Khóa 10A-72 SQTB-QLVNCH/Đồng Đế, Nha Trang
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Lịch sử
Chủ đề: QH-30-T4Đ - Năm thứ 42
Tác giả: Mường Giang
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Hai
mươi năm chinh chiến, QLVNCH đã có 250,000 người gục ngã trước đạn
thù và nửa triệu thương binh chịu đời bất hạnh vì một phần cơ thể đã
gửi lại sa trường. Tuy nay chính phủ cũng như QLVNCH không còn nữa,
nhưng trong tâm tư của mọi người được sống sót qua cuộc đổi đời mạt
kiếp, thì lý tưởng và danh dự của Người Lính càng được sáng tỏ,
trong niềm hãnh diện chung của quân-dân Miền Nam.
Lịch sử của một quốc gia là những gì trung
thực, mà người dân của nước đó đã ghi chép không hề thêm bớt. Nhờ
vậy ta mới biết được về cuộc nội chiến của Hoa Kỳ xảy ra từ năm
1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền nước Mỹ tại
Miền Bắc là kẻ thắng trận, đã không hề lên án, bỏ tù hay trả thù
những người Miền Nam bại trận. Ðã vậy, Hoa Kỳ còn ghi ơn tất cả
những chiến sĩ của hai miền vừa nằm xuống trong cuộc chiến, vì lý
tưởng riêng của họ.
Thế Chiến 2 kết thúc, Tòa Án Quốc Tế
Nuremberg chỉ kết tội những đầu sỏ trong phe Trục mà không hề bắt bớ
hay gây khó khăn cho quân nhân các nước Ðức-Ý-Nhật... Năm 1920, lãnh
tụ kháng chiến quân Libya là Tướng Mukhta bị người Ý bắt và tử hình,
nhưng chính tổng tư lệnh Ý tại Bắc Phi là người đã ở lại pháp trường
để lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của
người Ý lúc đó.
Tại VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm
1867, sau đó là thành Hà Nội năm 1873. Các tướng lãnh thủ thành
đương thời là Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu... đã
oanh liệt tử tiết theo thành mất và được kẻ thù là người Pháp tôn
kính mặc niệm như chính các tướng lãnh của họ. Sau rốt là số phận
của 500,000 quân nhân Mỹ đã tham chiến tại VN, trong số này hơn
50,000 người tử trận. Ngày nay các chiến sĩ trên đã được quốc dân
Hoa Kỳ trả lại công lý và danh dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng
như an giấc nghìn thu bên cạnh ông cha, một đời Tử sĩ. Tất cả đã
chết cho lý tưởng quốc gia, sống vinh quang và yên nghỉ trong danh
dự.
Người lính
VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đã phơi gan trải mật
để bảo vệ cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị cộng sản quốc
tế Bắc Việt xâm lăng giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có
cộng sản khủng bố cướp bóc giết hại dân lành, là ở đó có sự hiện
diện của người lính miền Nam. Ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở
đó người dân trong vùng chiến nạn, tìm đủ mọi cách trốn thoát sự kềm
kẹp của giặc cộng, để trở về vùng quốc gia nhờ che chở đùm bọc. Ai
có làm lính tác chiến hay người cán bộ áo đen Bình Ðịnh Nông Thôn,
Cán Bộ Xã Hội... mới biết được thế nào là nỗi thống khổ, trên đe
dưới búa, cá nằm giữa dao thớt, người dân tay không hứng hai lằn đạn
bạn thù, của người VN trong thời ly loạn. Có là người dân bị kẹt
trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới thấu hiểu đời người lính
gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn, nghèo sống đời
cay cực, mới thương xót cho “cảnh ba đồng, ba cộc” của kiếp lính
Miền Nam.
Nhức
nhối và mai mỉa nhất, đó là hiện tượng “thuyền nhân tỵ nạn” sau ngày
30-4-1975. Ngoài tuyệt đại đa số nạn nhân đích thực của CSQT, trong
số này không thiếu mặt “những tên tuổi lớn” một thời chạy theo VC
đâm sau lưng người lính, những nhà văn, nhà báo, cha cố, kể cả thành
phần suốt đời chỉ biết sống ký sinh vào xã hội... cũng lợi dụng
“danh nghĩa người lính” để được tỵ nạn chính trị. Ứa gan hơn là
những tên VC trà trộn trong hàng ngũ những người vượt biên, vượt
biển, sau khi tới được bờ đất hứa, chúng trở mặt ngay, để lộ diện
thành công an, cán bộ, đảng viên như ngày nào... để nạt nộ, hăm dọa
đồng hương, qua cái đòn “nếu theo Ngụy”, sẽ không được về VN để thăm
nhà, như đã thấy tới độ mù mắt khắp nơi tại hải ngoại.
Trong nỗi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng
thảm nhất là người lính đã không bao giờ được một lời an ủi tử tế
của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết giặc bảo vệ cho
người dân. Trái lại họ còn bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt cuộc
chiến. Thật vậy, khi cầm súng thì cô đơn, nửa đường bị hậu phương,
đồng minh và lãnh đạo phản bội bán đứng. Ngày trở về thì bị giặc trả
thù đày đọa, rồi chết thầm trong đói nghèo tủi nhục.
Tiếp tay với những tâm hồn thác loạn, ăn
cơm quốc gia thờ ma cộng sản, là bọn báo chí quốc tế bất tài, a dua,
xu thời. Nhờ vậy mà cộng sản Bắc Việt, mới có cơ hội tung hoành một
mình một cõi, thao túng vẽ vời huyền thoại, bóp mép lịch sử, để đầu
độc các thế hệ VN đang sống trong sự kềm kẹp của chế độ bạo tàn, độc
đảng. Nhưng rồi gieo gió thì phải gặt bão, chính sự khoác lác dại
khờ trên, đã đưa toàn bộ đảng cộng sản VN chìm trong cái vũng bùn ô
nhục, khi bí mật lịch sử lần lượt được mọi phe phái bật mí và hồi
tưởng.
Câu chuyện
tướng Nguyễn Ngọc Loan trong trận Tết Mậu Thân 1968 ở Sài Gòn, vì
không thể chịu nổi hành động dã man, đẩy các trẻ em trong xóm ra làm
lá chắn đỡ đạn cho đồng bọn tẩu thoát. Vì quá tức giận không kềm chế
được, nên tướng Loan đã rút súng Rouleau ngắn nòng, bắn chết tên VC
chỉ huy là Bảy Lốp, tại ngã ba Vườn Lài (góc đường Vạn Hạnh, Minh
Mạng và Vĩnh Viễn), trước mặt phóng viên Mỹ là Eddie Adams, nên đã
chụp được tấm hình này, đem bán rao khắp thế giới và nhận được giải
thưởng quốc tế.
Sau ngày 30-4-1975 Tướng Loan tới tỵ nạn tại Hoa Kỳ, đã bị bọn phản
chiến cùng với giới truyền thông Mỹ làm lớn chuyện. Thậm chí có
Elizabeth Holtzman (nữ dân biểu DC bang New York) và Dân biểu Harold
Sawyer (CH bang Michigan), đã kiện cáo, đòi Chính phủ Mỹ trục xuất
tướng Loan ra khỏi Hoa Kỳ, vì tội vi phạm nhân quyền nhưng bị thất
bại.
Trước và sau
ngày tướng Loan từ trần 14-7-1998, người phóng viên chụp tấm hình
năm xưa Eddie Adams, đã viết một bài báo xin lỗi tướng Loan vì sự
ray rứt hối hận của mình, trong đó có đoạn “Ông đã làm công việc của
ông, còn tôi làm bổn phận của tôi”. Ngày tướng Loan qua đời, Eddie
lại viết thêm môt bài báo khác đăng trên tờ Times, đồng thời gởi tới
một vòng hoa phúng điếu, trên đó có đính một danh thiếp viết tay
“General, I’m so, so, so... sorry”. Bao nhiêu đó, chắc cũng đủ làm
nhức óc những tên “sống nhờ người tỵ nạn” nhưng lúc nào cũng viết
lách, làm báo ca tụng VC.
Ðau đớn nhất là trận Hạ Lào 1971, cho dù
các đơn vị đã tham chiến như SĐND, TQLC, Sư Ðoàn 1 BB, Lữ Ðoàn 1
Thiết Kỵ và Liên Ðoàn 1 BĐQ có bị tổn thất nặng nề. Nhưng cuối cùng
QLVNCH cũng đã đạt được mục đích của cuộc hành quân, là phá hủy gần
như toàn bộ các cơ sở hậu cần, tiếp liệu tại các mật khu, binh trạm
tại đây. Lúc đó, chỉ có Ðại úy Trương Duy Hy, pháo đội trưởng
PĐC/44, tham dự cuộc hành quân, tại căn cứ Hỏa lực 30, là tác giả
quyển Hồi ký “Tử thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30, Hạ Lào” là viết sự thật.
Ngoài ra tất cả bọn phóng viên Mỹ & Tây phương đều ở Khe Sanh, hằng
ngày nhìn cảnh máy bay tải thương xác lính và thương binh về tới
tắp. Từ đó chụp hình, diễn dịch rồi gửi về nước, nói là QLVNCH đã
thảm bại tại Hạ Lào, giống như hồi Tết Mậu Thân (1968).
Riêng làng báo Sài Gòn cũng vậy, vì không
có ai vào tận chiến trường để chứng kiện sự thật, nên chỉ đành “chôm
chỉa tin từ báo Mỹ” rồi “Mao Tôn Cương thành trận đánh cuối cùng
không có đại bàng ‘rằng’ VC đâu có quân số đông đảo để đánh QLVNCH,
mà chỉ sử sụng hỏa pháo. Ở đây làm gì có kho tàng như tình báo đã
báo cáo láo”. Tóm lại theo họ thì QLVNCH vì sợ hỏa lực của VC nên bỏ
chạy. Có đọc những tin tức của báo chí Sài Gòn lúc đó, mới thấy máu
của người Lính Miền Nam đã đổ suốt cuộc chiến để bảo vệ cho “đám
này”, thật là uổng phí và tội nghiệp cho những kẻ đã nằm xuống truớc
ngày 30-4-1975.
Nhưng người lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng để chiến
đấu giữ nước và bảo vệ sinh mạng cho người khác, chứ không quen viết
lịch sử để ca tụng một chiều. Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn
hay sự hồi phục danh dự, thì đó cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế
giới tự do khi đã biết được sự thật cùng ý nghĩa của cuộc chiến mà
người Miền Nam phải bán mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm lăng tới giờ
phút cuối cùng. Ngoài ra còn có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng bào
hậu phương, đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân và gia
đình người dân qua cuộc đổi đời, cũng đã trở thành nạn nhân tận
tuyệt, của một chế độ bạo tàn, của những con người không có nhân
tính, mà hôm qua chính người dân coi như thần thành, nên đã công
khai giúp và theo chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng bào mình.
Trong lúc đất nước đang lâm nguy vì giặc
xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần hết thanh niên nam nữ thuộc mọi
tầng lớp của xã hội miền Nam, không phân biệt sang hèn, kinh thượng,
bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi trẻ và đời người để lên
đường ra biên cương chống giặc thù. Giữa lúc đất nước lầm than, muôn
người khốn khổ vì chiến tranh do Hồ Chí Minh và cộng sản mang từ
Liên Xô-Trung Cộng vào để dầy xéo non sông tổ quốc, thì tại hậu
phương Miền Nam có một số người tự nhận mình là trí thức, giáo sư,
tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân thì, mập mạnh nhưng lại tìm cách
đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lý do để được hoãn dịch, trốn
nghĩa vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu vì sợ chết mà trốn đi
lính, thì cũng còn có thể tha thứ nhưng những hạng người này, không
bao giờ chịu để yên cho đồng bào và đất nước mình đang trăn trở
trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn
không thông cảm cho ai hết, ngoài cái lý tưởng đã thu lượm được, qua
sách báo tây phương phản chiến và các kinh điển nhật tụng của thiên
đàng xã hội chủ nghĩa, trong lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa
vật chất, đàn bà và thời gian để đâm thọc, phá hoại những người đang
liều mạng xả thân bảo vệ mạng sống thừa thãi ký sinh của mình.
Ngày nay ai cũng biết, cuộc chiến Ðông
Dương lần thứ hai (1955-1975) rất đa dạng, phức tạp, khó có thể định
nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo lý tưởng, ai muốn gọi thế nào
cũng đều có ý nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên với người
Miền Nam VN, thì đây là một cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc
chiến này hoàn toàn khác biệt với cuộc phân tranh của hai họ Trịnh
Nguyễn vào thế kỷ thứ 17, lúc đó chỉ là cuộc tương tàn nồi da sáo
thịt để tranh giành quyền lãnh đạo của đất nước. Trái lại cuộc chiến
lần này, người Miền Nam chiến đấu, vừa để tự vệ, vừa bảo vệ phân nửa
mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng chủ thuyết cộng sản.
Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản chiến nằm vùng lúc đó, lại
trắng trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.
Chính bọn trí thức thiên tả này đã lợi
dụng quyền tự do báo chí ngôn luận của VNCH, để viết lách, bôi nhọ,
xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu phương, đâm sau lưng chiến sĩ
tiền tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng bào, trong đó có cả sinh
mạng ký sinh của chúng.
Cuối cùng, VNCH đã sụp đổ, kéo theo sự mất
mát toàn diện mà người Việt QG đã tốn xương máu xây dựng. Người chạy
thoát ra nước ngoài tuy không bị đau đớn thể xác nhưng tinh thần và
sự dằn vặt, cũng đã làm cho họ điên đảo suốt quãng đời lưu vong nơi
xứ người. Tội nghiệp nhất, cũng vẫn là Lính phải còng lưng cúi đầu
gánh chịu những thảm tuyệt của kẻ thù man rợ, những điều mà chắc
chắn thế giới tự do không hề nghĩ tới, vậy mà vẫn tới trong địa ngục
trần gian của các nước cộng sản, trong đó có CSVN.
Ngoại trừ một số rất ít khôn ngoan hay có
thân nhân VC bảo lãnh, hầu hết các cấp Quân, Công, Cán, Cảnh của Nam
VN đều chịu sự hành hạ nơi chốn lao tù. Chúng bắt tất cả Sĩ quan và
cán bộ, công chức, cảnh sát VNCH vào tù, qua cái gọi là “Trại Cải
Tạo” để đánh lừa thế giới, về sự dã man tàn ác đối với tù nhân chiến
tranh, trái với công pháp quốc tế đã qui định. Hầu hết các trại tù
đều lập ở Miền Bắc và Bắc Trung Phần, phía bên kia vĩ tuyến 17. Tại
Miền Nam, trại tù nằm trong rừng núi cheo leo, ma thiêng nước độc,
để lao động khổ sai, chết dần mòn vì sự hành hạ của quản giáo và nỗi
cực khổ, đói lạnh nhưng ăn uống thì thiếu thốn với khẩu phần hằng
ngày, chỉ lưng chén cơm gạo xấu, trộn với khoai bắp, còn những người
bị biệt giam thì đói khát vì phần ăn phát rất ít. Nói chung là không
còn bút mực nào để kể cho hết nỗi hận hờn tủi nhục của người tù dưới
chế độ CS. Ðói quá nên người tù phải ăn tất cả những gì có trước mặt
như rắn, rít, ếch nhái, chuột, giun đất, cào cào... kể cả cỏ chai và
cỏ diệu, thay cơm để đủ sức chống chọi với tử thần, lúc nào cũng như
chực chờ sẵn bên cạnh:
“Ngày hành
xác giữa núi rừng hoang vắng,
đêm ôm đầu
thương tiếc chuyện ngày xưa
bạn bè đến đây
càng lúc càng thưa
thằng nằm xuống, thằng
đày sang trại khác
thằng chống lại thì xác
thân tan nát
thằng bệnh đau thân xác cũng
không còn
đem xác người đi phá núi dời non
đem mạng sống để gỡ mìn tháo đạn
thay trời
dẫn nước vào sông đã cạn
thay trâu kéo cầy
phá vỡ ruộng hoang
buổi sáng gượng vui nhìn
lúa trổ bông
nửa đêm khóc thầm đời lính bất
hạnh
tôi đã sống qua những ngày đói lạnh
tôi đã nhét đầy tài liệu buồn nôn
kiểm điểm
nghìn câu cho tốt tốt hơn
để theo đảng biến
người thành khỉ vượn”.
(thơ mường giang).
Lính sống bị trả thù đã đành, cho tới
những người lính đã chết, CSQT cũng không tha, thì nói chi thành
phần Thương Phế Binh, Cô nhi Tử sĩ của VNCH, lại càng bị đọa đày thê
thảm. Tất cả năm tháng dù nay đã đi vào quân sử nhưng sự thật vẵn
còn nguyên trước mắt, với hai cảnh đời hiển hiện như một chứng tích
nghìn đời không phai mờ: Ðó là địa ngục VN sau 38 năm bị giặc chiếm
đóng và giá trị đích thực của QLVNCH từ 1960-1975, đã có rất nhiều
cấp chỉ huy tài ba lẫn đạo đức, văn võ vẹn toàn, được đào tạo từ các
quân trường nổi tiếng nhất vùng Ðông Nam Á thời đó gồm các Trường Võ
Bị Quốc Gia Ðà Lạt, Bộ Binh Thủ Ðức, Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị,
Các Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và Hải Quân, Học Viện Quốc Gia
Hành Chánh và Cảnh Sát, Trường Ðại Học Quân Sự... chứ đâu phải chỉ
có những tướng tá từ thời Pháp thuộc?
Ngày xưa người Lính VN, chiến đấu trong
vinh quang, khi trở về cũng thật hiên ngang, giữa cảnh phu phụ trùng
phùng, nồng ấm kết lại mối tình xưa:
“... xin
vì chàng, xếp bào cởi giáp
xin vì chàng giũ
lớp phong sương
vì chàng tay chuốc chén
vàng
vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng...”
(Chinh Phụ Ngâm: Ðặng Trần Côn và Ðoàn Thị Ðiểm)
Ngày nay người chiến sĩ VNCH không có cái
diễm phúc trên, vì suốt cuộc chiến hai mươi năm, ngoài mặt trận thì
chống trả với kẻ thù trong nỗi cô độc. Khi trở về lại bị kẻ thù đọa
đày, tù ngục và chết trong uất hận nghẹn ngào.
Thử hỏi giữa cõi đời này, có quân đội nào
bất hạnh hơn QLVNCH? Ngày nay, đã có không biết bao nhiêu người,
đang sống thản nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại, mà hầu hết bản
thân họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của lính.
Không biết trong tâm tư đó, có một giây phút nào do lương tâm xao
động, khiến trái tim người, chợt nghĩ tới những kẻ bất hạnh đã VỊ
QUỐC VONG THÂN?
Xưa NGƯỜI LÍNH chiến đấu anh dũng trong khói lửa để bảo quốc an dân.
Nay những người lính già còn sót lại sau cuộc chiến và lớp hậu duệ
của lính năm nào, cũng đã và đang tiếp tục tranh đấu không ngừng,
cho một ngày về QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG được sống thật với tự do và no
ấm, như chúng ta hiện nay đang hưởng tại quê người.
“... tội
nghiệp, đời trai chưa thỏa chí
sa trường
dung ruổi đã phơi thây
đoàn quân hùng liệt
nay về đất
hồn vẫn quanh co giẫm lối gầy
chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi
mà khóc quê hương khuất bến bờ
nhớ lúc hát
rừng nơi chiến địa
mộng hoàng hoa, khép
giữa hư vô”
(thơ Mường Giang)
Xin nghiêng mình trước đồng đội đồng bào
đã hy sinh vì đại nghĩa Dân Tộc Việt. Cũng xin chân thành biết ơn
Quý Ân nhân đồng hương khắp mọi nẻo đường viễn xứ, đã và đang hướng
về những người lính cũ ngày xưa, giờ họ là Quả phụ, cô nhi và thương
phế binh VNCH. đang kẹt ở quê nhà.
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2013
Mường Giang
Nguồn:
http://thuhoa.ipower.com/forum/index.php/quoc-han/van-quochan/908-qu-c-h-n-30-4-vi-t-v-ngu-i-linh-vnch-b-t-h-nh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Trung tâm lưu trữ các Bộ Huy hiệu QLVNCH
Anh đứng nghìn năm thao-diễn-nghỉ
Em nằm xõa tóc đợi chờ anh!
|
Hình nền: Bãi Tiên, Đồng Đế-Nha Trang. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by ddcb chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật,
Aprile 2, 2017
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ,
ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
Khóa 10A-72/SQTB-QLVNCH/Vùng Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Liên lạc: Ban Điều Hành
Trở lại đầu trang