cần biết phải dẫn dắt dân tộc bị trị đi
đường nào và đến mục đích gì. Vì thế cho nên, như chúng ta đã thấy,
cuộc Tây phương hóa của chúng ta trong thời kỳ Pháp thuộc hoàn toàn
không mục đích và không đường hướng dẫn. Chủ định đã như vậy, thì
nhà cầm quyền Pháp cần gì đến tổ chức quần chúng. Ngược lại họ cần
phải cấm đoán mọi hình thức tổ chức quần chúng để giữ cho nhân dân
sống rời rạc và không đoàn tụ được. Trong điều kiện đó, một bộ máy
hành chánh, chuyên lo phục vụ quyền lợi cho kẻ thống trị, đủ để cho
nhà cầm quyền Pháp cai trị xứ này. Nhiệm vụ của bộ máy hành chánh
của Pháp, đối với dân chúng Việt Nam chỉ là bảo vệ cuộc trị an, để
cho các quyền lợi kinh tế của Pháp được bảo đảm. Vì vậy cho nên, các
tổ chức quần chúng đối với người Pháp, chẳng những không cần thiết
lại còn là những tổ chức phá rối trị an.
Như thế chúng ta đã
thấy rõ vì sao, dưới thời Pháp thuộc các tổ chức quần chúng không
thể sinh sống được. Những người quen thuộc với nề nếp cai trị của
Pháp, không quan niệm được rằng sự lãnh đạo của một quốc gia không
phải là giữ cho được một cuộc trị an. Vì nhiệm vụ của bộ máy lãnh
đạo quốc gia của chúng ta ngày nay nhất định không phải là nhiệm vụ
của bộ máy cai trị của Pháp xưa kia. Chúng ta cần giải quyết những
vấn đề của dân tộc mà người Pháp không cần biết đến. Chính vì không
nhận định được sự kiện này mà tất cả các chính phủ Việt Nam, do đế
quốc Pháp thành lập, hoặc do đế quốc Pháp chi phối đều thất bại.
Họ bị thất bại vì họ tiếp tục công cuộc trị an của người Pháp,
trong khi đó vấn đề chính là lãnh đạo quốc gia, nghĩa là phải giải
quyết các vấn đề của dân tộc trong giai đoạn này.
Trong khi
những chính phủ ấy lo công cuộc trị an, thì nhân dân sẽ theo những
người nào giải quyết được các vấn đề của dân tộc.
Tóm lại,
nếu ngày nay chúng ta sử dụng được một bộ máy hành chánh hoàn bị như
bộ máy hành chánh của người Pháp trước đây, chúng ta cũng không giải
quyết được vấn đề Việt Nam hiện nay, bởi vì vấn đề hiện nay không
phải là một vấn đề hành chánh và sự trị an, mà là một vấn đề to tát
và quan hệ hơn nhiều: Vấn đề lãnh đạo một dân tộc trong một giai
đoạn quyết liệt. Nếu chúng ta không giải quyết được, thì người khác
sẽ thay chúng ta mà giải quyết.
Tổ chức chính trị và
tổ chức quần chúng
Các tổ chức quần chúng có
phải là những tổ chức chính trị không?
Tổ chức chính
trị là tổ chức của một đảng chính trị tạo ra để qui tụ những người
cùng một xu hướng chính trị và sẵn sàng góp sức tranh đấu cho xu
hướng chính trị đó.
Tổ chức quần chúng là một tổ chức gồm
những người làm cùng một nghề, hoặc cùng làm việc chung tại một vị
trí, hoặc những người cùng đeo đuổi một mục đích xã hội, văn hóa hay
thể thao, hoặc những người cùng một quyền lợi kinh tế.
Như
vậy, tổ chức quần chúng không phải là một tổ chức chính trị. Tuy
nhiên, một tổ chức quần chúng gồm những công dân của quốc gia, vì
thế, lúc có cơ hội, một tổ chức quần chúng vẫn có thể có thái độ
chính trị và ảnh hưởngchính trị. Một tổ chức quần chúng không phải
là một tổ chức chính trị. Ảnh hưởng chính trị của một tổ chức quần
chúng quan trọng hay không quan trọng tùy thuộc sự tổ chức quần
chúng có hàng ngũ chặt chẽ hay là không có và rộng lớn hay không. Vì
ảnh hưởng chính trị đương nhiên phải có của các tổ chức quần chúng,
mà có sự lầm lẫn vô tình hay cố ý giữa các tổ chức quần chúng và tổ
chức chính trì. Sự lầm lẫn vô tình của người chỉ nhìn thấy ảnh hưởng
chính trị của các tổ chức quần chúng. Sự lầm lẫn cố ý của những
người lợi dụng các tổ chức quần chúng để làm hậu thuẫn chính trị.
Nhưng các tổ chức quần chúng, chỉ đóng được đúng vai trò chính
của nó trong guồng máy quốc gia, khi nào giữ được bản chất không
chính trị mặc dù vẫn có ảnh hưởng chính trị đương nhiên không thể
tránh được.
Trong tình trạng chiến tranh ngày nay, các vấn đề
tổ chức quần chúng lại còn trở nên quan trọng hơn nữa. Bên nào tổ
chức được quần chúng, bên đó sẽ thực hiện được chương trình phát
triển của mình và sẽ nắm thắng lợi.
Vốn về tài nguyên
Vốn về tài nguyên của chúng ta không thể nói là phong phú bởi vì
nhiều nhiên liệu quan trọng về kinh tế hay quốc phòng chưa tìm thấy
ở lãnh thổ Việt Nam. Những nhiên liệu thuộc về năng lực thiết yếu
cho kỹ nghệ như dầu hỏa và uranium chúng ta chưa có, than đá rất
nhiều và thủy lực có thể khai thác được. Nhiều quặng mỏ ở miền Bắc
đã tìm thấy hoặc đã khai thác và khoáng mạch chắc chắn còn nhiều
trong dãy Trường Sơn nhưng sự truy tầm chưa được tổ chức có phương
pháp.
Gần năm ngàn cây số bờ biển, sông Cửu Long, sông Đồng
Nai và hệ thống kinh rạch chi chít ở miền Nam chứa đựng một nguồn
thủy lợi dồi dào chưa được khai thác đúng mức. Đồng bằng sông Nhị Hà
và sông Cửu Long là những vùng đất phì nhiêu. Một kỹ thuật canh tác
hợp lý có thể tăng gia mức sản xuất ít nhất lên đến hai trăm phần
trăm. Những cánh đồng mênh mông vùng cao nguyên có thể chỉnh đốn
thành những vùng chăn nuôi đầy triển vọng.
Các rừng, phía Bắc
miền Bắc, dọc theo dãy Trường Sơn và các khu rừng già phía Đông miền
Nam và các khu rừng ngập nước phía Tây tàng trữ những vốn thiên sản
dồi dào, nếu được giữ gìn và tu bổ.
Các vùng đất đỏ và đất
xám miền Nam và Cao nguyên miền Trung là những vùng đất phì nhiêu để
trồng những loại cây kỹ nghệ. Một phần nhỏ đã được khai phá trồng
cao su và vài loại khác. Nhưng phần lớn vẫn là cái vốn chưa xài tới.
Bản kê khai sơ lược trên đây chỉ cho chúng ta thấy cái vốn to
tát về tài nguyên còn đang nằm ngủ trong tay chúng ta.
Để
khai thác cái vốn đó, chúng ta chỉ có một cái vốn nhân lực gồm tám
mươi lăm phần trăm là nông dân hoặc làm những nghề không rõ rệt, năm
phần trăm là quân nhân, tám phần trăm là công nhân.
Mức sống
trung bình của số người làm thành cái vốn nhân lực trên đây rất
thấp. Mức lợi tức ước lượng trung bình cho mỗi người, theo các tài
liệu nghiên cứu đáng tin cậy nhất, lối 60 Mỹ kim một năm, lối 5,000
bạc Việt Nam. Để có thể so sánh chúng ta nên biết rằng lợi tức trung
bình hằng năm của mỗi người dân Ân Độ là 57 Mỹ kim, Trung Hoa là 27
Mỹ kim, Nhật Bản là 100 Mỹ kim. Chúng ta lại biết rằng những quốc
gia nào có một mức lợi trung bình cho mỗi người dân dưới 100 Mỹ kim
kể là những quốc gia chưa có mở mang. Nếu mức lợi tức trung bình lên
được 100 đến 300 Mỹ kim, thì quốc gia được kể vào hạng kém mở mang.
Từ 300 đến 500 Mỹ kim thì kể là khá mở mang. Từ 500 đến 800 kể là đã
mở mang và trên 800 thì kể là mở mang đến cao độ. Trong các nước kể
là mở mang đến cao độ có những nước Mỹ, Anh, Thụy Sĩ và một vài nước
phía Bắc Âu châu.
Những con số trên đây cho chúng ta thấy
rằng mức sống của dân chúng Việt Nam rất là thấp. Vì vậy cho nên, xu
hướng tự nhiên của người lãnh đạo là khai thác cho đến mức cái vốn
tài nguyên của chúng ta để nâng cao mức sống của nhân dân.
Nhưng vấn đề phát triển dân tộc không thể theo một chiều hướng duy
nhất thỏa mãn nhu cầu ngắn hạn của các phần tử của tập thể. Chính
trong vấn đề phát triển kinh tế này, hơn vấn đề nào hết, bởi vì nó
sẽ liên quan trực tiếp và nặng nề đến đời sống thường ngày của nhân
dân, luật thăng bằng động tiến cần phải được tôn trọng. Điều cốt yếu
là thực hiện được công cuộc phát triển mà không gây những thống khổ
cho toàn dân trong nhiều thế hệ. Riêng về trường hợp của Việt Nam,
vì vị trí địa dư, vì hoàn cảnh lịch sử và vì mục tiêu của công cuộc
phát triển mà chúng ta sẽ bàn đến với chi tiết ở đoạn sau, công cuộc
phát triển có thể thực hiện được trong điều kiện thăng bằng kể trên.
Nhu cầu dài hạn của tập thể
Vậy
nhu cầu dài hạn của tập thể đòi hỏi những gì?
Trong
công cuộc phát triển dân tộc, khai triển kinh tế là một phần chính
yếu. Và trong công cuộc khai triển kinh tế trang bị máy móc kỹ nghệ
cho xứ sở là phần chính yếu.
Sự thực hiện công cuộc trang bị
kỹ nghệ của tất cả các quốc gia trên thế giới, trong xã hội Tây
phương cũng như ngoài xã hội Tây phương, kể cả nước Nga và nước Tàu,
đều phải nhờ viện trợ ngoại quốc. Viện trợ kỹ thuật là một sự kiện
đương nhiên, bởi vì bước đầu của công cuộc phát triển là thâu thập
kỹ thuật. Nhưng sự viện trợ tư bản cũng thiết yếu ngang hàng hay hơn
sự viện trợ kỹ thuật. Sự viện trợ tư bản ngoại quốc có thể trực tiếp
hay gián tiếp, dưới hình thức quà biếu hay dưới hình thức cho vay.
Và tùy trường hợp và tùy cơ hội, khối viện trợ tư bản ngoại quốc
nhiều hay ít.
Nhưng trong trường hợp nào, viện trợ tư bản
ngoại quốc cũng đóng vai trò trụ cốt. Và chưa có một trường hợp phát
triển nào đã thực hiện được chỉ bằng sự nỗ lực thắt lưng buộc bụng
của dân chúng trong quốc gia tìm phát triển.
Tuy nhiên có
những cơ hội thuận lợi cho các quốc gia cần trang bị kỹ nghệ, cũng
như có những hoàn cảnh nghiêm khắc hơn. Trong trường hợp trên khối
viện trợ tư bản ngoại quốc lên cao và đài thọ một tỷ lệ quan trọng
các nhu cầu trang bị kỹ nghệ. Phần nhỏ còn lại sẽ do lợi tức của
quốc gia liên hệ gánh chịu. Trong hoàn cảnh thuận lợi này, công cuộc
trang bị kỹ nghệ không trở thành một cái gánh nặng gian lao và đau
khổ cho dân chúng.
Trong trường hợp thứ hai, khối viện trợ tư
bản ngoại quốc không được dồi dào, và chỉ đài thọ được một tỷ lệ nhỏ
của nhu cầu trang bị kỹ nghệ. Phần lớn còn lại phải do lợi tức của
quốc gia liên hệ gánh chịu. Và trong hoàn cảnh nghiêm khắc đó, công
cuộc trang bị kỹ nghệ trở thành một cái gánh đau khổ nặng nề cho dân
chúng.
Trong trường hợp phát triển thứ nhất có thể là trường
hợp của một quốc gia nhỏ như quốc gia Việt Nam. Và trường hợp thứ
hai là trường hợp đương nhiên của các khối dân to tát như khối dân
Trung Cộng vì hai lý do dưới đây.
Sự phát triển của một nước
nhỏ như quốc gia Việt Nam, không thể trở thành một sự đe dọa cho ai
cả, và do đó, sẽ không tạo một phản ứng thù nghịch nào có thể gây
trở lực cho công cuộc phát triển của chúng ta. Và một sự lãnh đạo
sáng suốt đủ tạo hoàn cảnh cho khối viện trợ tư bản ngoại quốc lên
đến mức độ khả dĩ bảo đảm cho một công cuộc trang bị kỹ nghệ không
đau khổ cho dân chúng. Trong khi đó, sự phát triển của một khối dân,
như khối dân Trung Cộng, tự nó là một sự đe dọa cho tất cả thế giới,
dầu mà các nhà lãnh đạo Trung Cộng không có những tham vọng bành
trướng như hiện nay. Và đương nhiên, những phản ứng thù nghịch sinh
rạ khắp nơi và dựng lên vô số trở lực cho công cuộc phát triển. Và
một sự lãnh đạo sáng suốt nhiều lắm cũng chỉ làm cho thuyên giảm
được các trở lực trên, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ tạo được hoàn
cảnh để cho viện trợ tư bản ngoại quốc tăng gia. Và công cuộc trang
bị kỹ nghệ nhất định sẽ vô cùng đau khổ cho toàn dân.
Giả sử
mà, sự đe dọa cho cả thế giới của sự phát triển của một khối dân số
to tát như khối Trung Cộng, không có thật sự, thì nhu cầu phát triển
của khối đó cũng sẽ là vô bờ bến, không có viện trợ tư bản ngoại
quốc nào thỏa mãn cho nổi.
Trong khi đó, nhu cầu phát triển
của một quốc gia nhỏ, như quốc gia Việt Nam, trong hiện tình quốc tế
thế giới, có thể do viện trợ tư bản ngoại quốc thỏa mãn đến một tỷ
lệ quan trọng.
Hoàn cảnh phát triển của Việt Nam và của Trung
Hoa khác nhau là như vậy. Trách nhiệm của người lãnh đạo, là trong
mọi công cuộc của dân tộc, tìm và tạo những yếu tố thuận lợi, không
dẫn dắt đến sự tiêu hao sinh lực của cộng đồng. Trong cộng cuộc phát
triển dân tộc, sự tiết kiệm sinh lực của cộng đồng vì vận mạng của
các thế hệ tương lai, lại trở thành khẩn thiết hơn nữa.
Như
thế thì, việc chấp nhận một khuôn khổ phát triển tiền chế theo lối
Cộng sản, bất kể hoàn cảnh đặc biệt của chúng ta, là một hành động
thiếu sáng suốt. Và sự gắn liền vận mạng của Việt Nam với vận mạng
của Trung Cộng, trong giai đoạn phát triển hiện nay, là một hành
động di hại cho dân tộc.
Đóng góp trang bị kỹ nghệ
Các con số dưới đây giúp cho chúng ta ý thức được số lượng của
phần đóng góp của lợi tức quốc gia vào công cuộc trang bị kỹ nghệ
cho từng quốc gia.
Nước Anh là nước đầu tiên trên thế giới đã
thực hiện công cuộc kỹ nghệ hóa. Nghĩa là lúc bấy giờ, nước Anh
không có cần phải đương đầu với một sự cạnh tranh nào cả mà cũng
phải, trong mười năm, truất trong tức lợi quốc gia hằng năm một số
là mười bảy phần trăm, 17%, để bỏ vào vốn trang bị kỹ nghệ. Như vậy
trong mười năm đầu, và sau đó bách phân lần lần giảm xuống. Nghĩa là
đại cương trong mười năm, mỗi năm mỗi người dân có làm ra được 100
đồng chỉ còn tiền được riêng cho mình 83 đồng.
Nếu Mỹ ngày
nay trở nên một khối kinh tế mạnh nhất thế giới, lúc bắt đầu kỹ nghệ
hóa, đã phải mỗi năm truất mười lăm phần trăm, 15%, lợi tức quốc gia
để sung vào quỹ kỹ nghệ hóa.
Trong trường hợp tương tự, nước
Pháp đã phải bỏ vào đến mười ba, 13, phần trăm. Nước Đức đi sau, sự
cạnh tranh bắt đầu gay cấn, nên đã phải đóng vào quỹ kỹ nghệ hóa đến
hai chục phần trăm, 20%, lợi tức quốc gia trong những năm quyết liệt
nhất.
Thời gian kỹ nghệ hóa càng dài thì gánh nặng nhân dân
phải đóng góp chia ra nhiều năm, có thể nhẹ đi nhưng không làm sao
tránh được. Thời gian kỹ nghệ hóa càng ngắn sự đóng góp của nhân dân
dồn lại ít năm, lại càng nặng nề hơn và đòi hỏi nhiều hy sinh to tát
hơn. Nhật Bản khi kỹ nghệ hóa, trong hai mươi bốn năm đầu từ 1890
đến 1914, mỗi năm phải đóng góp 10 phần trăm lợi tức quốc gia vào
quỹ trang bị kỹ nghệ; và hai mươi năm sau đó từ năm 1914 đến 1936,
mỗi năm 18 phần trăm của lợi tức quốc gia.
Nước Nga, muốn đi
mau đã bắt buộc nhân dân phải đóng góp một cách bách phân lên tới 25
phần trăm, trong thời gian từ 1927 đến 1932 của kế hoạch ngũ niên
đầu tiên, và sau cùng sự đóng góp lên đến 27 phần trăm. Sự cùng khốn
của dân chúng Nga Sô lên đến tột độ. Và chỉ có một chính sách độc
tài khốc liệt của Staline mới giữ cho dân chúng không nổi loạn và
đánh đổ chế độ Cộng sản. Và to lớn, và hùng mạnh như nước Nga mà
suýt một chút nữa chế độ độc tài Cộng sản đã bị sụp đổ vì dân chúng
oán ghét nên trong Đệ Nhị đại chiến đã hướng về kẻ xâm lăng, người
Đức, như là một người giải phóng. Chỉ sự vụng về, và chính sách kỳ
thị chủng tộc, của Đức Quốc Xã đã đánh thức lòng công phẫn của dân
chúng Nga đối với các nước Tây Âu và đã cứu chế độ Cộng sản khỏi
phải bị tiêu diệt. Và chính tổ quốc của Cộng sản đã được cứu thoát
khỏi ngoại xâm không phải vì lý thuyết Cộng sản mà vì tinh thần dân
tộc của nhân dân Nga. Sự kiện này hàm nhiều ý nghĩa.
Sau cùng
là Trung Hoa, đang thực hiện công cuộc kỹ nghệ hóa bằng cách cưỡng
bách dân chúng đóng góp vào quỹ trang bị kỹ nghệ 16 phần trăm của
lợi tức cho năm đầu của kế hoạch ngũ niên thứ nhất, năm sau 18 phần
trăm, và năm sau nữa 22 phần trăm. Và năm 1956 bách phân đã lên đến
25 phần trăm và từ năm 1957 hơn một phần ba của lợi tức quốc gia đã
phải bỏ vào quỹ trang bị kỹ nghệ. Vì thế, nếu chúng ta nhớ rằng lợi
tức của người Trung Hoa thấp vào bậc nhất thế giới, chúng ta quan
niệm được nỗi cùng khốn của dân Tàu trong lúc này. Một mặt nhân lực
bị huy động và khai thác triệt để; một mặt lợi tức làm ra một trăm
đồng, phải truất ra 33 đồng khỏi quỹ tiêu thụ, nghĩa là làm việc
phải nhiều hơn và ăn uống phải ít hơn. Vì thế cho nên, nếu không có
một bộ máy độc tài Đảng trị tuyệt đối vô nhân đạo, không làm sao mà
giữ nổi hơn 700 triệu dân không nổi loạn lật đổ chế độ Cộng sản
được.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Phần III
12. ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bách
phân lợi tức quốc gia đóng góp mỗi năm vào quỹ trang bị kỹ nghệ,
cũng như thời gian đóng góp đối
với mỗi quốc gia mỗi khác. Điều này chứng minh rằng, mặc dầu tất cả
các quốc gia đã phát triển hay đương tìm phát triển, đều theo đuổi
một mục đích giống nhau: trang bị kỹ nghệ; nhưng vì điều kiện lịch
sử, vị trí địa dư, và tình trạng xã hội lúc bắt đầu công cuộc phát
triển, đều mang những tính chất riêng biệt cho từng quốc gia, cho
nên hoàn cảnh phát triển, cũng như điều kiện phát triển không làm
sao giống nhau được. Vì thế, không có đường lối phát triển nào, gồm
chương trình và phương pháp, đã tỏ ra có hiệu lực cho một quốc gia,
và trong một giai đoạn, có thể xuất cảng sang một quốc gia khác,
trong một giai đoạn khác.
Mỗi quốc gia chỉ có thể phát triển
theo một đường lối được quan niệm riêng cho quốc gia đó, ấn định bởi
điều kiện lịch sử, vị trí địa dư, và tình trạng xã hội đặc biệt cho
quốc gia. Tinh thần của sự phát triển, mục đích của sự phát triển,
và những thực hiện kỹ thuật của công cuộc phát triển, đều giống nhau
cho các quốc gia, nhưng chương trình phát triển, phương pháp phát
triển và những mục tiêu giai đoạn của công cuộc phát triển không thể
giống nhau được.
Nhiệm vụ của các nhà lãnh đạo là tìm cho
được các yếu tố quy định đường lối phát triển thích nghi với dân
tộc, thay vì thừa nhận làm của mình, một đường lối đã được nghiên
cứu và được chứng minh là có hiệu lực riêng cho quốc gia, nhưng
phương pháp lẫn chương trình đều không thích hợp cho chúng ta.
Đường lối phát triển cho Trung Cộng, không thể là đường lối phát
triển của Nga Sô. Phong trào nhân dân công xã, mà Nga Sô đã đả kích
từ lúc bắt đầu, mặc dầu thất bại đau đớn, vẫn là một bằng chứng hùng
biện cho nỗ lực của các nhà lãnh đạo Trung Cộng để tìm đường lối
phát triển đặc biệt thích nghi với nước Tàu.
Và chúng ta còn
nhớ, ngay trong giai đoạn tranh giành độc lập lúc nào các nhà lãnh
đạo Ấn Độ cũng đủ sáng suốt nhìn thấy thâm ý chiến lược của Nga Sô,
nên không bị ma lực của thuyết Cộng sản, trong thời kỳ cực thịnh lôi
cuốn.
Và ngày nay, công cuộc phát triển của Ấn Độ cũng theo
một đường lối riêng biệt, đã được ấn định bởi những điều kiện nội bộ
của dân tộc Ấn.
Chủ trương một đường lối phát triển riêng cho
dân tộc không có nghĩa là phủ nhận những kinh nghiệm phát triển của
các quốc gia đã đi trước và phủ nhận những điều tương đồng trong
công cuộc phát triển giữa nhiều quốc gia. Trái lại chỉ có sự nghiên
cứu các kinh nghiệm phát triển, ở mọi nơi, mới tạo đủ điều kiện cho
các nhà lãnh đạo một quốc gia, nắm vững các nguyên tắc chi phối sự
phát triển để quan niệm một đường lối phát triển cho dân tộc, thích
nghi với hoàn cảnh đặc biệt, do những thực tế lịch sử ấn định.
Mục tiêu kinh tế
Hoàn cảnh phát triển
của một quốc gia là toàn bộ các điều kiện ấn định bởi giai đoạn lịch
sử, tình hình chính trị, trình độ xã hội, vị trí địa dư và tài
nguyên kinh tế của quốc gia đó. Và chỉ trong sự tôn trọng toàn bộ
các iều kiện ấy, công cuộc phát triển mới có thể thực hiện được. Như
thế thì hoàn cảnh phát triển chi phối nghiêm khắc, đường lối phát
triển, nghĩa là chương trình phát triển và phương pháp vận dụng nhân
lực để thực hiện chương trình phát triển. Và trong các mục tiêu kinh
tế cần phải thực hiện cho từng giai đoạn, cũng như trong những thời
gian hạn định cho các mục tiêu, sẽ thể hiện một cách rõ ràng những
bức bách khắc nghiệt của hoàn cảnh phát triển. Mục tiêu càng cao, sự
đóng góp của nhân dân càng nặng, thời gian càng ngắn, sự gian lao
của nhân dân càng sâu đậm.
Trong trường hợp phát triển của
Trung Cộng mà chúng ta đã đề cập đến, sự đóng góp của nhân dân, hàng
năm càng lên cao, để thực hiện những mục tiêu vĩ đại, hy vọng đáp
ứng nhu cầu vô tận do một hoàn cảnh phát triển vô cùng khắc nghiệt
đòi hỏi.
Trước hết, công cuộc phát triển của một khối gần tám
trăm triệu dân, tự nó đã mang những trở lực vật chất kinh khủng, bởi
vì khối phương tiện nhân lực và tư bản cần được vận dụng vô cùng to
tát.
Sau đó, sự phát triển của một khối người gần bằng một
phần tư nhân loại, là một sự cạnh tranh ghê gớm và một sự đe dọa an
ninh chưa thấy trong lịch sử, cho tất cả các quốc gia trên thế giới,
kể cả Nga Sô, dù mà các nhà lãnh đạo Trung Cộng không biểu lộ, một
cách hiển nhiên như hiện nay, những tham vọng xâm lăng đáng sợ. Do
đó, sự phát triển của Trung Cộng đương nhiên sẽ tạo phản ứng thù
nghịch của nhiều cường quốc kể cả Nga Sô. Và những phản ứng này sẽ
biến thành những trở lực không vượt qua được, cho công cuộc phát
triển.
Giả sử mà, sự phát triển của Trung Cộng không tạo ra
những phản ứng thù nghịch; và dù có những thiện chí muốn trợ lực
công cuộc phát triển ấy, thì cũng không có khối viện trợ nào trên
thế giới có thể thỏa mãn đến một bách phân đáng kể, các nhu cầu phát
triển của khối người gần tám trăm triệu dân.
Các nhà lãnh đạo
Trung Cộng, cố nhiên, ý thức sung mãn các điều kiện khủng khiếp của
hoàn cảnh phát triển khắc nghiệt của nước Tàu. Vì vậy cho nên, để
tìm giải pháp cho vấn đề phát triển dân tộc, mà đương nhiên họ xem
là chính yếu, họ đã thi hành hai loại chính sách, từ ngày nắm chính
quyền. Loại thứ nhất gồm các biện pháp nội bộ nhằm thúc đẩy công
cuộc phát triển thật nhanh chóng để kịp thời ứng phó với các phản
ứng thù nghịch của các cường quốc. Loại thứ hai gồm các biện pháp
ngoại giao, để như nước Nga khi xưa, tìm đồng minh hậu thuẫn cho
công cuộc phát triển của dân tộc.
Các biện pháp nội bộ của
các nhà lãnh đạo Trung Cộng chú trọng đến hai điểm. Đặt những mục
tiêu kinh tế vĩ đại cho hai khu vực, quốc phòng và trang bị kỹ nghệ
sản xuất, và bóp nghẹt khu vực tiêu thụ. Áp dụng một phương pháp độc
tài, tàn nhẫn đến tột độ để huy động đến mức tối đa cái vốn nhân lực
vô tận của Tàu, để thay thế cái vốn tư bản mà họ nghèo nàn.
Trong lĩnh vực ngoại giao, các nhà lãnh đạo Trung Cộng đã và đang
thi hành ba chiến dịch. Trong chiến dịch thứ nhất, họ đã tìm khai
thác mâu thuẫn giữa Tây phương và Nga Sô khi mâu thuẫn này còn khai
thác được, để mang tư bản và kỹ thuật vào phục vụ chương trình phát
triển. Khi kế hoạch thanh toán mâu thuẫn của Tây phương, mà chúng ta
đã biết, đã đưa mâu thuẫn trên vào tình trạng không còn khai thác
được nữa, thì các nhà lãnh đạo Trung Cộng mở một chiến dịch thứ nhì,
vận động thay chân Nga Sô, với mục đích thành lập một mặt trận làm
hậu thuẫn cho công cuộc phát triển của Tàu. Tác dụng và giá trị của
mặt trận Cộng sản để bảo vệ công cuộc phát triển của dân tộc Tàu
ngày nay do Trung Cộng chủ trương, cũng giống như tác dụng và giá
trị của mặt trận Cộng sản để bảo vệ công cuộc phát triển của dân tộc
Nga trước đây, do Nga Sô chủ trương.
Chiến dịch ngoại giao
thứ ba mà các nhà lãnh đạo Trung Cộng đang thực hiện là chương trình
viện trợ cho các nước nhỏ đang tìm phát triển. Họ đã trích một bách
phân không đáng kể, trong cái khối nhu cầu vĩ đại của quốc gia, để
thỏa mãn những nhu cầu phân bộ và đương nhiên nhỏ nhặt của các quốc
gia nhỏ đang tìm phát triển với mục đích biến các quốc nhỏ này thành
những Đồng Minh quốc tế hậu thuẫn cho công cuộc phát triển riêng của
nước Tàu.
Và ngay chính sách biểu lộ tham vọng xâm lăng cũng
là một hành động có tính toán qui về mục đích trước và trên hết của
Trung Cộng hiện nay: công cuộc phát triển dân tộc. Các trường hợp
chiếm đóng Tây Tạng và Tân Cương và chi phối Bắc Hàn và Bắc Việt là
những trường hợp đặc biệt, bởi vì các vùng đất đai nói trên thuộc
vào những vùng thiết yêu cho sự phát triển của Trung Hoa. Các cuộc
gây hấn về ranh giới với Ấn Độ, Miến Điện và Nga Sô, có tác dụng,
vừa gây uy tín của Trung Cộng đối với các đồng minh trong mặt trận
do Trung Cộng chủ trương, vừa duy trì sự căng thẳng cần thiết trong
nội bộ để dễ huy động nhân lực.
Mặc dầu tất cả các nỗ lực phi
thường trên đây, nhưng vì một hoàn cảnh phát triển vô cùng khắc
nghiệt, Trung Cộng còn cách mục đích rất xa. Và sự cho nổ bom nguyên
tử, với một mục đích tuyên truyền hiển nhiên, vẫn chưa phải là một
bảo đảm thành công cho công cuộc phát triển của Trung Cộng. Sự thất
bại đau đớn của phong trào Nhân Dân Công Xã, khiến cho các mục tiêu
kinh tế đã ấn định, thay vì nhảy vượt bậc, đã thụt lùi lại nhiều
năm, chứng tỏ sự vội vàng của các nhà lãnh đạo Trung Cộng đang lo sợ
phản ứng thù nghịch không tránh được của các cường quốc, trong đó có
cả Nga Sô.
Trường hợp Việt Nam
Tất cả
các điều kiện khốc liệt đã khiến cho hoàn cảnh phát triển của Trung
Cộng. trở thành vô cùng khắc nghiệt, đều không có trong các điều
kiện chi phối hoàn cảnh phát triển của Việt Nam.
Trước hết,
sự phát triển của một khối vừa hơn ba chục triệu, một phần hai mươi
lăm của khối Trung Cộng, sẽ không là một sự cạnh tranh và một sự đe
dọa cho ai cả. Vì thế cho nên, trong hiện tình thế giới, công cuộc
phát triển của chúng ta sẽ không tạo cho chúng ta những phản ứng thù
nghịch.
Nhu cầu phát triển của chúng ta rất ít so với nhu cầu
phát triển của Trung Cộng. Vì thế cho nên các khối viện trợ trên thế
giới có thể thỏa mãn nhu cầu phát triển của chúng ta đến một bách
phân đáng kể hoặc rất cao. Và chúng ta có thể tin rằng, nếu đường
lối chính trị của chúng ta đủ sáng suốt, thì trong hai mươi năm đã
qua, khai thác cơ hội thứ nhì, mà chúng ta đã đề cập đến nhiều lần,
và với tất cả các viện trợ do mâu thuẫn giữa Tây phương và Nga Sô
tạo nên, chúng ta đã đạt đa số mục tiêu phát triển rồi.
Sự
phát triển của khối ba chục triệu dân của chúng ta, nếu ở ngoài vòng
hoàn cảnh phát triển khắc nghiệt của Trung Cộng, không cần thúc đẩy,
cũng có thể thực hiện được nhanh chóng hơn bội phần sự phát triển
của Trung Cộng.
Trong các điều kiện đó, nếu đặt quyền lợi của
dân tộc lên trên hết, thì không có một lý do nào có thể binh vực
được sự gắn liền vận mạng công cuộc phát triển của chúng ta với vận
mạng công cuộc phát triển của Trung Cộng. Chỉ có một sự lệ thuộc về
lý thuyết, mà thật ra cả Nga Sô lẫn Trung Cộng đều sử dụng như là
một phương tiện, mới có thể mù quáng hy sinh quyền lợi của dân tộc
Việt Nam cho quyền lợi của dân tộc Trung Hoa. Các nhà lãnh đạo Trung
Cộng ý thức sung mãn tâm lý đó ngày nay, cũng như các nhà lãnh đạo
Nga Sô ý thức sung mãn tâm lý đó trước đây. Vì vậy cho nên, Trung
Cộng nỗ lực vận động thay chân Nga, phất cờ Chủ Nghĩa Xã Hội, khai
thác lý thuyết Các-mác Lê-nin, qui tụ những người dễ bị ma lực cám
dỗ, với mục đích cuối cùng là hậu thuẫn cho công cuộc phát triển của
Hán Tộc. Cuộc vận động này vang dội trong tất cả các Đảng Cộng sản
trên thế giới.
Mặc dầu hoàn cảnh phát triển của Việt Nam khác
biệt rất rõ rệt hoàn cảnh phát triển của Trung Cộng ngày nay, và do
đó lại cũng khác biệt rất rõ rệt hoàn cảnh phát triển của Nga Sô
trước đây, các nhà lãnh đạo Cộng sản Bắc Việt vẫn cố sức mang cái áo
đường lối phát triển của Cộng sản để tròng vào cho Việt Nam. Cũng
như xưa kia, nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam khác đã cố sức tròng vào
thân thể Việt Nam cái áo Tam Dân Chủ Nghĩa mà Tôn Văn đã gia công
nghiên cứu may cắt cho dân tộc của ông.
Sau tám trăm năm đè
nặng lên đời sống của dân tộc tâm lý thuộc quốc đối với Trung Hoa,
mặc dầu bị gián đoạn trong gần một thế kỷ, vẫn còn sinh lực tiềm
tàng trong cân não của các nhà lãnh đạo của chúng ta, và khiến cho
họ dễ quên tham vọng đất đai bất di bất dịch của Trung Hoa đối với
Việt Nam.
Lại tâm lý thuộc quốc
Tâm
lý thuộc quốc bắt nguồn từ hai sự kiện. Tương quan lãnh thổ và dân
số giữa hai quốc gia là một nguyên nhân tự ty mặc cảm. Sự lệ thuộc
của Việt Nam đối với văn hóa Tàu là một lý do khác. Tương quan lãnh
thổ và dân số là hai điều kiện vật chất hiển nhiên khó thay đổi
được. Tuy nhiên, trong khung cảnh chính trị của thế giới ngày nay,
sự bang giao giữa Việt Nam và Trung Hoa không còn nằm trong khuôn
khổ xưa nữa và không còn là một sự kiện chỉ liên quan đến hai quốc
gia.
Trên lĩnh vực văn hóa, một dân tộc lớn hay nhỏ, do sự
góp phần nhiều hay ít của dân tộc ấy vào di sản của văn minh nhân
loại. Trong lịch sử cổ Hy Lạp, thành Athen nhỏ bé được tôn sùng là
người hướng đạo của dân tộc Hy Lạp, vì sự góp phần to tát vào di sản
văn minh Hy Lạp. Điều kiện văn hóa này, chúng ta có thể chủ động
được, miễn là công cuộc phát triển của dân tộc thực hiện được. Và
thế hệ của chúng ta có thể có đủ điều kiện và hoàn cảnh để thực hiện
ý chí của Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ, tiêu diệt tâm lý thuộc quốc
đã mấy ngàn năm bao trùm dân tộc và ám ảnh các thế hệ lãnh đạo của
chúng ta. Xem thế, chúng ta càng ý thức tính cách quan trọng của
công cuộc phát triển dân tộc trong giai đoạn này.
Sự lệ thuộc
của Việt Nam đối với văn hóa Tàu đã như không còn nữa, từ khi chúng
ta chịu ảnh hưởng văn hóa Tây phương. Trong tình thế hiện tại, tương
lai sẽ càng ngày càng xác nhận sự kiện này, trừ ra khi nào chúng ta
lại tự đặt chúng ta vào sự lệ thuộc văn hóa của Trung Cộng, như các
nhà lãnh đạo Cộng sản Bắc Việt đang làm.
Trong tình thế hiện
nay, chẳng những văn hóa của chúng ta không lệ thuộc văn hóa Tàu, mà
lại văn hóa của chúng ta còn có cơ hội phát triển hơn bao giờ hết.
Hiện nay Trung Hoa và Việt Nam, do các biến cố lịch sử vừa qua, đều
nằm vào cùng một vị trí. Cả hai đều vừa thoát khỏi sự chi phối của
thực dân, và đang nỗ lực Tây phương hóa để phát triển dân tộc. Các
dị điểm và các đồng điểm giữa hai vị trí đã được chúng ta phân tích
với chi tiết trong các đoạn trên. Và chúng ta cũng biết rằng công
cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa sẽ gồm sự thâu nhận
nhiều giá trị tiêu chuẩn dính liền với kỹ thuật Tây phương. Do đó,
xã hội Trung Hoa cũng như xã hội Việt Nam sẽ đương nhiên bị bắt buộc
tìm một trạng thái điều hòa mới giữa các giá trị tiêu chuẩn. Chúng
ta đã thấy hoàn cảnh phát triển của chúng ta thuận lợi hơn hoàn cảnh
phát triển của Trung Hoa. Trong một đoạn dưới đây chúng ta sẽ thấy
rằng điều kiện ngôn ngữ của chúng ta cũng thuận lợi hơn của Trung
Hoa. Như thế thì, nếu chúng ta thực hiện được công cuộc phát triển,
sự lệ thuộc văn hóa của chúng ta đối với Trung Hoa không bao giờ tái
diễn nữa.
Tóm lại, nếu tương quan lãnh thổ và dân số, giữa
Việt Nam và Trung Hoa, trong khung cảnh chính trị của thế giới ngày
nay, không còn cái tầm quan trọng của nó khi xưa nữa, và nếu sự lệ
thuộc văn hóa đối với Trung Hoa cũng không còn nữa, thì đương nhiên
tâm lý thuộc quốc của chúng ta đối với Trung Hoa cũng sẽ bị tiêu
diệt mãi mãi.
Như thế thì, nếu chúng ta có một sự lãnh đạo
sáng suốt để bảo đảm công cuộc phát triển dân tộc, thì cơ hội, đương
nhiên sẽ đến với chúng ta để giải quyết một vấn đề đã đặt ra cho dân
tộc từ một ngàn năm nay, và hai lần Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ đã
cố tìm giải pháp: cởi bỏ cho dân tộc tâm lý thuộc quốc đối với Trung
Hoa.
Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Cộng sản Bắc Việt không tỏ
ra ý thức tính cách quan trọng của cơ hội này.
Trái lại, sự
áp dụng các phương pháp huy động nhân lực của Trung Cộng vào trường
hợp Việt Nam, mặc dầu hoàn cảnh phát triển của chúng ta không hề đòi
hỏi những phương tiện như vậy, làm sống lại tâm lý thuộc quốc, gần
như đã chết trong một thế kỷ, của những người tự ty mặc cảm trước
Trung Hoa vĩ đại, lúc nào cũng xem Việt Nam là một Trung Hoa con
con. Từ xưa, dưới sự chi phối của tâm lý thuộc quốc, nếu Trung Hoa
diễn một tấn tuồng trên sân khấu trăm thước vuông, thì Việt Nam cũng
phải diễn cũng một tấn tuồng thúc lại cho vừa tầm, trên một sân khấu
chỉ còn một thước vuông. Xưa kia, vì nước Tàu có một tòa Văn Miếu
lớn, thì Việt Nam cũng phải có một tòa Văn Miếu nho nhỏ.
Gần
đây, vì nước Tàu có sách lược Tam Dân Chủ Nghĩa rộng lớn, thì Việt
Nam cũng có sách lược Tam Dân Chủ Nghĩa nho nhỏ. Và ngày nay, vì
nước Tàu thi hành phương pháp độc tài Đảng trị kinh khủng một cách
rộng lớn, thì Bắc Việt cũng thi hành phương pháp độc tài Đảng trị
kinh khủng một cách nho nhỏ.
Hoàn cảnh phát triển của chúng
ta không đòi hỏi những biện pháp dựa trên bạo lực, mà chỉ đòi hỏi
một sự lãnh đạo sáng suốt và khôn ngoan, để khai thác các loại mâu
thuẫn, trên chính trường thế giới, với mục đích tìm vốn tư bản để
thỏa mãn nhu cầu phát triển.
Nhưng, giả sử mà viện trợ ngoại
quốc cho chúng ta, không lên đến một bách phân quan trọng của nhu
cầu phát triển quốc gia, thì chính trường hợp đó cũng chưa đủ để
thuyết minh sự áp dụng vào Việt Nam, phương pháp huy động nhân lực
thi hành ở Trung Cộng. Trong chương trình phát triển của Trung Cộng,
ưu tiên đặc biệt được dành cho khu vực kỹ nghệ quốc phòng. Sau đó
đến khu vực kỹ nghệ sản xuất. Khu vực tiêu thụ bị bóp nghẹt. Thứ tự
ưu tiên trên phản ảnh mối lo âu của các nhà lãnh đạo Trung Cộng, tìm
cách ứng phó với các phản ứng thù nghịch. Và thứ tự ưu tiên trên
đương nhiên đòi hỏi các biện pháp huy động nhân lực đã áp dụng.
Sự phát triển của Việt Nam không gây phản ứng thù nghịch. Nhưng
giả sử sự phát triển của chúng ta có gây phản ứng thù nghịch, thì dù
chúng ta có dồn hết nỗ lực của dân tộc vào khu vực quốc phòng thì,
như chúng ta đã biết, tất cả cố gắng quân sự của chúng ta cũng chưa
đủ để bảo vệ độc lập và lãnh thổ. Như thế thì, trong chương trình
phát triển của chúng ta, ưu tiên dành cho khu vực sản xuất và khu
vực tiêu thụ. Một thứ tự ưu tiên như vậy không đòi hỏi các biện pháp
huy động nhân lực của Trung Cộng.
Nhưng dù là trong một hoàn
cảnh phát triển thuận lợi, sự huy động nhân lực theo lối Cộng sản,
không phải là một yếu tố để thúc đẩy công cuộc phát triển chóng đến
thành công sao? Trên quan điểm dài hạn của đời sống dân tộc, sinh
lực dân tộc là một của báu, mà bất cứ nhà lãnh đạo nào cũng phải đặt
cho mình nghiêm luật không được tiêu hao hay phí phạm, khi quyền lợi
của cộng đồng bắt buộc phải dùng đến.
Các nhà lãnh đạo Trung
Cộng sở dĩ phải chọn lựa phương pháp hành động như vậy, vì họ bị sự
chi phối của hoàn cảnh phát triển khắc nghiệt của nước Tàu. Việt Nam
không ở vào trường hợp bắt buộc đó.
Vả lại, các phương pháp
huy động nhân lực theo Cộng sản sẽ lưu lại cho dân tộc những hậu quả
như thế nào?
Chúng ta chỉ có thể nhận xét rằng, cho đến ngày
nay, nghĩa là gần hai trăm năm sau, dân tộc Pháp còn mang chịu những
hậu quả tai hại của cuộc Cách Mạng năm 1789, mặc dầu trên phương
diện bạo tàn và đẫm máu, Cách Mạng 1789 của Pháp còn kém xa Cách
Mạng của Nga Sô và Cách Mạng của Trung Cộng.
Sau hết, giả sử,
chúng ta bỏ qua hết tất cả lý do thuận hay không thuận, cứ thi hành
triệt để các phương pháp huy động nhân lực của Cộng sản để thực hiện
công cuộc phát triển của dân tộc, thì cái vốn nhân lực ba chục triệu
của chúng ta cũng không đủ cung cấp thêm được bao nhiêu bách phân
của khối nhu cầu phát triển của chúng ta.
Từ hai mươi năm
nay, cơ hội phát triển đã đến cho chúng ta. Nhưng chúng ta chưa nắm
được. Từ mười năm nay, Bắc Việt chưa thực hiện được những mục tiêu
phát triển đáng kể.
Các thực hiện phát triển của Nam Việt đều
bị du kích quân Bắc Việt phá hoại.
Sau hai mươi năm, và sau
khi tiêu hao bao nhiêu sinh lực của dân tộc, chúng ta đã đạt được
kết quả kể trên. Như thế thì, các nhà lãnh đạo của chúng ta có phải
đã đi đúng đường hay không?
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Phần IV
13. MỘT LẬP
TRƯỜNG THÍCH HỢP
VỚI CÁC NHẬN XÉT TRÊN
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Trong
một phần trên chúng ta đã phân tích các sự kiện lịch sử để tìm hiểu
vấn đề mà dân tộc chúng ta cần
giải
quyết trong giai đoạn này. Trong một phần khác, chúng ta đã kiểm
điểm những cái vốn mà chúng ta có thể sử dụng được cũng như những
món nợ mà chúng ta phải mang khi chúng ta nỗ lực giải quyết vấn đề
đã nhìn thấy.
Trong phần dưới đây, chúng ta sẽ làm một công
việc hoàn toàn khác. Trong hai phần trên đây, chúng ta đã dựa trên
những sự kiện lịch sử không ai phủ nhận được để phân tích các biến
cố phức tạp hiện nay, mong soi thấu các đường canh và các sợi chỉ
chính yếu đã dệt ra tình trạng hiện tại của dân tộc. Trong phần dưới
đây, chúng ta lại điều hợp những tính chất mà chúng ta đã rút ra
được từ trong khối sự kiện đã được phân tích, đối với mỗi lĩnh vực
của dĩ vãng dân tộc, để tìm xây dựng một đường lối hành động và một
phương pháp giải quyết vấn đề mà chúng ta đã nhìn thấy.
Nhiều
khía cạnh của đường lối hành động và nhiều yếu tố của phương pháp
giải quyết đã được đề cập đến rải rác trong nhiều đoạn suy luận
trên.
Dưới đây chúng ta cũng sẽ nhắc trở lại trong một cái
nhìn tổng hợp để làm thành một toàn bộ chủ trương trong các lĩnh vực
của đời sống quốc gia.
Chúng ta đang ở trong trường hợp của
một người vừa xem xong một cuốn phim tả một phần dĩ vãng của dân tộc
trong đó những sự kiện bên ngoài và bên trong đều được phân tích với
ít nhiều chi tiết. Vì thế cho nên khi phim ngừng lại ở hình chót,
nghĩa là ở tình trạng hiện tại của quốc gia, chúng ta đã nhận thức
được tất cả các nguyên nhân đã cấu tạo vấn đề hiện tại của dân tộc.
Chúng ta có thể nghĩ rằng, tìm được nguyên nhân cố nhiên là giải
quyết được vấn đề, cũng như nhà Y học tìm được căn bệnh, là chữa
được bệnh.
Nhưng bản chất của đời sông là phức tạp. Đời sống
của quốc gia lại còn phức tạp hơn nữa, bởi vì quốc gia hay bất cứ
một tập thể nào, là trường hoạt động không phải của một người, hay
của một nhóm người, mà là của toàn dân, là của tất cả các phần tử
của tập thể. Do đó phản ứng của tập thể khó mà đoán được. Vì vậy mà
nhiều nhà lãnh đạo đã bị những biện pháp độc tài cám dỗ. Chúng ta
không lựa con đường dễ đó bởi vì chúng ta tin tưởng ở hai điều mà
không ai có thể phủ nhận được.
Sự hiểu biết của chúng ta về
vấn đề dân tộc đã được đặt trên căn bản vững chắc của sự kiện lịch
sử.
Đời sống của một tập thể do định luật thăng bằng động
tiến của vũ trụ chi phối. Thăng bằng động tiến giữa những yếu tố đối
chọi nhau ngay trong nội bộ, thăng bằng động tiến giữa những quyền
lợi của tập thể và quyền lợi của cá nhân, thăng bằng động tiến giữa
những điều kiện bên trong và điều kiện bên ngoài.
Trên căn
bản khách quan đó, chúng ta sẽ tìm minh định mt thái độ mà chúng ta
tin rằng thích nghi nhất vi vấn đề hiện tại cần phải được giải quyết
của dân tộc. Một thái độ đối với vn đề của một dân tộc, đương nhiên
bao gồm đủ các lĩnh vực. Chúng ta lần lượt xem qua các lĩnh vực lãnh
đạo, quần chúng, kinh tế và quyền sở hữu, và văn hóa.
Vấn đề lãnh đạo
Bộ máy lãnh đạo của một quốc
gia được ấn định bởi chính thể lựa chọn. Sự lựa chọn chính thể lại
tùy thuộc ở quan niệm về vấn đề lãnh đạo. Khối Cộng sản và khối Tự
Do, ngày nay khác nhau, trên phương diện hình thức, ở chỗ một bên
chủ trương chính thể Độc tài đảng trị, một bên chính thể Dân chủ
pháp trị. Nhưng, trong căn bản, sự khác nhau không phải về hình thức
bên ngoài đó. Bởi vì hình thức đó chỉ là biểu lộ bên ngoài của một
sự khác nhau về quan niệm lãnh đạo. Khối Tự Do quan niệm một sự lãnh
đạo căn cứ trên sự thuyết phục để hướng dẫn quần chúng. Khối Cộng
sản quan niệm một sự lãnh đạo căn cứ trên sự cưỡng bách để hướng dẫn
quần chúng. Khối thứ nhất chú trọng đến với trạng thái thăng bằng
động tiến giữa quyền lợi ngắn hạn của cá nhân trong tập thể và quyền
lợi dài hạn của tập thể, bởi vì lý do của đời sống là một sự việc
của cá nhân mà điều kiện của đời sống, là một điều kiện tập thể.
Khối thứ nhì chỉ chú trọng đến quyền lợi dài hạn của tập thể bởi vì,
trong một giai đoạn lịch sử, các nhà lãnh đạo tin rằng sự sống còn
của tập thể bị đe dọa và đòi hỏi sự hoàn toàn hy sinh các quyền lợi
cá nhân cho tập thể. Một điều mà chúng ta nên ghi nhớ là sự lựa chọn
quan niệm lãnh đạo này hay quan niệm lãnh đạo kia đều do những sự
kiện lịch sử thực tế quyết định chớ không phải do những quan điểm
triết lý trừu tượng.
Trong một giai đoạn nào đó của lịch sử
một dân tộc, sự thăng bằng động tiến giữa những quyền lợi cá nhân và
quyền lợi tập thể bị phá vỡ, bởi những yếu tố kích thích hoặc nội bộ
hoặc bên ngoài đưa đến. Thăng bằng bị phá vỡ, đời sông của tập thể
tiếp tục trên những căn bản giả tạo cho đến khi nào thăng bằng động
tiến được tái lập.
Quan niệm lãnh đạo
Chúng ta đã biết là ngay trong những thời kỳ bình thường của
cộng đồng, duy trì trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi
ngắn hạn cá nhân của các phần tử của cộng đồng và quyền lợi dài hạn
của cộng đồng, đã là một công việc rất khó khăn, đòi hỏi một sự lãnh
đạo nhiều sáng suốt, nhiều khéo léo và thấu triệt vấn đề cần phải
giải quyết của cộng đồng. Sự phát triển của cộng đồng sẽ được bảo
đảm nếu những nỗ lực duy trì trạng thái thăng bằng động tiến thành
công.
Trong những thời kỳ khủng hoảng của cộng đồng, trạng
thái thăng bằng động tiến chẳng những ở vào một trạng thái bấp bênh
gia tăng mà lại còn bị đe dọa phá vỡ bởi những yếu tố khuynh đảo do
hoàn cảnh lịch sử tạo nên. Sự tiến hóa của cộng đồng bị ngưng trệ.
Nếu chúng ta lại lấy hình ảnh của hệ thống người cỡi xe đạp và xe
đạp trên kia, thì những thời kỳ khủng hoảng của cộng đồng tương
đương với những lúc mà tốc độ của hệ thống giảm đi vì những lý do
nội bộ của hệ thống: xe đạp bỗng ngừng hoặc người cỡi đã mệt mỏi,
hay vì những lý do bên ngoài: tình trạng của con đường hoặc sự lưu
thông trở nên khó khăn. Dầu sao, vì những lý do ngoài ý muốn của hệ
thống, thăng bằng của hệ thống bị đe dọa và hệ thống sắp ngã.
Các yếu tố khuynh đảo trạng thái thăng bằng động tiến có thể
phát sinh từ trong nội bộ, ví dụ những cuộc xáo trộn mà Tây phương
phải đương đầu, khi chính mình vừa phát minh những kỹ thuật sản xuất
kỹ nghệ.
Các yếu tố khuynh đảo có thể từ bên ngoài đưa đến,
ví dụ những cuộc ngoại xâm mà nước Tàu đã dành cho chúng ta trong
tám thế kỷ liên tiếp. Nghĩa là từ ngày lập quốc, trạng thái thăng
bằng động tiến của xã hội chúng ta lúc nào cũng bị sự đe dọa phá vỡ
bởi một cuộc xâm lăng của nước Tàu. Do đó, sự tiến hóa trong lịch sử
đã qua, của dân tộc chúng ta không hùng mạnh và chưa được vượt lên
đến trình độ sáng tạo, góp phần vào văn minh nhân loại. Và tình
trạng nặng nề ấy sẽ mãi mãi đè nặng và kìm hãm sự phát triển của dân
tộc cho tới ngày nào mà chúng ta, như Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ
đã nuôi ý chí, tiêu diệt được sự đe dọa xâm lăng của Trung Hoa.
Các yếu tố khuynh đảo có thể đồng thời vừa từ bên ngoài đưa đến,
vừa phát sinh từ trong nội bộ, ví dụ như cuộc tấn công của Tây
phương vào các quốc gia của xã hội Đông Á bắt buộc các quốc gia này
phải vừa đương đầu với Tây phương, vừa Tây phương hóa các cơ cấu xã
hội của mình.
Đương nhiên là trường hợp thứ ba này là trình
độ trầm trọng nhất mà các cuộc khủng hoảng của một cộng đồng có thể
đạt tới. Trong hoàn cảnh đó, sự duy trì trạng thái thăng bằng động
tiến, hoặc sự tái lập một trạng thái thăng bằng động tiến đã bị phá
vỡ, đòi hỏi một sự lãnh đạo phi thường. Nếu một sự lãnh đạo tương tự
không có, cộng đồng bất hạnh, sẽ bị ngưng trệ trong sự tiến hóa,
hoặc miễn cưỡng tiếp tục một sự tiến hóa phiến diện, chỉ chú trọng
đến một vài khía cạnh của toàn bộ vấn đề cần phải giải quyết của
cộng đồng, nhưng đòi hỏi một sự tiêu hao vô bờ bến đối với sinh lực
của cộng đồng, và lưu lại những hậu quả tai hại nặng nề cho nhiều
thế hệ trong tương lai. Tất cả các cuộc cách mạng đẫm máu, kể cả
cuộc cách mạng của Pháp năm 1789 và của Nga năm 1917, đều thuộc vào
trạng thái thăng bằng động tiến được tái lập. Sau cách mạng 1789,
mãi cho đến sau chiến tranh Pháp-Đức năm 1870, nước Pháp mới tái lập
được trạng thái thăng bằng động tiến đã mất. Sau cách mạng 1917, mãi
đến ngày nay, nước Nga vẫn chưa tái lập lại được trạng thái thăng
bằng động tiến đã mất.
Trong hình ảnh hệ thống người cỡi và
xe đạp, sự trạng thái thăng bằng động tiến bị phá vỡ tương đương với
sự mất thăng bằng của người cỡi. Cộng đồng tiếp tục một sự tiến hóa
miễn cưỡng trên những căn bản giả tạo, phí phạm nhiều sinh lực để
thâu thập những thành quả phiến diện, cũng tương đương với người cỡi
xe đạp gắng sức đẩy chiếc xe đạp không còn dùng được, để đưa toàn bộ
hệ thống người và xe vượt một đoạn đường. Kết quả thâu thập được
không tương đương với sự phí sức rất nhiều, bởi vì một trạng thái
thăng bằng sống đã được thay thế bằng một trạng thái thăng bằng
chết.
Nước Anh và nước Mỹ là những cộng đồng quốc gia điển
hình, nhờ một sự lãnh đạo sáng suốt, đã chiến thắng được những yếu
tố khuynh đảo phát sinh từ nội bộ cũng như bên ngoài đưa vào, nhưng
trong những thời kỳ khác nhau, và duy trì trạng thái thăng bằng động
tiến cho xã hội trong nhiều thế kỷ. Nguồn gốc chính yếu của sức mạnh
hiện tại của hai cường quốc trên là sự kiện đó.
Nước Pháp và
nước Đức là hai quốc gia khác, trong xã hội Tây phương, cũng đã phải
đương đầu với những cuộc khủng hoảng đồng loại với những cuộc khủng
hoảng của hai quốc gia Anh và Mỹ. Cả hai nước Pháp và Đức đều thắng
được các yếu tố nội bộ mà không thắng được các yếu tố ngoại lai.
Trạng thái thăng bằng động tiến bị phá vỡ trong một thời gian ngắn
nhưng đã được tái lập. Tuy nhiên sự lãnh đạo quốc gia vẫn còn chịu
ảnh hưởng của một sự gián đoạn trầm trọng.
Nước Nhật là một
quốc gia điển hình, nhờ một sự lãnh đạo phi thường, đã thắng được
những yếu tố khuynh đảo vừa nội bộ vừa bên ngoài, cùng lúc tác động
đồng thời, và duy trì trạng thái thăng bằng động tiến mặc dầu xã hội
phải thay thế nhiều giá trị tiêu chuẩn.
Nước Nga là một quốc
gia ngoài xã hội Tây phương, đã phải ứng phó với một cuộc khủng
hoảng đồng loại với cuộc khủng hoảng của Nhật. Nhưng các nhà lãnh
đạo Nga đã thắng được các yếu tố bên ngoài mà không thắng được các
yếu tố nội bộ. Vì những biện pháp áp dụng để đương đầu với cuộc
khủng hoảng đã phá vỡ trạng thái thăng bằng động tiến của xã hội, và
đặt ra những căn bản giả tạo cho một sự tiến hóa phiến diện. Và ngày
nay, sau gần nửa thế kỷ chính quyền độc tài đảng trị khủng khiếp của
Cộng sản, trạng thái thăng bằng động tiến của xã hội Nga vẫn chưa
tái lập.
Chúng ta đã thấy trong các giai đoạn trên, hai sự
kiện chứng minh cho điều này. Trước hết là các nhà lãnh đạo Nga Sô
đang lần lần và một cách dè dặt thay thế các giá trị tiêu chuẩn
chiến lược giai đoạn, và đương nhiên giả tạo bằng những giá trị
chiến lược khác thích nghi với di sản tinh thần của văn minh nhân
loại, mục đích để tái lập trạng thái thăng bằng động tiến của xã
hội, đã bị cách mạng phá vỡ. Sự kiện thứ hai là bộ máy lãnh đạo của
Nga Sô, căn cứ trên những tiêu chuẩn giả tạo của chế độ độc tài đảng
trị, đương nhiên bất lực trong sự chuyển quyền điều hòa mỗi khi cần
phải thay đổi người lãnh đạo.
Như các đoạn trên đã trình bày,
cộng đồng quốc gia Việt Nam đang ở trong một thời kỳ khủng hoảng
đồng loại với những khủng hoảng trước đây của Nhật và của Nga. Cuộc
khủng hoảng của Việt Nam lại còn trầm trọng hơn vì những yếu tố
khuynh đảo nội bộ phát sinh từ thời gian gần một thế kỷ thuộc Pháp
và những yếu tố khuynh đảo bên ngoài do cuộc tranh chấp giữa Tây
phương và Cộng sản đưa đến. Vì vậy cho nên, quan niệm lãnh đạo dẫn
dắt đến hình thức chính thể, rất quan trọng cho sự bảo vệ trạng thái
thăng bằng động tiến cho cộng đồng trong những thời kỳ bình thường,
càng trở nên vô cùng thiết yếu trong một thời kỳ khủng hoảng như của
chúng ta hiện nay.
Trong trường hợp Việt Nam, không thể đặt
vấn đề quan niệm lãnh đạo và chính thể mà không đề cập đến vấn đề
Cộng sản được, vì chính là nhân danh quan niệm lãnh đạo Cộng sản mà
cuộc tương tàn đã diễn ra trên mảnh đất này từ hai mươi năm nay.
Vì những lý do nào mà có một số người lãnh đạo chủ trương rằng
quan niệm lãnh đạo Cộng sản thích nghi cho hoàn cảnh khủng hoảng của
cộng đồng dân tộc Việt Nam hiện nay?
Trước hết chúng ta sẽ
nhắc lại, trong một cái nhìn bao quát, những điều đã được rải rác
trình bày trong các phần trên, liên quan đến sự phát sinh của thuyết
Cộng sản ở Âu châu, đến các điều kiện đã biến một lý thuyết, do Tây
phương tạo ra, thành một lợi khí của Nga Sô để chống lại Tây phương
và đến hoàn cảnh lịch sử nhờ đó thuyết Cộng sản được nhập cảng vào Á
châu và vào Việt Nam. Sau đó, chúng ta sẽ nhắc lại những kết quả
phân tích sự kiện lịch sử, cũng rải rác trong các phần trên, khả dĩ
giúp cho chúng ta vượt trên các yếu tố phức tạp đã dệt thành hoàn
cảnh hiện tại của Cộng đồng dân tộc, suy luận để nhìn thấy và tìm
xem những lý do, đã khiến cho quan niệm lãnh đạo Cộng sản xâm nhập
chính trường Việt Nam, có một giá trị như thế nào, đi với quyn lợi
của dân tộc, trong một giai đoạn quyết định như giai đoạn này.
Thuyết cộng sản phát sinh
Sau khi khoa
học Tây phương đã phát minh những kỹ thuật sản xuất kỹ nghệ, thì
những lực lượng mới này đã làm cho hệ thống phân phối tài sản quốc
gia của xã hội Tây phương đương thời, tổ chức trên căn bản thủ công
nghệ và nông nghiệp, không còn hiệu lực nữa. Vì vậy cho nên những
cuộc xáo trộn chấn động liên tiếp đã làm lung lay đến tận nền tảng
các cơ cấu xã hội Tây phương. Các yếu tố khuynh đảo nội bộ phá hoại
cơ thể và gây cho xã hội Tây phương một cơn bệnh trầm trọng.
Nhiều giải pháp được đề nghị, trong đó giải pháp xây dựng trên một
công trình nghiên cứu thực tế lịch sử chính xác và phong phú, và
được quần chúng hưởng ứng vì đã phát sinh từ những căn bản quan sát
thiết thực đối với tình trạng xã hội đương thời. Giải pháp này chủ
trương thay đổi, bằng một cuộc cách mạng bạo động kiểu 1789 của
Pháp, hoàn toàn các cơ cấu của xã hội cũ, tiếp nhận những giá trị
tiêu chuẩn mới, để xây dựng một xã hội mới thích nghi với các lực
lượng sản xuất kỹ nghệ, trong đó sự phân phối tài sản của cộng đồng
sẽ được thực hiện một cách hợp lý. Những mục tiêu đề ra, đương nhiên
có một mãnh lực hấp dẫn cao độ đối với quần chúng, vì hứa hẹn nhiều
sự bảo đảm cho quyền lợi ngắn hạn của cá nhân.
Tuy nhiên, các
nhà lãnh đạo Tây phương đã đủ sáng suốt để nhìn thấy rằng giải pháp
Cộng sản chỉ chú trọng đến các khuyết điểm cần chỉnh đốn của xã hội
Tây phương lúc bấy giờ, và do đó đã phủ nhận các giá trị tiêu chuẩn
đã trở thành di sản của văn minh nhân loại, và thay thế bằng những
giá trị tiêu chuẩn giả tạo, kết quả của một công trình suy luận lý
thuyết, tuy có phong phú nhưng vẫn là của con người trong một thế
hệ. Vì nhược điểm đó cho nên phương thuốc đề nghị để chữa bệnh cho
xã hội Tây phương, thay vì có hiệu lực của một linh dược, sẽ trở
thành một độc dược chẳng những phá hoại nền tảng của xã hội còn hơn
cả chứng bệnh lúc bấy giờ, mà lại còn có thể tiêu diệt tất cả di sản
của văn minh nhân loại trong mấy nghìn năm.
Vì quyền lợi dài
hạn của cộng đồng, các nhà lãnh đạo Tây phương đã từ chối một phương
thuốc độc hại, và vừa nỗ lực tìm những phương thuốc khác cho xã hội
Tây phương, vừa chiến đấu ác liệt để loại trừ một độc dược đã lợi
dụng một thời kỳ khủng hoảng của cộng đồng, xâm nhập vào cơ thể xã
hội. Và ngày nay, trong công cuộc này, sự thành công của Tây phương
đã rõ rệt. Tây phương đã tìm được những phương pháp khả dĩ giúp cho
xã hội thâu nhận được những lực lượng sản xuất mới mà vẫn duy trì
được trạng thái thăng bằng động tiến. Và đương nhiên, khi xã hội đã
lành mạnh, quần chúng Tây phương cũng không còn hưởng ứng thuyết
Cộng sản nữa, vì nhu cầu không còn nữa, đối với một phương thuốc đã
được đề nghị như là một linh dược, để trị một chứng bệnh đã lành. Sự
phát triển hùng mạnh của xã hội Tây phương ngày nay là một bằng cớ
hiển nhiên và hùng biện.
Thuyết cộng sản biến thành
lợi khí của nước Nga
Chúng ta còn nhớ rằng giữa Nga
và Tây phương có một cuộc chiến đấu trường kỳ đã kéo dài từ nhiều
thế kỷ. Và từ khi công cuộc Tây phương hóa nước Nga thành công, dưới
thời Đại Đế Pierre cho đến phân nửa đầu của thế kỷ 19, thắng thế đã
ngã về Nga. Và quân lực và ngoại giao của Nga đã nhiều lần đóng một
vai trò quyết định trên chính trường Âu Châu. Nhưng cuộc cách mạng
kỹ nghệ của Tây phương vào thời kỳ phân nửa sau của thế kỷ 19, đã
đưa kỹ thuật của Tây phương vượt hẳn kỹ thuật của Nga và làm nghiêng
cán cân lực lượng về Tây phương một lần nữa. Sự thua kém Tây phương
về kỹ thuật càng rõ rệt, sau khi quân lực của Nga, năm 1905 bị thảm
hại trước quân lực của Nhật, một quốc gia ngoài xã hội Tây phương
vừa thực hiện xong giai đoạn đầu của công cuộc phát triển dân tộc
bằng cách Tây phương hóa.
Như thế, vào thời kỳ vài chục năm
đầu của thế kỷ 20, vấn đề đặt ra cho các nhà lãnh đạo Nga rất minh
bạch. Những sự kiện lịch sử nghiêm khắc đặt các nhà lãnh đạo này vào
một tình thế bắt buộc họ phải tái bản công trình Tây phương hóa nước
Nga của Đại Đế Pierre để bảo đảm tương lai của dân tộc. Tuy nhiên,
những kinh nghiệm đã qua trong cuộc chiến đấu trường kỳ với Tây
phương, cũng như trình độ phát triển đại quy mô của kỹ thuật Tây
phương lúc bấy giờ, tất cả các yếu tố đó, đều đòi hỏi cho công cuộc
Tây phương hóa kỳ này, ở các nhà lãnh đạo, một kế hoạch toàn diện,
đại quy mô, tương xứng với hoàn cảnh lịch sử và vị trí quốc tế của
nước Nga, cũng như những phương tiện vĩ đại, để huy động toàn lực
của dân tộc. Như thế, vấn đề đã rõ rệt, cuộc cách mạng năm 1917 của
Nga biểu lộ ý chí của các nhà lãnh đạo Nga, đạt một mục đích dân
tộc: phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa.
Sở dĩ mục
đích thật sự và dân tộc của cuộc Cách mạng Nga năm 1917 bị hoàn toàn
che lấp dưới cái áo quốc tế của cuộc cách mạng xã hội thế giới, mà
các nhà lãnh đạo Nga Sô tuyên bố chủ trương để đánh đổ Tư Bản Chủ
Nghĩa, là vì, trong lần Tây phương hóa này, ngoài những kỹ thuật vật
chất của Tây phương, nước Nga, với một thâm ý chiến lược vô cùng sắc
bén, đã thâu nhận làm lợi khí tranh đấu một lý thuyết, sản phẩm tinh
thần của Tây phương mà Tây phương đã từ bỏ: thuyết Cộng sản. Ngày
nay chúng ta cũng đang mục kích, Trung Cộng tái diễn tấn tuồng phất
cờ cách mạng xã hội thế giới chống Đế quốc để tạo hoàn cảnh thuận
lợi phục vụ công cuộc phát triển dân tộc riêng của nước Tàu.
Chúng ta đã nhận định, trong một đoạn trên, những sự kiện nào đã dẫn
dắt các nhà lãnh đạo Nga Sô đến chỗ thâu nhận một chủ nghĩa, ngoại
lai, như Chủ Nghĩa Cộng sản, hoàn toàn chống lại truyền thống văn
minh của dân tộc Nga.
Trước hết, các nhà lãnh đạo Nga Sô, ý
thức hoàn cảnh nghiêm khắc của công cuộc phát triển của Nga. Công
cuộc phát triển này, cũng như công cuộc phát triển của Trung Cộng
ngày nay, đương nhiên sẽ gây ra nhiều phản ứng thù nghịch. Vì vậy
cho nên sử dụng được những biện pháp huy động quần chúng đến mức tối
đa, đối với họ là một nhu cầu thiết yếu. Quan niệm lãnh đạo Độc tài
đảng trị của thuyết Cộng sản đáp ứng vào nhu cầu nói trên.
Các cuộc xáo trộn xã hội, vào thời kỳ đó ở Tây phương, là những sự
kiện tự nó hùng biện, chứng minh rằng xã hội Tây phương lúc bấy giờ,
không thích nghi với các lực lượng sản xuất mới. Xã hội Nga, vào
cùng một thời kỳ, lại còn lạc hậu hơn xã hội Tây phương, thì đương
nhiên sẽ không thích nghi với các lực lượng sản xuất mới mà công
cuộc phát triển dân tộc bắt buộc sẽ thâu nhận. Như thế thì, tổ chức
xã hội Nga theo kiểu mẫu xã hội mà thuyết Cộng sản đề nghị chẳng
những là có tác dụng thích nghi hóa xã hội này với các lực lượng sản
xuất mới, mà lại còn là, trong con mắt các nhà lãnh đạo Nga Sô, đi
trước Tây phương một đoạn đường, nghĩa là đã thắng Tây phương trên
phương diện tổ chức xã hội.
Điều bất ngờ cho các nhà lãnh đạo
Cộng sản ngày nay là, Tây phương lấy đức tính chính xác của kỹ thuật
khoa học, thám cứu các biểu lộ, thực tế của đời sống, đã tìm được và
thực hiện được một hình thức xã hội thích nghi với các lực lượng sản
xuất mới. Trong khi đó, xã hội Nga Sô tổ chức theo kiểu mẫu của xã
hội Cộng sản, chỉ căn cứ trên kết quả suy luận lý thuyết của những
bộ óc, tuy là khác thường, nhưng vẫn là của con người còn đang mò
mẫm tìm trạng thái thăng bằng cần thiết cho cộng đồng. Sự kiện Nga
Sô đang lần lần thay đổi các giá trị tiêu chuẩn càng xác nhận căn
bản lý thuyết và giả tạo của kiểu mẫu xã hội Cộng sản.
Các
cuộc xáo trộn xã hội ở Tây phương lúc bấy giờ còn bộc lộ ma lực hấp
dẫn của thuyết Cộng sản đối với quần chúng Tây phương. Các nhà lãnh
đạo cuộc cách mạng Nga Sô năm 1917 đương nhiên nhìn thấy thực trạng
chính trị đó.
Và trong khuôn khổ cuộc chiến đấu ác liệt giữa
Nga và Tây phương, sự Nga thâu nhận lý thuyết Cộng sản làm lý thuyết
tranh đấu, đương nhiên sẽ biến quần chúng Tây phương thành những
đồng minh cho Nga, nội tuyến ngay trong lòng địch. Trong thực tể,
các đảng Cộng sản địa phương trong các quốc gia Tây phương, đều đã
đóng, ít hay nhiều, vai trò đồng minh nội tuyến cho Nga Sô.
Chúng ta vừa nhận xét các sự kiện phát sinh từ tình trạng nội bộ của
Tây phương và của Nga, đã biến lý thuyết Cộng sản của Tây phương,
thành trong tay Nga Sô một thứ khí giới tinh thần sắc bén, hơn cả
bất cứ thứ khí giới kỹ thuật tối tân nào của Tây phương đã phát
minh, khả dĩ giúp cho Nga Sô tấn công hiệu quả Tây phương, vừa từ
bên ngoài vào, vừa trong nội bộ phát ra.
Thuyết cộng
sản nhập cảng vào Á Châu và Việt Nam
Tuy nhiên, đối
với nhà lãnh đạo Nga Sô, thuyết Cộng sản còn là một lợi khí tranh
đấu, có một tác dụng không kém hiệu lực trong một phạm vi khác của
cuộc tranh đấu vĩ đại giữa Nga Sô và Tây phương.
Như chúng ta
đã thấy trong một đoạn trên, khi giai đoạn hiện tại của cuộc tranh
đấu giữa Nga Sô và Tây phương mở màn, vị trí của Tây phương rất là
hùng mạnh. Tây phương đã chinh phục gần hết thế giới, thuộc địa của
Tây phương nằm khắp các lục địa và các đại dương. Quân lực của Tây
phương trấn cứ các yếu điểm chiến lược trên địa cầu, kỹ thuật của
Tây phương đã vượt đến một cao độ đáng sợ và khắc phục được một cái
đà phát triển vừa vững chắc vừa nhiều sinh lực. Trước một địch thủ,
mà khả năng và uy thế đã bao trùm thế giới, vượt xa khỏi địch thủ
thời Đại Đế Pierre, đương nhiên các nhà lãnh đạo Nga không thể mong
chiến thắng bằng một chiến lược cổ truyền giới hạn trong phạm vi
quốc gia. Nhu cầu chiến lược bắt buộc các nhà lãnh đạo Nga Sô đưa
khuôn khổ của cuộc chiến đấu lên đến ranh giới hoàn cầu, nếu họ muốn
tránh cho Nga một cuộc bao vây ác nghiệt và một thảm bại ngay lúc
chưa ra quân.
Vì vậy cho nên, Nga Sô đã sử dụng lý thuyết
Cộng sản làm một tín hiệu tập hợp, khả dĩ qui tụ trong một mặt trận
quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Nga Sô, tất cả các kẻ thù của Tây
phương lúc bấy giờ trên thế giới, để làm hậu thuẫn cho Nga Sô. Trong
cuộc chiến đấu vĩ đại chống Tây phương, mà mục đích vẫn là công cuộc
phát triển cho dân tộc Nga.
Chúng ta có thể so sánh những nỗ
lực lúc bấy giờ của Nga Sô với những nỗ lực hiện tại của Trung Cộng,
để thành lập một mặt trận quốc tế qui t các quốc gia chưa mở mang để
hậu thuẫn cho công cuộc phát triển cho dân tc Tàu.
Tuy nhiên,
mưu toan của Nga Sô để qui tụ các kẻ thù lúc bấy giờ của Tây phương
là một việc. Nhưng sự hưởng ứng của các quốc gia đã bị Tây phương
tấn công và biến làm thuộc địa hay bán thuộc địa là một việc khác.
Vậy, vì những lý do nào mà các nước này hưởng ứng lời kêu gọi và qui
tụ dưới sự lãnh đạo của Nga Sô?
Lúc bấy giờ, đã từ hơn bốn
trăm năm Tây phương đã tấn công hầu hết các quốc gia ngoài xã hội
Tây phương và đã từ gần một trăm năm đã chinh phục hầu hết thế giới.
Các quốc gia bị tấn công, sau khi đã hết sức mình kháng chiến trong
nhiều thế hệ, lần lần đã đi đến chỗ phải nhìn nhận tính cách vô hiệu
quả của cuộc chiến đấu giữa những lực lượng vô cùng chênh lệch. Vận
dụng toàn diện khả năng nghinh chiến của một quốc gia để chống lại
một kẻ thù đã bao vây thế giới là một chiến cuộc không có hy vọng
thành công. Vì thế cho nên, đối với các nhà lãnh đạo của quốc gia đã
bị chinh phục, lời kêu gọi đồng minh của Nga Sô có hiệu lực mở một
lối đi cho một tình thế đã bế tắc. Đồng minh với Nga Sô là đưa cuộc
chiến đấu giải thoát quốc gia lên cương vị một cuộc chiến đấu quốc
tế có nhiều khả năng bảo đảm cho sự thành công.
Tác
dụng của lý thuyết cộng sản
Như thế thì, chính là
điều kiện gian lao của một cuộc chiến đấu giành độc lập đã đưa một
số các nhà lãnh đạo các quốc gia Á châu bị Tây phương chinh phục,
đến chỗ đồng minh với Cộng sản. Và nhà lãnh đạo Cộng sản của Việt
Nam cũng ở vào trường hợp đó.
Tuy nhiên, có nhiều nhà lãnh
đạo Á châu mà quốc gia cũng đã bị Tây phương chinh phục, đã sáng
suốt nhìn thấy, vừa thâm ý chiến lược của Nga Sô, vận dụng một mặt
trận quốc tế để hậu thuẫn cho công cuộc phát triển của dân tộc Nga,
vừa những căn bản giả tạo của thuyết Cộng sản, đã từ chối một sự
đồng minh với Nga Sô trên nguyên tắc qui phục lý thuyết Cộng sản.
Cân nhắc lợi hại, các nhà lãnh đạo này, đã quyết định chọn một con
đường khác hơn con đường Cộng sản, trong công cuộc tranh giành độc
lập và sau đó trong công cuộc phát triển dân tộc. Các biến cố lịch
sử sau Đại Thế Chiến thứ hai, mà chúng ta đã có nhắc đến, xác nhận
quan điểm sáng suốt của những nhà lãnh đạo như Gandhi và Nehru của
Ấn Độ.
Ấn Độ và nhiều quốc gia khác ở Á châu, và ngoài Á châu
đã khai thác mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương để thâu hồi độc lập
hoàn toàn, một cách không tiêu hao cho sinh lực dân tộc. Và chúng ta
đã thấy một đoạn trên, rằng chính là sự đồng minh với Cộng sản của
một số nhà lãnh đạo của chúng ta, đã làm cho công cuộc tranh giành
độc lập của chúng ta trở thành vô cùng tiêu hao cho sinh lực của dân
tộc. Những sự hy sinh cao cả của các phần tử của cộng đồng không bao
giờ phủ nhận được, cũng như không phủ nhận được tính kiêu hùng của
dân tộc trong các cuộc chiến đấu ác liệt với kẻ thù.
Tuy
nhiên, các nhà lãnh đạo lúc nào cũng phải tự đặt cho mình nghiêm
luật không bao giờ có quyền phí phạm sinh lực của cộng đồng, mỗi khi
quyền lợi của cộng đồng bắt buộc phải sử dụng đến.
Vả lại,
độc lập vẫn chưa phải là mục đích. Và sinh lực của dân tộc còn cần
thiết hơn bội phần cho công cuộc phát triển đang chờ đợi chúng ta.
Và lý do thứ nhì để cho các nhà lãnh đạo các quốc gia Á châu thâu
nhận thuyết Cộng sản do Nga Sô chủ trương lại chính là công cuộc
phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa sau khi độc lập đã được
thâu hồi.
Thuyết Cộng sản quả quyết rằng chỉ có phương pháp
độc tài đảng trị mới có đủ khả năng huy động quần chúng để cung cấp
những nỗ lực cần thiết cho một công cuộc phát triển cộng đồng. Và
thuyết Cộng sản cũng quả quyết rằng chỉ có xã hội tổ chức theo kiểu
của thuyết Cộng sản đề nghị mới thích nghi với các lực lượng sản
xuất của kỹ nghệ. Vậy thì mọi công cuộc phát triển dân tộc bằng cách
Tây phương hóa phải áp dụng phương pháp độc tài Đảng trị và phải xây
dựng xã hội theo kiểu mẫu Cộng sản.
Chúng ta đã phân tích,
với chi tiết, tác dụng của thuyết Cộng sản, trong giai đoạn chiến
đấu giành độc lập đã qua, của chúng ta, đối với sự thống trị của đế
quốc. Đối với sự chi phối và thống trị của nước Tàu, đã đè nặng lên
đời sống của dân tộc trong hơn tám trăm năm, gián đoạn trong một
trăm năm, ngày nay lại tái hiện và đe dọa hơn bao giờ, chúng ta cũng
đã vạch rõ những hậu quả tai hại, mà sự qui phục thuyết Cộng sản,
của các nhà lãnh đạo Bắc Việt, sẽ lưu lại cho thế hệ tương lai. Một
điều mà chúng ta phải ghi nhớ, trong khuôn khổ của vấn đề quan trọng
này, liên quan mật thiết đến vận mạng của dân tộc, là thâm ý chiến
lược của Nga Sô trước đây và thâm ý chiến lược đồng loại của Trung
Cộng ngày nay. Đối với hai quốc gia này, thuyết Cộng sản và các mặt
trận quốc tế phục vụ cho thuyết Cộng sản, đều là những lợi khí sắc
bén để phục vụ, trước hết và trên hết, mục đích phát triển dân tộc
của hai nước.
Trong phạm vi phát triển dân tộc, chúng ta đã
thấy rằng nếu hoàn cảnh phát triển vô cùng nghiêm khắc của những
quốc gia to lớn, như Nga và Tàu, thuyết minh cho một sự đổi những
kết quả, mà phương pháp độc tài Đảng trị có thể mang đến trong hiện
tại, với những hậu quả tai hại, chưa ai biết đến mức độ nào, mà
chính phương pháp đó sẽ lưu lại cho nhiều thế hệ trong tương lai,
thì trái lại, một nước nhỏ như Việt Nam, có thể thực hiện được công
cuộc phát triển của mình bằng những phương pháp không tiêu hao sinh
lực của dân tộc. Đã như thế thì, các nhà lãnh đạo tranh đấu cho dân
tộc, đương nhiên phải chọn đường lối dẫn đến mục đích mà không phí
phạm sinh lực của cộng đồng.
Sau hết, câu hỏi đặt ra cho
chúng ta là: xã hội tổ chức theo kiểu mẫu Cộng sản có phải là xã hội
thích nghi nhất với các lực lượng sản xuất mới do kỹ thuật khoa học
phát minh không? Tôn trọng một thái độ mà chúng ta đã chấp nhận từ
đầu, chúng ta sẽ tự ý không đi vào một cuộc tranh luận lý thuyết về
tính cách thích nghi hay không thích nghi của xã hội Cộng sản đối
với các lực lượng sản xuất mới; vả lại, thời gian hãy còn quá sớm để
cho chúng ta có thể, căn cứ trên những sự kiện thực tế, phán đoán về
tính cách thích nghi nói trên. Trong thế giới hiện nay, chưa có một
xã hội nào, đã kỹ nghệ hóa được tổ chức theo kiểu mẫu Cộng sản, để
chúng ta có thể lấy đó làm tiêu chuẩn so sánh. Và kiểu mẫu này vẫn
là một kết quả suy luận lý thuyết.
Tuy nhiên, những nhận xét
dưới đây, đối với các sự kiện thực tế mà chúng ta đang mục kích, có
thể làm sáng tỏ vấn đề.
Trong thế giới hiện tại, hình thức tổ
chức xã hội gần nhất với kiểu mẫu của thuyết Cộng sản, đương nhiên
là hình thức tổ chức xã hội của Nga Sô. Chúng ta đã thấy trong nhiều
đoạn trên, rằng bộ máy lãnh đạo của Nga Sô vẫn bất lực trong việc
chuyển quyền ôn hòa mỗi khi cần phải thay đổi người lãnh đạo. Sau
gần nửa thế kỷ, những biện pháp độc tài vẫn còn cần thiết để duy trì
trật tự chứng tỏ rằng trạng thái thăng bằng nội bộ vẫn chưa tái lập.
Về phương diện xã hội, sự Nga Sô đang thay thế nhiều tiêu chuẩn giá
trị bằng những tiêu chuẩn giá trị mà thuyết Cộng sản đã loại bỏ, lại
chứng tỏ rằng Nga Sô còn đang nỗ lực tái lập trạng thái thăng bằng
nội bộ cần thiết cho sự phát triển của cộng đồng. Một mặt khác, sự
thay thế các giá trị tiêu chuẩn Cộng sản, bằng những giá trị tiêu
chuẩn được phục hồi, lại chứng tỏ tính cách lý thuyết của các căn
bản của thuyết Cộng sản. Tất cả các sự kiện trên lại chứng tỏ rằng
xã hội Nga Sô hiện nay vẫn tiếp tục một tình trạng thăng bằng giả
tạo.
Trong khi đó, xã hội Tây phương, vì bất lực trong công
việc thâu nhận các lực lượng sản xuất mới, hồi thế kỷ 19, nên đã
được đề nghị thay thế bằng xã hội Cộng sản, chẳng những đã tìm được
những phương pháp khả dĩ cho phép sự thâu nhận được lực lượng sản
xuất mới, mà lại còn duy trì trạng thái thăng bằng động tiến cho
cộng đồng. Và nhờ đó mà sự phát triển hùng mạnh vẫn được bảo đảm.
Hình thức xã hội Cộng sản là một kết quả suy luận lý thuyết, khi
được mang đưa áp dụng ở Nga Sô, đã chứng tỏ không thích nghi với
thực tế, nên đã đặt các nhà lãnh đạo Nga Sô ngày nay vào những lối
bế tắc, lúng túng mà chúng ta đã biết. Hình thức hiện nay của xã hội
Tây phương là kết quả của một cuộc thám cứu, bằng lý trí chính xác
của kỹ thuật khoa học Tây phương, những biểu lộ thực tế của đời
sống. Vì thế cho nên hình thức xã hội này thích nghi với thực tề.
Nhưng ngoài Tây phương, cũng có nhiều hình thức xã hội khác,
không tổ chức theo kiểu mẫu Cộng sản, vẫn thích nghi với những lực
lượng sản xuất mới đã thâu nhận sau một công cuộc phát triển dân tộc
bằng cách Tây phương hóa.
Sinh lực dồi dào của xã hội Nhật
ngày nay là một bằng chứng hùng biện.
Các sự kiện thực tế
trên đây, tuy không trực tiếp liên quan đến tính cách thích nghi hay
không của xã hội Cộng sản đối với các lực lượng sản xuất mới, nhưng
vì những thực trạng mà nó phản ảnh, đã làm cho câu hỏi nêu lên trên
đối với xã hội Cộng sản trở thành vô ích.
Phản tác
dụng
Như thế thì, vấn đề đã rõ, trong trường hợp của
cộng đồng quốc gia Việt Nam, những tác dụng mong mỏi ở thuyết Cộng
sản, khả dĩ thuyết minh cho sự qui phục của các nhà lãnh đạo Bắc
Việt, đối với lý thuyết này, trở thành vô hiệu lực. Ngược lại, như
chúng ta đã thấy ở nhiều đoạn trên, một sự qui phục thuyết Cộng sản
sẽ mang đến nhiều phản tác dụng tai hại cho dân tộc.
Tất cả
các sự kiện mà chúng ta đã phân tích trong các trang của tập sách
này, đều chứng minh rằng mục đích cuối cùng của mọi cuộc tranh đấu,
là quyền lợi của dân tộc. Nga Sô cũng như Trung Cộng khi nỗ lực, lập
những mặt trận quốc tế phục vụ cách mạng xã hội thế giới, đều có chủ
định phục vụ trước hết và trên hết dân tộc Nga và dân tộc Tàu.
Sự qui phục thuyết Cộng sản sẽ đương nhiên, biến sự đe dọa,
thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam, thành thực tế.
Chúng ta đã biết chính sách xâm lăng của Trung Hoa đối với Việt Nam
là một chính sách liên tục và bất biến của tất cả các chế độ của
Trung Hoa vì nó phát sinh từ một nhu cầu đất đai cần thiết cho sự
phát triển của Trung Hoa. Mang phương pháp độc tài Đảng trị của Cộng
sản, cũng như phương pháp độc tài nào khác để lãnh đạo quần chúng,
thì theo một cơ thức mà chúng ta đã biết, quần chúng sẽ phản ứng
bằng cách hướng về bất c cá nhân hay tập thể nào phất cờ giải phóng
để che đậy thâm ý xâm lăng của mình. Trong điều kiện đó, các nhà
lãnh đạo Cộng sản áp dụng phương pháp độc tài đảng trị ở Việt Nam,
sẽ đương nhiên tạo hoàn cảnh thuận lợi cho Trung Cộng xâm chiếm Việt
Nam lúc thời cơ đưa đến.
Nói một cách khác, phương pháp lãnh
đạo độc tài Đảng trị sẽ suy nhược hóa sức đề kháng của dân tộc đối
với kẻ xâm lăng. Hùng mạnh như nước Nga, mà trong trận chiến chống
quân Đức, cũng đã suýt phải thảm bại, bởi vì quần chúng phẫn uất với
chế độ độc tài Đảng trị của Staline, đã nổi lên đồng minh với Đức.
Chỉ có sự vụng về và chính sách kỳ thị chủng tộc của Đức quốc xã mới
không khai thác được cơ hội trên, và cứu Nga Sô khỏi họa xâm lăng.
Trong tình thế chính trị chúng ta đang mục kích, sự qui phục
thuyết Cộng sản của các nhà lãnh đạo Bắc Việt, tự nó là một sự thần
phục Trung Cộng, như các triều đại xưa của chúng ta thần phục Trung
Hoa. Và sự thống trị bằng lý thuyết của Trung Cộng đối với Bắc Việt
ngày nay, nếu không có các trở lực quốc tế, sẽ bội phần ác nghiệt
hơn các sự thống trị mà nước Tàu đã dành cho chúng ta từ gần một
ngàn năm.
Sự qui phục thuyết Cộng sản sẽ đương nhiên gắn liền
vận mạng công cuộc phát triển dân tộc của chúng ta vào vận mạng công
cuộc phát triển dân tộc của Trung Hoa. Chúng ta đã phân tích hoàn
cảnh phát triển thuận lợi của Việt Nam.
Vậy gắn liền công
cuộc phát triển của Việt Nam vào công cuộc phát triển của Trung Cộng
là bỏ một hoàn cảnh thuận lợi để đi rước một hoàn cảnh vô cùng khó
khăn.
Mặc dầu các nỗ lực vĩ đại, cuộc phát triển của Trung
Cộng khó mà thành công. Như vậy, gắn liền công cuộc phát triển của
Việt Nam vào công cuộc phát triển của Trung Cộng có nghĩa là chúng
ta tự ý bỏ công cuộc phát triển của chúng ta. Trong công cuộc phát
triển bằng cách Tây phương hóa hiện nay mà các dân tộc đều nỗ lực
thực hiện, chúng ta có những điều kiện vật chất lẫn tinh thần, để
thành công hơn Trung Cộng, như chúng ta đã chứng minh trong một đoạn
trên. Nếu chúng ta lại bỏ cơ hội này để thần phục Trung Cộng thì,
một là chúng ta sẽ không phát triển được bởi vì Trung Cộng không
phát triển được, hai là Trung Cộng phát triển được, thì chúng ta sẽ
phát triển được đến mức hạng ba hay hạng nhì, vì chúng ta học lại kỹ
thuật của một người đi học kỹ thuật của Tây phương.
Sau hết,
trong hơn một ngàn năm từ ngày lập quốc, sự chi phối của Trung Hoa
đối với Việt Nam nặng nề cho đến đỗi tâm lý thuộc quốc bao trùm mọi
lĩnh vực đời sống của dân tộc. Tâm lý đó bắt nguồn từ hai sự kiện:
tự ty mặc cảm đối với Trung Hoa vĩ đại, và sự lệ thuộc của chúng ta
đối với văn hóa Tàu. Tình thế ngày nay là một cơ hội duy nhất để cho
chúng ta thực hiện ý chí, của Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ, cởi cái
ách tâm lý thuộc quốc cho dân tộc. Nếu chúng ta lỡ cơ hội, sự lệ
thuộc của dân tộc đối với Trung Hoa sẽ kéo dài nhiều ngàn năm nữa và
cái khối Trung Hoa vĩ đại, của các lãnh tụ Cộng sản, sẽ mang đến cho
dân tộc cái họa diệt vong. Và sự qui phục thuyết Cộng sản sẽ đương
nhiên dọn đường cho dân tộc Việt Nam lệ thuộc văn hóa mới của Trung
Cộng. Những lời ca tụng Trung Hoa vĩ đại của miền Bắc, những điệu
nhạc âm thanh Trung Cộng của đài phát thanh Hà Nội, những điệu vũ
hòa bình, và những y phục theo Tàu, tất cả các sự kiện đó, đều là
những biểu lộ thiết thực của một sự lệ thuộc văn hóa càng ngày càng
sâu đậm của miền Bắc đối với Trung Cộng, bởi vì các nhà lãnh đạo
Cộng sản Bắc Việt đã chấp nhận một sự lệ thuộc tư tưởng.
Chỉ
nghĩ đến cái viễn ảnh ngàn năm lệ thuộc Trung Cộng mà các nhà lãnh
đạo Cộng sản miền Bắc đang sửa soạn cho dân tộc, chúng ta cũng phải
khiếp đảm, thoáng nhìn vận mạng cực kỳ đen tối cho các thế hệ tương
lai.
Trong vấn đề quan niệm lãnh đạo, chúng ta không thể dành
cho quan niệm lãnh đạo Cộng sản, ít chỗ hơn như chúng ta vừa làm
xong. Bởi vì, như chúng ta đều biết, hiện nay chủ nghĩa này đang
hoành hành ở Á châu, để phục vụ sự phát triển của dân tộc Tàu, với
một cường độ độc hại không kém gì cường độ độc hại của nó ở Âu châu,
hồi cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, để phục vụ cho sự phát triển
của dân tộc Nga, và chính ở Việt Nam, vì chủ nghĩa Cộng sản hoạt
động mà cuộc chiến đấu giành độc lập của chúng ta đã vô cùng tiêu
hao sinh lực dân tộc, mà xảy ra tình trạng chia đôi đất nước, mà
chiến tranh tàn phá cái vốn nhân lực và tài nguyên của chúng ta từ
hai mươi năm nay.
Và khi nào như hiện nay, chúng ta đã nhìn
thấy nguồn gốc của chủ nghĩa Cộng sản, nhìn thấy những nguyên nhân
sâu xa của sức mạnh của nó, nhìn thấy những điểm tựa trên đó nó đang
lấy sinh lực ở Á châu, nhìn thấy lý do vì sao nó đã bắt đầu suy
nhược ở Tây phương và nhìn thấy những hậu quả tai hại nó sẽ mang đến
cho dân tộc Việt Nam, thì chúng ta mới nhìn thấy, một cách minh
bạch, trách nhiệm của thế hệ chúng ta là phải vận dụng tất cả nỗ
lực, mà chúng có thể cung cấp, để loại trừ độc dược đó ra ngoài cơ
thể của cộng đồng dân tộc.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Phần IV
14. TƯ TƯỞNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Loại
trừ chủ nghĩa cộng sản ra khỏi cơ thể của cộng đồng quốc gia, có
nghĩa là loại trừ tư tưởng Cộng sản,
phương pháp Cộng sản, và hình thức Cộng sản ra ngoài mọi lĩnh vực
hoạt động của đời sống quốc gia. Đối với tư tưởng Cộng sản, sự ngộ
nhận khó có dịp xảy ra, bởi vì, chẳng những tư tưởng đó có đặc tính
rất riêng biệt, mà lại ngôn ngữ dùng để diễn tả các tư tưởng cũng
rất đặc biệt, cũng như lối biện luận rất đặc biệt của biện chứng
pháp duy vật. Nhưng sự ngộ nhận thường xảy ra đối với các phương
pháp Cộng sản và hình thức Cộng sản, vì những nguyên nhân sau đây.
Lý do sâu xa đã làm cho nược Nga thâu nhận thuyết Cộng sản làm
lợi khí tranh đấu như chúng ta đã biết, là ý chí thực hiện công cuộc
phát triển dân tộc Nga bằng cách Tây phương hóa. Vì vậy cho nên tất
cả kỹ thuật của Tây phương đều được Nga thâu nhận làm của mình. Khoa
học của Tây phương là khoa học của Nga, phương pháp khoa học của Tây
phương, trong mọi lĩnh vực là phương pháp khoa học của Nga, trong
mọi lĩnh vực. Nhiều lần, vì tự ty mặc cảm đối với sự lệ thuộc kỹ
thuật đó, Nga Sô, muốn biểu lộ sự độc lập của duy vật biện chứng
pháp đối với lối suy luận “tư bản” của Tây phương, đã đưa ra những
thuyết khoa học ly kỳ như thuyết Lisenko
(1) trong ngành sinh
học. Mặc dù đã cẩn thận, thay vì một ngành như toán học trong đó sự
sưu tầm đã bao quát, lựa chọn một ngành như sinh học trong đó sự
khảo cứu còn thiếu sót, sự không thành thật của Lisenko lâu ngày
cũng bộc lộ. Và sau khi mục đích phát triển kỹ thuật đã đạt, sau khi
Nga Sô đã chứng minh khả năng thật sự của mình về khoa học, tự ty
mặc cảm không còn nữa, thì chính các nhà bác học Nga Sô đã bác bỏ
thuyết Lisenko. Khi còn ở trong một giai đoạn ấu trĩ của công cuộc
Tây phương hóa, người Nhật cũng lầm những lỗi tương tự như Nga. Các
sự kiện trên lại chứng minh tính cách quốc tế và nhân loại của khoa
học.
Nhưng cũng vì các sự kiện đó mà có sự lầm lẫn giữa
phương pháp Cộng sản và phương pháp Tây phương, hình thức tổ chức
Cộng sản và hình thức tổ chức Tây phương. Ở Việt Nam, sự lầm lẫn còn
trầm trọng hơn nữa, vì một lý do lịch sử.
Sau tám mươi năm bị
loại ra khỏi các trách nhiệm lãnh đạo quốc gia, trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp, nhiều người Việt Nam đã làm quen trở lại với các
vấn đề lãnh đạo, nhưng dưới sự chi phối của Đảng Cộng sản. Vì vậy
cho nên, tất cả các kỹ thuật trong mọi lĩnh vực, mà Cộng sản học
được của Tây phương và mang ra thực hành ở Việt Nam, đều bị ngộ nhận
là sáng kiến độc quyền của Cộng sản. Ví dụ, ngày nay, nhiều người
vẫn xem lối làm việc tập thể hay công cuộc tổ chức quần chúng là
những sáng kiến của Cộng sản, và không biết rằng, thật ra, chính lối
làm việc tập thể và sự tổ chức tinh vi trong mọi lĩnh vực của đời
sống là nguồn gốc sinh lực ca Tây phương.
Bộ máy lãnh
đạo
Bộ máy lãnh đạo ca Cộng sản tổ chức theo lối độc
tài Đảng trị cũng là một bộ máy lãnh đạo do Tây phương tạo ra đồng
thời với thuyết Cộng sản. Chỉ có khác ở chỗ Tây phương đã loại bỏ
thuyết Cộng sản đồng thời với phương pháp lãnh đạo Cộng sản.
Đối với các quốc gia Cộng sản, thâu nhận phương pháp lãnh đạo Cộng
sản, là thực hiện một bộ phận, bộ phận của lĩnh vực lãnh đạo trong
công cuộc Tây phương hóa toàn diện, theo đường lối Cộng sản.
Nếu chúng ta loại trừ lý thuyết Cộng sản ra ngoài mọi lĩnh vực hoạt
động của đời sống quốc gia, đương nhiên chúng ta cũng loại trừ
phương pháp lãnh đạo Cộng sản.
Nhưng công cuộc Tây phương hóa
bộ máy lãnh đạo của chúng ta vẫn là một phần thiết yếu trong công
cuộc Tây phương hóa toàn diện mà chúng ta chủ trương.
Như
thế, bộ máy lãnh đạo của quốc gia sẽ được chúng ta quan niệm như thế
nào? Có phải chúng ta chỉ cần thâu nhận bộ máy lãnh đạo của một quốc
gia Tây phương là đủ không?
Và, trong trường hợp đó, vì lâu
nay chúng ta rất quen thuộc với các kỹ thuật của người Pháp, thì sự
tiện lợi cho chúng ta trong lĩnh vực lãnh đạo không phải là thâu
nhận bộ máy lãnh đạo của người Pháp sao? Nếu,vì một lý do nào, chúng
ta không thể tổ chức bộ máy lãnh đạo của chúng ta theo kiểu bộ máy
lãnh đạo của người Pháp, thì chúng ta có thể tổ chức bộ máy lãnh đạo
của chúng ta theo kiểu quân chủ lập hiến của người Anh hoặc theo
kiểu Tổng thống chế của người Mỹ không?
Thật ra vấn đề đặt ra
cho chúng ta trong lĩnh vực lãnh đạo không phải như vậy, và trong
thực tế rất phức tạp hơn nhiều.
Chúng ta còn nhớ, công cuộc
Tây phương hóa, không đường hướng và không mục đích, dưới thời Pháp
thuộc đã lưu lại cho dân tộc nhiều hậu quả tai hại. Trong công cuộc
Tây phương hóa đó, không toàn diện và không đến mức độ đủ cao, chỉ
có hình thức bề ngoài được chú trọng và các tinh túy đựng trong hình
thức hoàn toàn không được biết đến.
Trái lại, trong công cuộc
Tây phương hóa có đường hướng, có mục đích mà chúng ta chủ trương,
tuy tính cách đáng chú ý của hình thức không bị phủ nhận, nhưng chỉ
có cái tinh túy đựng bên trong hình thức mới là quan trọng.
Trong phạm vi của sự Tây phương hóa bộ máy lãnh đạo của quốc gia,
chúng ta sẽ tìm nhận thức các nguyên tắc ngự trị quan niệm lãnh đạo
của Tây phương. Sau đó chúng ta sẽ cụ thể hóa những nguyên tắc bằng
một hình thức của bộ máy lãnh đạo. Nhưng hình thức này, chẳng những
phải thỏa mãn các nguyên tắc căn bản nói trên, mà còn phải được kiến
trúc bằng vật liệu địa phương và phải được thích nghi với hoàn cảnh
địa phương.
Dưới đây, chúng ta sẽ không đi sâu vào chi tiết
của một bản hiến pháp, thẩm quyền của các nhà soạn thảo hiến pháp.
Tuy nhiên chúng ta sẽ nhận thức các nguyên tắc mà một bộ máy
lãnh đạo, vừa được Tây phương hóa, vừa được thích nghi hóa với hoàn
cảnh địa phương của chúng ta, cần phải tôn trọng.
Trong nhiều
đoạn, ở rải rác trong các trang trên, mặc dầu không liên quan trực
tiếp đến vấn đề bộ máy lãnh đạo, nhưng vì sự sáng tỏ của vấn đề
trình bày, chúng ta cũng đã đề cập đến những nguyên tắc mà một bộ
máy lãnh đạo, theo quan niệm của Tây phương, cần phải tôn trọng.
Thừa hưởng văn minh cổ Hy Lạp và La Mã, sau hơn một ngàn năm kinh
nghiệm với các vấn đề lãnh đạo, đức tính chính xác về lý trí và minh
bạch và ngăn nắp trong tổ chức của Tây phương, đã góp vào di sản văn
minh nhân loại một hình thức của bộ máy lãnh đạo, hình thức dân chủ
Pháp trị, có nhiều khả năng duy trì và phát triển trạng thái thăng
bằng động tiến của cộng đồng.
Hình thức của bộ máy
lãnh đạo, hiện nay của Tây phương, phải thỏa mãn những điều kiện
nhắc lại dưới đây:
1. Hình thức của bộ máy lãnh đạo
phải bảo đảm được sự liên tục lãnh đạo quốc gia.
2. Hình thức
của bộ máy lãnh đạo phải bảo đảm được sự chuyển quyền một cách hòa
bình từ lớp người lãnh đạo trước cho lớp người lãnh đạo sau.
3. Hình thức của bộ máy lãnh đạo phải bảo đảm được sự thay đổi người
lãnh đạo.
4. Hình thức của bộ máy lãnh đạo phải bảo đảm được
sự áp dụng nguyên tắc thăng bằng động tiến giữa quyền lợi cá nhân và
quyền lợi của tập thể.
Ngoài bốn điều kiện trên, bảo đảm tinh
thần trường cửu của bộ máy lãnh đạo, ba điều kiện dưới đây bảo đảm
sự điều hành thiết thực và ngắn hạn của bộ máy lãnh đạo.
5.
Hình thức bộ máy lãnh đạo phải bảo đảm một sự lãnh đạo quốc gia mở
rộng, mục đích đào tạo nhiều người lãnh đạo.
6. Hình thức bộ
máy lãnh đạo phải bảo đảm sự kiểm soát người cầm quyền.
7.
Hình thức bộ máy lãnh đạo phải bảo đảm sự hữu hiệu của chính quyền.
Áp dụng vào Việt Nam
Chúng ta đã
biết rằng nguồn gốc chính của sức mạnh của các cường quốc, như Anh
hay Mỹ, là sự thành công của họ trong việc thực hiện sự liên tục
lãnh đạo quốc gia trong nhiều thế kỷ. Tất cả các kinh nghiệm lãnh
đạo, trong nhiều thế hệ, còn giữ nguyên vẹn, kỹ thuật lãnh đạo nhờ
đó mà càng ngày càng tinh vi. Các bí mật quốc gia được truyền lại
toàn vẹn, tất cả các kho tàng của dĩ vãng được xếp vào văn khố và có
người biết sử dụng văn khố. Ngày nay một nhà lãnh đạo Anh đứng lên,
đương nhiên sau lưng có một hậu thuẫn 400 năm dĩ vãng, một di sản vô
cùng quý báu tạo ra cho họ một sức mạnh phi thường. Bởi vì, với hậu
thuẫn hiếm có đó, một nhà lãnh đạo Anh có thể ứng phó và giải quyết
những vấn đề vượt hẳn khả năng của những người, dầu tài ba đến đâu
nhưng lại thiếu hậu thuẫn của dĩ vãng.
Muốn thực hiện được sự
liên tục lãnh đạo quốc gia nói trên, một bộ máy lãnh đạo phải thỏa
mãn ba điều kiện.
Trước hết phải chấp nhận nguyên tắc thay
đổi người lãnh đạo lúc cần, và cả lúc bình thường miễn là những thay
đổi không quá nhặt trong thời gian để cho sự thay đổi không có thể
biến thành hỗn loạn. Điều thứ hai, bộ máy lãnh đạo phải được quan
niệm như thế nào để cho sự chuyển quyền lúc nào cũng thực hiện được
một cách bình thường trong êm ái và hòa bình, giữa người lãnh đạo
mãn nhiệm và người lãnh đạo mới thọ nhiệm. Điều thứ ba, là bộ máy
lãnh đạo phải có một hình thức tổ chức vừa tượng trưng cho sự liên
tục lãnh đạo quốc gia, vừa thể hiện cho sự liên tục đó trong thực
tế.
Để thỏa mãn điều kiện thứ ba, các chính thể trên thế giới
áp dụng nhiều hình thức khác nhau nhưng chung qui thuộc về bốn loại.
Ở Pháp, quốc trưởng là Tổng Thống tượng trưng cho sự liên tục lãnh
đạo quốc gia; Ở Mỹ, tổ chức Tối cao Pháp đình; Ở Nga, Đảng Cộng sản;
Ở các nước quân chủ, có Vua và Hoàng Gia.
Chức vụ Tổng Thống
ở Pháp không hoàn toàn thỏa mãn được sự tượng trưng cho sự liên tục
lãnh đạo quốc gia, bởi vì óc sợ độc tài của người Pháp giới hạn
nhiệm kỳ Tổng Thống là 5 năm hay 7 năm. Chẳng những thế, sự tranh
chấp giữa các Đảng chính trị, mọc ra như nấm, thường tạo ra cho các
cuộc bầu cử Tổng Thống một không khí trả giá, làm giảm uy nghiêm của
người Quốc Trưởng.
Các giới lãnh đạo trong các lĩnh vực của
đời sống quốc gia phải có một tinh thần trách nhiệm và tự giác rất
cao và một kinh nghiệm lãnh đạo trưởng thành mới đưa một tổ chức như
Tối Cao Pháp đình ở Mỹ lên bằng một tượng trưng sự liên tục lãnh đạo
quốc gia.
Trong các hình thức nêu ra trên đây, hình thức Đảng
Cộng sản ở Nga là một hình thức kém hơn cả, bởi vì, trong thực tế,
Đảng Cộng sản hoàn toàn thất bại trong việc thực hiện sự liên tục
lãnh đạo quốc gia. Chế độ Cộng sản không chấp nhận sự thay đổi lãnh
đạo và khi lãnh đạo từ trần hay cần phải thay đổi sự tranh cướp
chính quyền thường thường diễn ra một cách đẫm máu. Đây là một trong
các nhược điểm của chế độ Cộng sản.
Cho đến ngày nay, hình
thức thỏa mãn nhất điều kiện bảo đảm sự liên tục lãnh đạo quốc gia
là hình thức Hoàng gia của các chế độ có vua như ở Anh và ở Nhật. Vì
thế cho nên, sau khi chiến bại, mặc dù áp lực mạnh bạo và hành vi
người chiến thắng của quân đội Mỹ đối với Thiên Hoàng, các nhà lãnh
đạo Nhật Bản, một lần nữa đã tỏ ra vô cùng sáng suốt, khi mang hết
nỗ lực để bảo vệ Hoàng Gia Nhật. Hoàng Gia là biểu hiện cho sự liên
tục lãnh đạo quốc gia. Nhà Vua thể hiện sự liên tục lãnh đạo quốc
gia và đóng vai trò người thác thụ các bí mật quốc gia.
Nhân
vấn đề này, một lần nữa, chúng ta lại nhận thức rằng sự lỡ cơ hội
phát triển của chúng ta, thế kỷ vừa qua, đối với dân tộc chúng ta,
là một tai hại vô cùng to tát. Nếu nhà Nguyễn đã thực hiện được công
cuộc duy tân, như Vua Duy Tân đã có ý định thì ngày nay, có lẽ,
ngoài sự phát triển dân tộc đã thực hiện được, chúng ta đã thừa
hưởng một chính thể có những nền tảng vững chắc vào bậc nhất trong
thế giới.
Trong bốn hình thức trên đây, không có hình thức
nào áp đụng cho chúng ta được, vì những lý do mà mọi người đều đoán
biết. Hình thức Đảng Cộng sản không thể chấp nhận được vì chúng ta
đã đặt vấn đề tiên quyết loại trừ chủ nghĩa Cộng sản, và vì hình
thức đó không có khả năng thỏa mãn điều kiện bảo đảm sự liên tục
lãnh đạo quốc gia. Hình thức chức vụ Tổng Thống ở Pháp cũng không
hoàn toàn bảo đảm sự liên tục lãnh đạo quốc gia. Nhà Nguyễn đã bỏ lỡ
cơ hội áp dụng hình thức Hoàng Gia. Hình thức tối cao Pháp đình ở Mỹ
không thể áp dụng được vì kinh nghiệm lãnh đạo của chúng ta còn ấu
trĩ, trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc gia. Chúng ta phải tìm một
hình thức tương tự như hình thức thứ tư trên đây, nhưng để được
thích nghi hóa với hoàn cảnh địa phương của chúng ta, không đòi hỏi
một kinh nghiệm lãnh đạo mà chúng ta còn thiếu, và một tinh thần
trách nhiệm cao độ chỉ tìm được ở một số ít người.
Chúng ta
có thể đặt ra một Thượng hội đồng quốc gia, gồm những người có công
trạng với tổ quốc và thấu triệt các vấn đề lãnh đạo quốc gia, mà số
lượng sẽ phù hợp với hoàn cảnh. Số người này sẽ được thay đổi một
bách phân, trong một định kỳ, theo những thể thức thích nghi với
điều kiện nội bộ của chính trường Việt Nam. Và trong một chu kỳ nhất
định, Thượng hội đồng sẽ bầu một Quốc Trưởng, trong hay ở ngoài,
hàng ngũ của mình.
Thượng hội đồng sẽ tượng trưng cho sự lãnh
đạo liên tục quốc gia, riêng biệt với nhiệm vụ Quốc Trưởng. Quốc
Trưởng thể hiện cho sự liên tục đó trong thực tế và đồng thời là
người thụ thác các bí mật quốc gia.
Điều kiện thay đổi người
lãnh đạo có thể thực hiện được bằng cách giao quyền hành pháp cho
một người Thủ Tướng, chọn trong những người lãnh đạo của hai đảng
chính trị sẽ nói đến dưới đây. Thủ Tướng sẽ do Quốc Trưởng bổ nhiệm
với sự đồng ý của tổ chức tượng trưng cho sự lãnh đạo liên tục của
quốc gia. Để tránh các sự lạm dụng có thể xảy ra, các nhà soạn hiến
pháp có thể đặt ra những cơ thức kiểm soát giản dị và hữu hiệu.
Hai khuynh hướng
Hai yếu tố chính, trong
trạng thái thăng bằng động tiến của một quốc gia, là quyền lợi ngắn
hạn của cá nhân của các phần tử trong tập thể và quyền lợi dài hạn
của tập thể. Nếu chúng ta đặt nặng về quyền lợi cá nhân và bỏ quyền
lợi của tập thể, tập thể suy đồi rồi quyền lợi cá nhân cũng mất, vì
không được bảo vệ bởi tập thể. Nhưng nếu chúng ta chỉ chú trọng đến
quyền lợi tập thể và hy sinh tất cả quyền lợi của cá nhân, thì các
phần tử của tập thể không còn lý do sống nữa, và chính mục đích của
tập thể, là bảo vệ đời sống cho cá nhân, cũng sẽ phá sản và do đó
tập thể không còn lý do tồn tại nữa.
Vì vậy cho nên, sự giữ
một trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi cá nhân và quyền
lợi của tập thể là điều chính yếu trong sự lãnh đạo quốc gia.
Đã nhận thức như vậy rồi thì biện pháp hữu hiệu để cụ thể hóa
việc nuôi dưỡng trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi cá
nhân và quyền lợi tập thể, là thu họp hai xu hướng tự nhiên phải có
ở mỗi phần tử của tập thể vào hai nguồn tư tưởng chính trị. Một bên
nặng vì tập thể và một bên nặng về cá nhân. Trong thực tế hai Đảng
chính trị tự đặt cho mình, một bên, một mục đích bảo vệ quyền lợi
tập thể, và một bên, mục đích bảo vệ quyền lợi cá nhân, thay nhau mà
lãnh đạo quốc gia dưới sự kiểm soát tương phản. Các nhà lãnh đạo của
hai đảng thay nhau nắm quyền hành pháp đương nhiên được quốc gia
cung cấp phương tiện hoạt động và Đảng nắm quyền đối lập cũng phải
được quốc gia cung cấp phương tiện hoạt động.
Đại diện của
hai đảng thi hành nhiệm vụ của mình ở nghị trường. Và nhiệm vụ đó là
lập pháp và kiểm soát hành pháp.
Dưới các chế độ độc đảng,
như các chế độ độc tài hay Cộng sản, sự kiểm soát hành pháp hoặc
không có hoặc thi hành một cách tương đối. Sở dĩ, dưới chế độ Cộng
sản sự tự phê bình và tự kiểm thảo đã được phát huy là vì chế độ độc
đảng của họ không chấp nhận một sự kiểm soát từ ngoài đưa đến, cho
nên bắt buộc phải tổ chức một sự tự kiểm soát trong nội bộ. Nhưng
một sự tự kiểm soát trong nội bộ không bao giờ chu đáo được, bởi vì,
dầu mà các người tự phê bình, tự kiểm thảo trong nội bộ có đủ thành
thật đi nữa, một điều rất ít có, thì họ vẫn có thể thành thật mà lầm
lẫn. Trong khi đó, một sự kiểm soát từ bên ngoài đưa đến, đương
nhiên không mù quáng trước các lầm lẫn của đối phương.
Nhiệm
vụ lập pháp không thể hoàn toàn giao phó cho tổ chức nghị trường
được. Trong trình độ dân trí hiện nay của xã hội chúng ta, tính cách
đại diện sâu rộng cho nhân dân không thích hợp với khả năng chuyên
môn mà công cuộc lập pháp đòi hỏi. Nhiệm vụ lập pháp cần giao cho
một tổ chức lập pháp chuyên môn, gồm những nhà luật học về hiến pháp
và luật pháp. Tổ chức nghị trường có thể đề nghị dự án luật, phản
đối hay chấp nhận dự án luật.
Hai đảng chính trị có nhiệm vụ
mở rộng vấn đề lãnh đạo và đào tạo nhiều người lãnh đạo.
Dưới
bộ máy lãnh đạo, có bộ máy hành chính, bộ máy quân sự và bộ máy tổ
chức quần chúng. Bộ máy lãnh đạo là cái não, bộ máy hành chính và bộ
máy quân sự là chân tay, và bộ máy tổ chức quần chúng là cái vận
tống để đưa bộ máy lãnh đạo đến nhân dân và đưa nhân dân đến bộ máy
lãnh đạo.
Như thế, xây dựng một bộ máy lãnh đạo Tây phương
hóa không phải là đặt ra những bộ phận hành pháp, lập pháp, tư
pháp…, giống như những bộ phận tương tự nhận thấy ở các bộ máy lãnh
đạo của các nước Tây phương, hoặc dịch những danh từ của họ đã dùng
để đặt cho các bộ phận của chúng ta đã tạo ra một cách miễn cưỡng.
Vì như thể là chúng ta lại mắc vào cái bệnh hình thức. Bệnh hình
thức ở đây cũng như ở các lĩnh vực khác của đời sống quốc gia, là di
sản của thời kỳ Tây phương hóa không mục đích và không đường hướng
thời Pháp thuộc.
Xây dựng một bộ máy lãnh đạo Tây phương hóa,
là trước hết tìm hiểu bản chất của bộ máy đó, là phân tích các
nguyên tắc ngự trị của bản chất đó, và nhận thức các hình thức dùng
để cụ thể hóa các nguyên tắc trên.
Sau đó, với những vật liệu
địa phương, được sử dụng trong hoàn cảnh địa phương, chúng ta xây
dựng một bộ máy lãnh đạo thích nghi và hữu hiệu cho chúng ta, với
những hình thức cố nhiên phải uốn nắn theo những điều kiện mà chúng
ta đã nhận thức.
Nói một cách khác, làm thế là chúng ta đã
Tây phương hóa có đường hướng bộ máy lãnh đạo của chúng ta. Sau khi
phân tích và nhận thức các nguyên tắc ngự trị bộ máy lãnh đạo Tây
phương, chúng ta xây dựng với những vật liệu của dân tộc và được sử
dụng trong hoàn cảnh hiện tại của dân tộc, một bộ máy lãnh đạo thích
nghi với hoàn cảnh của chúng ta nhưng vẫn tôn trọng những nguyên tắc
ngự trị bộ máy lãnh đạo của Tây phương. Những nguyên tắc đó không
khác những nguyên tắc ngự trị khả năng sáng tạo khoa học mà chúng ta
đã biết. Trong trường hợp này, là tính cách ngăn nắp của các bộ phận
của bộ máy lãnh đạo. Tính cách phân minh của sự phân chia trách
nhiệm và quan niệm chính xác về sự liên hệ giữa các trách nhiệm.
Kỷ luật quốc gia
Giả sử chúng ta có
thành công trong công cuộc tổ chức bộ máy lãnh đạo quốc gia, thì sự
thành công của bộ máy đó, trong công việc lãnh đạo quốc gia, lại tùy
thuộc ở yếu tố nhân sự. Bộ máy lãnh đạo quốc gia sẽ thành công trong
công việc lãnh đạo quốc gia, nếu các nhân sự có trách nhiệm trong
mỗi bộ phận của bộ máy, hiểu rõ phạm vi và giới hạn của trách nhiệm,
quả quyết thi hành trách nhiệm và có đủ khả năng đảm đương trách
nhiệm. Và nhân dân, mặc dù không ý thức một cách sung mãn các vấn đề
lãnh đạo, nhưng cũng phải được trang bị đủ kiến thức để ý thức vấn
đề cần phải giải quyết của dân tộc, và chấp nhận hay phản đối một sự
lãnh đạo có lợi hay có hại cho vấn đề này.
Do đó, vấn đề tổ
chức quần chúng là một vấn đề chính yếu trong đời sống quốc gia, như
chúng ta sẽ thấy với chi tiết ở một đoạn dưới đây.
Các yếu tố
nhân sự kể trên đây thuộc vào một biểu lộ tinh thần chung: tinh thần
kỷ luật quốc gia. Tinh thần kỷ luật là một sự kiện thiết yếu cho mọi
tập thể. Có tập thể là có kỷ luật. Có kỷ luật tập thể mới tồn tại.
Tập thể càng lớn, kỷ luật càng thiết yếu, càng phức tạp và vô hình.
Tập thể quốc gia là một tập thể lớn nhất của một dân tộc vì thế kỷ
luật quốc gia thiết yếu nhất cho dân tộc.
Có thể quan niệm kỷ
luật quốc gia dưới hai hình thức, kỷ luật quốc gia tự do ưng thuận,
và kỷ luật quốc gia cưỡng bách. Nếu mỗi người của chúng ta ý thức
được tính cách thiết yếu của kỷ luật quốc gia và tự qui phục kỷ luật
đó, thì chúng ta áp dụng một kỷ luật quốc gia tự do ưng thuận. Dân
tộc càng có tính khí, kỷ luật quốc gia càng được tự do ưng thuận.
Nếu chúng ta không tự qui phục kỷ luật quốc gia, thì sự sống còn của
tập thể chúng ta sẽ bị cưỡng bách đặt mình vào kỷ luật quốc gia....
Tuy nhiên, vấn đề kỷ luật quốc gia, cũng như tất cả các vấn đề
liên quan đời sống của một cộng đồng, vô cùng phức tạp. Từ thái độ
cực đoan cưỡng bách của phương pháp độc tài Đảng trị của Cộng sản
đến thái độ cực đoan tự do đến hỗn loạn, còn có một loạt trạng thái
thăng bằng, như một quang phổ, hòa hợp tự do và cưỡng bách. Thả lỏng
cho tự do hoành hành đến hỗn loạn, hay đặt thành nguyên tắc cực đoan
cưỡng bách theo phương pháp độc tài Đảng trị của Cộng sản, đều là
những thái độ chọn một thăng bằng chết, là chọn một con đường dễ.
Trong khi đó đời sống, cũng như việc lãnh đạo quốc gia, trước hết là
duy trì và phát triển một trạng thái thăng bằng động tiến giữa hai
lực lượng tương phản.
Trong trường hợp kỷ luật quốc gia, thực
hiện trạng thái thăng bằng động tiến có nghĩa, cho các quốc gia ở
trong khối tự do, là đặt nguyên tắc tôn trọng tự do nhưng chế ngự
bằng một định phân cưỡng bách cần thiết để bồi dưỡng và phát triển
thăng bằng. Định phân cưỡng bách lớn hay nhỏ tùy theo trình độ tự
giác của các phần tử trong tập thể đối với tính cách thiết yếu của
kỷ luật cộng đồng; Nếu trình độ tự giác cao, định phân cưỡng bách
nhỏ, và nếu trình độ tự giác thấp, quyền lợi của cộng đồng đòi hỏi
một định phân cưỡng bách cao. Định luật của xã hội là như vậy: nếu
tinh thần tự chủ cao, thì trình độ tự giác sẽ cao, phân định cưỡng
bách sẽ thấp, và chế độ sẽ là một chế độ có nhiều tự do, và mỗi phần
tử trong cộng đồng sẽ tự mình làm chủ mình. Nếu tinh thần tự chủ
kém, trình độ tự giác sẽ thấp, phân định cưỡng bách sẽ cao và chế độ
sẽ là một chế độ tự do hạn chế, và mỗi phần tử trong cộng đồng sẽ
nhường một phần lớn, quyền làm chủ mình, cho cộng đồng.
Nếu
trình độ tự giác vô cùng nghèo nàn, thì thăng bằng sẽ bị phá vỡ,
theo một trong hai cơ thức, tuy có khác nhau nhưng đương nhiên sẽ
dẫn dắt đến cùng một kết quả.
Nếu trình độ tự giác vô cùng
nghèo nàn, sự thực hiện một kỷ luật quốc gia, nhân danh quyền lợi
của cộng đồng, sẽ đòi hỏi định phân cưỡng bách cao độ. Các nhà lãnh
đạo trong hoàn cảnh đó, dễ bị các phương pháp độc tài cám dỗ. Riêng
đối với chúng ta, chúng ta đã biết một chế độ độc tài sẽ mở cửa cho
ngoại xâm của Tàu và cho đời sống nô lệ trong nhiều thế hệ.
Nên, trong trưng hợp một trình độ tự giác nghèo nàn, nhưng các nhà
lãnh đạo không vì quyền lợi của cộng đồng mà đòi hỏi một định phân
cưỡng bách cao độ, sự hỗn loạn sẽ hoành hành và đương nhiên cũng mở
cửa cho ngoại xâm, bằng cách làm tan rã cộng đồng...
Như thế
vấn đề đã rõ. Nếu chúng ta muốn làm chủ chúng ta, nghĩa là làm chủ
vận mạng quốc gia của chúng ta, chúng ta phải cố gắng tạo cho chúng
ta một trình độ tự giác cao đối với kỷ luật quốc gia. Nếu không
người khác sẽ làm chủ vận mạng chúng ta.
Bộ máy quần
chúng
Như chúng ta đã thấy, trong một phần trên đây,
một đặc tính của sự tan rã của xã hội chúng ta là sự mất tín hiệu
tập hợp đối với các phần tử trong cộng đồng quốc gia.
Ở trong
một cộng đồng, tín hiệu tập hợp quan trọng ở chỗ, nếu có tín hiệu
tập hợp, thì sự huy động các phần tử của cộng đồng để theo đuổi một
công cuộc chung mới có thể thực hiện được.
Nước Nhật, khi bắt
đầu công cuộc Tây phương hóa, lợi khí sắc bén nhất của họ là tổ chức
xã hội còn nguyên vẹn, và sự tin tưởng vào Thiên Hoàng. Các nhà lãnh
đạo Nhật đã dùng sự tin tưởng vào Thiên Hoàng làm một tín hiệu tập
hợp để huy động quần chúng thực hiện công cuộc phát triển dân tộc.
Chúng ta đã biết sự thành công của họ. Giả sử chúng ta bắt đầu công
cuộc Tây phương hóa đồng thời với Nhật, nghĩa là khi Tây phương mới
tấn công, lúc mà xã hội chúng ta chưa bị tan rã, thì chắc chắn những
giá trị tiêu chuẩn lúc bấy giờ của xã hội có thể dùng làm những tín
hiệu tập hợp rất hiệu quả. Và sự huy động toàn dân vào công cuộc
phát triển dân tộc có nhiều ưu thế hơn ngày nay.
Xã hội chúng
ta ngày nay, sau thời Pháp thuộc, bị tan rã. Các tín hiệu tập hợp
không còn. Các nhà lãnh đạo, để qui tụ quần chúng, hoặc khai thác mê
tín, ở đâu cũng có, của quần chúng, hoặc áp dụng một chính sách độc
tài cưỡng bách.
Khai thác mê tín, sẽ dẫn dắt đến một ngõ
không lối thoát vì hai lý do. Trước nhất, chính người lãnh đạo cũng
mê tín, thì sẽ đưa đám người tin tưởng ở mình vào những con đường
phiêu lưu không thiết thực và nhất là không thích nghi với những vấn
đề chính của dân tộc. Nếu người lãnh đạo chính mình không mê tín,
nhưng đám người mê tín theo họ sẽ không sống trong thực tế nữa. Và
nếu họ đã không sống trong thực tế, thì không làm sao dẫn dắt đám
người mê tín này vào con đường Tây phương hóa. Không làm sao mang
các lý luận xác thực của khoa học thay thế vào các sự huyền bí và
hoang đường trong não của họ.
Đối với một chính sách độc tài
cưỡng bách, chúng ta đã biết hoàn cảnh lịch sử và vị trí địa dư của
chúng ta không cho phép chúng ta áp dụng, nếu chúng ta không muốn
đưa dân tộc trở vào vòng nô lệ.
Trong một xã hội mà tổ chức
không bị tan rã, tín hiệu tập hợp còn giữ nguyên giá trị, các tổ
chức quần chúng không thiết yếu cho công cuộc lãnh đạo bằng trong
một xã hội mà tín hiệu tập hợp không còn.
Và xã hội của chúng
ta ngày nay ở trong tình trạng thứ nhì, vì thế cho nên tổ chức quần
chúng đối với chúng ta vô cùng cần thiết.
Xã hội
không tổ chức
Chúng ta đã thấy, trong một đoạn trên,
xã hội của chúng ta ngày nay hoàn toàn vô tổ chức. Sự vô tổ chức đã
bắt đầu từ ngày, trong công cuộc Nam tiến, sự chiếm đóng các đất mới
đã không được thi hành đúng theo nguyên tắc tổ chức hạ tầng của xã
hội chúng ta, lúc nguyên khởi. Các làng mạc ở Nam miền Trung và miền
Nam mất dần hình thức chặt chẽ và trù mật cần thiết cho một cuộc
sống tập thể. Vì vậy cho nên, cùng với sự mất hình thức trù mật của
hạ tầng, tổ chức xã hội hạ tầng cũng mất.
Thời kỳ Pháp thống
trị đã làm cho sự tan rã đó càng thêm trầm trọng. Đối với nơi nào mà
các tổ chức hạ tầng đã hư hỏng thì sự thống trị của Pháp càng làm
cho sự hư hỏng tăng thêm nhiều lên. Bởi vì, như chúng ta đã biết,
bản chất của nền cai trị thực dân là không thiết gì đến tương lai
của dân bị trị. Nhiệm vụ của nó chỉ giữ trị an. Và vì vậy cho nên tổ
chức quần chúng của chúng ta đối với người Pháp, là không quan hệ,
ngược lại, nó còn là một trở lực cho công cuộc trị an. Người Pháp
chỉ chú trọng đến một bộ máy hành chính chuyên giữ trị an để phục vụ
quyền lợi kinh tế của người thống trị. Và như vậy thì sự giữ cho dân
chúng sống rời rạc là một yếu tố quyết định cho sự thành công của
chính sách thực dân.
Đối với những vùng mà tổ chức hạ tầng
của chúng ta còn tương đối chặt chẽ, như ở miền Trung và miền Bắc,
thì người Pháp cũng đã làm vỡ tung các tổ chức xã hội hạ tầng của
chúng ta. Trước hết, họ đã mang vào nước chúng ta một hệ thống kinh
tế, mà tầm hoạt động bao trùm hết lãnh thổ Đông Dương thuộc quyền
của họ, để thay thế một hệ thống kinh tế đặt trên căn bản tổ chức
làng mạc xưa của chúng ta. Kế đó là sự đặt ra chính sách thuế vụ
trực tiếp với người dân để thay thế cho chính sách thuế vụ cũ đặt
qua trung gian làng mạc, kể như là những đơn vị xã hội, sau gia
đình.
Dù mà các tổ chức hạ tầng của chúng ta có bền chặt đến
đâu, những biện pháp trên cũng làm vỡ tung ra được.
Hậu quả
của những sự kiện trên, là sự vô tổ chức của xã hội chúng ta ngày
nay. Nếu những tín hiệu tập hợp của chúng ta còn nguyên giá trị, thì
ảnh hưởng của sự vô tổ chức này sẽ bớt tai hại. Nhưng chính tín hiệu
tập hợp của chúng ta lại cũng mất đi vì thời gian thống trị của thực
dân Pháp.
Vì vậy cho nên, sự vô tổ chức ngày nay là một tình
trạng không thể nào để vậy được nếu chúng ta muốn dẫn dắt cộng đồng
dân tộc vào con đường thực hiện những công trình vĩ đại như công
cuộc phát triển mà chúng ta phải đạt cho kỳ được trong giai đoạn
này.
Trình độ vô tổ chức
Chúng ta
phải ý thức rằng, sự vô tổ chức của xã hội chúng ta ngày nay ở vào
một trình độ rất trầm trọng. Bởi vì chúng ta đã loại trừ chủ nghĩa
Cộng sản, thì đương nhiên, khi nhận xét rằng xã hội chúng ta vô tổ
chức, chúng ta không hề lấy sự quân đội hóa quần chúng trong xã hội
Cộng sản làm tiêu chuẩn. Nhưng, sự kiện mà chúng ta muốn nêu lên, là
chính những tổ chức quần chúng của các quốc gia Tây phương, đặt sự
tôn trọng tự do cá nhân làm một nghiêm luật của văn minh, chúng ta
cũng không có.
Giả sử có ba nhóm người, một nhóm người của
chế độ Cộng sản, một nhóm của chế độ tự do Tây phương và một nhóm
người Việt Nam. Cả ba nhóm đều đứng trước một thử thách chung: phải
vượt qua một đoạn đường dài có nhiều trở lực thiên nhiên bất ngờ, để
di chuyển từ một địa điểm A đến một địa điểm B. Hành động của ba
nhóm người sẽ ra sao?
Trước hết, trong nhóm người của chế độ
Cộng sản, theo lệnh của người chỉ huy, tất cả đều vào hàng ngũ đã có
của mình. Có từng đội nhỏ, dưới sự chỉ huy nghiêm khắc của một đội
trưởng. Tất cả các đội họp lại thành đoàn, đặt dưới quyền của một
người chỉ huy. Các đội trưởng, súng cầm tay, đạn chuẩn bị, lúc nào
cũng sẵn sàng nổ súng, mọi người đều khiếp sợ và nghiêm chỉnh thi
hành thượng lệnh. Lãnh tụ giải thích rằng, vì quyền lợi của giai cấp
vô sản, Đảng và lãnh tụ nhận định sự di chuyển cần phải được thực
hiện theo một lộ trình duy nhất mà lãnh tụ đã biết. Tất cả đều vừa
đồng loạt hoan hô vừa nhìn nòng súng sâu thẳm đang chĩa vào người.
Và cả nhóm tiến lên theo nhịp chân đi của quân đội. Dọc đường
gặp trở lực thiên nhiên, cả nhóm người, vì lãnh tụ đã có chủ định và
dưới áp lực của nòng súng, vẫn tiến tới để ngã lần vì kiệt sức và
trở lực không vượt nổi. Cuối cùng, nhóm người, sau khi tiêu hao sinh
lực, phải dừng lại đợi thượng lệnh thay đổi lộ trình. Lệnh xuống,
mọi người lại vừa nhìn nòng súng, vừa hoan hô và tất cả lại lên
đường theo một lộ trình mới, dẫn dắt đến một trở lực mới. Phong trào
nhân dân công xã của Trung Cộng cũng thể hiện trường hợp trên đây.
Nhóm người của khối tự do sẽ thực hiện cuộc di chuyển một cách
khác. Những người ngày tự chia làm những nhóm nhỏ. Mỗi nhóm không có
người chỉ huy, nhưng có một người được nhóm giao cho trách nhiệm
phối hợp các ý kiến chung về cuộc hành trình. Các người trách nhiệm
lại hợp nhau, phối hợp hướng đi và tốc độ của các nhóm, để cho sự
vận chuyển của toàn thể được điều hòa dưới sự trách nhiệm của một
người mà phần đông đều đồng ý trao cho nhiệm vụ lãnh đạo. Theo lệnh
của người này, tất cả đều lên đường, mỗi người tuy không thấu triệt,
nhưng ý thức lý do hành động của cộng đồng và lộ trình trong hiện
tại. Mặc dầu không có hoan hô rầm rộ, nhưng có sự cương quyết tiến
tới và sự nhận thức các trở lực thiên nhiên đang đợi chờ. Dọc đường
gặp trở lực thiên nhiên, nhờ không có một chủ định cứng rắn về lộ
trình, tất cả đều ngừng lại và lấy kỹ thuật khoa học nhận định thực
tế để tìm cách vượt qua. Nhờ vậy mà Tây phương đã tìm được giải pháp
cho các vấn đề xã hội cuối thế kỷ 19.
Sau cùng, nhóm người
Việt Nam, sẽ thực hiện cuộc hành trình như sau. Một người đứng lên,
với sự ủng hộ của một vài người khác, giải thích sự cần thiết của
cuộc di chuyển và đề nghị một lộ trình. Nhưng chung quanh, kẻ đứng
người ngồi, có người lắng tai nghe, có người đang tính việc riêng,
có người đang giải trí, có người đang làm việc. Nhìn chung, một cảnh
tượng vô cùng hỗn loạn. Lúc người chỉ huy ra lệnh, một số bước lên
đường, nhưng tốc độ không đều, người mau, người chậm. Số còn lại
ngồi ngơ ngác không biết phải làm gì. Đi một đỗi, số người đi trước
phải trở lại tìm cách thuyết phục những người chưa quyết định. Dằng
co, đi, ở không ngã ngũ. Thời giờ qua mà cuộc hành trình chưa bắt
đầu, chỉ vì nhóm người của chúng ta chưa có tổ chức. Do đó, chúng ta
bất lực khi cần phải thực hiện một công cuộc cần có sự góp phần của
toàn thể cộng đồng.
Tác dụng của tổ chức quần chúng.
Sự thể đã như vậy, nếu chúng ta muốn thực hiện một công trình
của tập thể, điều trước tiên, mà chúng ta phải làm, là tổ chức quần
chúng của chúng ta.
Nhưng vấn đề quan hệ hơn nữa. Bởi vì nếu
chúng ta không tổ chức quần chúng của chúng ta, cố nhiên chúng ta
không thực hiện được những công cuộc mà chúng ta trù tính.
Nhưng tình thế không phải chỉ đến đó mà thôi, bởi vì, nếu chúng ta
không dn dắt được đoàn người trên thực hiện cuộc hành trình dự tính,
thì người khác sẽ đến tổ chức họ và dẫn dắt họ đi. Trong giai đoạn
hiện tại của quốc gia, nếu chúng ta không tổ chức được quần chúng và
giải quyết các vấn đề hiện tại của cộng đồng thì các nhà lãnh đạo
Cộng sản sẽ tổ chức quần chúng và giải quyết các vấn đề hiện tại của
cộng đồng theo quan điểm Cộng sản. Nhưng chúng ta đã biết giải pháp
Cộng sản sẽ di hại như thế nào cho dân tộc.
Trong thực tế,
các nhà lãnh đạo Cộng sản Bắc Việt, thừa hưởng sự nghiệp nghiên cứu
của Cộng sản quốc tế, đã ý thức sự kiện trên, nên từ lâu đã chú
trọng rất nhiều đến việc tổ chức quần chúng. Và chính sức mạnh của
họ lâu nay nằm ở chỗ kỹ thuật tổ chức quần chúng, của Cộng sản Quốc
Tế, được đặc biệt nghiên cứu và áp dụng. Và một khi đã tổ chức được
quần chúng rồi thì họ lại nắm được trong tay một lợi khí sắc bén mà
chúng ta chưa có.
Do đó, sự tổ chức quần chúng, đối với chúng
ta là một yếu tố vô cùng cần thiết, chẳng những để thực hiện bất cứ
công cuộc nào của cộng đồng, trong đó công cuộc phát triển là quan
hệ nhất, mà đồng thời lại là một lợi khí để chặn đứng các sự phá
hoại của du kích quân miền Bắc, đang hoạt động tại miền Nam.
Một lần nữa, chúng ta phải nhận thức rõ ràng rằng một bộ máy hành
chính dù có tinh vi đến đâu, một mình cũng không đủ để giải quyết
các vấn đề hiện tại của dân tộc. Bởi vì một bộ máy hành chính không,
không có một máy tổ chức quần chúng, sẽ không huy động được toàn
dân. Sở dĩ có quan niệm sai lầm về vai trò tự mãn của bộ máy hành
chính là vì ký ức của thời kỳ Pháp thuộc còn rất mới. Và trong thời
kỳ này, thật sự bộ máy hành chính của Pháp rất là hiệu quả. Nhưng
lúc bấy giờ những mục tiêu của người Pháp không phải là những mục
tiêu của chúng ta hiện nay. Hai điều này chúng ta đã thấy rõ ở một
đoạn trên.
Sau hết, lý do quan hệ nhất để chứng minh tính
cách thiết yếu của sự tổ chức quần chúng, chính là công cuộc Tây
phương hóa mà chúng ta phải thực hiện cho kỳ được.
Trong một
đoạn ở trên, chúng ta đã thấy rằng công cuộc Tây phương hóa phải
toàn diện, nghĩa là phải được thực hiện trong mọi lĩnh vực của đời
sống, và phải ăn sâu và lan rộng trong nhân dân. Nếu công cuộc Tây
phương hóa chi giới hạn trong một nhóm người lãnh đạo, như trường
hợp đã xảy ra cho một số quốc gia ở Cận Đông, thì sớm hay muộn quần
chúng sẽ ly khai với nhóm người lãnh đạo và tình trạng xã hội sẽ
chín mùi cho một cuộc cách mạng lật đổ những người lãnh đạo đã Tây
phương hóa. Một công cuộc Tây phương hóa nếu muốn có kết quả mong
mỏi thì phải ăn sâu và lan rộng trong nhân dân.
Một công cuộc
Tây phương hóa ăn sâu và lan rộng trong nhân dân, có nghĩa là người
chủ trương công cuộc Tây phương hóa phải làm thế nào để cho quần
chúng, từ thành thị đến thôn quê, chấp nhận nhiều tập quán mới, theo
một lối sống mới và hoạt động theo những tiêu chuẩn mới. Một công
cuộc vĩ đại như vậy không thể do một bộ máy hành chính, dù có tinh
vi đến đâu, nhưng chỉ một mình, thực hiện được. Và một công cuộc vĩ
đại như vậy, nếu không có sự tham gia thật sự của quần chúng, sẽ
thất bại chắc chắn vì lực lượng thụ động của khối người đã quen sống
theo những nề nếp, mà công cuộc Tây phương hóa đặt cho mình mục tiêu
phải thay đổi.
Đã như thế thì, thực hiện công cuộc Tây phương
hóa có nghĩa là trước hết phải hướng dẫn nhân dân ý thức tính cách
cần thiết của công cuộc Tây phương hóa và làm thế nào để Tây phương
hóa. Sau đó phải dẫn dắt nhân dân đến chỗ hợp tác, với các nhà lãnh
đạo, để thực hiện những công tác cần thiết cho công cuộc Tây phương
hóa.
Và những hoạt động có tính cách ăn sâu và lan rộng trong
quần chúng như trên, không thể thực hiện được trong tình trạng vô tổ
chức của nhân dân ngày nay, trong xã hội của chúng ta. Điều kiện
thiết yếu và tiên quyết cho những hoạt động trên là sự tổ chức quần
chúng. Và xuyên qua các tổ chức quần chúng đó, những hoạt động trên
mới có thể nảy nở được và mới có thể đưa quần chúng đến sự hợp tác,
trong công cuộc Tây phương hóa, với các nhà lãnh đạo.
Tóm lại, các đoạn trên đây, chúng ta nhận thức:
Trong tình trạng bình thường, các tổ chức quần chúng đã là một
yếu tố thiết yếu cho đời sống của một quốc gia độc lập.
Trong
một tình trạng quyết liệt như tình trạng hiện nay, của các quốc gia
đang tìm phát triển như chúng ta, các tổ chức quần chúng là một yếu
tố còn thiết yếu hơn nữa cho đời sống của quốc gia.
Trong
hiện tại chính trị của miền Nam ngày nay, sự tổ chức quần chúng lại
là một khí giới để chặn đứng các sự phá hoại của du kích quân miền
Bắc. Nhưng quần chúng của chúng ta hiện nay hoàn toàn không có tổ
chức. Chúng ta quen sống trong một tình trạng hỗn loạn mà chúng ta
lầm là cho là một tình trạng tự do. Thật sự, trở lại vấn đề thăng
bằng động tiến cần thiết cho mọi cộng đồng giữa quyền lợi cá nhân và
quyền lợi cộng đồng, xã hội của chúng ta ngày nay là một xã hội sắp
mất thăng bằng nói trên, và chúng ta đang sống trong một hoàn cảnh
mà quyền lợi của cộng đồng bị hy sinh cho quyền lợi của cá nhân. Do
đó, sự tổ chức quần chúng và các tổ chức quần chúng, đối với chúng
ta, trở thành một yếu tố quyết định cho sự mất còn của cộng đồng.
Tổ chức quần chúng như thế nào
Dưới một
chế độ độc tài Đảng trị, cũng như dưới một chế độ dân chủ Pháp trị,
tổ chức quần chúng đều cần thiết vì những lý do mà chúng ta đã phân
tích. Tuy nhiên, quan niệm tổ chức, mục đích của các tổ chức và hình
thức của các tổ chức đều khác nhau dưới hai chế độ.
Phương
pháp lãnh đạo của một chế độ độc tài Đảng trị là cưỡng bách dưới mọi
hình thức và với mọi trình độ, với mục đích biến cá nhân thành những
bộ phận dễ uốn nắn và dễ điều khiển của một bộ máy chung, mà tất cả
giềng mối đều nằm trong tay nhóm người lãnh đạo. Vì vậy cho nên,
ngoài những tác dụng của những tổ chức quần chúng mà chúng ta đã
biết, tổ chức quần chúng của một chế độ độc tài Đảng trị còn có tác
dụng uốn nắn cá nhân. Và vì vậy mà hình thức của các tổ chức quần
chúng trong chế độ này được trù liệu để chặt đứt hết các dây liên hệ
của cá nhân với cộng đồng, dù là các dây liên hệ gia đình, tôn giáo,
văn hóa, kinh tế hay xã hội và thay vào bằng dây liên hệ duy nhất
giữa cá nhân và Đảng nắm chính quyền.
Vì quan niệm đó mà các
tổ chức quần chúng trong một chế độ độc tài Đảng trị đều là những tổ
chức do chính quyền chủ trương, chính quyền điều khiển, chính quyền
kiểm soát hoạt động và quản trị tài chính. Sự gia nhập vào tổ chức,
cũng như sự tham gia vào hoạt động của tổ chức đều là cưỡng bách.
Tính cách cưỡng bách, đương nhiên, sẽ tạo ra một sự tham gia lấy lệ
của cá nhân. Lúc bấy giờ, thích nghi với nguyên tắc cưỡng bách, một
sự khủng bố khéo léo hoặc công khai nhưng đúng mức, sẽ được thi hành
để tích cực hóa sự tham gia của cá nhân đến một mức độ cần thiết cho
sinh hoạt và sinh lực của tổ chức.
Phương pháp lãnh đạo của
một chế độ Dân Chủ pháp trị là một phân định cưỡng bách pháp luật
hòa hợp với trình độ tự giác của cá nhân về nhiệm vụ đối với cộng
đồng. Tổ chức quần chúng của một chế độ Dân chủ Pháp trị, ngoài
những tác dụng thông thường còn có tác dụng phát huy ý thức cộng
đồng của cá nhân. Vì vậy cho nên, tổ chức quần chúng có một hình
thức trù liệu để thêm dây liên hệ giữa cá nhân và cộng đồng trong
mọi lĩnh vực, gia đình, tôn giáo, văn hóa, kinh tế và xã hội.
Do đó, các tổ chức quần chúng, trong một chế độ Dân Chủ pháp
trị, sẽ do sáng kiến tư nhân chủ trương, tổ chức, điều khiển sinh
hoạt và quản trị tài chính, dưới sự kiểm soát của chính quyền. Sự
gia nhập của cá nhân vào tổ chức hoàn toàn tự ý, hay nếu cần được
khuyến khích bằng những đặc quyền, ngoài quyền công dân thông
thường, dành cho nhân viên của một tổ chức quần chúng. Những cơ hội
hoạt động để phát triển khả năng, tìm thấy ở các tổ chức quần chúng,
cũng là một yếu tố khuyến khích sự gia nhập. Nhưng, dù trong trường
hợp nào, sự gia nhập cũng hoàn toàn tự ý, và vì vậy sự tham gia vào
sinh hoạt của tổ chức, đương nhiên, rất tích cực, sinh lực của tổ
chức tự nhiên dồi dào.
Chúng ta đã loại trừ Chủ Nghĩa Cộng
sản, thì chúng ta cũng không thể chọn hình thức tổ chức quần chúng
của chế độ độc tài Đảng trị, nếu không, thì lý do loại trừ Chủ Nghĩa
Cộng sản của chúng ta cũng không tồn tại.
Nhưng, giả sử chúng
ta vượt qua quan điểm lý thuyết trên, và vì sự cám dỗ của phương
pháp độc tài, chúng ta chọn hình thức tổ chức quần chúng của chế độ
độc tài Đảng trị, thì theo một cơ thức giản dị, chúng ta sẽ đi đến
một tình trạng không có lối ra. Nếu đã chọn hình thức tổ chức quần
chúng của chế độ độc tài Đảng trị, thì chính quyền sẽ tổ chức, điều
khiển và quản trị các tổ chức quần chúng. Lúc bấy giờ, vì một lý do
dễ hiểu, sự gia nhập vào tổ chức cũng như sự tham gia vào hoạt động
của các tổ chức sẽ không còn tự ý và tích cực nữa. Trong trường hợp
đó, chính quyền tiến thoái lưỡng nan. Nếu giữ nguyên tình trạng thì
các tổ chức quần chúng, vì thiếu sự tham gia tích cực của cá nhân,
sẽ không có đủ sinh lực để có tác dụng mong mỏi. Nếu dùng biện pháp
cưỡng bách để tích cực hóa sự tham gia của cá nhân, thì chính quyền,
vì không phải là một chính quyền độc tài Đảng trị, sẽ không làm sao
sử dụng được những biện pháp độc tài Đảng trị mà không tạo ra một
cuộc khủng hoảng trầm trọng cho chính thể. Vả lại, chính quyền cũng
không có đủ những biện pháp cưỡng bách như trong một chế độ độc tài
Đảng trị để khắc phục được tình thế.
Vì vậy cho nên, chúng ta
không thể áp dụng một hình thức tổ chức quần chúng của chế độ độc
tài Đảng trị. Tuy nhiên, nếu chúng ta áp dụng hình thức tổ chức quần
chúng, của chế độ Dân Chủ pháp trị nói trên đây, chúng ta sẽ phải
gặp một trở lực, đặc biệt cho các quốc gia chậm tiến như quốc gia
Việt Nam.
Trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta hiện nay, ý
thức tập thể của quần chúng rất yếu kém và kinh nghiệm tổ chức, điều
khiên và quản trị các tổ chức quần chúng rất nghèo nàn.
Sự
đóng góp tài chính của cá nhân, đương nhiên sẽ rất giới hạn. Vì vậy
sáng kiến tổ chức quần chúng không thể hoàn toàn phát xuất từ trong
nhân dân được. Chính quyền ngoài nhiệm vụ kiểm soát đương nhiên phải
đảm trách nhiệm vụ hướng dẫn sự tổ chức, hướng dẫn sự đào tạo người
điều khiển hoạt động, và quản trị tài chính cho tổ chức. Điều thiết
yếu là nhiệm vụ hướng dẫn phải được minh định và không để cho nó sự
lầm lẫn với vai trò trực tiếp tổ chức, trực tiếp điều khiển và quản
trị của chính quyền như trong một chế độ độc tài Đảng trị.
Trong trường hợp mà chúng ta đã có sẵn những tổ chức quần chúng đã
trưởng thành, và có nhiều cán bộ đã được trang bị với những kinh
nghiệm chuyên môn, về vấn đề tổ chức quần chúng, thì chẳng những vai
trò hướng dẫn của chính quyền sẽ không cần thiết, mà chúng ta nhờ
cái vốn tổ chức quần chúng sẵn có, còn có thể tránh được những lỗi
lầm mà một sự hướng dẫn, vô tình không đúng mức, có thể gây ra cho
hệ thống tổ chức quần chúng của chúng ta.
Tổ chức
quần chúng và tổ chức chính trị
Thường thường hay có
sự lầm lẫn giữa các tổ chức chính trị và các tổ chức quần chúng.
Nhiều người, vô tình, tưởng các tổ chức quần chúng là tổ chức chính
trị và nhìn thấy ảnh hưởng chính trị của các tổ chức quần chúng.
Nhưng cũng có nhiều người, cố tình, gây sự lầm lẫn vì muốn lợi dụng
ảnh hưởng chính trị của các tổ chức quần chúng để hậu thuẫn cho một
vận động chính trị.
Riêng ở Việt Nam, sự ngộ nhận một tổ chức
quần chúng ra một tổ chức chính trị, thường hay xảy ra vì một nguyên
nhân lịch sử mà chúng ta đã có đề cập đến trong một đoạn trên. Sau
hơn tám mươi năm bị loại ra ngoài vòng các vấn đề liên quan đến sự
lãnh đạo quốc gia, một số đông người Việt Nam đã nối trở lại với các
vấn đề lãnh đạo trong thời kỳ kháng Pháp. Nhưng lúc bấy giờ Cộng sản
chi phối tình thế, nên các biện pháp lãnh đạo được áp dụng lại được
xem như là những sáng kiến độc quyền của Cộng sản, hay là những biện
pháp chính trị mà chế độ nào cũng phải áp dụng. Và trong chế độ độc
tài Đảng trị của Cộng sản, các tổ chức quần chúng, là những công cụ
chính trị của chế độ. Vì những lý do trên, mà nhiều người vẫn tin
rằng, trong mọi chế độ, tổ chức quần chúng là tổ chức chính trị.
Ngoài ra, trong những quốc gia, như quốc gia Việt Nam hiện nay,
đang bị nạn đột nhập xâm lăng của Cộng sản, thì các tổ chức quần
chúng lại bị Cộng sản dùng làm bình phong để che đậy những hoạt động
chính trị bí mật. Hoặc Cộng sản lợi dụng các tổ chức quần chúng như
là một lực lượng chính trị áp đảo chính quyền quốc gia.
Các
sự kiện trên tạo một hoàn cảnh thuận lợi để cho sự lầm lẫn dễ xảy ra
giữa các tổ chức chính trị và tổ chức quần chúng. Tuy nhiên, nguyên
do chính của sự lầm lẫn vẫn là ảnh hưởng chính trị của các tổ chức
quần chúng.
Chính trường của một cộng đồng quốc gia là trường
hoạt động chung của tất cả các phần tử của cộng đồng. Vì vậy cho
nên, trên nguyên tắc, mỗi cá nhân đều có ảnh hưởng đến chính sự của
cộng đồng. Tuy nhiên ảnh hưởng chính trị của cá nhân rất giới hạn,
trừ ra trường hợp hoặc cá nhân đóng một vai trò quan trọng trong bộ
máy quốc gia, hoặc nhiều cá nhân tập hợp lại thành một khối có một
lực lượng đáng kể.
Nguồn gốc của ảnh hưởng chính trị của các
tổ chức quần chúng là sự kiện trên đây.
Nhưng điều cần thiết
cho chúng ta là phải nhận thức rằng, trong một chế độ Dân Chủ pháp
trị, sự khác nhau, giữa hai tổ chức chính trị và tổ chức quần chúng
rất rõ ràng, về mục đích cũng như hình thức tổ chức và phương pháp
hoạt động.
Một tổ chức chính trị gồm những người cùng tin
tưởng vào một đường lối chính trị, nghĩa là một toàn bộ giải pháp
đối với các vấn đề của cộng đồng quốc gia, trong mọi lĩnh vực của
đời sống. Mục đích tranh đấu của một tổ chức chính trị, nghĩa là của
một chính đảng, là nắm chính quyền để mang các giải pháp mà chính
đảng chủ trương áp dụng vào các vấn đề của cộng đồng. Trong chế độ
Dân Chủ pháp trị, các tổ chức chính trị hoạt động công khai và là
một bộ phận của bộ máy lãnh đạo. Tổ chức chính trị có một hệ thống
tổ chức địa dư như một hệ thống hành chánh.
Một tổ chức quần
chúng gồm những người cùng làm một nghề, hoặc cùng có những quyền
lợi kinh tế tương đồng, hoặc cùng theo đuổi một mục đích tôn giáo,
hay một công cuộc xã hội, văn hóa, đức dục hay thể dục. Mục đích của
các tổ chức quần chúng là bảo vệ quyền lợi chuyên nghiệp, kinh tế,
văn hóa hay xã hội của các nhân viên của tổ chức, hoặc bảo vệ một
tín ngưỡng, hoặc phát triển một công cuộc xã hội hay văn hóa. Hoạt
động của các tổ chức quần chúng do mục đích ấn định và không có lúc
nào trực tiếp đi vào lĩnh vực chính trị, nghĩa là vào lĩnh vực của
bộ máy lãnh đạo. Ảnh hưởng chính trị của một tổ chức quần chúng sẽ
giới hạn trong việc ủng hộ hay không ủng hộ một đường lối chính trị,
khi cơ hội đưa đến, ví dụ trong một chiến dịch tuyển cử, vì đường
lối đó có lợi hay không có lợi cho mục đích riêng của tổ chức quần
chúng.
Vì những sự kiện vừa phân tích trên đây mà trong một
chế độ Dân Chủ pháp trị, sự lầm lẫn giữa hai tổ chức chính trị và tổ
chức quần chúng, sẽ mang đến nhiều hậu quả bất lợi cho cộng đồng.
Trước hết sự lầm lẫn sẽ mang đến một sự hỗn loạn trong tổ chức của
bộ máy quốc gia và gây một hoàn cảnh thuận lợi cho sự đột nhập của
Cộng sản. Nếu chúng ta tôn trọng các tiêu chuẩn phân biệt tổ chức
chính trị và tổ chức quần chúng, thì các tổ chức quần chúng nào, lấy
quần chúng của mình để hậu thuẫn cho một vận động chính trị, đương
nhiên sẽ là một tổ chức quần chúng đã bị sự đột nhập của Cộng sản.
Kinh nghiệm chỉ rằng sự kiện trên đây rất chính xác.
Ngoài
ra, sự cố tình lầm lẫn giữa một tổ chức quần chúng và một tổ chức
chính trị vì một nguyên nhân chính trị, sẽ mang đến cho tổ chức quần
chúng một cuộc khủng hoảng nội bộ trầm trọng, vì mục đích của tổ
chức đã bị xâm phạm. Cuộc khủng hoảng có thể mang đến sự tan rã của
tổ chức.
Các tổ chức quần chúng công nhân và nông dân
Trong xã hội của chúng ta ngày nay, sự phân chia dân số theo
ngành hoạt động kinh tế, ấn định hai loại tổ chức quần chúng quan
trọng hơn hết về số lượng. Loại thứ nhất gồm các tổ chức quần chúng
công nhân trong các xí nghiệp kỹ nghệ hay canh nông và thương mãi,
nghĩa là các nghiệp đoàn. Loại thứ hai gồm các tổ chức nông dân, như
chúng ta sẽ thấy trong một đoạn sau, thích hợp nhất trong hoàn cảnh
hiện nay ở thôn quê là hình thức hợp tác xã nông nghiệp, bảo vệ
quyền lợi kinh tế của người nông dân. Hai loại tổ chức quần chúng
trên đây thâu gồm đến chín mươi phần trăm dân số hoạt động, và vì
những liên hệ gia đình, sẽ ảnh hưởng đến chín mươi phần trăm dân số
toàn quốc. Xét các bách phân dân số trên đây, chúng ta nhận thức vai
trò quan trọng của các tổ chức nghiệp đoàn, và các tổ chức hợp tác
xã nông nghiệp, trong đời sống quốc gia. Vì vậy cho nên, các nỗ lực
tổ chức quần chúng của chúng ta phải tập trung về hai lĩnh vực
nghiệp đoàn và hợp tác xã nông nghiệp.
Hợp tác xã nông nghiệp
lại gồm từ bảy đến tám mươi phần trăm dân số. Nghiệp đoàn từ mười
đến mười lăm phần trăm. Bộ máy quần chúng của chúng ta gần như là bộ
máy hợp tác xã nông nghiệp. Nông thôn đóng một vai trò quyết định
trong công cuộc tổ chức quần chúng và trong các công cuộc khác của
quốc gia, bởi vì như chúng ta đã thấy, tổ chức quần chúng là một lợi
khí để chúng ta thực hiện các công cuộc dự tính của cộng đồng.
Thành phần dân số còn lại ở các đô thị, tuy nhẹ về số lượng,
nhưng lại vô cùng quan trọng về phẩm chất và tính chất hoạt động của
họ, bởi vì trong số này gồm tất cả những phần tử của các bộ phận
khác của bộ máy quốc gia: Các bộ máy lãnh đạo, hành chánh và quân
sự, và các cơ cấu điều khiển của những khu vực kỹ nghệ và thương mãi
công cộng và tư nhân.
Số người này, ngoài các tổ chức đương
nhiên của ngành hoạt động của họ, có thể tham gia vào nhiều loại tổ
chức quần chúng mà mục đích là bảo vệ tín ngưỡng, quyền lợi nghề
nghiệp hay kinh tế, hay theo đuổi một công cuộc văn hóa, xã hội hoặc
đức dục hay thể dục hay du lịch. Đời sống của quốc gia ở các đô thị
và ở thủ đô càng phức tạp và càng phong phú, thì các tổ chức quần
chúng cũng phải được thích nghi hóa với hoàn cảnh và gồm nhiều loại.
Ở nông thôn, đời sống của nhân dân giản dị hơn và hình thức sống
kém trù mật hơn. Do đó tổ chức quần chúng có thể chỉ là những hợp
tác xã nông nghiệp với một hình thức rất là sơ đẳng, dễ điều khiển
và dễ sinh hoạt.
Ở trên các tổ chức nghiệp đoàn và các tổ
chức hợp tác xã một bậc, về tính cách tinh vi của tổ chức và kỹ
thuật chuyên môn khá cao, mà sự điều khiển các tổ chức này sẽ đòi
hỏi, có các tổ chức hỗ tương bảo hiểm. Bảo hiểm về bệnh hoạn, bảo
hiểm về tai nạn lao động, bảo hiểm về trâu bò, bảo hiểm về sinh sản
và về già cả. Tất cả các tổ chức tương hỗ bảo hiểm nhằm mục đích bảo
vệ trên nhiều phương diện và bằng nhiều hình thức quyền lợi cá nhân
của các phần tử của tập thể, đồng thời phát huy tinh thần tập thể
của cá nhân.
Giáo dục quần chúng
Ngoài những tác dụng đương nhiên của các tổ chức quần chúng mà chúng
ta đã biết, bộ máy tổ chức quần chúng của quốc gia, còn đóng góp một
phần rất quan trọng vào các chương trình giáo dục quần chúng. Các
chương trình giáo dục quần chúng khác biệt và không thay thế các
chương trình thông thường giáo dục tổng quát mà chúng ta sẽ đề cập
đến trong một đoạn sau này.
Các chương trình giáo dục quần
chúng là những khí cụ cần thiết và hữu hiệu để hậu thuẫn cho công
cuộc Tây phương hóa ăn sâu và lan rộng trong dân chúng, như chúng ta
đã biết. Các mục tiêu vừa có tính cách ngắn hạn đối với những kỹ
thuật sản xuất Tây phương, vừa có tính cách dài hạn đối với những
tập quán mới cần phải trang bị dân chúng trong công cuộc Tây phương
hóa toàn diện. Các tổ chức quần chúng còn là những hoạt động trường
để huấn luyện tinh thần tập thể của nhân dân, và ý chí tự do và độc
lập mà dân tộc đòi hỏi trước sự đe dọa xâm lăng liên tục của Trung
Hoa.
Trong những mục tiêu ngắn hạn, có những chương trình phổ
biến các kỹ thuật sản xuất của Tây phương và chương trình đào tạo
tinh thần kỷ luật mà các phương tin sản xut kỹ nghệ đòi hỏi.
Công cuộc phổ biến những kỹ thuật sản xuất của Tây phương liên hệ
trước hết đến nông nghiệp và tiểu công nghiệp. Các hợp tác xã sơ
đẳng và các nghiệp đoàn tiểu công nghiệp đóng một vai trò chính yếu
trong việc phổ biến này.
Lâu nay người dân Việt Nam chỉ quen
với lề lối sản xuất của một nền kinh tế nông nghiệp. Công việc đồng
áng không đòi hỏi ở người nông dân một kỷ luật cứng rắn về thời gian
và một sự căng thẳng về tinh thần, như khi một người công nhân một
xí nghiệp chịu trách nhiệm về một bộ phận của một xưởng máy kỹ nghệ
to tát. Công việc đồng áng của chúng ta, cho phép, ít nhiều một sự
luộm thuộm trong công tác và một sự lờ mờ trong sự phân chia công
tác. Tính cách thiếu phân minh và thiếu trật tự của lối sản xuất
nông nghiệp của chúng ta, trải qua nhiều thế hệ, đã tạo cho người
nông dân chúng ta một tập quán bừa bãi trong công việc và sự mù mờ
trong sự hiểu biết.
Lối sản xuất kỹ nghệ, trái lại không dung
nạp sự bừa bãi trong công việc, và sự mù mờ trong sự hiểu biết. Sản
xuất kỹ nghệ chỉ có thể thực hiện được một cách hiệu quả trong trật
tự, trong phân minh. Ngoài ra, việc săn sóc và tu bổ các máy móc,
nghĩa là các phương tiện sản xuất kỹ nghệ, đòi hỏi ở người sử dụng,
những nỗ lực liên tục hàng ngày. Các cố gắng đó là những nguyên nhân
đưa đến một tình trạng căng thẳng tinh thần mà đời sống lâu nay ở
thôn quê, trong một hoàn cảnh kinh tế hoàn toàn nông nghiệp chưa hề
biết đến.
Vì thế cho nên, khi một người nông dân, từ biệt
ruộng đất của mình để trở thành một công nhân xí nghiệp, hành vi nhỏ
nhặt đó không phải chỉ có nghĩa là đổi công việc mưu sinh. Thực ra
hành vi đó còn có nghĩa là người nông dân từ bỏ một lối sống dễ dãi
và vô trật tự theo nhịp khoan thai của thời tiết để đi vào một lối
sống kỷ luật và ngăn nắp theo nhịp thúc đẩy của máy móc. Nghĩa là
người nông dân sẽ phải làm quen và chấp nhận một sự căng thẳng về
tinh thần mà lâu nay họ chưa hề biết đến. Và lần lần chính tâm lý
của nông dân cũng sẽ thay đổi, cũng như lối nhìn đời sống của họ.
Một sự biến đổi tương tự, đương nhiên không thể là một việc dễ.
Không bao giờ, dù mà sinh kế có bắt buộc họ trở thành một công nhân
xí nghiệp, một người nông dân, tự họ có thể thực hiện được sự tự
biến đổi nếu không có những sự hướng dẫn và giúp đỡ hữu hiệu bên
ngoài. Nhưng lâu nay, trong sự biến đổi này, người nông dân không hề
được hướng dẫn và giúp đỡ. Sự biến đổi này cũng mang tính cách hỗn
loạn chung của công cuộc Tây phương hóa, không đường hướng của xã
hội chúng ta dưới thời Pháp thuộc.
Nhiệm vụ hướng dẫn và giúp
đỡ nói trên đây một phần lớn là nhiệm vụ của nghiệp đoàn công nhân
và một phần nhỏ là nhiệm vụ của các xí nghiệp. Nhưng lâu nay các xí
nghiệp hoặc do người ngoại quốc điều khiển, hoặc được tổ chức trên
căn bản quyền lợi cá nhân, cho nên không bao giờ quan tâm đến vấn đề
biến đổi những nông dân thành người công nhân trong khuôn khổ một
công cuộc Tây phương hóa toàn diện.
Nghiệp đoàn của chúng ta,
cũng như của các quốc gia đang phát triển, đều chưa hoàn toàn cởi bỏ
được cái áo Tây phương, nên cũng chưa chú trọng đúng mức đến sự biến
đổi của người nông dân nói trên đây. Nguyên nhân của tình trạng đó
như sau:
Nghiệp đoàn Tây phương
Nguồn
gốc của các nghiệp đoàn Tây phương theo các nhà xã hội học, là các
phường nghề nghiệp xưa kia gồm những người cũng hành một nghề, vừa
chủ nhân vừa công nhân. Nhưng nghiệp đoàn công nhân, dưới hình thức
hiện tại ở Tây phương, mới được quan niệm rõ rệt và phát triển đến
mức trưởng thành từ sau cuộc cách mạng kỹ nghệ của các quốc gia Tây
phương. Và ngày nay, tổ chức nghiệp đoàn là một yếu tố quân bình
quan trọng trong bộ máy quốc gia.
Sau khi các phương tiện sản
xuất kỹ nghệ được phát minh và thâu nhận vào xã hội Tây phương, như
chúng ta đã phân tích trong một đoạn trên, các lực lượng sản xuất
mới đã tạo ra nhiều xáo trộn xã hội, làm lung lay đến nền tảng các
cơ cấu quốc gia của các nước đã kỹ nghệ hóa. Các cơ cấu xã hội cũ,
tổ chức trên căn bản kinh tế thủ công nghệ và nông nghiệp, hoàn toàn
bất lực trong công việc thâu nhận những lực lượng sản xuất kỹ nghệ.
Các trạng thái thăng bằng của xã hội bị áp đảo đến cực độ.
Nhân đó, thuyết Cộng sản được đề nghị như là một phương thuốc để trị
các cơn khủng hoảng. Chúng ta đã thấy, trong hoàn cảnh nào, các nhà
lãnh đạo Tây phương, vì lý do gì, đã từ chối giải pháp Cộng sản. Và
ngày nay chúng ta đang mục kích sự thành công của Tây phương trong
công cuộc chẳng những bài trừ các cơn khủng hoảng của xã hội mà lại
còn đặt những căn bản thiết thực để bảo đảm cho sự phát triển của
toàn thể cộng đồng bằng cách sử dụng những phương tiện kỹ thuật ngày
càng tinh vi.
Các tổ chức nghiệp đoàn công nhân đóng góp một
phần quan trọng trong sự thành công nói trên.
Nguyên do chính
của các xáo trộn xã hội trong các quốc gia Tây phương lúc vừa xảy ra
cuộc cách mạng kỹ nghệ, là sự kiện trạng thái thăng bằng động tiến,
giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi cộng đồng bị áp đảo đến cực độ,
vì sự bành trướng khác thường của quyền lợi cá nhân. Sự thiếu kinh
nghiệm, đương nhiên, đối với những hậu quả xã hội của những phát
minh mới, và tổ chức của xã hội lúc bấy giờ, căn cứ trên một nền
kinh tế thủ công nghiệp và nông nghiệp, đã cho phép sự thâu gồm vào
tay một thiểu số những phương tiện sản xuất cực kỳ hùng hậu. Ý thức
cộng đồng của thiểu số nắm trong tay các lực lượng sản xuất mới, lại
không phát triển đồng thời với khả năng hùng hậu của kỹ thuật mới
phát minh.
Tổ chức xã hội cũ hoàn toàn bất lực trong công
việc phân phối tài sản quốc gia một cách công bình. Tài sản quốc gia
có tăng, nhờ các lực lượng sản xuất mới, mà mức sống phần đông lại
giảm,vì sự phân phối thất bại.
Vì các lý do trên đây, tác
dụng nguyên khởi của các nghiệp đoàn công nhân là góp một phần hữu
hiệu vào công việc đặt căn bản mới cho sự phân phối tài sản quốc
gia. Vì vậy cho nên, trọng tâm hoạt động của các nghiệp đoàn công
nhân Tây phương, lúc đầu, là yêu sách về quyền lợi của đoàn viên, để
bảo đảm cho công nhân một bách phân xứng đáng trong sự phân chia lợi
tức quốc gia. Tuy nhiên, những biện pháp yêu sách vẫn chưa có tác
dụng quyết định và lâu dài, để bảo đảm cho trạng thái thăng bằng
giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi cộng đồng.
Các tổ chức
nghiệp đoàn công nhân đã nghiễm nhiên từ một vai trò phản đối và yêu
sách, trở thành một yếu tố quân bình quan trọng trong bộ máy quốc
gia. Và lịch sử của tổ chức nghiệp đoàn công nhân Tây phương, minh
tả sự biến hình của một hình thức xã hội mới, có khả năng thâu nhận
những lực lượng sản xuất kỹ nghệ, duy trì trạng thái thăng bằng giữa
quyền lợi cá nhân và quyền lợi cộng đồng, và nhất là đặt những căn
bản thiết thực, bảo đảm cho sự sử dụng những phương tiện kỹ thuật
càng ngày càng tinh vi để phát triển cộng đồng nhân loại và phát
triển con người.
Đồng thời, các hoạt động của nghiệp đoàn
công nhân Tây phương cũng tăng gia và biến chất. Thêm vào các hoạt
động yêu sách, càng ngày các hoạt động giáo dục và huấn luyện đoàn
viên càng được bành trướng và trở thành hoạt động chính yểu của các
nghiệp đoàn công nhân Tây phương.
Phạm vi huấn luyện và giáo
dục, đi từ các kỹ thuật tổ chức chuyên môn của nghề nghiệp đến các
kỹ thuật tổ chức và điều khiển nghiệp đoàn và đến vị trí và nhiệm vụ
của nghiệp đoàn, xem như là một yếu tố quân bình của bộ máy quốc
gia.
Ghi chú:
(1)
T.D. Lisenko
By gaining favor with Stalin, Lisenko gained control of all
agricultural science throughout the country, including all
scientific institutions, universities and laboratories related to
biology, genetics and agriculture.
Stalin embraced the ideas
of Lisenko and it wasn't long before he had Serebrovski and Koltsov
shot to death. Vavilov was imprisoned and died of dysentery.
Hundreds of other genuine geneticists and selectionists suffered
during the Repression as well [especially during the year 1937].
http://azer.com/aiweb/categories/magazine/ai131_folder/131_articles/131_genetics_stalin.html
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Phần IV
15. NGHIỆP ĐOÀN VIỆT NAM
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Các
nghiệp đoàn công nhân Việt Nam hiện nay là những tổ chức quần chúng
công nhân có một giá trị thật
đáng
chú ý. Các quốc gia ở Đông Nam Á, và nhiều quốc gia trên thế giới,
cùng ở vào một tình trạng kém mở mang và vô tổ chức như chúng ta,
vẫn chưa có một tổ chức quần chúng công nhân như của chúng ta. Nhưng
giá trị của các nghiệp đoàn công nhân Việt Nam không phải chỉ ở sự
hiện diện hiếm có đó.
Trong một xã hội vô tổ chức như xã hội
của chúng ta hiện nay, các nghiệp đoàn công nhân, tổ chức có qui củ
và ăn rễ sâu vào quần chúng, là một cái vốn tổ chức quần chúng rất
quý cho chúng ta. Các nghiệp đoàn công nhân sẵn có, tự nó đã là một
cái vốn. Nhưng những kinh nghiệm lãnh đạo, tổ chức, hoạt động và
điều khiển của các cán bộ, đã nhiều năm hoạt động, còn là một cái
vốn rất hiếm có để phát triển các tổ chức quần chúng của chúng ta
trong tương lai. Chúng ta đã thấy, trong một đoạn trên, các trở lực
mà một quốc gia, kém mở mang như chúng ta, đương nhiên gặp phải
trong công cuộc tổ chức quần chúng, bởi vì dân chúng thiếu sáng kiến
và kinh nghiệm về tổ chức quần chúng. Với cái vốn hiện tại của chúng
ta, do các tổ chức công nhân cung cấp, các trở lực trên sẽ không còn
khó vượt nữa.
Sau hết, trong một xã hội thiếu tín hiệu tập
hợp như xã hội chúng ta, các tổ chức nghiệp đoàn là một tín hiệu tập
hợp có nhiều khả năng qui tụ.
Tuy nhiên, trong cộng đồng quốc
gia Việt Nam, cũng như trong tất cả các quốc gia chưa kỹ nghệ hóa,
vai trò của nghiệp đoàn, tuy rất quan trọng, nhưng không thể quan
trọng như trong một quốc gia Tây phương đã phát triển.
Trước
hết, tổng số công nhân xí nghiệp của chúng ta, ước lượng từ mười đến
mười lăm phần trăm dân số hoạt động, vẫn là một tỷ lệ nhỏ đối với
tổng số dân số. Trong các quốc gia đã phát triển, bách phân công
nhân xí nghiệp rất cao, đối với tổng số dân số hoạt động. Ở Pháp 53
phần trăm, ở Anh 65 phần trăm, ở Mỹ chỉ có 12 phần trăm dân số sống
về nông nghiệp. Vì vậy cho nên, hoạt động của nghiệp đoàn công nhân
đương nhiên giới hạn ở Việt Nam.
Ngoài lý do số lượng, sở dĩ
các tổ chức nghiệp đoàn công nhân Tây phương đã góp một phần quyết
định vào sự xây dựng một hình thức mới cho xã hội Tây phương, là vì
các nguyên nhân áp đảo trạng thái thăng bằng của xã hội Tây phương,
như chúng ta đã thấy trên kia, xuất phát từ các xí nghiệp kỹ nghệ,
trường hoạt động của quần chúng công nhân. Trạng thái thăng bằng
động tiến của xã hội chúng ta ngày nay cũng có bị áp đảo, nhưng bởi
những nguyên nhân phát sinh từ một khu vực khác của nền kinh tế của
chúng ta: khu vực nông nghiệp. Vả lại, khi Tây phương dùng nghiệp
đoàn để ứng phó với các xáo trộn xã hội, thì nguyên nhân của các
cuộc khủng hoảng, lúc bấy giờ, là sự bất lực của xã hội cũ trong
công việc phân phối tài sản của quốc gia. Ngày nay, trong xã hội của
chúng ta, nếu có một sự phân phối không công bình khối tài sản quốc
gia eo hẹp của chúng ta, thì sự kiện đó cũng không làm sao quan
trọng bằng sự kém mở mang của quốc gia.
Vì vậy cho nên, trong
hin tình Việt Nam, các tổ chức nghiệp đoàn công nhân chưa đóng góp
một phần quan trọng vào bộ máy quốc gia, như ở xã hội Tây phương.
Tuy nhiên, nếu chúng ta đặt công cuộc phát triển, bằng cách Tây
phương hóa, làm mục đích trước và trên hết trong giai đoạn này, thì
sau khi phát triển, xã hội của chúng ta sẽ là một xã hội kỹ nghệ.
Lúc bấy giờ, vai trò của các tổ chức nghiệp đoàn công nhân sẽ trở
thành quan trọng, như trong xã hội Tây phương hiện nay. Nhưng ngay
trong thời gian phát triển, vai trò của các tổ chức nghiệp đoàn công
nhân cũng đã là vô cùng quan trọng, vì nhiệm vụ biến đổi người nông
dân của thời tiết, thành người công nhân của một nền kinh tế sản
xuất theo nhịp kỷ luật và thúc giục của máy móc. Trong công cuộc
phát triển mà chúng ta chủ trương, nhiệm vụ này vô cùng quan trọng
và các tổ chức nghiệp đoàn công nhân phải phụ trách.
Các tổ
chức nghiệp đoàn công nhân là một phát minh của Tây phương. Việc
nhập cảng các tổ chức ấy vào xã hội chúng ta, cũng là một phần trong
công cuộc Tây phương hóa mà chúng ta chủ trương: Tây phương hóa
trong lĩnh vực tổ chức xã hội. Tuy nhiên, nếu chúng ta giữ nguyên
bản chất của các tổ chức nghiệp đoàn Tây phương thì chúng ta lại mắc
vào cái bệnh Tây phương hóa hình thức, và đương nhiên, hiệu lực của
các tổ chức nghiệp đoàn sẽ suy giảm.
Vì các lý do trên đây mà
các tổ chức nghiệp đoàn công nhân của chúng ta, mặc dầu không phủ
nhận hoạt động yêu sách, xem như là một hoạt động có khả năng qui
tụ, phải tập trung các nỗ lực vào hoạt động giáo dục, huấn luyện và
tổ chức. Chương trình giáo dục và huấn luyện gồm chương trình huấn
luyện và giáo dục của tổ chức nghiệp đoàn Tây phương, thêm vào một
chương trình giáo dục và huấn luyện liên quan đến sự biến đổi người
nông dân như đã nói ở trên.
Chương trình tổ chức phải được
phát triển đến cực độ và xem như một bộ phận của chương trình tổ
chức quần chúng.
Tổ chức quần chúng nông thôn
Các tổ chức quần chúng quan trọng nhất của chúng ta về số lượng
là các tổ chức quần chúng nông thôn. Theo số ước lượng, quần chúng
nông thôn của chúng ta chiếm một bách phân từ 70 đến 80 phần trăm
dân số. Cũng như các nước kém mở mang và có một nền kinh tế hoàn
toàn nông nghiệp, vốn về nhân lực của chúng ta ở nông thôn. Vì vậy
cho nên, vấn đề tổ chức quần chúng ở nông thôn, thành hay bại, sẽ
quyết định sự thành công hay sự thất bại của chúng ta, trong công
cuộc phát triển dân tộc.
Nhưng sự tổ chức quần chúng nông dân
đặt ra nhiều vấn đề tiên quyết, mà sự tổ chức quần chúng công nhân
không hề biết đến.
Sự tập trung các công nhân, trong khung
cảnh tập thể của một xí nghiệp, đương nhiên tạo ra những điều kiện
thuận lợi chẳng những cho sự tổ chức các công nhân thành nghiệp
đoàn, mà lại còn cho sự nuôi dưỡng và phát triển hoạt động của tổ
chức khi đã thành lập. Đối tượng tranh đấu chung tự nhiên có và dễ
nhìn thấy: bảo vệ quyền lợi của công nhân đối với ban quản trị xí
nghiệp.
Hình thức vật chất của đời sống ở nông thôn, trong
khung cảnh bao la của đồng ruộng, đương nhiên không có điều kiện trù
mật. Công việc đồng áng, tùy theo thời vụ, có lúc đòi hỏi một công
tác tập thể đến cao độ. Nhưng ngoài những cơ hội đó, tinh thần tập
thể của nông dân không có, vì nếp sống cổ truyền của một nền kinh tế
nông nghiệp là một sự qui phục không điều kiện các may rủi của thời
tiết, thay vì một sự tranh đấu tập thể để biến đổi hoàn cảnh bên
ngoài, như đào kinh, xẻ cống, đắp đường và xây cầu. Mỗi người chỉ
chăm lo cho thửa ruộng của mình cày cấy được nhiều huê lợi.
Tinh thần tập thể của nông dân cũng không dễ khêu gợi bởi vì những
lý do thuyết minh cho một sự tập hợp tranh đấu chung, mặc dầu rất
nhiều, nhưng không dễ nhìn thấy.
Sự thiếu điều kiện trù mật
của đời sống nông thôn, đương nhiên tạo ra nhiều trở lực vật chất
cho các dự tính tổ chức những dây liên hệ cộng đồng, ngoài những dây
liên hệ gia đình. Điều kiện trù mật cần thiết, không những cho giai
đoạn tổ chức, mà còn cần thiết hơn nữa, cho sự nuôi dưỡng và phát
triển hoạt động của tổ chức. Đường đất càng xa giữa các nóc gia, sự
tổ chức quần chúng nông dân càng ít hy vọng thành công. Vì vậy cho
nên, ở những vùng mà điều kiện trù mật ở dưới một mức độ ấn định, sự
tổ chức quần chúng nông dân muốn có kết quả, phải tùy thuộc một điều
kiện tiên quyết: tổ chức đời sống trù mật cho nhân dân.
Hợp tác xã nông nghiệp
Khi các điều kiện
tiên quyết đã được thỏa mãn, vấn đề cần đặt ra là hình thức của tổ
chức áp dụng cho quần chúng nông thôn. Ngoài những tác dụng mà chúng
ta mong mỏi ở các tổ chức quần chúng nông dân, trong khuôn khổ một
chương trình phát triển của quốc gia, mục đích trực tiếp của các tổ
chức này là bảo vệ quyền lợi kinh tế của người nông dân. Nhưng đối
tượng tranh đấu không dễ nhìn thấy như đối với một nghiệp đoàn công
nhân. Trong trường hợp người nông dân, phải đặt vấn đề bảo vệ quyền
lợi một cách rộng rãi và thiết thực, bảo vệ đối với thiên nhiên, đối
với thị trường nông phẩm. Nhiệm vụ của tổ chức là huy động nông dân
thực hiện nhiều công tác có lợi cho toàn thể các phần tử, đào kinh,
đắp đường, xây cầu và xẻ cống. Đối với thị trường nông phẩm, một sự
bảo vệ hiệu quả chỉ có thể thực hiện được bằng những biện pháp kinh
tế, trừ nạn cho vay nặng lãi, tích trữ nông phẩm và tiêu thụ đúng
lúc.
Vì những điều kiện về mục đích và nhiệm vụ trên đây,
hình thức của tổ chức quần chúng nông dân phải là hình thức của một
hợp tác xã nông nghiệp sơ đẳng và đa nhiệm.
Sơ đẳng vừa có
nghĩa là đơn vị hợp tác xã nhỏ nhất, vừa có nghĩa là cơ cấu của tổ
chức đã được giản dị hóa đến mức tối đa, để chấp nhận một sự điều
khiển của chính những đoàn viên nông dân.
Hệ thống tổ chức,
đương nhiên là một hệ thống địa dư.
Trách nhiệm tổ
chức
Chúng ta đã thấy rằng, trong một chế độ Dân Chủ
pháp trị, trách nhiệm tổ chức, điều khiển và quản trị của các tổ
chức quần chúng phải thuộc về sáng kiến tư nhân. Và chúng ta cũng đã
thấy rằng, nếu nguyên tắc trên không được tôn trọng, thì hậu quả sẽ
là sự thất bại trong công cuộc tổ chức quần chúng.
Tuy nhiên,
trong một quốc gia kém mở mang như quốc gia Việt Nam, ý thức cộng
đồng còn thấp kém và kinh nghiệm kỹ thuật tổ chức, điều khiển và
quản trị cũng không dồi dào. Trong trường hợp đó, chính quyền có
nhiệm vụ hướng dẫn sự tổ chức và nhiệm vụ hướng dẫn sự đào tạo các
cán bộ điều khiển và quản trị. Tuy nhiên, sự phân biệt cần phải được
minh định giữa nhiệm vụ hướng dẫn và nhiệm vụ trực tiếp phụ trách
của chính quyền như trong một chế độ độc tài Đảng trị, nếu chính
quyền muốn bảo đảm sự thành công trong công cuộc tổ chức quần chúng.
Trong phạm vi các tổ chức quần chúng công nhân, Việt Nam đã có
một cái vốn đáng kể, các nghiệp đoàn đã có và với cái khối kinh
nghiệm sẵn có, sự phát triển trong tương lai cũng được bảo đảm.
Các tổ chức quần chúng nông dân của chúng ta rất là phôi thai.
Nhưng cái vốn của chúng ta trong khu vực tổ chức quần chúng công
nhân có thể sử dụng được một cách hữu hiệu trong khu vực tổ chức
quần chúng nông dân. Các kinh nghiệm lãnh đạo, tổ chức, điều khiển
và quản trị của hệ thống nghiệp đoàn sẽ góp một phần quyết định vào
công cuộc tổ chức quần chúng nông thôn. Vì vậy cho nên, trong trường
hợp của chúng ta, trách nhiệm tổ chức quần chúng nông thôn là trách
nhiệm của hệ thống tổ chức nghiệp đoàn sẵn có. Nhưng ngoài lý do của
cái vốn phương tiện kể trên, còn có lý do của sự liên hệ mật thiết
giữa hai loại tổ chức quần chúng, đối với công cuộc biến đổi người
nông dân thành công nhân trong khuôn khổ công cuộc phát triển toàn
diện của dân tộc.
Lĩnh vực kinh tế – quyền sở hữu
Trong đoạn dưới đây, chúng ta sẽ phân tích một thái độ kinh tế
thích nghi, một mặt với các sự kiện lịch sử mà chúng ta đã trình bày
trong các phần trên, một mặt với thái độ chính trị mà chúng ta đã
lựa chọn.
Chúng ta sẽ không nêu lên và bênh vực một thuyết
kinh tế nào hết. Và chúng ta cũng sẽ tự ý không phê bình và nhận xét
về một thuyết kinh tế nào hết. Dưới đây chúng ta chỉ nhận định xem
hoàn cảnh lịch sử của chúng ta trong giai đoạn này, những vấn đề mà
dân tộc chúng ta cần phải giải quyết và thái độ chính trị mà chúng
ta đã lựa chọn, đòi hỏi những điều kiện gì trong lĩnh vực kinh tế.
Nếu cần, việc xây dựng một hệ thống kinh tế, thỏa mãn các điều kiện
trên, thuộc thẩm quyền của các nhà kinh tế học.
Chúng ta cũng
không nên quên rằng công cuộc Tây phương hóa, mà chúng ta phải thực
hiện, bao trùm các lĩnh vực của đời sống quốc gia. Và chúng ta cũng
phải thực hiện công cuộc Tây phương hóa trong lĩnh vực kinh tế.
Trong lĩnh vực này cũng như trong các lĩnh vực khác, chúng ta phải
tuyệt đối tránh một sự Tây phương hóa trên hình thức. Nghĩa là tránh
việc nhập cảng nguyên bản một hệ thống kinh tế của Âu Mỹ, và nắn ép
thực trạng của hoàn cảnh Việt Nam phải ăn khuôn vào đó, và tránh
việc dùng những danh từ kinh tế của Tây phương để chỉ danh những
hoạt động kinh tế không có gì là Tây phương của chúng ta.
Vấn
đề kinh tế phức tạp như tất cả các vấn đề liên quan đến đời sống. Và
môn kinh tế học, vì đó, không thể mang danh là một môn khoa học
chính xác, những định luật kinh tế cũng biến đổi thiên hình vạn
trạng như những thăng bằng hóa học trong cơ thể của con người, hay
những định luật về vị trí của các điện tử trong nguyên tử. Tuy
nhiên, nếu các nhà kinh tế học không tìm được những định luật bất
biến ấn định nguyên nhân và hậu quả của các sự kiện kinh tế, như một
nhà khoa học chính xác, thì họ cũng có thể, sau khi phân tích các sự
kiện của một trường hợp kinh tế, nhìn thấy và đoán trước hướng đi và
chiều biến chuyển trong tương lai của trường hợp đó.
Như thế,
trong công việc Tây phương hóa của chúng ta, trong lĩnh vực kinh tế,
chúng ta, trước hết, cần tìm hiểu những nguyên tắc ngự trị các hệ
thống kinh tế của Tây phương. Sau đó, tìm hiểu những điều kiện mà
hoàn cảnh lịch sử của chúng ta đòi hỏi, trong lĩnh vực kinh tế, và
sau cùng xây dựng một hệ thống kinh tế vừa tôn trọng các nguyên tắc,
vừa thỏa mãn các điều kiện địa phương của chúng ta.
Trước
hết, chúng ta chủ trương một thái độ chính trị, đặt trên căn bản bảo
vệ trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi của cá nhân và
quyền lợi của tập thể. Thái độ kinh tế phải thích nghi với thái độ
chính trị trên và làm hậu thuẫn cho nó.
Trong tất cả các yếu
tố, xác nhận quyền lợi cá nhân của các phần tử trong một tập thể,
thì quyền sở hữu là bảo đảm hữu hiệu và cụ thể nhất cho tự do cá
nhân. Có quyền sở hữu, cá nhân mới tự bảo vệ được khi bị tập thể áp
bức. Vì vậy mà, phủ nhận quyền sở hữu như dưới các chế độ độc tài
Cộng sản, có nghĩa là đặt cá nhân hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của
quốc gia một cách không bù đắp và phá vỡ trạng thái thăng bằng động
tiến giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi cộng đồng. Và cũng vì vậy
mà, trong chủ trương kinh tế của chúng ta, quyền sở hữu phải được
tuyệt đối tôn trọng.
Tuy nhiên, một mặt tình trạng vô tổ chức
của xã hội chúng ta, một mặt chế độ ưu đãi kẻ thống trị dưới thời kỳ
Pháp thuộc, đã tạo hoàn cảnh cho nhiều loại tư hữu trở nên to tát và
đe dọa quyền lợi tập thể.
Điền địa
Quyền sở hữu đối với đất, ruộng, trong xã hội vô tổ chức của chúng
ta, dễ lâm vào nhiều trường hợp lạm dụng, bởi vì về thuế vụ cũng như
về luật pháp, chúng ta không có những biện pháp để giới hạn diện
tích có thể là tư hữu của một cá nhân. Dưới chế độ quân chủ xưa,
thỉnh thoảng có một cuộc phân chia đất ruộng trở lại. Nhưng chẳng
bao lâu, bởi vì thiếu các yếu tố giới hạn, qua các cuộc mua bán, lần
lần đất ruộng lại tập trung vào tay một thiểu số. Tình trạng đâu lại
hoàn đó và sự tập trung trở thành một mối đe dọa cho tập thể, bởi vì
sự tập trung đất ruộng vào tay một thiểu số làm mất trạng thái thăng
bằng giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi của tập thể. Và trong
trường hợp đó, một cuộc phân chia mới trở thành khẩn thiết.
Hiện nay, sau thời kỳ Pháp thuộc, chúng ta ở vào một thời kỳ tập
trung như vậy. Vì thế cho nên, một cuộc cải cách điền địa trở thành
thiết yếu. Chẳng những thế, các luật về thuế vụ và về quyền sở hữu
phải được chỉnh đốn để ngăn ngừa một sự tập trung tái diễn.
Các biện pháp về luật pháp và về thuế vụ giới hạn quyền sở hữu, để
đề phòng các loại tư hữu trở thành những đe dọa cho quyền lợi tập
thể, rất cần thiết trong giai đoạn này, không phải chỉ để ngăn ngừa
một sự trập trung ruộng đất tái diễn. Vì ngoài tác dụng ấy ra, như
chúng ta sẽ thấy dưới đây, việc kỹ nghệ hóa, tự nó sẽ đòi hỏi một
cách còn khẩn yếu hơn nữa, những biện pháp giới hạn quyền tư hữu.
Kỹ nghệ
Kỹ nghệ hóa một xã hội có nghĩa
là nhập cảng vào xã hội đó những lực lượng sản xuất hùng mạnh, gấp
muôn lần những lực lượng sản xuất của một nền kinh tế nông nghiệp.
Vì vậy cho nên, sự chiếm hữu đối với các lực lượng sản xuất to
tát như vậy sẽ biến các sở hữu chủ thành những người nắm trong tay
những lực lượng có thể đe dọa quyền lợi của tập thể và an ninh của
quốc gia, nhưng mà, không đồng thời và một cách tương xứng, tăng gia
trách nhiệm của những người này đối với quốc gia. Sự tập trung các
phương tiện sản xuất nông nghiệp trong tay của một thiểu số đã là
một yếu tố làm mất trạng thái thăng bằng giữa quyền lợi cá nhân và
quyền lợi của tập thể. Sự tập trung những lực lượng sản xuất mạnh
gấp muôn lần, là một nguy cơ cho tập thể.
Cho nên trong xã
một hội kỹ nghệ hóa, nghĩa là đã sử dụng được những lực lượng sản
xuất hùng mạnh, công việc giới hạn quyền tư hữu là một bảo đảm cho
sự tồn tại của tập thể. Giới hạn bằng cách quốc hữu hóa những kỹ
nghệ trực tiếp liên quan đến quốc phòng, và những kỹ nghệ thiết yếu
cho đời sống hằng ngày của đa số nhân dân, ví dụ, kỹ nghệ sản xuất
dược phẩm. Sở hữu chủ các lực lượng sản xuất đó phải là tập thể
nghĩa là quốc gia, nghĩa là Chính Phủ.
Sự giới hạn quyền sở
hữu có thể thực hiện bằng những biện pháp thuế vụ, mục đích để cho
sự tập trung các phương tiện sản xuất trong tay một thiểu số, không
thành một mối lợi cám dỗ.
Tuy nhiên, quyền sở hữu phải được
tuyệt đối tôn trọng, bởi vì chỉ có quyền sở hữu là bảo đảm hữu hiệu
nhất cho sự tự do và quyền lợi cá nhân. Phủ nhận quyền sở hữu, như ở
các quốc gia Cộng sản, có nghĩa là hoàn toàn hy sinh cá nhân cho tập
thể, hay nói một cách khác phá hủy trạng thái động tiến trong xã
hội.
Đơn vị kinh tế
Sự kỹ nghệ hóa
một xã hội còn có thể làm mất trạng hái thăng bằng giữa quyền lợi cá
nhân và quyền lợi tập thể, một cách khác nữa.
Trong một xã
hội nông nghiệp, các lực lượng sản xuất tương đối không hùng hậu. Và
vì vậy, đơn vị hoạt động kinh tế thông thường là gia đình. Do đó sự
phân phối các lợi tức vật chất, qua một hệ thống tổ chức trên căn
bản gia đình, đủ bảo đảm cho sự công bình xã hội.
Nhưng đối
với một xã hội đã kỹ nghệ hóa, sự kiện lại khác hẳn. Trước hết sự kỹ
nghệ hóa xã hội có nghĩa là xã hội đã chế ngự được những lực lượng
sản xuất mà hiệu năng không thể lường được. Sức sản xuất của máy móc
vô tận, nghĩa là miễn có đủ nguyên liệu, thì máy móc có thể sản xuất
nhiều như thế nào cũng được. Mức độ sản xuất có thể thỏa mãn nhu cầu
của một làng, cũng như cho một tỉnh, hay cho khắp một xứ hay cho
khắp thế giới. Cho nên đơn vị hoạt động kinh tế đúng theo tầm mức
đó, không còn phải là một làng, một xứ, mà là tất cả một thế hệ trên
thế giới.
Dựa trên hiệu năng kinh tế này, chủ nghĩa Mác-xít
mới chủ trương một quốc tế chính trị để phù hợp với những lực lượng
sản xuất kỹ nghệ mà khoa học đã phát minh. Tuy nhiên, thực tế lịch
sử lại không ăn nhịp vào đó, vì hai lý do. Trước hết, đồng thời với
sự phát minh các lực lượng sản xuất kỹ nghệ trong lĩnh vực kinh tế,
Tây phương lại tìm lại được chủ nghĩa Dân Chủ. Ý thức dân chủ, khi
bành trướng và đánh đổ các chế độ quân chủ, đương nhiên tạo ra thực
trạng quốc gia chủ quyền, để thay thế cho tín hiệu tập hợp đã bị
tiêu diệt: chế độ quân chủ. Ở đây chúng ta không tự ý bàn đến chế độ
Dân Chủ và chế độ Quân Chủ. Sở dĩ chúng ta phải nhắc lại các sự kiện
lịch sử trên, là vì, thực trạng quốc gia chủ quyền, đương nhiên giới
hạn đơn vị hoạt động kinh tế trong phạm vi một quốc gia. Và như thế
thì trên lĩnh vực kinh tế, các lực lượng sản xuất kỹ nghệ và ý thức
dân chủ đã có những ảnh hưởng trái ngược nhau.
Lý do thứ hai
là các thành kiến về chủng tộc còn lâu mới tiêu mất trong tâm lý
nhân loại. Chỉ đến khi nào, toàn bộ nhân loại đã tiến lên đến một
trình độ văn minh cao hơn trình độ hiện nay rất nhiều, thì những
thành kiến về chủng tộc mới có thể không còn là những trở lực giới
hạn đơn vị hoạt động kinh tế của những lực lượng sản xuất kỹ nghệ.
Nhiều trăm thế hệ sẽ sinh và chết trước khi trình độ đó sẽ đến.
Vì vậy cho nên, mục tiêu mà lý thuyết Cộng sản tự đặt ra cho
mình, là tạo một chủ quyền chính trị quốc tế ăn khớp với khả năng
sản xuất của kỹ nghệ, chỉ là một ảo mộng, trước thực tế lịch sử.
Ngày nay, mặc dầu các tư bản quốc tế tìm bằng đủ mọi cách đả phá
các bức tường quốc gia chủ quyền, để thỏa mãn nhu cầu tạo ra một đơn
vị hoạt động kinh tế, gồm cả nhân loại và thích nghi với các lực
lượng sản xuất kỹ nghệ, các bức tường quốc gia chủ quyền vẫn đứng
vững. Cuối cùng thì lại chính các đơn vị hoạt động kinh tế phải tùy
thuộc biên giới của một quốc gia. Biên giới càng rộng, đơn vị hoạt
động kinh tế càng lớn và do đó càng mạnh. Biên giới càng nhỏ hẹp,
hoạt động kinh tế càng nhỏ và càng yếu. Đó là lý do vì sao các quốc
gia. Tây Âu đang nỗ lực tạo những thị trường hoạt động kinh tế
chung, cho tất cả các quốc gia trong vùng.
Để thực hiện một
đơn vị hoạt động kinh tế rộng lớn, nhiều quốc gia tự ý hợp thành
những liên bang. Điều này liên quan đến chúng ta rất nhiều. Sau này
chúng ta sẽ trở lại một cách tỉ mỉ hơn.
Trong thực tể, nếu vì
hai lý do trên mà đơn vị hoạt động kinh tế phải giới hạn trong phạm
vi nhỏ hẹp của một quốc gia, thì sự phân phối các lợi tức vật chất
cho các phần tử trong quốc gia, theo hệ thống tổ chức trên căn bản
gia đình, không còn đủ bảo đảm cho sự công bình xã hội nữa.
Bởi vì đơn vị hoạt động kinh tế, mặc dù bị giới hạn trong phạm vi
quốc gia, vẫn vượt ra khỏi phạm vi gia đình, đơn vị hoạt động kinh
tế xưa. Cho nên để bảo đảm sự công bình xã hội, chính quốc gia,
nghĩa là chính phủ phải đảm đương công việc phân phối lợi tức vật
chất. Như thế có nghĩa là, trong thực tế, chính phủ phải quốc hữu
hóa nhiều ngành kỹ nghệ và kiểm soát nhiều ngành khác. Đồng thời,
nhiều sắc thuế sẽ được đặt ra, để bảo đảm sự phân phối tài sản của
quốc gia, trên nguyên tắc công bình xã hội.
Đã như
thế thì, các đoạn trên đây đã nêu lên hai sự kiện chính:
1. Quyền sở hữu phải được tuyệt đối tôn trọng để bảo đảm quyền
lợi và tự do của cá nhân.
2. Quyền sở hữu phải được giới hạn
bằng những biện pháp luật pháp và thuế vụ để bảo đảm công bằng xã
hội và quyền lợi của tập thể.
Kinh tế chỉ huy
Công cuộc kỹ nghệ hóa, như đoạn trên đây vừa chỉ rõ, tự nó mang
đến hai hậu quả. Trước hết là sự kiểm soát của tập thể đối với các
lực lượng sản xuất to tát và hùng hậu, bảo vệ trạng thái thăng bằng
giữa quyền lợi của tập thể và quyền lợi của cá nhân. Các kỹ nghệ
quốc phòng, các kỹ nghệ có lợi ích công cộng phải đặt dưới sự trực
tiếp chỉ huy của chính phủ.
Hậu quả thứ hai là hệ thống phân
phối tự nhiên của xã hội, dựa trên căn bản tổ chức gia đình, không
còn đủ bảo đảm công bình xã hội nữa. Sự phân phối phải do tập thể
đảm nhiệm, và qua trung gian các cơ quan an ninh xã hội, các lợi tức
quốc gia được phân chia, một cách đồng đều hơn, cho mọi phần tử của
tập thể. Riêng hai sự kiện trên cũng đủ để chứng minh rằng một nền
kinh tế kỹ nghệ đúng nghĩa phải được hướng dẫn, phải được chỉ huy.
Đối với một quốc gia đang tìm phát triển, nền kinh tế lại cn
cn phải được chỉ huy hơn nữa, vì những lý do dưới đây.
Công
cuộc kỹ nghệ hóa là một phần chính yếu trong công cuộc phát triển
kinh tế. Công cuộc phát triển kinh tế chính nó là một phần trong
công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa.
Công
cuộc phát triển dân tộc như chúng ta đã biết là một sự nghiệp vĩ đại
chỉ có thể thực hiện được với sự tham gia của toàn dân, theo một
chương trình phân minh bao trùm các lĩnh vực của đời sống quốc gia
và gồm nhiều giai đoạn tiến triển. Thực hiện một chương trình như
vậy có nghĩa là phải chấp thuận một sự lãnh đạo có đường hướng và
một sự chỉ huy chặt chẽ.
Trong lĩnh vực kinh tế, sự khai
triển phải thực hiện bằng cách biến đổi nền kinh tế nông nghiệp hiện
tại thành một nền kinh tế kỹ nghệ. Muốn như vậy điều kiện cốt yếu là
phải trang bị những phương tiện sản xuất kỹ nghệ cho quốc gia, nghĩa
là những máy móc sản xuất và những nguồn năng lực để làm chạy các
máy móc nói trên.
Để mua các máy móc, một phần số vốn xuất ra
do viện trợ của các nước. Nhưng phần lớn số vốn phải do chính các
quốc gia muốn khai triển kinh tế xuất ra. Và số vốn này, như chúng
ta đã thấy, truất ở lợi tức hằng năm của quốc gia, nghĩa là mỗi phần
tử trong tập thể phải truất ra một bách phân, trong số tiền mình làm
ra được hằng năm, để bỏ vào quỹ kỹ nghệ hóa, thay vì mang đi tiêu
thụ.
Hơn nữa, trong tình trạng hiện hữu, các quốc gia có một
nền kinh tế nông nghiệp, như chúng ta, đã có một lợi tức quốc gia
rất thấp vì các lực lượng sản xuất nông nghiệp của các quốc gia đó
rất yếu. Lợi tức kém, mức sống thấp, nay lại phải truất ra một bách
phân trong quỹ tiêu thụ để bỏ vào quỹ kỹ nghệ hóa. Như thế, sự đóng
góp vào quỹ kỹ nghệ hóa chỉ có thể thực hiện bằng cách mỗi người
phải nỗ lực làm việc nhiều hơn để cho mức sản xuất cao hơn và lợi
tức của quốc gia gia tăng, mà mức sống của toàn dân không vì đó mà
sụt dưới một mức độ có thể chấp nhận được.
Một công cuộc nỗ
lực sản xuất kinh tế như vậy cố nhiên là phải thực hiện theo một
chương trình, nghĩa là phải có sự chỉ huy.
Sau hết, trong một
công cuộc kỹ nghệ hóa, các lĩnh vực kỹ nghệ không thể đồng phát
triển cùng một lúc và với một cường độ ngang hàng nhau. Trước hết,
phương tiện không đủ, để có thể thực hiện công cuộc kỹ nghệ hóa
trong tất cả các lĩnh vực, cùng một lúc. Đã như vậy thì, một thứ tự
ưu tiên cần phải được đặt ra dựa trên những nhu cầu của tập thể.
Và chúng ta đã thấy rằng những nhu cầu của tập thể do hoàn cảnh
lịch sử, vị trí địa dư và địa vị quốc tế của quốc gia chi phối. Nói
một cách khác, thứ tự ưu tiên trong các lĩnh vực kỹ nghệ phải được
nghiên cứu tỉ mỉ và sau đó tôn trọng một cách trung thành. Như vậy
thì công cuộc kỹ nghệ hóa phải được thực hiện theo một chương trình
cố định rõ ràng, và như vậy là phải có sự chỉ huy.
Các trường
hợp đã được phân tích trên đây đều chứng minh rằng nền kinh tế của
quốc gia, đang tìm phát triển, phải là một nền kinh tế chỉ huy.
Điều mà chúng ta cần đặc biệt chú ý, là chúng ta đã đi đến kết
luận trên đây, không phải sau khi đã phân tích các thuyết kinh tế,
đã cân nhắc lợi và hại của mỗi thuyết, và cuối cùng đã chọn một
thuyết tối tân và hoàn toàn nhất. Chúng ta cũng không làm một tổng
hợp các thuyết kinh tế để dung hòa các chủ trương và rút các tinh
túy của nhiều thuyết để làm một toàn bộ. Chúng ta đã không làm cái
công việc lý thuyết đó, và chúng ta đã tự ý đặt mình ra ngoài vòng
một sự phân tích các thuyết kinh tế vì các công việc ấy, thuộc thẩm
quyền các nhà kinh tế học.
Chúng ta chỉ có phân tích các sự
kiện thực tế của lịch sử đang chi phối trường hợp của chúng ta. Và
chính các sự kiện đó đã tạo ra cho chúng ta những điều kiện và những
nhu cầu trong lĩnh vực kinh tế mà chúng ta cần phải thỏa mãn.
Thái độ của chúng ta ở trong lĩnh vực này, cũng như là thái độ
của chúng ta đối với vấn đề chính của dân tộc, trong tập sách này.
Thái độ đó có thể không thỏa mãn một lý thuyết, nhưng chắc chắn là
thiết thực và sát với sự kiện cụ thể của lịch sử.
Dưới đây
chúng ta trở lại một lần nữa về vấn đề kinh tế chỉ huy. Sự chỉ huy
đã là một sự hiển nhiên, chúng ta cần phải nhận thức rõ ràng tính
chất của sự chỉ huy và ấn định phân minh giữa giới hạn của sự chỉ
huy, mà chúng ta chủ trương.
Tính chất và giới hạn
của sự chỉ huy
Trước hết, sự chỉ huy của chúng ta
chủ trương trong lĩnh vực kinh tế, sẽ do thái độ chính trị của chúng
ta định nghĩa và giới hạn. Trong lĩnh vực chính trị, chúng ta đã
chứng minh vì sao trong hoàn cảnh lịch sử và vị trí địa dư của chúng
ta, một chủ trương độc tài không thể áp dụng được, và chỉ mang đến
những kết quả thảm hại cho dân tộc.
Vì thái độ chính trị đó
mà sự chỉ huy của chúng ta chủ trương trong lĩnh vực kinh tế, cũng
như sự hướng dẫn của chúng ta, trong lĩnh vực tổ chức quần chúng,
không thể đi đến mức độ hoàn toàn cưỡng bách được. Vì thái độ chính
trị của chúng ta, nên chúng ta không làm sao sử dụng được những biện
pháp độc tài để khắc phục cho kỳ được, sự tham gia thật sự nhưng
cưỡng bách của nhân dân vào các công cuộc của quốc gia. Đã không
khắc phục được sự tham gia của nhân dân bằng những phương pháp hoàn
toàn cưỡng bách, thì chúng ta phải khắc phục sự tự ý tham gia của
nhân dân. Cũng như trong lĩnh vực tổ chức quần chúng, nếu quần chúng
không tham gia thì các tổ chức quần chúng không còn lý do tồn tại
nữa. Trong lĩnh vực kinh tế, nếu không có sự tham gia của nhân dân,
bằng sáng kiến, bằng tư bản và bằng kỹ thuật kinh doanh thì kinh tế
không phát triển được.
Nhận xét trên đây ấn định rõ ràng giới
hạn của sự chỉ huy mà chúng ta chủ trương. Sự chỉ huy kinh tế của
chúng ta sẽ ở trong giới hạn lập các kế hoạch phát triển kinh tế,
phân loại các khu vực cần được quốc hữu hóa, tạo hoàn cảnh thuận
lợi, trang bị phương tiện và kiểm soát. Công việc điều khiển và
khuếch trương các doanh nghiệp trong các lĩnh vực không quốc hữu
hóa, phải được giao hoàn toàn cho sáng kiến, kỹ thuật và tư bản của
tư nhân.
Sự chỉ huy của chúng ta chủ trương trong lĩnh vực
kinh tế, không thể vượt ra ngoài giới hạn ấn định trên đây được.
Bởi vì, nếu chúng ta vượt ra ngoài phạm vi đó, chúng ta sẽ không
có sự tham gia của nhân dân, trong các công cuộc dự tính của quốc
gia, trong lĩnh vực kinh tế, ngoại trừ một sự tham gia cưỡng bách.
Nhưng thái độ chính trị mà chúng ta đã lựa chọn, không cho phép
chúng ta sử dụng những biện pháp khả dĩ để khắc phục được một sự
tham gia cưỡng bách như vậy.
Tóm lại, trong lĩnh vực kinh tế,
các chương trình phát triển phải được đặt dưới sự chỉ huy của chính
phủ, ngoài những khu vực sẽ do chính phủ trực tiếp phụ trách. Tính
cách cần thiết của sự chỉ huy do các yếu tố dưới đây tạo ra:
1. Phòng ngừa một sự tập trung trong tay một thiểu số, những phương
tiện sản xuất to tát có thể trở thành một mối đe dọa cho tập thể.
2. Bảo đảm một sự phân phối lợi tức quốc gia một cách công bình
giữa các phần tử trong tập thể.
3. Bảo đảm một sự gây vốn cho
quỹ kỹ nghệ hóa quốc gia.
4. Bảo đảm một công cuộc kỹ nghệ
hóa đúng nhu cầu của tập thể.
Nhưng sự chỉ huy phải được giới
hạn trong phạm vi ấn định bởi thái độ chính trị của chúng ta. Và vì
thái độ này mà chúng ta không thể sử dụng được nhiều biện pháp khả
dĩ khắc phục được sự tham gia cưỡng bách của nhân dân vào các công
cuộc dự tính của tập thể...
Trên đây nhiều lần chúng ta đã đề
cập đến những khu vực, trong đó các công cuộc phát triển kinh tế
phải được quốc hữu hóa.
Lý do chính yếu của sự quốc hữu hóa
một ngành kỹ nghệ là đề phòng sự kiện những phương tiện sản xuất của
ngành kỹ nghệ đó, tập trung trong tay một thiểu số, biến thành một
mối đe dọa cho tập thể.
Hiểu một cách hẹp thì tất cả các kỹ
nghệ quốc phòng, hay trực tiếp liên hệ đến quốc phòng, phải là những
kỹ nghệ được đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của quốc gia.
Trong các loại thứ nhất, có những xí nghiệp về năng lực, những
xí nghiệp kỹ nghệ nặng, những xí nghiệp về nguyên tử và những xí
nghiệp về điện tử, ngoại trừ những máy điện tử thông dụng. Các xí
nghiệp chuyên chở đại quy mô thuộc vào loại thứ hai. Tuy nhiên, tính
cách liên hệ đến quốc phòng thiết yếu nhiều hay ít, biến đổi tùy
theo tình hình chính trị. Đối với các loại thứ nhất, chính phủ có
nhiệm vụ trực tiếp điều khiển thường xuyên và liên tục. Đối với các
loại thứ hai, sự trực tiếp điều khiển chỉ là giai đoạn.
Hiểu
một cách rộng, sự đe dọa đối với tập thể chẳng cứ trong phạm vi quân
sự, quốc phòng mới có. Khi nào có sự tập trung trong tay một thiểu
số những phương tiện sản xuất liên quan đến đời sống của nhiều
người, thì có một trường hợp đe dọa cho tập thể. Vì vậy cho nên,
việc quốc hữu hóa phải lan rộng đến các khu vực kỹ nghệ cung cấp cho
những nhu cầu thông thường những thiết yếu cho đa số. Ví dụ, các xí
nghiệp sản xuất dược phẩm và các xí nghiệp sản xuất vải sợi. Tuy
nhiên trong những trường hợp này, sự quốc hữu hóa không cố định và
thường xuyên. Nguyên tắc cần phải được tôn trọng là sự thăng bằng
giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi tập thể lúc nào cũng phải được
giữ vững. Nhưng lúc nào những nhu cầu sơ đẳng của đa số chưa được
thỏa mãn, thì kỹ nghệ liên hệ phải được đặt dưới sự trực tiếp điều
khiển của chính quyền. Trái lại, lúc nào vì mức sản xuất đã đủ dồi
dào để bảo đảm cho nhu cầu của tập thể, những kỹ nghệ liên hệ có thể
bằng nhiều hình thức tài chính, trả về cho phạm vi tư nhân.
Một thái độ kinh tế như thái độ chúng ta chủ trương trên đây, phức
tạp và khó thực hiện hơn là thái độ một chiều: hoặc hoàn toàn giao
cho sáng kiến tư nhân hay hoàn toàn quốc hữu hóa. Thái độ chúng ta
chủ trương, không phải là một thái độ dung hòa giữa hai thái đ cực
đoan, mà là một trạng thái thăng bằng động tiến giữa hai yếu tố đối
chọi: Quyền lợi cá nhân và quyền lợi của tập thể. Mt thái độ dung
hòa là một thái độ tỉnh, nhu nhược và không chính xác; giữ vững một
trạng thái thăng bằng động tiến là một cố gắng không ngừng, để tìm
cho đúng vị trí thăng bằng lúc nào cũng xê dịch và lúc nào cũng thay
đổi.
Và chính vì thế mà thái độ kinh tế của chúng ta phức
tạp.
Nhưng cũng chính vì thế mà thực hiện được sự thăng bằng
động tiến là tìm được lối sống.
Khối kinh tế
Trong một xã hội, sống trên một nền kinh tế nông nghiệp, đơn vị
hoạt động kinh tế đương nhiên là gia đình.
Trong một xã hội
sống trên một nền kinh tế kỹ nghệ, đơn vị hoạt động kinh tế vô định.
Những lực lượng sản xuất kỹ nghệ hùng hậu cho đến đỗi nhu cầu của
khắp nhân loại có thể thỏa mãn được. Như vậy thì đáng lý ra đơn vị
hoạt động kinh tế của một xã hội đã kỹ nghệ hóa là tất cả nhân loại.
Nhưng, như chúng ta đã biết, đồng thời với sự bành trướng của
các lực lượng sản xuất kỹ nghệ, ý thức chủ quyền quốc gia, xây dựng
trên tinh thần dân tộc, cũng trưởng thành một cách mạnh mẽ không
kém. Xu hướng của các lực lượng sản xuất kỹ nghệ là bỏ hết các ranh
giới địa phương để tạo ra một đơn vị hoạt động kinh tế bao trùm hết
nhân loại. Ngược lại xu hướng của ý thức chủ quyền quốc gia là đặt
những ranh giới bất khả xâm phạm phân chia nhân loại thành những
khối người cùng ngôn ngữ, một di sản tinh thần và một quyền lợi. Đối
với nhân loại ngày nay, ý thức chủ quyền quốc gia là một lực lượng
tinh thần mà khả năng không kém lực lượng sản xuất kỹ nghệ, trên
phương diện vật chất. Hai lực lượng đó hoạt động theo những chiều
hướng trái ngược với nhau.
Cho đến ngày nay, xét theo các sự
kiện lịch sử, thì lực lượng tinh thần của ý thức chủ quyền quốc gia
vẫn thắng thế.
Vì vậy cho nên, trên khắp thế giới, các đơn vị
hoạt động kinh tế phải uốn mình theo các ranh giới lãnh thổ quốc
gia. Như thế nếu ranh giới các quốc gia càng rộng, thì tầm hoạt động
kinh tế càng thích nghi với bản chất các lực lượng sản xuất kỹ nghệ.
Ngược lại nếu ranh giới các quốc gia càng hẹp thì tầm hoạt động càng
đi ngược với bản chất và các lực lượng sản xuất càng mất hiệu lực.
Vì lý do trên đây mà ngày nay chúng ta mục đích hai việc. Trước
hết các khối kinh tế hùng mạnh là các quốc gia kiểm soát một lãnh
thổ rộng lớn và một dân số trù mật, và đương nhiên có một đơn vị
hoạt động kinh tế vừa tầm cho các lực lượng sản xuất kỹ nghệ. Các đế
quốc sau khi trả độc lập cho các dân tộc bị trị, đương nhiên phải
thu hẹp phạm vi vùng kiểm soát chính trị của mình. Nhưng đồng thời,
các đế quốc cũ tìm đủ mọi cách để duy trì một phạm vi hoạt động kinh
tế rộng lớn, dưới hình thức những Liên Hiệp, hoặc những chương trình
viện trợ hỗ tương.
Một mặt khác, các quốc gia có lãnh thổ
nhỏ và dân số ít cũng tìm cách liên kết với nhau, dưới những hình
thức cộng đồng, để có thể tạo ra một đơn vị hoạt động kinh tế rộng
lớn chung, thích hợp với bản chất các lực lượng sản xuất kỹ nghệ,
đồng thời vẫn tôn trọng ý thức chủ quyền quốc gia mà lịch sử đã thừa
nhận.
Giải pháp sau này là giải pháp mà các quốc gia nhỏ và
yếu như chúng ta hiện nay, cần phải áp dụng. Những thành kiến về
chủng tộc, sự bất đồng ngôn ngữ, những di sản tinh thần chung, sẽ
còn duy trì ý thức chủ quyền quốc gia trong nhiều giai đoạn lịch sử.
Và sự hợp nhất về chính trị, của dân tộc ở chung trong một vùng hoạt
động kinh tế, sẽ còn phải trải qua rất nhiều thế hệ mới có thể thực
hiện được.
Ngược lại, một sự hợp tác về kinh tế với hình thức
một Liên bang hay một cộng đồng, trong đó chủ quyền của mỗi quốc gia
vẫn được tôn trọng, trong phạm vi chính trị, là điều kiện thiết yếu
để tạo những đơn vị hoạt động kinh tế có thể đứng vững được.
Sự liên kết các quốc gia, thành một vùng kinh tế thịnh vượng chung
là một việc không thể phủ nhận. Nhưng chúng ta không nên quên rằng,
lý do thiết yếu nhất để bênh vực sự liên kết nói đây là để tạo ra
một đơn vị hoạt động kinh tế thích nghi với các lực lượng sản xuất
kỹ nghệ. Như vậy thì, sự liên kết chỉ cần thiết khi nào các lực
lượng sản xuất kỹ nghệ đã hoạt động. Nếu liên kết được để thành lập
và thực hiện một chương trình sản xuất kỹ nghệ chung, thì lại còn
quý hơn nữa. Nhưng với tinh thần dân tộc rất cao và ý thức chủ quyền
quốc gia rất dễ đụng chạm của các nước mới thâu hồi độc lập, việc
liên kết trước khi các lực lượng sản xuất hoạt động cụ thể, khó mà
thực hiện được. Do đó, vấn đề kỹ nghệ hóa riêng cho từng quốc gia,
vẫn là vấn đề tiên quyết cho mọi sự liên kết thành khối kinh tế
thịnh vượng chung cho các quốc gia ở cùng một vùng. Nhưng sự liên
kết là một yếu tố quyết định cho công cuộc phát triển kinh tế, vừa
cho chung tất cả vùng, vừa cho từng quốc gia một trong vùng.
Lĩnh vực văn hóa
Văn minh Tây phương và đặc tính dân
tộc
Công cuộc Tây phương hóa có hướng dẫn của một
cộng đồng dân tộc bắt buộc phải trải qua hai giai đoạn. Trong giai
đoạn thứ nhất, các nỗ lực đều hướng vào sự hấp thụ các kỹ thuật Tây
phương. Giai đoạn thứ hai bắt đầu, khi nào cộng đồng đã chế ngự được
các kỹ thuật đã hấp thụ và dùng nó làm những dụng cụ sáng tạo. Lúc
bấy giờ, các đặc tính dân tộc sẽ xuất hiện trong các sáng tạo.
Trong giai đoạn thứ nhất, không có sự tranh giành ảnh hưởng và
sự xung đột giữa đặc tính dân tộc và đặc tính văn minh Tây phương,
bởi hai lẽ:
Nếu đã nhất quyết Tây phương hóa, thì như chúng
ta đã biết, điều cần thiết là phải sẵn sàng hấp thụ tất cả, một cách
không đắn đo, dù những điều thu thập không thích hợp với dân tộc.
Một thái độ rõ ràng như vậy, tự nó đã bao hàm ý chí không chống lại
những điểm không hợp với dân tộc tính.
Chỉ trong những công
cuộc Tây phương hóa không được hướng dẫn, sự xung đột nói trên mới
gay go và làm trở ngại công cuộc Tây phương hóa. Trái lại, trong một
công cuộc Tây phương hóa có hướng dẫn, người chủ trương công cuộc
đó, khi thấy sự xung đột vừa manh nha, đã phải tìm cách làm chấm dứt
ngay.
Trái lại, trong giai đoạn thứ hai, dân tộc tính hết bị
kìm hãm trong sự ràng buộc của nhu cầu hấp thụ, đương nhiên xuất
hiện mạnh mẽ trong các sáng tạo. Nhưng các sáng tạo sẽ được thực
hiện với những dụng cụ của Tây phương, đã được chế ngự.
Tinh thần dân tộc nằm trong sự sáng tạo.
Tinh thần văn minh Tây phương nằm trong dụng cụ sáng tạo.
Vì vậy cho nên, sự tranh giành ảnh hưởng, và do đó sự xung đột
giữa hai tinh thần không làm sao tránh được.
Trong bất cứ
lĩnh vục nào, chính trị, quân sự, kỹ thuật, kinh tế, xã hội hay văn
hóa, một cộng đồng dân tộc đều có thể vượt qua giai đoạn thứ nhất và
đạt đến giai đoạn thứ hai của công cuộc Tây phương hóa.
Tuy
nhiên, kinh nghiệm rút ở các quốc gia đã thâu thập được nhiều kết
quả trong công cuộc Tây phương hóa, lại chứng tỏ rằng, chỉ trong
lĩnh vực văn hóa mới thường xảy ra cuộc xung đột nói trên giữa đặc
tính dân tộc và đặc tính của văn minh Tây phương, nằm trong các dụng
cụ sáng tạo, vẫn chiếm ưu thế. Nguyên nhân của sự kiện này là vì,
chỉ trong lĩnh vực văn hóa, phần lớn các dân tộc đang thực hiện công
cuộc Tây phương hóa, mới có một di sản gồm nhiều sáng tạo mà giá trị
không kém hay hơn, các sáng tạo cùng loại của Tây phương.
Trong phần đầu của quyển sách này đã có dẫn một bằng chứng khác về
sự xung đột giữa đặc tính dân tộc và đặc tính văn minh Tây phương
trong lĩnh vực văn hóa. Hiện nay trong lĩnh vực văn hóa, thế giới
vẫn chia ra làm năm khu vực, như trước khi Tây phương chinh phục thế
giới. Trong khi đó, ví dụ trong lĩnh vực kỹ thuật hay kinh tế, thì
Tây phương đã đặt bá quyền của họ.
Vì những lý do vừa trình
bày trên đây, nên trong các phần liên quan đến những lĩnh vực chính
trị và kinh tế, chúng ta không có bàn đến vấn đề sáng tạo và vấn đề
xung đột giữa dân tộc tính và đặc tính văn minh Tây phương.
Ngược lại, trong các đoạn dưới đây, liên quan đến lĩnh vực văn hóa,
hai vấn đề trên sẽ chiếm một phần quan trọng.
Cũng vì những
lý do vừa trình bày trên, các đoạn dưới đây liên quan đến lĩnh vực
văn hóa, sẽ được chia làm hai phần. Phần thứ nhất gồm các vấn đề văn
hóa trong giai đoạn hấp thụ. Phần thứ hai gồm các vấn đề sáng tạo
văn hóa.
Mặc dù sẽ đề cập đến các khía cạnh của một tổ chức
giáo dục, theo nghĩa thường dùng, các đoạn dưới đây hoàn toàn không
phải là để phác họa một tổ chức giáo dục, công việc đó thuộc thẩm
quyền của các nhà mô phạm chuyên môn.
Nhưng cũng như trong
các phần liên quan đến lĩnh vực chính trị và kinh tế, trong phần
liên quan đến lĩnh vực văn hóa dưới đây sẽ phân tích các nhu cầu và
điều kiện mà một tổ chức giáo dục cần phải thỏa mãn, trước thử thách
Tây phương hóa của dân tộc.
Phần hấp thụ
Trước tiên, tác dụng của công cuộc Tây phương hóa là để chống
lại sự xâm lăng của Tây phương. Nhưng lần hồi sự diễn tiến và tính
cách phức tạp của công cuộc Tây phương hóa đã biến mục tiêu sơ đẳng
của buổi đầu thành một mục tiêu khác, sâu rộng và bao quát hơn: Phát
triển toàn thể cộng đồng dân tộc, trong mọi lĩnh vực của đời sống,
bằng cách hấp thụ và chế ngự các kỹ thuật Tây phương.
Kỹ thuật Tây phương
Kỹ thuật của Tây phương
không phải như đa số thường hiểu là những cái máy móc tinh vi, nhỏ
lớn hay khổng lồ, mà họ sáng tạo, biết sử dụng và khai thác hết và
vừa đúng khả năng. Tất cả các máy móc của Tây phương, từ cái bóng
đèn điện nhỏ bé cho đến các chiến hạm vượt trùng dương và các trung
tâm kỹ nghệ khổng lồ mà cả thế giới đều thán phục, đều là những sản
phẩm của kỹ thuật Tây phương.
Kỹ thuật Tây phương là một lề
lối, đến với vấn đề tìm hiểu vấn đề, giải quyết vấn đề và tổ chức
vấn đề, mà tinh thần chính xác của văn minh Tây phương đã sáng tạo.
Tây phương đã dùng lề lối đó, nghĩa là kỹ thuật đó, để tìm hiểu và
chế ngự các vấn đề. Họ đã dùng cái lợi khí sắc bén đó để giải phẫu,
chẳng những vũ trụ bao quanh chúng ta, mà cả vũ trụ tâm linh ở ngay
trong người của chúng ta. Chớ không phải như nhiều người lầm tưởng,
kỹ thuật của họ chỉ soi thấu được vũ trụ vật chất, và nếu muốn soi
thấu vũ trụ tâm linh, phải kêu gọi đến trực giác của Đông phương.
Nói một cách khác, thường thường văn minh Tây phương được xem là
duy vật và minh văn Đông phương là duy tâm.
Không đi sâu vào
vấn đề, và để tôn trọng lập trường không đứng vào vị trí lý thuyết,
chúng ta sẽ không bàn đến vấn đề duy tâm hay duy vật. Chúng ta chỉ
biết rằng, suy luận trên thường thường được dùng để che giấu một sự
không nhìn nhận chiến bại của Đông phương. Chúng ta không thắng Tây
phương được trong phạm vi vật chất, một phạm vi cụ thể và dễ thấy,
nên thường hay tự an ủi rằng, trong phạm vi tâm linh, một phạm vi
trừu tượng và khó thấy, kỹ thuật của chúng ta hơn. Đó cũng là phản
ứng của tự ti mặc cảm, và của sự không dám nhìn sự thật. Vả lại, kỹ
thuật của Tây phương và trực giác của Đông phương không cùng một
loại lợi khí. Kỹ thuật của Tây phương có thể truyền lại được từ một
người cho nhiều người khác, trái lại trực giác không thể truyền
được. Đặc tính đại chúng đó là một. ưu thế đáng sợ của kỹ thuật Tây
phương, bởi vì nhân thế, kỹ thuật Tây phương có thể trở thành sức
mạnh, trong khi trực giác lúc nào cũng giam mình trong phạm vi tuyển
lựa cá nhân.
Lợi khí giải phẫu của Tây phương, tức là kỹ
thuật của họ, thành công trong phạm vi vật chất nhiều hơn trong phạm
vi vũ trụ tâm linh. Lý do ở chỗ vũ trụ vật chất vì tính chất cụ thể
của nó nên dễ được soi thấu, còn vũ trụ tâm linh vì tính chất trừu
tượng của nó, nên không dễ khảo sát, dù với một lợi khí nào. Bằng
chứng là trên địa hạt tâm linh, sự thành công của Tây phương suy cho
tận cùng, vẫn thắng thế hơn sự thành công của Đông phương; Nhận xét
quần chúng của đôi bên, ẩn tượng càng rõ rệt là tổng số người trong
quần chúng Tây phương đạt đến mức độ quang tỉnh trong tâm hồn, vẫn
cao hơn tổng số tương đương trong quần chúng Đông phương.
Hấp thụ kỹ thuật Tây phương
Kỹ thuật Tây
phương tự nó là một ý thức rất bao quát và phong phú. Như thế thì,
việc hấp thụ kỹ thuật Tây phương là một công cuộc to lớn và khó
khăn.
Các quốc gia đã vượt qua các giai đoạn Tây phương hóa,
đã để lại một số kinh nghiệm liên quan đến các giai đoạn của công
cuộc hấp thụ. Lẽ cố nhiên, công cuộc hấp thụ bao giờ cũng bắt đầu
trong những địa hạt kỹ thuật thực tế và giản dị và lần lần lan rộng
đến các địa hạt kỹ thuật càng ngày càng phức tạp và càng trừu tượng.
Lúc đầu thì tìm hiểu và ghi nhớ những sản phẩm của kỹ thuật Tây
phương, và tự nhiên không bận tâm đến những cái nguyên lý sâu xa của
nó. Công việc này phải để sau và dành cho số người đã đạt đến mức độ
chế ngự được kỹ thuật Tây phương.
Ngay từ lúc đầu, công cuộc
thu thập kỹ thuật Tây phương không nên giới hạn trong bất cứ một
phạm vi nào của đời sống. Trái lại, công cuộc thu thập kỹ thuật Tây
phương phải được thực hiện trong tất cả các địa hạt cùng một lúc:
chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội, quân sự và trong từng địa hạt,
tất cả các ngành phải được lưu ý tới. Ví dụ trong địa hạt khoa học
thì cũng trong một lúc, ngành căn bản là toán học phải được nghiên
cứu với tất cả các ngành liên hệ và phụ thuộc, như vật lý học, y
học, canh nông học, luật học, sử học, tâm ý học, v.v.
Và ngay
từ lúc đầu, công cuộc thu thập kỹ thuật Tây phương không nên đóng
khung trong một giới hạn nào. Trái lại, ngay từ lúc đầu, công cuộc
thu thập phải được quan niệm rộng rãi để ăn sâu vào đại chúng. Công
cuộc thu thập phải được quan niệm rộng rãi và mênh mông như hải
triều đang dâng lên.
Một quan niệm bao quát như vậy đương
nhiên bao hàm ý nghĩa là công cuộc thu thập, chẳng những phải gồm
tất cả các ngành của kỹ thuật Tây phương, mà ngay đến cả các địa hạt
thông thường và nhỏ nhặt của đời sống. Ví dụ làm sao sử dụng cho
đúng mức và khai thác cho hết khả năng phục vụ, những dụng cụ hết
sức tầm thường, mà đương nhiên chúng ta thâu nhận của Tây phương.
Làm sao sử dụng xà bông cho hợp lý và một cách tiết kiệm. Săn sóc và
gìn giữ một đôi giày như thế nào để giữ cho nó được tốt và bền. Quần
áo theo Tây phương phải được ăn vận làm sao, và gìn giữ các thứ hàng
vải, nhập cảng và nhân tạo, đòi hỏi những điều kiện gì, khác hơn
những điều kiện mà đại chúng đã quen biết, đối với sự gìn giữ các
hàng vải cổ truyền.
Sau hết công cuộc thâu thập kỹ thuật Tây
phương phải được liên tục và không bao giờ ngừng. Ngay đến khi cộng
đồng đang Tây phương hóa, đã đạt đến mức độ chế ngự được kỹ thuật
Tây phương và bắt đầu sáng tạo thì công cuộc thâu thập vẫn phải được
tiếp tục với một cái đà dũng mãnh như trước. Có lẽ lúc bấy giờ, nhờ
ở cái vốn đã thu thập được rồi, thì nỗ lực đòi hỏi ở cộng đồng không
lên đến mức cao độ như lúc đầu. Nhưng chính cũng nhờ đó, mà cái đà
thu thập có thể duy trì ở một cường độ dũng mãnh như trước hay hơn
trước. Và đây là một điều kiện vô cùng thiết yếu, bởi vì trong khi
chúng ta nỗ lực thâu thập kỹ thuật Tây phương, thì Tây phương không
lúc nào gián đoạn công cuộc càng ngày càng cải thiện kỹ thuật của họ
bằng những loại phát minh mới.
Như thế thì, trong công cuộc
thu thập kỹ thuật Tây phương, có hai công tác chính rất là rõ rệt.
Một mặt thâu nhận kỹ thuật Tây phương trong mọi lĩnh vực. Một mặt
phổ biến các kỹ thuật đã thâu nhận ra đại chúng.
Công tác thứ
nhất là trách nhiệm phần lớn của tổ chức giáo dục chính danh, công
tác thứ nhì là trách nhiệm của tổ chức giáo dục quần chúng.
Vấn đề chuyển ngữ
Công cuộc thu thập kỹ
thuật Tây phương đặt ra nhiều nhu cầu, trong đó, vấn đề chuyển ngữ
là một điểm rất quan trọng. Vấn đề này đã được mang ra, làm đề tài
thảo luận trong rất nhiều cơ hội. Chủ trương dùng ngoại ngữ cũng
được nhiều người tán thành như chủ trương dùng Việt ngữ.
Lấy
sinh ngữ nào để làm chuyển ngữ, trong các ngành giáo dục chính danh
và giáo dục quần chúng? Những người chủ trương nên lấy ngoại ngữ dựa
trên lập luận rằng, nếu muốn Tây phương hóa thì phải Tây phương hóa
cho đến nơi và phải rút cho hết cái tinh túy của Tây phương. Như vậy
chỉ có ngoại ngữ mới giúp chúng ta đạt mục đích đó: Việt ngữ không
đủ phong phú trong danh từ, và không đủ khả năng diễn tả các lý luận
khúc chiết và các tư tưởng trừu tượng siêu thoát. Nhưng những người
chủ trương như vậy quên rằng, một công cuộc thâu thập kỹ thuật Tây
phương như trên chỉ có thể thực hiện được cho một thiểu số của cộng
đồng, và đã như vậy thì, như chúng ta đã biết, sẽ không giải quyết
được vấn đề của cộng đồng.
Những người chủ trương lấy Việt
ngữ làm chuyển ngữ, lại lập luận rằng quần chúng là trọng. Nếu công
cuộc Tây phương hóa không phổ biến được đến đại chúng, thì công cuộc
đó kể như đã thất bại. Và như chúng ta đã thấy, lập luận của họ là
đúng. Đã như thế thì chỉ có Việt ngữ mới giúp cho chúng ta đạt mục
đích trên. Nhưng, những người chủ trương như vậy lại quên rằng, tất
cả các kho tàng kiến thức liên hệ đến kỹ thuật Tây phương, mà sự
thâu thập đối với chúng ta đã là một vấn đề thiết yếu và mất còn,
tất cả các kho tàng đó, đều nằm trong ngoại ngữ. Nếu chúng ta không
dùng ngoại ngữ một cách rộng rãi và đến một mức độ tinh vi, thì vấn
đề thâu thập kỹ thuật không làm sao thực hiện được.
Thật ra,
chủ trương trên đây không đối chọi nhau, mà phải bổ túc cho nhau. Sở
dĩ có sự đối chọi chỉ vì những người tán thành hai chủ trương, đều
nhìn vấn đề chuyển ngữ từ hai vị trí khác nhau, do đó, chỉ nhìn thấy
phân nửa vấn đề.
Trường hợp này, tuy ở trong một lĩnh vực
khác, nhưng cũng giống như trường hợp mang lập trường quốc gia đối
chọi lại với lập trường quốc tế, mà chúng ta đã xét qua trong phần
chính trị.
Theo kinh nghiệm của các nước đã thực hiện công
cuộc thâu thập kỹ thuật Tây phương, thì vấn đề chuyển ngữ phải được
giải quyết như sau đây.
Như trên vừa giải thích, công cuộc
thu thập kỹ thuật Tây phương gồm hai công tác chính, công tác thâu
thập kỹ thuật và công tác phổ biến các kỹ thuật đã thâu nhận.
Như thế thì, chuyển ngữ của công tác thâu nhận là ngoại ngữ và
chuyển ngữ của công tác phổ biến là Việt ngữ. Ranh giới giữa hai
chuyển ngữ hoạch định như thế nào? Thật ra không có ranh giới, và
hai loại chuyển ngữ phải song hành tồn tại trong mọi địa hạt và
trong mọi giai đoạn của công cuộc thâu thập.
Trong các nước,
đã hay đang thực hiện công cuộc thâu thập kỹ thuật Tây phương, vấn
đề chuyển ngữ đều được giải quyết một cách giản dị như trên. Sở dĩ ở
Việt Nam vấn đề trở nên gay go, vì một hiện tượng tâm lý do thời kỳ
đô hộ tạo ra. Tinh thần quốc gia đã đi quá mức. Khi chủ quyền đã
được thu hồi, tự nhiên và đồng thời với ách thống trị, ngoại ngữ của
của người thống trị cũng phải được đòi bỏ đi, vì được xem như là một
vết tích của thời kỳ nô lệ.
Vấn đề chuyển ngữ đã được giải
quyết như trên, việc ấn định trong trường hợp nào, Việt ngữ sẽ đóng
vai trò chủ yếu, là thẩm quyền của tổ chức giáo dục và tổ chức giáo
dục quần chúng. Nhưng bất cứ trong trường hợp nào, công việc phiên
dịch các loại tài liệu ngoại quốc sang Việt ngữ vẫn là một công tác
tối quan trọng. Nói một cách rõ ràng hơn nữa, công việc phiên dịch
các tài liệu ngoại quốc là một cái vận tống, nhờ đó công cuộc thâu
thập mới có thể tiến tới được và không có đó, thì công cuộc thâu
thập không thể thực hiện được.
Sau khi giải quyết vấn đề
chuyển ngữ như trên, thì câu hỏi đương nhiên sẽ nảy ra trong óc
chúng ta là: chọn ngoại ngữ nào? Câu trả lời sẽ như sau đây:
Chúng ta đã đi học kỹ thuật của Tây phương thì đương nhiên, có li mà
đi học tận gốc kỹ thuật đó. Nếu chúng ta đi học của những người cũng
đang đi học của Tây phương hoặc mi học rồi, thì mặc nhiên chúng ta
tự hạ chúng ta xuống mức độ học trò của người học trò. Trong trường
hợp đó, bắt kịp người học đã là khó, còn nói chi đến việc bắt kịp
người thầy, chính là Tây phương. Như vậy thì, ngoại ngữ mà chúng ta
chọn, sẽ là một trong các ngoại ngữ của Tây phương, đang là chuyển
ngữ cho một nền kỹ thuật tiến bộ nhất.
Cho tới Đệ Nhị Thế
Chiến, thì các ngoại ngữ thỏa mãn điều kiện trên là Anh, Đức và
Pháp. Trong thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, nước Pháp bị chiếm đóng trong
bốn năm, các thơ-loại tham khảo về kỹ thuật của Pháp sút kém hẳn đi.
Và sau Đệ Nhị Thế Chiến, nước Đức cũng lâm vào một tình trạng
tương tự, tuy có nhẹ hơn. Rốt cuộc lại, tiếng Anh phải được chọn
trước hết, làm chuyển ngữ ngoại quốc cho chúng ta.
Đối với
chúng ta, nhiều sự kiện lịch sử đã làm cho Pháp ngữ còn chiếm một ưu
thế trong nền giáo dục ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhu cầu của công cuộc
Tây phương hóa bắt buộc chúng ta phải đoạn tuyệt lần lần với Pháp
ngữ, một cách không luyến tiếc. Còn có một lý do khác, thuộc về phạm
vi chính trị, bắt buộc chúng ta phải thay thế Pháp ngữ bằng Anh ngữ
trong vị trí ưu tiên ngoại ngữ ở nước ta. Nhìn vào bản đồ Á châu,
chúng ta nhận thấy ngay sự kiện sau đây. Ba nước: Việt Nam, Cam Bốt
và Lào. thuộc lãnh thổ Đông Dương trước đây là ba nước duy nhất dùng
tiếng Pháp làm chuyển ngữ ngoại quốc, trong khi tất cả các nước
chung quanh đều dùng Anh ngữ, ngoại ngữ thông dụng nhất trên thế
giới. Sự cô lập khủng khiếp đó là một trở lực vô cùng to tát trong
phạm vi ngoại giao.
Vượt qua các sáng tạo của kỹ
thuật Tây phương
Chúng ta đã thấy trong nhiều đoạn
trước đây, rằng một công cuộc Tây phương hóa đến mức độ đủ cao sẽ
không thực hiện được, nếu sự hấp thụ kỹ thuật Tây phương chỉ giới
hạn trong công tác thu thập những sáng tạo của kỹ thuật Tây phương.
Dù mà sự thâu thập này, có lan rộng và bao gồm khắp các địa hạt của
kỹ thuật như chúng ta đã phân tích ở trên, nhưng chỉ giới hạn trong
các sáng tạo của kỹ thuật Tây phương, thì kết quả cũng như vậy. Cộng
đồng đang theo đuổi công cuộc Tây phương hóa, sẽ mãi mãi lệ thuộc
Tây phương, bởi vì công cuộc Tây phương hóa thực hiện nửa chừng như
vậy, sẽ đưa cộng đồng lên đến mức độ cao lắm là chỉ sử dụng được các
sáng tạo của kỹ thuật Tây phương.
Một công cuộc Tây phương
hóa, đến mức độ đủ cao, chỉ thực hiện được khi nào sự hấp thụ kỹ
thuật Tây phương được thành tựu đến mức độ, người hấp thụ chế ngự kỹ
thuật đó, để đến phiên mình sáng tạo. Và đương nhiên muốn chế ngự
được kỹ thuật đó, trước tiên phải thấu triệt được những nguyên lý
của khả năng sáng tạo và luyện được cách sử dụng khả năng đó.
Trong khuôn khổ này, một quan niệm thông thường sai lầm cần phải
được chỉnh đốn. Đa số các cộng đồng theo đuổi công cuộc Tây phương
hóa đều nghĩ rằng, Tây phương mạnh nhờ khoa học của họ. Vậy nếu
chúng ta học được khoa học của Tây phương thì chúng ta cũng chưa
mạnh bằng Tây phương. Bởi vì khoa học cũng như tất cả các sáng tạo
kỹ thuật của Tây phương, là những hiện tượng nhìn thấy được của kỹ
thuật Tây phương, chớ chưa phải là kỹ thuật Tây phương. Các sáng tạo
kỹ thuật là sóng, nhưng chính kỹ thuật mới là gió.
Vậy,
nguyên do của khả năng sáng tạo của kỹ thuật Tây phương là cái gì?
Câu hỏi này vô cùng quan trọng cho công cuộc Tây phương hóa. Có trả
lời được, chúng ta mới thỏa mãn được một điều kiện của công cuộc Tây
phương hóa đến mức độ đủ cao. Điều kiện thứ hai, là thực hiện được
những điểm mà câu trả lời sẽ nêu lên.
Kỹ thuật Tây phương
hùng mạnh nhờ hai đức tính vô cùng quí báu thừa hưởng của văn minh
cổ Hy Lạp La Mã. Hai đức tính đó là:
- Chính xác về lý trí.
- Ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức.
Ngay trong thời kỳ
khoa học chưa được phát minh, hai đức tính trên đã xuất hiện trong
các sáng tác văn hóa và trong ngôn ngữ của Hy Lạp La Mã.
Quan
niệm sai lầm nói trên đây, sở dĩ đã sai lầm vì trụ đóng vào một tin
tưởng sai lầm. Tin tưởng sai lầm đó cho rằng, vì khoa học của Tây
phương chính xác, ngăn nắp và minh bạch, thì nếu chúng ta hấp thụ
được khoa học đó, chúng ta cũng hấp thụ được cái chính xác ngăn nắp
và minh bạch kia. Lập luận trên chỉ đúng một phần nhỏ và phần lớn
không đúng. Sở dĩ khoa học Tây phương mang trong mình các đức tính
trên là bởi vì khoa học Tây phương là sáng tạo của kỹ thuật Tây
phương. Đã là con, thì đương nhiên cũng mang ít nhiều những đức tính
của mẹ. Nhưng thật ra, những đức tính đó là của thừa hưởng, cũng như
sức mạnh của sóng là thừa hưởng của gió. Và bởi vì khoa học cũng chỉ
là một trong những sáng tạo của kỹ thuật Tây phương, cho nên việc
hấp thụ được khoa học chưa đủ để cho chúng ta chế ngự được kỹ thuật
Tây phương. Lời tục thường nói “Con chó ngoắt đuôi là sự thường, chớ
không thấy cái đuôi trở lại ngoắt con chó”.
Đoạn vừa qua rất
quan trọng ở chỗ nó vạch trần một quan niệm sai lầm của chúng ta lâu
nay. Quan niệm sai lầm đó rất tai hại, vì nó biến thành một trở lực
không lay chuyển nổi cho công cuộc Tây phương hóa đối với bất cứ ai,
lấy quan niệm đó làm kim chỉ nam cho sự thâu thập kỹ thuật Tây
phương: Chúng ta cần phải ghi nhớ rằng, một khi đã đóng khung vào
quan niệm sai lầm trên, thì một sự thu thập khoa học Tây phương dù
có mười phần kết quả cũng vẫn chưa giúp cho chúng ta chế ngự được kỹ
thuật Tây phương. Còn nói gì đến khả năng sáng tạo, thì đương nhiên
không làm sao luyện được. Một công cuộc Tây phương hóa chỉ chú trọng
vào sự thu thập khoa học Tây phương, sẽ mãi mãi là một công cuộc Tây
phương hóa không đúng mức, và cộng đồng nào chỉ nhắm vào mục đích
thu thập khoa học Tây phương, thì mãi mãi sẽ lệ thuộc các sáng tạo
kỹ thuật của Tây phương và không bao giờ thoát lên đến mức độ sáng
tạo như Tây phương.
Trình bày trên đây làm sáng tỏ ba
điểm:
1. Kỹ thuật Tây phương rút sinh lực trong hai
nguồn:
- Chính xác về lý trí.
- Ngăn nắp và minh bạch
trong tổ chức.
2. Các đức tính trên đã có trước mọi phát minh
khoa học và đã sinh ra khoa học.
3. Sự thâu thập khoa học của
Tây phương thôi, không giúp cho chúng ta chế ngự được kỹ thuật Tây
phương.
Như thế thì vấn đề đã trở nên rất rõ. Nếu chúng ta
muốn chế ngự được kỹ thuật Tây phương chúng ta cần phải luyện được
hai đức tính:
- Chính xác về lý trí
- Ngăn nắp và minh
bạch trong tổ chức.
Sự thâu thập dù mười phần kết quả, khoa
học của Tây phương, hoặc bất cứ một hay tất cả các sáng tạo của kỹ
thuật Tây phương không thể cho phép chúng ta chế ngự được kỹ thuật
Tây phương, bởi vì, sự thâu thập đó chưa đủ để chúng ta luyện được
hai đức tính trên.
Vấn đề đã như thế, thì phương pháp nào sẽ
giúp cho chúng ta đạt đến kết quả mong mỏi? Các tài liệu nghiên cứu
về nguồn gốc của hai đức tính trên, trong nền văn minh cổ Hy Lạp La
Mã đều nhìn nhận rằng hai đức tính ấy đã thể hiện ngay trong sự tổ
chức đời sống hằng ngày và nhất là trong ngôn ngữ của hai dân tộc
trên. Cũng nên nhắc lại rằng các đức tính ấy đã có trước mọi phát
minh khoa học của hai dân tộc Hy Lạp La Mã.
Sự hai đức tính
trên đã thể hiện trong sự tổ chức đời sống hằng ngày và trong ngôn
ngữ là một điều vô cùng quan trọng. Bởi vì như vậy thì những người
hằng ngày giữ theo nếp sống đó, và lúc nào cũng sử dụng ngôn ngữ đó,
đương nhiên đã hấp thụ huấn một cách không ngừng để rèn luyện hai
đức tính trên.
Kỹ thuật của Tây phương ngày nay là kết quả
của một công cuộc rèn luyện kiên nhẫn của không biết bao nhiêu triệu
người trải qua không biết bao nhiêu thế hệ. Và nếp sống hằng ngày
cùng với ngôn ngữ là những lợi khí sắc bén và duy nhất có thể giúp
cho chúng ta rèn luyện được hai đức tính trên.
Như vậy thì
vấn đề lại càng rõ, nếu chúng ta muốn rèn luyện được hai đức tính
trên thì chúng ta phải chỉnh đốn đời sống hằng ngày cho ngăn nắp và
minh bạch, và ngôn ngữ của chúng ta phải được chỉnh đốn cho ngăn nắp
và minh bạch. Có như vậy, đời sống hằng ngày của chúng ta và ngôn
ngữ của chúng ta sẽ trở thành những dụng cụ sắc bén để giúp cho
chúng ta rèn luyện chính xác về lý trí và ngăn nắp và minh bạch
trong tổ chức. Và ngôn ngữ đã được chỉnh đốn lại trở thành một khí
cụ suy luận để chúng ta soi thấu vũ trụ vật lý và vũ trụ tinh thần.
Lịch sử của nhân loại cung cấp cho chúng ta rất nhiều ví dụ để
xác nhận các sự kiện trên, về ảnh hưởng của sự tổ chức đời sống và
của ngôn ngữ, trong sự phát triển của văn minh.
Thời kỳ bắt
đầu từ thế kỷ thứ XIV gọi là thời kỳ Phục Hưng của xã hội Tây phương
là điển hình nhất. Trước đó gần một ngàn năm, văn minh của Hy Lạp và
La Mã đã sụp đổ trong cuộc xâm lăng vĩ đại của các dân tộc còn man
rợ đang sống chung quanh. Tất cả các tổ chức đời sống đều tan rã, và
ngôn ngữ thành hồ đồ dưới ảnh hưởng của các thổ ngữ man rợ.
Ròng rã trong gần một ngàn năm, xã hội Tây phương chìm đắm trong đêm
tối dày đặc của tàn bạo và dốt nát.
Riêng một số tu viện của
Gia Tô giáo, còn giữ được ánh sáng của văn minh cũ và di sản của
những ngôn ngữ đã mất. Giáo hội Gia Tô giáo dốc hết nỗ lực để bảo vệ
ngọn đuốc lờ mờ đó, chống với làn sóng xâm lăng kinh khủng.
Sau nhiều thế kỷ của một cuộc chấn động ghê gớm tình thế lắng dần.
Và giáo hội mới bắt đầu phổ biến càng ngày càng rộng, di sản đã được
bảo vệ. Nhờ đó, các quốc gia xuất hình từ những dân tộc man rợ trước
kia, mới bắt đầu tổ chức đời sống theo kiểu mẫu ngăn nắp Hy Lạp La
Mã và chỉnh đốn ngôn ngữ phôi thai theo kiểu mẫu ngăn nắp và minh
bạch của các ngôn ngữ Hy Lạp La Mã.
Trong thời đại gọi là
Trung Cổ, vào thế kỷ thứ X và XI, đời sống ở các quốc gia Tây phương
đã lần lượt bắt đầu có tổ chức. Nhưng ngôn ngữ vẫn còn hồ đồ. Chỉ
vài thế kỷ sau ngôn ngữ chỉnh đốn mới lần lần xuất hiện và trở thành
những lợi khí sắc bén cho suy luận. Và nhờ đó, mới đến lượt sự phát
triển của văn minh Tây phương trên mọi lĩnh vực của đời sống, càng
ngày càng mãnh liệt và càng bao quát như chúng ta mục kích ngày nay.
Một ví dụ khác trong lịch sử, cũng chứng minh ảnh hưởng của ngôn
ngữ đối với sự phát triển suy luận và do đó, đối với sự phát triển
văn minh. Ngôn ngữ của Trung Hoa vừa khó học,vừa không phải là một
dụng cụ suy luận sắc bén. Vì vậy mà Hoa ngữ là một trở lực cho sự
phổ biến các kiến thức và một trở lực cho sự phát triển tư tưởng.
Văn minh của Trung Hoa mặc dù trong nhiều lĩnh vực đã đến cao độ,
nhưng thiếu sinh lực phát quang, là vì vấp phải trở lực ngôn ngữ. Và
ngay trong thời đại này, khi Trung Hoa đang dốc hết sức nỗ lực của
mình để phát triển dân tộc, bằng cách Tây phương hóa, Hoa ngữ vẫn là
một trở lực to tát. Nếu các nhà lãnh đạo Trung Hoa không giải quyết
được vấn đề ngôn ngữ, công cuộc Tây phương hóa đúng mức của Trung
Hoa sẽ gặp nhiều khó khăn không vượt nổi.
Vấn đề
chỉnh đốn Việt ngữ
Trở lại vấn đề rèn luyện hai đức
tính chính xác về lý trí và ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức, chúng
ta thấy rằng hai lợi khí sắc bén là sự tổ chức đời sống hằng ngày và
sự sử dụng một ngôn ngữ chỉnh đốn.
Việc tổ chức đời sống hằng
ngày cho ngăn nắp, trật tự chúng ta có thể, một cách không khó khăn
lắm, hình dung phải được làm như thế nào. Bởi vì ngay trong truyền
thống Á Đông của chúng ta, việc tổ chức đời sống hằng ngày cho ngăn
nắp là một việc đã có. Ngày nay chỉ cần thích nghi hóa những tập
quán đã có sẵn với nhu cầu đặt ra bởi một nhịp sống thúc dục hơn và
một xã hội máy móc hơn.
Vấn đề chỉnh đốn Việt ngữ phức tạp
hơn nhiều.
Chúng ta quan niệm việc chinh đốn làm sao? Và làm
thế nào để thực hiện sự chỉnh đốn?
Như chúng ta đã nói trên
đây, giai đoạn đầu của công cuộc Tây phương hóa là giai đoạn nặng về
sự hấp thụ các sáng tạo kỹ thuật của Tây phương.
Sau đó mới
đến giai đoạn chế ngự kỹ thuật Tây phương. Và trong giai đoạn này,
một ngôn ngữ có khả năng của một dụng cụ suy luận tinh vi, mới thiết
yếu hơn. Như vậy thì việc chỉnh đốn Việt ngũ có thể xem là một việc
không cấp bách chăng?
Chắc là không, bởi vì một ngôn ngữ đã
chỉnh đốn xem như là một dụng cụ suy luận tinh vi, có thể thiết yếu
nhiều hơn trong giai đoạn thứ hai của công cuộc thâu thập kỹ thuật
Tây phương. Nhưng điều mà chúng ta đòi hỏi nhiều nhất ở một ngôn ngữ
chỉnh đốn là cái ảnh hưởng của nó đối với sự rèn luyện sự chính xác
về lý trí. Như vậy thì ngay trong lúc đầu của công cuộc Tây phương
hóa, chúng ta phải đặt ngay vấn đề chỉnh đốn Việt ngữ.
Vì sao phải chỉnh đốn Việt ngữ?
Vì Việt ngữ
nghèo và không đủ chữ để diễn tả hết các tư tưởng khúc chiết và trừu
tượng, như nhiều người đã nghĩ chăng?
Vấn đề Việt ngữ nghèo
không thành vấn đề, bởi vì nếu chúng ta thiếu chữ để diễn tả một ý
mới thì chúng ta đặt chữ mới. Chẳng những Việt ngữ mà bất cứ sinh
ngữ nào cũng không sợ nghèo chữ. Trong phạm vi này, có lẽ việc cần
được chú trọng là các quy củ để tạo chữ mới. Đã có nhiều loại sách
“Danh từ Từ Điển”, v.v. dùng nhiều chữ mới. Tuy nhiên, quy củ để tạo
ra chữ mới mà sinh ngữ nào cũng có, thì Việt ngữ chưa có.
Nhưng đây là phương pháp làm giàu thêm Việt ngữ chớ không phải việc
chỉnh đốn Việt ngữ.
Sở dĩ vấn đề chỉnh đốn Việt ngữ cần phải
đặt ra là vì những lý do dưới đây:
Các sinh ngữ thường chia
làm hai loại. Từ ngữ trừu tượng và từ ngữ cụ thể.
Các sinh
ngữ trừu tượng thường dùng danh từ. Danh từ diễn tả một ý niệm trừu
tượng. Các sinh ngữ cụ thể thường dùng động từ. Động từ diễn tả một
tác động cụ thể.
Ý niệm trừu tượng bao giờ cũng phong phú và
bao quát hơn một tác động cụ thể.
Ví dụ: Giữa động từ “phát
triển” và danh từ “sự phát triển”, chúng ta phân biệt ngay tác động
cụ thể “phát triển” giới hạn trong tác động “phát triển” và ý niệm
trừu tượng “sự phát triển” bao gồm tất cả những sự kiện liên quan
đến tác động “phát triển”.
Theo định luật thông thường, văn
hóa càng tiến bộ, ngôn ngữ của cộng đồng càng phong phú về những ý
niệm trừu tượng. Và song song, ngôn ngữ cũng phải được trừu tượng
hóa để diễn tả các ý niệm trừu tượng. Trừu tượng hóa ngôn ngữ bằng
cách đặt ra nhiều danh từ, hoặc đặt quy củ để danh từ hóa các động
từ hay tính từ.
Trong Việt ngữ đã có lối danh từ hóa bằng
cách sử dụng chữ “sự” trước động từ. Ví dụ, hô hấp, sự hô hấp. Nhưng
lối này vẫn chưa thành quy củ và lối danh từ hóa này chưa được thông
dụng.
Như thế thì lý do đầu tiên để chỉnh đốn Việt ngữ là
phải trừu tượng hóa Việt ngữ, bằng cách đặt ra quy củ danh từ hóa.
Và phổ biến sự dùng danh từ.
Lý do thứ hai là lý do
sau đây.
Việt ngữ trước kia cũng như Hoa ngữ, thuộc
về loại sinh ngữ gọi là sinh ngữ biểu ý, nghĩa là ghi ý niệm, trái
với loại sinh ngữ ký âm, nghĩa là ghi âm thanh. Vì đặc tính này mà
Hoa ngữ và Việt ngữ khi xưa không phổ biến được.
Ngày nay
Việt ngữ đã thoát khỏi vòng kềm tỏa đó nhờ phương pháp ghi âm bằng
những mẫu tự Latinh.
Nhờ đó Việt ngữ trở nên dễ học và dễ phổ
biến. Khi Nguyễn Văn Vĩnh nói rằng: “Việt Nam sau này hay, hay dở là
nhờ ở Quốc ngữ” là ông nghĩ đến sự Việt ngữ, nhờ phương pháp ghi âm,
đã thoát khỏi trở lực mà chúng ta còn thấy cho Hoa ngữ.
Nhưng
trong lối hành văn, Việt ngũ còn chịu ảnh hưởng nặng nề của Hoa ngữ,
nghĩa là của các sinh ngữ biểu ý.
Lối hành văn của các sinh
ngữ này đặc biệt ở tính cách “khiêu ý” và không chú trọng đến kiến
trúc của câu văn.
Lối hành văn “khiêu ý” có nhiều ưu
điểm và nhiều khuyết điểm
Người đọc câu văn khiêu ý,
nhìn thấy ngay những hình ảnh mà tác giả muốn diễn tả, không bị
những giây ràng buộc của kiến trúc câu văn làm mất thông ứng giữa
tác giả và độc giả. Văn “khiêu ý” chỉ cần nêu lên những hình ảnh,
bằng nhũng chữ rời rạc, không cần phải liên lạc với nhau trong một
kiến trúc nào. Người đọc câu văn “khiêu ý” tự mình tưởng tượng lấy
cách bố trí các hình ảnh. Sự thông tin giữa tác giả và độc giả vừa
mau lẹ vừa đầy đủ. Trực giác làm việc nhiều hơn suy luận.
Do
các đặc điểm trên đây, câu văn “khiêu ý” rất thích hợp cho thi thơ.
Cái tuyệt diệu của một câu Đường thi, như “Bồ đào mỹ tửu, dạ quang
bôi”, hay cái thi vị của một câu Kiều như “Lơ thơ tơ liễu buông
mành” là do đặc điểm trên đây của lối văn “khiêu ý” trong thi thơ.
Cái tuyệt diệu đó mà say mê cho đến nỗi có nhiều thi hào Âu, Mỹ, chủ
trương tìm cách làm sao cho lối văn kiến trúc của họ gội bỏ được
những cái ràng buộc của kiến trúc, để mong đạt được cái tuyệt diệu
của thơ Đường. Cố nhiên, họ không thành công, vì lối văn kiến trúc
của họ không làm sao gột bỏ được bản chất của nó.
Và cũng vì
lý do trên mà thơ Đường, khi được dịch ra Âu ngữ, mất hết cái hay
của nó.
Như vậy thì về thi thơ, Việt ngữ là một dụng cụ rất
là sắc bén. Nhưng được ưu điểm đó trong thi thơ, thì ngược lại, lời
văn “khiêu ý” mang rất nhiều khuyết điểm, khi được đem sử dụng như
là một dụng cụ suy luận sở trường của lối văn kiến trúc.
Như
trên đã thấy, trong lối văn “khiêu ý” tác giả chỉ nêu lên những hình
ảnh. Người đọc phải tự mình sắp xếp lấy các hình ảnh theo óc tưởng
tượng của mình. Như vậy thì mỗi người đọc có một lối bố trí khác
nhau. Đó là cái khuyết điểm thiếu chính xác của lối văn “khiêu ý”.
Làm sao có thể cùng nhau thảo luận được về một vấn đề gì, nếu cùng
đọc một câu văn, mà mỗi người hiểu một cách khác nhau.
Nếu
muốn thảo luận được thì sự bố trí các hình ảnh hay ý thức, nêu ra
trong câu văn, không phải chỉ để cho óc tưởng tượng của người đọc,
mà phải nằm ngay trong câu văn.
Nghĩa là câu văn phải có kiến
trúc, nghĩa là những chữ nêu lên những hình ảnh phải được nối liền
với nhau bằng những chữ, tự nó, không có nghĩa và đương nhiên làm
nặng câu văn.
Nhưng sự chính xác về lý trí phải được trả bằng
cái giá đó. Hoặc chúng ta, suốt đời thả hồn theo thơ mộng, hoặc
chúng ta phải bắt buộc câu văn có kiến trúc để diễn tả tư tưởng một
cách chính xác.
Và lý do thứ hai để chỉnh đốn Việt ngữ là như
vậy đó.
Nếu chúng ta muốn rèn luyện được chính xác về lý trí
thì điều kiện cần phải thỏa mãn trước tiên là kiến trúc hóa câu văn
Việt ngữ.
Trên kia chúng ta có nói đến trường hợp, nhiều thi
hào Âu, Mỹ muốn “khiêu ý hóa” lối văn kiến trúc của họ, để diễn tả
những ý thơ. Và họ đã thất bại. Vậy nếu chúng ta kiến trúc hóa câu
văn “khiêu ý” của chúng ta, liệu chúng ta có thành công chăng? Sở dĩ
các thi hào Âu Mỹ không thành công là vì sinh lực của văn minh Âu Mỹ
chính là lối văn kiến trúc của họ. Và ý muốn “khiêu ý hóa” câu văn
chỉ là một xu hướng mới nhất thời trong một phạm vi nhỏ.
Trái
lại, đối với chúng ta, sự kiến trúc hóa câu văn là một điều tối quan
trọng, liên quan đến sự mất còn của chúng ta, cho nên, chúng ta phải
thực hiện cho kỳ được. Và nếu vì sự kiến trúc hóa mà câu văn của
chúng ta mất bản chất của nó đi nữa, chúng ta cũng phải làm; bởi vì
sự mất bản chất, ở đây không làm cho văn minh của chúng ta mất sinh
lực, trái lại, chính là để tìm sinh lực cho văn minh của chúng ta,
nên chúng ta mới nhất quyết thực hiện công cuộc Tây phương hóa,
trong đó, việc kiến trúc hóa Việt ngữ là một yếu tố quyết định.
Làm thế nào để kiến trúc hóa Việt ngữ?
Ít lâu nay, có nhiều quyển sách về văn phạm Việt ngữ, trong đó cũng
có sự phân tích câu văn Việt ngữ thành mệnh đề, và sự phân tích mỗi
mệnh đề thành chủ từ, động từ và bổ sung từ, v.v. Cũng có sự phân
biệt các loại từ ngữ. Như thế có phải là đã kiến trúc hóa Việt ngữ
chăng?
Chắc là không. Những quyển sách trên biểu hiện cho sự
tự ti mặc cảm của tinh thần quốc gia. Nhiều người nhận thấy sự thiếu
kiến trúc của câu văn Việt. Nhưng sau khi đã nhận thấy khuyết điểm
đó, thì thay vì tìm cách kiến trúc hóa câu văn, lại tìm cách chứng
minh rằng câu văn đã có kiến trúc.
Để đạt mục đích đó, những
người trên đã mang một dụng cụ phân tích của một câu văn kiến trúc,
áp dụng cho một câu văn không kiến trúc, với hy vọng rằng, nếu đã
làm được sự phân tích đó thì đương nhiên đã chứng minh rằng câu văn
có kiến trúc.
Vì thái độ thiếu thực tế đó, cho nên chúng ta
nhận thấy ngay, tất cả tính cách miễn cưỡng và giả tạo của các sự
phân tích nói trên. Miễn cưỡng và giả tạo vì những điều phân tích,
thật sự ra, chưa có nằm trong câu văn được phân tích.
Việc kiến trúc hóa Việt ngữ phải được xét từ các căn bản sau
đây:
1. Câu văn có kiến trúc khi nào giữa các loại
từ ngữ, có sự phân biệt về hình thức (thể loại), chớ không phải chỉ
về vị trí (vị trí của từ ngữ trong câu văn).
2. Câu văn có
kiến trúc khi nào các từ ngữ chính trong câu được nối liền với nhau,
bằng những phụ từ, tự nó không có nghĩa, nhưng đóng một vai trò rất
quan trọng.
3. Câu văn có kiến trúc khi nào một mệnh đề chính
được nối liền với một hay nhiều mệnh đê phụ, bằng những phụ từ được
đặt để ra với nhiệm vụ đó.
Như vậy thì muốn kiến trúc
hóa câu văn, chúng ta phải:
1. Quy củ hóa sự phân
biệt bằng hình thức các từ ngữ.
2. Đặt các phụ từ cho những
từ ngữ của mệnh đề.
3. Đặt những phụ từ cho những mệnh đề. Và
phổ thông hóa sự áp dụng kiến trúc câu văn.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Phần IV
16. VIỆT NGỮ VÀ HOA NGỮ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Trong
một đoạn ở trên, so sánh hoàn cảnh phát triển của Trung Cộng và của
Việt Nam, chúng ta đã chứng
minh rằng, hoàn cảnh phát triển của Việt Nam có nhiều điều kiện
thuận lợi hơn, trong đó có nhiều điều kiện về ngôn ngữ.
Ngôn
ngữ của một cộng đồng dân tộc, đương nhiên là dụng cụ của nền văn
hóa của cộng đồng. Nhưng ngôn ngữ chỉ trở thành một dụng cụ sung mãn
của nền văn hóa khi nào ngôn ngữ gồm được hai đức tính: dễ học để
trở thành một dụng cụ phổ biến, thông dụng và đại chúng; và chính
xác để trở thành một dụng cụ suy luận tinh vi và sắc bén.
Hoa
ngữ là một loại sinh ngữ biểu ý, mỗi một chữ ghi một ý niệm. Vì thế
cho nên, một người Tàu muốn xử dụng được Hoa ngữ một cách trung bình
phải nằm lòng một số tối thiểu là từ ba ngàn đến bốn ngàn chữ. Sự cố
gắng về lý trí vượt mức thông thường đó, đã tạo ra sự tôn sùng nhà
nho, trong xã hội Trung Hoa và trong xã hội Việt Nam khi xưa.
Hoa ngữ hoàn toàn bất lực khi phải đóng vai trò dụng cụ phổ biến
thông dụng và đại chúng cho văn hóa. Cũng vì trở lực tạo ra bởi một
sinh ngữ biểu ý, mà văn minh Tàu khi xưa, mặc dầu lên đến cao độ,
vẫn không có sinh lực bành trướng như văn minh Tây phương ngày nay.
Lối hành văn của Hoa ngữ là lối hành văn “khiêu ý” cho nên câu
văn không có kiến trúc. Mà câu văn không có kiến trúc là một câu văn
không có chính xác. Và một sinh ngữ không chính xác không thể trở
thành một dụng cụ suy luận sắc bén và tinh vi được. Vì không có dụng
cụ ngôn ngữ suy luận sắc bén và tinh vi để sử dụng trong công cuộc
thám cứu vũ trụ vật chất và vũ trụ tâm linh, nên người Trung Hoa xưa
đã thay thế suy luận bằng trực giác. Chúng ta đã xem qua trong một
đoạn trên, ưu và khuyết điểm của trực giác. Tuy nhiên, có một sự
kiện thiết thực không thể phủ nhận được là trong các nền văn minh
cổ, chỉ có nền văn minh Trung Hoa là rất yếu kém về toán học và rất
nghèo nàn về triết lý.
Nguyên do là Hoa ngữ, với lối văn
khiêu ý, hoàn toàn bất lực khi đóng vai trò dụng cụ suy luận tinh vi
và sắc bén.
Và chính ngày nay, mặc dầu Trung Hoa đang áp dụng
những biện pháp huy động độc tài Đảng trị Cộng sản cực kỳ tàn nhẫn,
để dốc hết nỗ lực của tám trăm triệu dân vào công cuộc phát triển
dân tộc bằng cách Tây phương hóa, chúng ta cũng có thể đoán biết
rằng, công cuộc phát triển của Tàu, nếu có vượt được những trở lực
vật chất và chính trị to tát, mà chúng ta đã biết, sẽ không vượt
được một giới hạn ấn định bởi ảnh hưởng kìm hãm của một ngôn ngữ,
không thể là một dụng cụ phổ biến, thông dụng và đại chúng, và một
dụng cụ suy luận sắc bén và tinh vi.
Việt ngữ xưa kia dùng
chữ Hán và chữ Nôm hoàn toàn lệ thuộc Hoa ngữ, nên đã có một thời kỳ
cũng bất lực trong vai trò dụng cụ phổ biến thông dụng và đại chúng.
Chỉ xét qua di sản văn hóa, vừa nghèo nàn vừa giới hạn của chúng ta,
chúng ta càng ý thức được hậu quả tai hại của sự lệ thuộc và sự bất
lực đó trong một ngàn năm. Nhưng từ ngày Việt ngữ được ghi âm bằng
mẫu tự La Mã thì đã được giải thoát khỏi sự bất lực trên. Một sự
kiện rất cụ thể tiêu biểu cho sự giải thoát này là, trong tất cả các
sinh ngữ trong xã hội Đông Á ngày nay, Việt ngữ là sinh ngữ duy
nhất, có thể dùng máy đánh chữ mà viết ra được. Sự kiện trên lại làm
bộc lộ tầm xoay trở rộng rãi của lối ghi âm, sánh với lối biểu ý.
Sự ghi âm Việt ngữ bằng mẫu tự La Mã thay thế cho chữ Nôm và chữ
Hán, là một ví dụ thành công của công cuộc Tây phương hóa của chúng
ta, trong một phạm vi nhỏ, nhưng quan trọng và quyết định, phạm vi
ngôn ngữ. Sự thành công này, đương nhiên gieo cho chúng ta một sự
tin tưởng mãnh liệt vào những thành công phong phú hơn nữa, trong
những phạm vi rộng lớn của công cuộc Tây phương hóa mà chúng ta đang
theo đuổi.
Riêng sự ghi âm Việt ngữ bằng mẫu tự La Mã đã là,
như chúng ta vừa thấy, một ưu thế không phủ nhận được của Việt ngữ
đối với Hoa ngữ, trên nhiều phương diện. Nhưng sự ghi âm, bằng mẫu
tự La Mã còn mở cửa cho Việt ngữ một sự phát triển khác mà hậu quả
sẽ có một tầm quan trọng bội phần hơn. Sự ghi âm Việt ngữ bằng mẫu
tự La Mã, sẽ cho phép chúng ta kiến trúc câu văn như chúng ta đã
thấy trong một đoạn trên. Và câu văn, một khi đã được kiến trúc hóa,
Việt ngữ đương nhiên sẽ trở thành một dụng cụ suy luận sắc bén và
tinh vi.
Lúc bấy giờ Việt ngữ vừa là một dụng cụ phổ biến
thông dụng và đại chúng, vừa là một dụng cụ suy luận sắc bén và tinh
vi, sẽ là một dụng cụ hữu hiệu cho nền văn hóa Việt Nam. Sánh với
Hoa ngữ, ưu thế lại càng rõ rệt hơn nữa.
Lúc bấy giờ, chẳng
những văn hóa Việt Nam hoàn toàn không còn lệ thuộc văn hóa Tàu, mà
sự phát triển văn hóa của chúng ta sẽ lên đến một trình độ ước mong,
khả dĩ góp một phần đáng kể vào di sản của văn minh nhân loại, nhờ
sinh lực dồi dào mà một dụng cụ ngôn ngữ hữu hiệu sẽ tạo ra cho văn
hóa chúng ta.
Triển vọng về ngôn ngữ, dụng cụ văn hóa đã như
vậy, thế hệ của chúng ta không có một lý do nào để không vận dụng
tất cả nỗ lực, nắm lấy cơ hội đưa đến cho chúng ta để thực hiện
trong lĩnh vực văn hóa, ý chí của tiền nhân: cởi bỏ ách tâm lý thuộc
quốc đối với nước Tàu, cho dân tộc. Và thế hệ của chúng ta, không có
một lý do nào, để từ bỏ sự phát triển văn hóa dồi dào mà chắc chắn,
Việt ngữ chỉnh đốn sẽ dành cho chúng ta, để cam chịu một sự lệ
thuộc, đối với một văn hóa, mà Hoa ngữ không bảo đảm sự phát triển.
Và các nhà lãnh đạo, vì vô tình hay cố ý, làm cho cộng đồng quốc gia
của chúng ta lỡ cơ hội này, chẳng những sẽ phản bội quyền lợi dân
tộc mà còn phải mang hết trách nhiệm của một cuộc sống lệ thuộc,
không vùng vẫy nổi, mà các thế hệ trong tương lai, vì lầm lỗi của
họ, sẽ phải quy phục trong nhiều ngàn năm nữa.
Chúng ta đã
chứng minh trong một đoạn trên rằng, sự quy phục thuyết Cộng sản của
một số nhà lãnh đạo của chúng ta, đã làm cho công cuộc tranh đấu
giành độc lập trở nên vô cùng tiêu hao sinh lực của dân tộc. Tuy
nhiên, những sự hy sinh cao cả của các phần tử của cộng đồng không
bao giờ phủ nhận được, cũng như không phủ nhận được tính kiêu hùng
của dân tộc trong các cuộc chiến đấu ác liệt với kẻ thù.
Trong một đoạn khác, chúng ta đã phân tích rằng, vì bị sự chi phối
của tâm lý thuộc quốc, đối với nước Tàu trong hơn tám trăm năm, đè
nặng trên đời sống của dân tộc, nên một số nhà lãnh đạo đã cố tròng
vào thân thể Việt Nam, cái áo Tam Dân Chủ Nghĩa, mà Tôn Văn đã gắng
công nghiên cứu may cắt cho dân tộc của ông. Tuy nhiên, những thành
tích chiến đấu giải thoát dân tộc của các nhà cách mạng quốc gia,
không bao giờ phủ nhận được, cũng như không phủ nhận được những
trang vẻ vang, mà họ đã nhân danh Tam Dân Chủ Nghĩa, viết bằng xương
máu trong lịch sử dân tộc.
Chúng ta lại vừa trình bày rằng,
thế hệ của chúng ta có nhiều điều kiện thuận lợi để nắm lấy cơ hội
đưa văn hóa chúng ta thoát khỏi sự chi phối của văn hóa Tàu, và nhân
đó tiêu diệt yếu tố quan trọng nhất trong hai yếu tố, đã trong hơn
một ngàn năm, bồi đắp cho tâm lý thuộc quốc của chúng ta, đối với
Trung Hoa. Tuy nhiên, di sản văn hóa của dân tộc thoát thai từ nền
văn minh chung của xã hội Đông Á, không bao giờ phủ nhận được, cũng
như không phủ nhận được những kiến thức uyên thâm và những mẫu người
thoát thường, mà nhiều cá nhân Việt Nam đã đạt đến được, nhờ một sự
trụ đúng mức vào các tiêu chuẩn giá trị của nền văn minh Tàu.
Trong ba trường hợp trên, thái độ của chúng ta là thái độ của
một nhà bác học về quang học, khi nhận thấy rằng, thuyết ánh sáng
phát quang theo đường thẳng không còn giải thích được nhiều biện
tượng quang học, và cần phải được thay tế bằng một thuyết khác.
Nhưng không phải vì vậy mà phủ nhận rất cả các định luật về quang
học, đã được phát minh khi nhà bác học đã trụ vào thuyết ánh sáng
phát quang theo đường thẳng, bởi vì những định luật này đã thuộc vào
di sản phát minh của ngành quang học.
Tính khí
Một khi đã sử dụng được những dụng cụ để rèn luyện những đức
tính làm căn bản cho kỹ thuật của Tây phương, sự chế ngự được kỹ
thuật của họ thành công hay thất bại tùy thuộc rất nhiều ở một đức
tính khác: Tính khí.
Trong một đoạn trước đây, liên quan đến
việc kê khai cái vốn sẵn có của chúng ta, trước khi bắt tay vào công
cuộc Tây phương hóa, chúng ta đã nhận thấy rằng tính khí của cá nhân
thiết yếu cho cộng đồng hơn cả thông minh của trí óc.
Các dân
tộc đã thành công trong mọi sự nghiệp đều là những dân tộc có tính
khí rất cao. Và giữa hai dân tộc, cùng một hoàn cảnh, một cái vốn
cùng đứng trước một thử thách và cùng áp dụng một giải pháp thì dân
tộc nào có tính khí cao hơn, sẽ thắng lợi nhiều hơn. Một ví dụ mà
chúng ta đã nêu lên là hai dân tộc Anh và Pháp.
Cũng như đối
với nhiều đức tính khác cao quí của con người, định nghĩa chi tiết
tính khí là một việc không dễ. Bởi vì tính khí thể hiện trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống.
Và tính khí thể hiện một cách mạnh
bạo nhất không phải chỉ ở trong những cơn khủng hoảng kích thích đến
tột độ các khả năng của cá nhân. Trong những cơn khủng hoảng tương
tự, ví dụ, đứng trước một nguy cơ trầm trọng, con người có thể trong
một thời gian ngắn tập trung đến mức tối đa tất cả năng lực lúc bình
thường tản mác các nơi. Và nhân thế có thể có những hành động phi
thường, khắc phục trở lực bên ngoài đưa đến.
Nhưng không phải
những lúc đó là những lúc tính khí đương đầu với những thử thách
gian nguy nhất. Ngược lại những lúc bình thường của đời sống mới,
vừa có năng lực tiêu hao tính khí, vừa rèn luyện tính khí. Đời sống
thường ngày mới là chiến trường, thử thách trường kỳ đối với tính
khí. Và cũng chính đời sống thường ngày mới là phạm vi phát triển
của tính khí.
Tính khí có điều kiện phát triển, ở một cá nhân
hay trong một cộng đồng, khi nào cá nhân hay cộng đồng tin tưởng một
cách vững chắc vào một số tiêu chuẩn giá trị làm nền tảng cho đời
sống cộng đồng. Bất cứ trong một xã hội nào, nếu các tiêu chuẩn giá
trị còn giữ nguyên vẹn uy tín, thì tính khí đương nhiên sẽ nảy nở ra
những hoa quả vô cùng tốt đẹp.
Vì vậy cho nên, những điều
kiện có khả năng bảo vệ các tiêu chuẩn giá trị, cũng có khả năng
phát huy tính khí. Chúng ta đã thấy, ở một đoạn trên, rằng một trong
các điều kiện nói đây là sự liên tục trong vấn đề lãnh đạo cộng
đồng.
Xã hội của Việt Nam trước đây theo Nho giáo, toàn thể
cộng đồng đều tin, một cách mãnh liệt vào các tiêu chuẩn giá trị của
Khổng Mạnh. Nhờ đó xã hội chúng ta đã sản xuất được rất nhiều gương
tính khí hùng mạnh. Cái tiết tháo của nhà Nho xưa ta là một hiện
tượng của tính khí.
Nhưng cùng với sự sụp đổ về quân sự của
quốc gia, nước chúng ta bị đô hộ, xã hội chúng ta tan rã vì các tiêu
chuẩn giá trị cũ bị văn minh Tây phương đả phá đến tột độ. Đồng thời
với sự mất uy tín của các tiêu chuẩn giá trị cũ, tính khí của dân
tộc chúng ta suy đồi. Xã hội càng tan rã, tính khí càng mất. Và tính
khí càng mất, xã hội càng tan rã hơn.
Như vậy thì công cuộc
đào luyện tính khí cho cộng đồng phải bắt đầu bằng sự nêu lên các
tiêu chuẩn giá trị làm nền tảng cho đời sống của cộng đồng.
Tiêu chuẩn giá trị
Trong hiện tình của văn
minh nhân loại, có nhiều tiêu chuẩn giá trị đã trở thành những di
sản bất di bất dịch của loài người.
Ví dụ tiêu chuẩn giá trị
nằm trong câu: “Quân tử dĩ tự cường bất tức”
(1) là một tiêu
chuẩn giá trị đã trở thành di sản của nhân loại.
Tổ chức gia
đình là một tiêu chuẩn giá trị khác mà nhân loại đã thâu thập được
sau nhiều năm tìm kiếm.
Cộng đồng nhân loại là một tiêu
chuẩn giá trị đang hình thành.
Lẽ đương nhiên các tiêu chuẩn
giá trị thuộc loại trên, sẽ là những tiêu chuẩn giá trị mà xã hội
chúng ta sẽ tin tưởng.
Có nhiều tiêu chuẩn giá trị khác mặc
dù chưa lên hàng những tiêu chuẩn giá trị mà tất cả nhân loại đều
tin tưởng, chúng ta cũng chia xẻ sự tin tưởng vào các tiêu chuẩn giá
trị đó với nhiều cộng đồng dân tộc khác.
Ví dụ tiêu chuẩn giá
trị cộng đồng dân tộc, tiêu chuẩn giá trị tự do con người. “Lý do
của cuộc sống là một lý do cá nhân. Điều kiện của cuộc sống là một
điều kiện cộng đồng” cũng là một tiêu chuẩn giá trị mà chúng ta chia
xẻ với nhiều cộng đồng khác trên thế giới.
“Lãnh đạo là tạo
một trạng thái thăng bằng động tiến giữa cá nhân và cộng đồng” là
một tiêu chuẩn giá trị khác.
Nhiều tiêu chuẩn giá trị tương
tự, hoặc đã nằm trong các phần được trình bày trong các trang trên
đy, hoặc là những kết luận đương nhiên của các suy luận, cũng là
những tiêu chuẩn giá trị mà chúng ta tin thưởng. Ví dụ: công bình xã
hội.
Ngoài ra vì công cuộc Tây phương hóa mà dân tộc theo
đuổi để sinh tồn, chúng ta sẽ tin tưởng vào những tiêu chuẩn giá trị
của kỹ thuật Tây phương.
Chúng ta sẽ tin tưởng ở sự tiến bộ
không ngừng của kỹ thuật Tây phương. Chúng ta sẽ tin tưởng ở các đặc
tính chính xác về lý trí, ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức.
Lại có tiêu chuẩn giá trị là di sản của truyền thống văn minh Á
Đông. Chúng ta tin rằng sự phát triển vật chất phải được thực hiện
đồng thời với sự phát triển tâm linh.
Thực luyện tính
khí
Tiêu chuẩn giá trị đã có rồi, tính khí sẽ có cơ
hội nảy nở. Tuy nhiên sự nảy nở của tính khí vẫn còn tùy thuộc hai
điều kiện.
Trước hết các phần tử của cộng đồng phải tin tưởng
vào các tiêu chuẩn giá trị đã được chấp nhận. Đó là nhiệm vụ của tổ
chức giáo dục chính danh và tổ chức giáo dục quần chúng.
Điều
kiện thứ hai là có những phương pháp vật chất, hoặc cá nhân, hoặc
tập thể, để luyện tính khí. Mục đích trực tiếp của các phương pháp
trên là huấn luyện cho mỗi cá nhân tập quán chế ngự cơ thể và tư
tưởng của mình. Sự huấn luyện lúc nào cũng bắt đầu với những phương
pháp chế ngự cơ thể, bởi vì hành động đối với vật chất cụ thể dễ hơn
hành động dối với tư tưởng trừu tượng. Trong những phương pháp này,
thì cho đến ngày nay, các môn thể thể thao có hướng dẫn đã tỏ ra có
hiệu quả nhất. Các môn thể thao tập cho ý chí chủ động các bắp thịt
và các phản ứng của cơ thể.
Ý chí đã chủ động được cơ thể thì
lần lần đạt được lên trình độ chủ động được tư tưởng. Các môn thể
thao tập thể còn được khả năng huấn luyện ý thức cộng đồng và trang
bị cá nhân với những phản ứng cần thiết cho một đời sống cộng đồng.
Chính trong các môn thể thao tập thể thể hiện ra một cách cụ thể, dễ
nhìn hơn hết, ý nghĩa của mệnh đề “Lý do của đời sống là cá nhân.
Điều kiện của đời sống là cộng đồng.”
Một bằng chứng cho tính
cách hữu hiệu của thể thao trong sự thực hiện tính khí, là các dân
tộc yêu chuộng đến cao độ các môn thể thao đều là những dân tộc có
nhiều tính khí. Nhiều môn thể thao cũng là những phương pháp để tập
trung tư tưởng trong đó có các môn võ.
Vượt lên các phương
pháp thể thao đó có những phương pháp vật chất khác, cũng giúp cho
cá nhân chế ngự được cơ thể và dần dần lên đến trình độ chế ngự được
tư tưởng. Phép yoga của Ấn Độ, phép Thiền Định của Phật và Lão Tử,
phép tu dưỡng tinh thần của đạo Hồi và đạo Gia Tô, đều nhằm mục đích
chế ngự cơ thể để lần lần lên đến mức chế ngự tư tưởng. Các phép sau
này kiến hiệu hơn phương pháp thể thao nói trên rất nhiều, và chóng
đưa con người đến chỗ tự chủ với một trình độ rất cao. Tuy nhiên các
phương pháp này đều không có tính cách tập thể như những phương pháp
thể thao. Mỗi cá nhân dưới sự hướng dẫn của một người được mình tôn
kính làm Thầy, cố gắng tập trung tư tưởng vào một đối tượng để tìm
cách chế ngự bản thân. Các phép luyện thần này đều dựa trên căn bản
khổ hạnh.
Tất cả các phép luyện thần và phương pháp thể thao
đều dựa trên căn bản huấn luyện cơ thể và trí óc làm việc cho đến
hết khả năng và cho có quy củ. Vì vậy cho nên hai cách luyện tính
khí trên không có đối chọi nhau, mà ngược lại bổ sung cho nhau.
Giáo dục quần chúng
Chúng ta đã thấy
rằng, ngay trong những thời kỳ bình thường của cộng đồng, nhu cầu
của sự lãnh đạo cộng đồng cũng đã đặt thành một vấn đề rất quan
trọng, sự đa số chịu lãnh đạo hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết
của cộng đồng.
Đã như thế thì, ngay trong những thời kỳ bình
thường của cộng đồng, việc giáo dục quần chúng đã là một vấn đề
trọng hệ.
Tuy nhiên, trong những thời kỳ bình thường như vậy,
chúng ta đã biết sự mâu thuẫn đương nhiên giữa quyền lợi của cá nhân
và quyền lợi của cộng đồng, không lên mức độ căng thẳng có thể là
một mối đe dọa cho sự tồn tại của cộng đồng. Do đó, sự giáo dục quần
chúng mặc dầu rất cần cho sự thực hiện trạng thái thăng bằng động
tiến giữa quyền lợi cộng đồng và quyền lợi cá nhân, vẫn không khẩn
thiết như ở những thời kỳ mà cộng đồng phải qua các cơn khủng hoảng.
Ngày nay cộng đồng dân tộc Việt Nam đang trải qua một thời kỳ
khủng hoảng vô cùng trầm trọng. Trong lịch sử của chúng ta, dân tộc
Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ khủng hoảng rất là ác liệt, các
cuộc ngoại xâm, các cuộc nội chiến tàn sát, chúng ta đều có trải
qua. Nhưng cuộc khủng hoảng lần này nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Nó
đã bắt đầu từ hơn một thế kỷ nay và cho đến ngày giờ này chúng ta
vẫn chưa giải quyết được. Chỉ riêng sự kiện thời gian đó, cũng là
một yếu tố đủ để chứng minh tính cách vô cùng nghiêm trọng của cuộc
khủng hoảng.
Trong các cuộc khủng hoảng trước đây, cộng đồng
của chúng ta bị những sức mạnh vật chất tàn phá kinh khủng làm chấn
động. Tuy nhiên, những sức mạnh đó, mặc dầu đã gây cho cộng đồng dân
tộc của chúng ta những vết thương mà ảnh hưởng đã kéo dài trong
nhiều thế hệ, vẫn không đủ mãnh lực để động đến những tiêu chuẩn giá
trị làm căn bản cho đời sống của cộng đồng. Nhờ đó mà, sau khi cơn
bão tố đã qua, cộng đồng của chúng ta vẫn tiếp tục được cuộc tiến
hóa trên những căn bản cổ truyền vững chắc.
Trái lại, trong
cuộc khủng hoảng này, ngoài những lực lượng vật chất tàn phá không
kém gì những lần trước, thêm vào những lực lượng tinh thần ghê gớm
hơn mười lần, đã tấn công và đánh phá đến tận gốc rễ tất cả các tiêu
chuẩn giá trị của xã hội Việt Nam. Chính vì lý do sau này mà cuộc
khủng hoảng đã kéo dài đến từ hơn một thế kỷ nay. Sau khi những cuộc
sóng gió do những lực lượng vật chất gây ra, đã qua rồi, cộng đồng
dân tộc của chúng ta vẫn chưa tìm lại được trạng thái thăng bằng
thiết yếu cho sự tồn tại và sự tiến hóa của cộng đồng: bởi vì các
tiêu chuẩn giá trị căn bản đã bị mất mà những tiêu chuẩn giá trị mới
chưa được thâu nhận.
Xem thế chúng ta ý thức ngay lý do và
mức độ trầm trọng của thời kỳ khủng hoảng này của cộng đồng. Cho đến
khi nào chúng ta lập lại được các tiêu chuẩn giá trị, lúc bấy giờ
cơn khủng hoảng mới hết.
Đã như thế thì, sự đa số chịu lãnh
đạo phải hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng, không
lúc nào, trong lịch sử của chúng ta, lại thiết yếu như lúc này và vì
vậy cho nên vấn đề giáo dục quần chúng không lúc nào mà cần phải
được đặt ra và thực hiện như trong lúc này.
Thực hiện
giáo dục quần chúng
Kỹ thuật khoa học ngày nay đã
cung cấp cho chúng ta những phương tiện giáo dục quần chúng hữu hiệu
và mãnh liệt. Theo thứ tự thời gian phát minh, chúng ta có thể kể:
sách báo, phim ảnh, vô tuyến truyền thanh, vô tuyến truyền hình...
Tất cả đều là những dụng cụ sắc bén trong vấn đề giáo dục quần
chúng. Tuy nhiên, một sự giáo dục quần chúng có quy củ, mặc dầu
đương nhiên áp dụng những dụng cụ nói trên, phải lấy sự tổ chức quần
chúng làm một điều kiện tiên quyết.
Tổ chức quần chúng phải
được quan niệm như thế nào, phải được thực hiện ra sao, chúng ta đã
phân tích với nhiều chi tiết trong đoạn trên đây nói về bộ máy quần
chúng.
Ghi chú:
(1)
“Thiên hành
kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức” (luật Trời vận hành một cách cứng
rắn, người quân tử phải dựa vào đấy mà tự sức tranh đấu không ngừng)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Phần IV
17. TRỤ MÀ KHÔNG TRỤ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Phật
dạy “TRỤ MÀ KHÔNG TRỤ”.
Thâm ý cao siêu của lời dạy trên bao trùm khắp vũ trụ. Sự tiến hóa
của
nhân loại đều căn cứ trên nguyên tắc nằm trong lời dạy trên. Có trụ
mới có vị trí để mà tiến. Nhưng khi vị trí đã mất tác dụng, mà vẫn
cứ cố bám để trụ vào đó thì mọi tiến hóa lại chấm dứt, và những kết
quả đã thu hoạch được lại có thể bị mất.
Phải trụ vào cho
đúng lúc mới tiến được. Và phải không trụ vào cho đúng lúc mới bảo
đảm được vừa những thắng lợi đã chiếm, vừa con đường tiến cho tương
lai.
TRỤ MÀ KHÔNG TRỤ là một chân lý thể hiện trong những sự
việc vĩ đại của loài người, cũng như trong các sự việc nhỏ nhặt của
cá nhân trong đời sống thường ngày.
Nhiều cộng đồng đã phôi
thai được một nền văn minh vì nhờ trong một lúc nào đó, các nhà lãnh
đạo đã ý thức được một cách sung mãn những vị trí cần phải trụ vào.
Nhưng sau đó hoặc vì sự thiếu lãnh đạo, hoặc vì thử thách, do hoàn
cảnh bên ngoài đưa đến, vượt qua mức độ mà sinh lực của cộng đồng có
thể ứng phó nổi, nên cộng đồng vẫn tiếp tục trụ vào một vị trí không
còn là sinh lộ nữa. Do đó, nền văn minh vừa mới phôi thai, đã ngừng
phát triển và lâu ngày thành cằn cỗi và chết dần như cây khô.
Các dân tộc Da Đỏ ở Bắc Mỹ đã phôi thai một nền văn minh trụ vào
sự thích nghi hóa đời sống thường ngày với vũ trụ thiên nhiên bao
quanh mình. Ví dụ, thay vì tìm cách chế áo dầy hoặc cách xây nhà cửa
giữ được sức nóng để chống lại với giá lạnh của mùa Đông, người Da
Đỏ lại chủ trương huấn luyện cơ thể từ lúc nhỏ để chịu đựng được các
thời tiết.
Thái độ của người Da Đỏ là một thái độ tùng phục,
cố gắng thích nghi hóa cơ thể với vũ trụ thiên nhiên. Thái độ mặc áo
và xây nhà là một thái độ dùng phương tiện thiên nhiên để chế ngự
thiên nhiên.
Vì đã lựa chọn con đường như vậy cho nên nền văn
minh phôi thai của người Da Đỏ đã đào tạo được một loại người mà sức
chịu đựng đối với thiên nhiên lên đến một mức độ phi thường. Và sự
thông cảm của họ với thiên nhiên vượt đến một trình độ ít có.
Trên lĩnh vực này, người Da Đỏ đã khiến tất cả mọi người đều
thán phục. Và người mà ông Baden Powell, nhà sáng lập ra phong trào
hướng đạo thế giới, lấy làm mẫu là người Da Đỏ.
Tuy nhiên,
sức chịu đựng của con người có giới hạn, sức mạnh của thiên nhiên
lại vô bờ bến. Tự trụ mình vào công cuộc phi thường rèn luyện cơ thể
để chống lại với thiên nhiên, người Da Đỏ đã dấn thân vào một con
đường không có lối thoát.
Các nhà lãnh đạo Da Đỏ không nhìn
thấy sự bế tắc đó nên không lúc nào nghĩ cần phải chấm dứt sự trụ
vào đó. Vì vậy cho nên, vừa mới phôi thai, nền văn minh Da Đỏ đã
ngưng phát triển và lần lần cằn cỗi.
Theo những tài liệu khảo
cổ mà chúng ta được biết tới ngày nay thì các dân tộc ở chung quanh
Bắc cực và các dân tộc ở trên các quần đảo ở Thái Bình Dương đều lâm
vào một tình trạng tương tự. Tự trụ vào công cuộc mang sức chịu đựng
của con người để chống lại thiên nhiên. Lúc đầu khi trụ vào vị trí
đó, cộng
đồng phôi thai được một nền văn minh. Nhưng khi vị trí
không còn thích nghi nữa, cộng đồng không biết thoát ra đúng lúc.
Lỗi lầm đó đã đưa cộng đồng đến chỗ chết.
Ví dụ dưới
đây lại còn rõ rệt hơn nữa.
Luân lý Khổng Mạnh đã
tạo cho cộng đồng dân tộc Trung Hoa, một trật tự xã hội bền vững với
thời gian, một cách chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Suốt
trong mấy ngàn năm, trật tự xã hội kiên cố, do luân lý Khổng Mạnh
tạo nên, không có cuộc chấn động nào lay chuyển nổi. Nhờ trật tự xã
hội vô cùng vững chắc đó, văn minh Trung Hoa phát triển đến tột độ
và soi sáng khắp cả một bầu trời. Các triều đại Trung Hoa, kể cả các
triều đại Hán tộc và các triều đại ngoại lai, Mông Cổ và Mãn Thanh,
đều bị chinh phục bởi sức kiên cố của trật tự xã hội của Khổng Mạnh.
Các nhà lãnh đạo đều trụ vào đó và gia công xây đắp cho trật tự
Khổng Mạnh càng thêm vững chắc.
Vì vậy mà cho đến khi nền văn
minh Trung Hoa, vì quá trụ vào trật tự xã hội Khổng Mạnh, nên sinh
lực phát triển đã suy đi, không một nhà lãnh đạo nào nhìn thấy. Mài
miệt trong sự thán phục một trật tự xã hội đã cằn cỗi và thành đá,
không một nhà lãnh đạo nào nhìn thấy nền văn minh Trung Hoa đã ngưng
phát triển. Nếu không bị sự tấn công của Tây phương, có lẽ đến ngày
nay, Trung Hoa còn ngon giấc triền miên trong cái trật tự xã hội
Khổng Mạnh của mình. Trụ vào trật tự xã hội Khổng Mạnh để phát triển
nền văn minh. Nhưng chính cũng vì trụ vào đó quá mức độ thời gian,
nên văn minh đã ngưng phát triển.
Thâm ý của lởi Phật dạy
“Trụ mà không trụ” là bao quát như vậy đó.
Nhưng trong đời
sống của cá nhân, lời dạy “trụ mà không trụ” cũng chi phối sâu xa
đến các hành vi thông thường.
Trong sách Gia Ngữ có chép lại
đại khái như sau:
Thầy Tử Hạ một hôm hỏi Đức Khổng Tử: “Đức
Khổng Tử sánh với những người học trò như Nhan Hồi, Tử Cống và Tử Lộ
thì sao?”
Đức Khổng Tử trả lời: “Nhan Hồi thủ tín hơn ta. Tử
Cống thuyết khách hơn ta. Tử Lộ chiến trận hơn ta.”
Thầy Tử
Hạ lại hỏi: “Thế vì sao Nhan Hồi, Tử Cống và Tử Lộ lại tôn Đức Khổng
Tử làm thầy?”
Đức Khổng Tử trả lời: “Vì Nhan Hồi thủ tín mà
không biết phản tín. Tử Cống hay biện thuyết mà bất cập tảo biện. Tử
Lộ biết dũng mà không biết khiếp, biết cương mà không biết nhu.”
Thầy Nhan Hồi biết trụ vào chữ tín mà không biết không trụ vào
chữ tín.
Thầy Tử Cống biết trụ vào biện thuyết mà không biết
không trụ vào biện thuyết.
Thầy Tử Lộ biết trụ vào dũng mà
không biết không trụ vào dũng.
Đức Khổng Tử vượt lên trên hết
tất cả vì trong mọi trường hợp, ngài biết trụ vào đúng lúc và biết
không trụ vào đúng lúc.
Phải biết trụ để có vị trí phát
triển, nhưng phải biết không trụ để bảo đảm cho phát triển tiếp tục.
Sự phát triển của văn minh Tây phương đến mức độ bao trùm khắp
nhân loại và khắp các lĩnh vực của đời sống, như chúng ta mục kích
ngày nay, là một sự kiện chưa tìm có trong lịch sử nhân loại. Sinh
lực đó bắt nguồn từ chỗ người Tây phương đã thấu triệt nguyên tắc
“Trụ mà không trụ” và đã đưa nó lên thành một lợi khí khoa học và
sắc bén để tìm hiểu vũ trụ. Trong bất cứ ngành nào của kỹ thuật Tây
phương, lịch sử phát triển của ngành đó đều mang dấu vết của nguyên
tắc “Trụ mà không trụ”. Ví dụ dưới đây là thông thường nhất.
Khi quang học mới phôi thai, tất cả các nhà vật lý học Tây phương
lúc bấy giờ, Descartes, Fermat, Malus, Huygens đều trụ vào thuyết
“ánh sáng phát quang theo đường thẳng” để khảo sát, thí nghiệm và
tìm ra những định luật của quang học hình học. Quang học hình học,
như chúng ta đã biết, là những bậc thang đầu tiên và vô cùng quan
trọng của quang học.
Nhưng, những thế hệ các nhà vật lý học
sau đó, mục kích nhiều hiện tượng quang học mà thuyết “ánh sáng phát
quang theo đường thẳng” không làm sao giải thích được. Fresnel,
Young và Newton, mặc dầu vẫn công nhận sự nghiệp di sản của quang
học hình học, đã nhìn thấy đúng lúc giới hạn của thuyết “ánh sáng
phát quang theo đường thẳng” và nhận thức đã đến lúc không nên trụ
vào đó nữa.
Nếu không trụ vào đó nữa, tất nhiên phải trụ vào
một vị trí khác để tiếp tục phát triển Quang học. Do đó, thế hệ các
nhà quang học này trụ vào thuyết “ánh sáng phát quang theo làn sóng”
để khảo cứu thí nghiệm và cuối cùng phát minh những định luật mới về
quang học vừa bao quát, vừa phong phú hơn. Tất cả sự nghiệp quang
học ba động đều xây dựng trên thuyết mới này.
Giả sử thế hệ
các nhà vật lý học đầu tiên không trụ vào thuyết “ánh sáng phát
quang theo đường thẳng” thì sự nghiệp quang học hình học không bao
giờ thành hình, và những bậc thang đầu tiên đó của ngành quang học,
không bao giờ được xây dựng lên và sự phát triển của quang học không
được manh nha.
Nhờ những bậc thang đầu tiên đó, thế hệ các
nhà vật lý học sau mới vói tay lên được đến các hiện tượng lạ lùng
đối với thuyết “ánh sáng phát quang theo đường thẳng”. Nhưng, giả sử
các nhà vật lý học của thế hệ này không đập phá được sự trụ vào
thuyết “đường thẳng” thì sự phát triển của quang học đã ngừng ở đó
và lâu ngày sẽ cằn cỗi mà chết dần.
Nhưng trong thực tế, họ
đã biết không trụ đúng lúc nên đã bảo đảm được sự tiếp tục phát
triển của quang học.
Đến giai đoạn này, lịch sử phát triển
của quang học cũng đủ để thuyết minh cho tính cách sắc bén của
nguyên tắc “Trụ mà không trụ”, trong mọi lĩnh vực phát triển.
Nhưng, quang học còn phát triển hơn nữa. Và thành tích phát
triển gần đây của quang học, lại chỉ rõ hơn nữa rằng, văn minh Tây
phương đã khoa học hóa và chính xác hóa nguyên tắc “Trụ mà không
trụ” để biến nó thành một kỹ thuật vô cùng hiệu quả để phát triển.
Sau thế hệ các nhà quang học ba động, một thế hệ vật lý học giả
khác lại phát minh ra nhiều hiện tượng vật lý, mà thuyết “ánh sáng
phát quang theo làn sóng” cũng không thể giải thích được. Cũng như
lần trước, các nhà quang học chấm dứt đúng lúc sự trụ vào quang học
ba động. Nhưng lần này, các nhà quang học đã xem việc không nên trụ
vào quang học ba động, như là một phương pháp phát minh. Thế hệ của
De Broglie lại trụ vào thuyết “ánh sáng phát quang thành ly tử di
chuyển theo làn sóng” để khảo sát, thí nghiệm và phát minh nhiều
định luật về quang học bao quát hơn thêm và phong phú hơn thêm. Tất
cả sự nghiệp quang học xạ tử ba động đều xây dựng trên thuyết mới
này. Và những phát minh tối tân nhất hiện nay về các quang tuyến đều
căn cứ trên sự nghiệp quang học xạ tử ba động.
Nhưng sự
nghiệp xạ tử ba động sẽ không bao giờ có, nếu sự nghiệp quang học ba
động không thành hình. Và sự nghiệp ba động không bao giờ có nếu sự
nghiệp quang học hình học không thành hình. Nhờ trụ mà có quang học
hình học. Rồi nhờ không trụ mà có quang học phát triển. Rồi nhờ trụ
mà quang học ba động thành hình. Rồi nhờ không trụ mà quang học ba
động phát triển. Rồi nhờ trụ mà quang học xạ tử ba động thành hình.
Chúng ta có thể đoán rằng, cơ thức “Trụ mà không trụ” sẽ theo đó
mà tiếp tục diễn tiến, và vạch con đường cho sự phát triển không
ngừng của quang học.
Những sự kiện trên có giá trị, không
phải riêng cho lĩnh vực quang học mà cho tất cả các ngành của khoa
học Tây phương.
Những sự kiện trên có giá trị, không phải
riêng cho lĩnh vực khoa học mà cho tất cả các ngành của khoa học Tây
phương, nghĩa là cho tất cả các lĩnh vực của đời sống, trong đó có
lĩnh vực chính trị như chúng ta sẽ thấy dưới đây.
Tóm lại
“Trụ mà không trụ” là một chân lý phát triển. Một điều đáng cho
chúng ta nêu lên làm một câu hỏi, là chính Đông Phương đã tìm ra
chân lý trên, nhưng vì sao văn minh Đông Phương, Ấn Độ, cũng như
Trung Hoa, lại trụ vào một vị trí cố định từ mấy ngàn năm? Những trả
lời câu hỏi này vượt ra rất xa khuôn khổ của lời kết luận này.
Trở lại vấn đề chính trị của cộng đồng dân tộc Việt Nam trong
thời kỳ hiện tại, đề tài của tập sách này, chúng ta nhận thấy các
điểm sau đây:
Trong tình hình chính trị thế giới hiện nay và
trong trình độ tiến hóa của nhân loại hiện nay, các vấn đề của dân
tộc Việt Nam, trong thời kỳ này chỉ có thể tìm được một giải đáp nếu
chúng ta trụ vào vị trí dân tộc.
Đương nhiên là vị trí dân
tộc mà chúng ta đã quan niệm trong suốt mấy trăm trang của tập sách
này, không thể là một vị trí dân tộc bế quan tỏa cảng, hẹp và nông
như dưới các triều đại quân chủ xưa kia. Vị trí dân tộc mà chúng ta
quan niệm là một vị trí dân tộc nằm trong khung cảnh thế giới, với
tất cả các dây liên hệ tinh thần và vật chất cần phải có.
Nhưng vị trí trụ vào phải là vị trí dân tộc.
Đến lúc nào chúng ta cần phải chấm dứt sự trụ đóng vị trí dân
tộc nói đây để bảo đảm cho sự phát triển tương lai của dân tộc, đúng
theo nguyên tắc “TRỤ MÀ KHÔNG TRỤ”?
Chắc chắn trong thời kỳ
này của cộng đồng dân tộc, chưa có sự chấm dứt nói đây. Thời kỳ này
gồm nhiều thế hệ sắp đến. Chúng ta phải tin tưởng vào sự sáng suốt
của các nhà lãnh đạo sau này, để quyết định đúng lúc sự thôi không
trụ vào vị trí hiện tại.
Các nhà lãnh đạo Cộng sản ở miền Bắc
đã trụ vào lý thuyết Cộng sản trong thời kỳ tranh giành độc lập.
Chúng ta đã thấy trong các trang trên, sự đi đúng đường một phần nào
của họ trong một giai đoạn. Nhưng chúng ta cũng đã phân tích các lý
do vì sao sự tiếp tục trụ đóng vào phương tiện Cộng sản hiện nay, là
một lối bế tắc cho sự nghiệp tiến hóa của dân tộc. Chẳng những như
chúng ta đã phân tích, sự tiếp tục trụ đóng vào lý thuyết Cộng sản
sẽ không làm sao giải quyết được công cuộc phát triển cho dân tộc,
mà lại còn mở cửa đưa các thế hệ sau này, vào một đời sống vô cùng
đen tối không lối thoát.
Trung Cộng tự mình cũng chưa giải
quyết được vấn đề phát triển cho dân tộc Trung Hoa. Từ ngày các sự
viện trợ của Nga đã chấm dứt, các công cuộc phát triển của Trung
Cộng hoàn toàn đình trệ. Do đó, tự đặt mình vào vòng ảnh hưởng của
Cộng sản, nghĩa là của Trung Cộng, các nhà lãnh đạo Bắc Việt tự mình
đã từ bỏ công cuộc phát triển cho dân tộc.
Hơn nữa, sự phát
triển của một khối người gần 800 triệu dân như của Trung Cộng, là
một mối đe dọa cho toàn thế giới. Và vì vậy công cuộc tìm phát triển
của Trung Cộng tự nó, dù mà Trung Cộng không có gây hấn với ai cả,
cũng gây nhiều kẻ thù. Những người này nhất định sẽ cản trở không để
cho Trung Cộng phát triển.
Các biến cố chính trị gần đây đều
xác nhận sự phân tích trên. Nay nếu chúng ta gắn liền số mạng của
dân tộc Việt Nam vào với số mạng của Trung Cộng thì hành động đó có
nghĩa là chúng ta sẽ từ bỏ công cuộc phát triển đang cần thiết cho
sự sống còn của dân tộc.
Trung Cộng giải quyết không được
công cuộc phát triển của dân tộc Trung Hoa. Nhưng số người 800 triệu
dân cần phải nuôi, là một thực tế không thể phủ nhận được. Sự bành
trướng mà Trung Cộng bắt buộc phải thực hiện dưới áp lực nhân khẩu
kinh khủng đó đã mở màn. Nếu chúng ta không thức tỉnh thì một trong
những nạn nhân đầu tiên của sự bành trướng nói trên sẽ là chúng ta.
Chỉ tưởng tượng đến viễn cảnh đó cũng đủ cho chúng ta khủng khiếp.
Vì vậy cho nên, công cuộc chống sự xâm lăng của miền Bắc, không
lúc nào khẩn thiết cho cộng đồng dân tộc Việt Nam bằng trong lúc
này.
Và vì vậy cho nên, chúng ta thành khẩn mong mỏi các nhà
lãnh đạo miền Bắc, kịp thời nhận định đã đến lúc, vì sự tiến hóa của
dân tộc, không còn nên tiếp tục sự trụ đóng vào phương tiện Cộng sản
nữa.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
Sách Tham Khảo
BAINVILLE(Jacques) Histoire de France (Plon)
CHURCHIIL (S. Winston)
Mémoires sur la Deuxième guerre mondiale (I à VI) (Plon)
COOMARASWAMY (Awanda K.) Hindouisme et Bouddhisme
DE GAULIE
(Charles) Mémoires de Guene (I à III) (Plon)
DURANT (Will)
Histoire do la Civillisation (I à IX)
ETIENNE (Gilbert) La
Voie Chinoise (Tiers Monde)
FALL (Bernard) Indochine
1946-1962 (L'histoire que nous vivous)
GEORGE (Piene)
Géographie sociale du Monde (Presses universitaires de France)
HAYWARD (Fernand) Histoire des Papes
KOESTLER (Arthur) Le
Lotus et le Robot (Calmann-lévy)
LACOUTURE (Jean) La Fin
d'une Guerre. Indochine 1954 (Editions du Seuil)
LE THANH
KHOI Histoire du Viet Nam
MAO TSE TUNG La Guerre
Révolutionnaire
MARX (Karl) Le Manifester du Parti
Communiste; La Lutte des Classes
MAUROIS (André) Histoire
d'angletère
MENDE (Tibor) Converstions avec Nehru; Aux Pays
des Moussons; Asie du Sud- est; L'inde devant l'orage; La Chine et
son Ombre; Des Mandarins à Mao
MITTERAND (Francois) La Chine
au Défi
MIGOT (André) Le Bouddha (le club francais du livre)
NEHRU (Jawaharlal) The Discovery of India; Glimses of World
History (Meridian books, London)
PERROUX (Francois)
L'economie des jeunes nations; Industrialisation et groupement des
nations
RIBBENTROP (Joachim Von) De Londres à Moscou
RUSSELL (Bertrand) La Philosophie Occidentale
SAINT PHALLES
(Alexandre de) Tour du Monde (I à VI)
SCHWEITZER (Dr Albert)
Les Grands Penseurs de l'inde
SPENGLER (Oswald) Le Déclin de
l'occident (I et II) (Gallimard)
TABOULET (Georges) La Geste
francaise en Indochine (I et II)
TOYNBEE (Amold) A Study of
History (I à XI) (Oxford); A Study of History (Abridgement by D. C.
Somerveil I et II); La civillisation à l'épreuve; Guerre et
Civillsation; L'histoire, un Essai d'interpretation (Gallimard); Le
Monde et l'Occident
TOURNOUX (J.) Secrets d'état (Plon)
TRUMAN (Harry) Mémoires (I et II)
VU QUOC THUC Economie
Communaliste au Viet Nam
ENCYCLOPÉDIE DE LA PLÉIADE Histoire
Universelle (I à III); Litérature Universelle (I à III)
HISTOIRE ILLUSTRÉE DE LA RUSSIE (Gallimard)
Ghi chú của bản
đồ Nam Tiến:
Từ thế kỷ 10 về trước, biên giới nước ta từ Đèo
Ngang trở ra Bắc. Năm 1069 Lý Thường Kiệt đánh Chiêm Thành, đưa ranh
giới nước ta đến Cửa Việt.
Năm 1306 Vua Trần Nhân Tông gả
Công Chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy Châu
Ô và Châu Lý, tức Quảng Trị và Thừa Thiên ngày nay.
Năm 1558
Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa.
Đến thời Nguyễn Phúc Tần
(1620-1687), Nguyễn Phúc Chủ (1675-1725) tiến chiếm đất Chiêm Thành
và Chân Lạp.
Năm 1788 Nguyễn Phúc Ánh chiếm đất Gia Định,
nhưng chung quanh vùng đồng bằng Sông Cửu Long còn có 12 lãnh chúa
địa phương, mỗi người chiếm cứ một vùng. Phải mất một thời gian, Nhà
Nguyễn mới hoàn tất cuộc bình định trên đường Nam Tiến để có lãnh
thổ như ngày nay.
Bản hướng dẫn:
Đầu trang |
Mục lục |
LGT
| Giàn bài |
1 | 2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13
| 14 |
15 |
16 |
17 | Tham khảo
HẾT
Down Load sách ở dạng PDF
1. Kích thước 8 inches x 5
inches, dạng
"sách đọc" gồm 430 trang,
2. Kích thước 8 inches x 11
inches, dạng
giấy học trò gồm 225 trang.
Quý vị có thể dùng
chương trình Acrobat Reader để mở và đọc các văn kiện này. Trân
trọng. --bkt
Trung tâm lưu trữ các Bộ Huy hiệu QLVNCH
|
Hình nền: Hòn Chồng-Nha Trang. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: bkt sưu tầm, trình bày & ấn loát
Đăng ngày Chúa Nhật,
March 12, 2017
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ,
ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
Khóa 10A-72/SQTB-QLVNCH/Vùng Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Liên lạc:
Ban Điều Hành
Trở lại đầu trang