Khóa 10A-72 SQTB-QLVNCH/Đồng Đế, Nha Trang
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Lịch sử VNCH
Chủ đề: 30 Tháng 4 Đen - Năm thứ 42
Tác giả:
Tù Cựu-XM520
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Mùa
Quốc Hận 30 Tháng 4 Đen -
Nhớ anh linh Anh hùng Nguyễn Ngọc Trụ.
“Con
ngựa phóng trên đồng cỏ, dưới chân nó là một thảm cỏ xanh mịn như
nhung, nó không biết phía trước là một vực thẳm đang chờ sẵn, và con
ngựa đã lao đầu xuống vực sâu vì mắt đã bị bịt. Người dân Xã Hội Chủ
Nghĩa chính là những con ngựa đó.”
--Anh hùng Nguyễn Ngọc Trụ.
Tôi
trình diện cải tạo tại trường Lê Quang Định chiều 26-06-1975, hạn
chót dành cho cấp thiếu và trung úy. Tối khuya ngày 28, tất cả được
dồn lên xe. Không biết đi đâu. Chúng đưa chúng tôi đi quanh đi quẩn,
đi lung tung, đi lắt đi léo, lúc ngừng lúc chạy. Cuối cùng, sau hơn
chục giờ lươn lẹo, chúng tôi được “đổ quân” gần chân núi Bà Đen,
vùng Trảng Lớn Tây Ninh, nơi có Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn
25 cũ, cách nơi xuất phát không đầy 2 giờ lái xe.
Như vậy, bài học đầu tiên mà
Bác Đảng đã
dạy cho chúng tôi là: Lắt Léo Lươn Lẹo. Sau đó chúng tôi được tổ
chức thành tổ, khối, trại. Tôi ở trại L4T1 gồm có 14 Khối, mỗi khối
là một nhà 120 người, và cứ 10 người là 1 tổ, khoảng hơn tháng sau
được “biên chế” lại chỉ còn 5, 6 khối cho 1 Trại. Tôi ở khối 13, khối
14 là Nữ. Khối 13 và 14 cộng lại cũng chưa đủ 120, nên tạm thời sinh
hoạt chung. Ngày kế tiếp, các cô được phân công tháo gỡ đinh từ
những thùng đạn pháo binh, còn tù nam thì rào kẽm gai quanh trại.
Tôi vừa làm rào tự nhốt mình vừa nhìn
quanh quẩn. Thấy ngọn “cờ đỏ sao vàng” đang tự mãn ưỡn ẹo theo gió
phía sân trại bộ đội, tôi đâm thù cái “cờ vàng sao đỏ” của Ô. Thiệu,
cái cờ mà trước đó mấy năm tôi cho là tiếng cú kêu báo trước một
chuyện chẳng lành, 2 lá cờ trông y hệt nhau tuy 2 màu cờ có đối
nghịch nhau về màu sắc. Một chút hoang tưởng, tôi huýt gió bài “Cờ
bay, cờ bay...”.
Ngay khi ấy, có tiếng nói ngay sát sau lưng tôi “Hay lắm, nào, chúng
ta cùng hát”, và người đó hát vài câu trong bài hát tôi đang huýt
gió, trong đó có câu anh sửa lại “... Sài Gòn ơi, chờ quê hương giải
phóng...”. Người đó chính là
Nguyễn Ngọc Trụ, người mà sau đó không
lâu đã đi vào huyền sử lan truyền khắp các trại tù vùng Trảng Lớn,
Tây Ninh. Anh Trụ trông khoảng 30, người tầm thước, da trắng trẻo,
đeo cặp kính dầy cộm, phong cách điềm đạm và trí thức, ăn nói nhẹ
nhàng, nhưng từng lời dứt khoát.
Sau này tôi được nghe biết thêm
anh có vợ
2 con, Trung úy, có bằng Cao Học Luật/Công Pháp Quốc Tế với Luận Án
Tiến Sĩ sắp hoàn thành, và là Giảng Viên dậy tại Trường Võ Bị Đà Lạt
môn thuộc về Luật và Chính Trị. Đó, lúc đầu tôi chỉ biết về anh có
bấy nhiêu vì anh và tôi không ở chung một nhà, thậm chí cũng không
còn cùng trại vì hơn tháng sau đó có đợt “biên chế”. Biên-chế có
nghĩa là chuyển trại hoặc sắp xếp lại nhân sự... Trước hết, Tù
Nữ/K.14 được đem đi khỏi Trảng Lớn Tây Ninh. Anh Trụ vẫn ở lại T1,
còn tôi thì chuyển qua T3 cách T1 khoảng 1km.
Qua trại mới, những người tù bắt đầu bị
khủng bố nhiều tuần bằng một đợt thẩm vấn chính thức đầu tiên. Buổi
sáng hôm ấy, mọi người được lệnh nghỉ “lao động” ở nhà viết tờ tự
khai; tới buổi chiều và dưới sự giám sát của Quản Giáo, từng người
đọc bản tự khai, những người khác phê bình thảo luận để đánh giá sự
thành khẩn của bản tự khai đó và có ghi vào biên bản để nộp cho Quản
Giáo. Ngày kế tiếp, trong lúc tiếp tục mổ xẻ những bản tự khai, thì
có 2 vệ binh, mặt đằng đằng sát khí, tới kêu tên từng người một dong
đi với 2 khẩu AK luôn luôn thúc đằng sau. Phòng thẩm vấn là những
lều tranh kín tường, trên một khu đất lớn hơn một Sân Vận Động và xa
khỏi trại, trước mỗi cửa lều có một vệ binh tay cầm súng đứng gác.
Vừa bước vào trong lều, người bị thẩm vấn đã bị kinh hoàng bởi 2
khuôn mặt rất đanh ác đang ngồi chờ sẵn, 1 tên vặn vẹo hỏi còn tên
kia quan sát. Cứ như vậy trong nhiều tuần lễ, người đã và sắp bị
thẩm vấn đều hoang mang lo sợ, ai cũng có thể nghĩ mình sắp bị bắn
tới nơi, vì hầu như ai cũng bị buộc vào tội chết.
Sau đợt vừa thẩm vấn vừa khủng bố, Cách
Mạng chính thức cho Tù hưởng sự “vinh quang” lao động của đời tù khổ
sai như bất tận; gọi là “chính thức” vì trước đó cũng đã phải lao
đông cực khổ nhưng không “quy hoạch” bằng, thế mà chỉ sau vài tháng
“không chính thức” nhiều người chỉ còn da bọc xương. Tuy thế, trên
đường đến lao trường, chúng tôi lại có dịp được gặp những người khác
trại và được nghe nhiều tin tức về Nguyễn Ngọc Trụ. Càng ngày càng
có nhiều chuyện kể về sự anh hùng bất khuất của anh, nhất là sau mỗi
đợt Học Tập Chính Trị, mà lúc đó tôi cho là được thêu dệt nhiều hơn
là sự thật.
Một
hôm nghe tin Quang và Vũ ở T1 trốn trại và bị bắt lại, cả 2 hoặc 1
trong 2 người là học trò của Trụ, khóa cuối cùng trường Võ Bị Đà
Lạt. Trước khi trốn, 2 người nhờ anh giữ một lá thơ để chuyển cho
gia đình họ khi có điều kiện, và anh Trụ đã tiêu hủy lá thơ ngay sau
khi được tin họ bị bắt lại. Sau tin 2 người trốn bị bắt lại, là tin
anh Trụ bị bắt biệt giam, lý do là 2 người kia bị ép cung, khai là
đã trốn trại theo lệnh của Thầy Trụ rồi sẽ dẫn đường đem “tàn quân
quay lại tấn công giải thoát trại giam”. Khi nghe tin anh Trụ bị
biệt giam, tôi xét lại về ý nghĩ mà tôi đã cho là có nhiều phần thêu
dệt trong những chuyện rất anh hùng về anh. Sau này, khi chuyển qua
nhiều trại khác và được nghe kể về anh Trụ từ chính những người đã
từng ở chung với anh, thì tôi thấy sự thực về anh Trụ còn “ghê gớm”
hơn những cái mà tôi cho là “có phần thêu dệt”.
-Không nhận tội “tay sai đế quốc, bán
nước, có nợ máu với nhân dân”: Chỉ trong vòng vài tháng đầu tiên,
mỗi người tù phải viết và đọc nhiều chục bài viết (dưới hình thức
bản lý lịch, tự khai, thâu hoạch...) xác nhận mình là kẻ có tội như
đã nêu trên. Lúc ấy, dù chỉ tự kể tội một cách “chung chung”, tôi
cũng cảm thấy thật xấu hổ. Tôi phải nói ra điều này, để từ cái hèn
mọn của riêng mình mới thấy được sự vĩ đại của Người Anh Hùng.
Trong
tất cả những bài viết như vậy, anh Trụ chỉ ghi tên, chức vụ, và hoàn
toàn để trống “phần nhận tội”. Anh khẳng định công việc anh đã làm
là phục vụ cho một tương lai Việt Nam độc lập, dân chủ, nhân bản.
Thực hiện một lý tưởng như vậy sao gọi là có tội.
- Cộng sản và Mỹ đều là hiểm họa của dân
tộc Việt Nam: Trong những giờ gọi là “Thảo Luận” tại Khối, có Quản
Giáo “chủ trì”, hay những ngày “lên lớp” tại Hội Trường đông hàng
ngàn người mà Giảng Viên là những Cán Bộ Chính Trị từ cấp cao ở xa
tới, Nguyễn Ngọc Trụ đã dõng dạc lên án cả Mỹ lẫn cộng sản:
Mỹ lợi
dụng xương máu Việt Nam và của cả nhân dân Mỹ để phục vụ quyền lợi
phe nhóm. Còn chủ Thuyết cộng sản chỉ là hoang tưởng, đã lỗi thời
không thuyết phục được người văn minh. Giữa 2 cái họa, không thể
đương đầu cùng một lúc, anh đành tạm chọn cái họa nhẹ là Mỹ để đương
đầu với cái họa lớn là cộng sản, mặc dầu anh phản dối sự hiện diện
của Quân Đội Mỹ tại Việt Nam. Súng Mỹ, súng Nga, hay súng Tầu đều là
kẻ thù của dân tộc Việt Nam.
- Người dân trong xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa
giống con ngựa bị bịt mắt: Trước hàng ngàn người trong hội trường
T1, dĩ nhiên trước mặt cả bầy Cán Bộ các cấp, anh Trụ kể dụ ngôn về
một con ngựa.... Con ngựa phóng trên đồng cỏ, dưới chân nó là một
thảm cỏ xanh mịn như nhung, nó không biết phía trước là một vực thẳm
đang chờ sẵn, và con ngựa đã lao đầu xuống vực sâu vì mắt đã bị bịt.
Người dân Xã Hội Chủ Nghĩa chính là những con ngựa đó.
-Chuyện mới nhất kể về ngày đầu biệt giam: Cuối tháng 3/2008, tôi may mắn tìm liên
lạc được với 1 người ở chung một khối và thân với anh Trụ, tên là
TTT hiện ở Mỹ. Anh xác nhận những gì tôi nghe được về anh Trụ đều
đúng, nhưng vẫn còn ít so với sự thực về anh Trụ. Theo anh TTT kể
lại, không lâu sau khi 2 người trốn trại bị bắt, thì có một buổi tập
trung toàn trại T1 tại Hội Trường, anh TTT ngồi bên cạnh anh Trụ,
chủ tọa buổi nói chuyện là một “đoàn cán bộ cấp cao” cầm đầu bởi 1
trung tá. Khi viên trung tá nói là có một người cầm đầu tổ chức phản
động..., thì anh Trụ đã đứng lên nói với tên trung tá: “Tôi biết người
mà ông định nói là ai, là tôi chứ gì? Tôi không cầm đầu ai cả, tôi
chỉ bày tỏ chính kiến, tôi không thích chế độ cộng sản, ông có muốn
nói chuyện với tôi về lý thuyết cộng sản không?”. Cả hội trường 1000
người im phăng phắc. Cả đám lý thuyết gia CS khựng lại trước sự
quyết liệt kiên cường của một kẻ sĩ anh hùng. Sau một thoáng lúng
túng, viên trung tá nói sẽ nói chuyện với anh sau rồi bảo anh ngồi
xuống. Anh TTT cũng nói thêm là trước hôm có buổi tập trung tại hội
trường, anh Trụ đã nhờ anh chuyển lời trối trăn đến gia đình nếu có
thể.
Ngoài những
điều nghe về anh Trụ mà tôi đã phối kiểm, tôi cũng đã chứng kiến 5
tháng cuối đời của anh, tận mắt tôi đã chứng kiến bọn giết người hèn
hạ đã trơ trẽn dựng lên một trò hề thật lố bịch gọi là Tòa Án để sát
hại anh, và chính anh TTT là 1 trong những người đã chôn anh Trụ
tại khu An Dưỡng Biên Hòa cũ (không phải tại Trảng Lớn Tây Ninh như
có người đã viết mà tôi không nhớ là ai).
Hình ảnh hiếm hoi chụp lại được chúng (csVN)
đã hành hạ quân dân cán chính VNCH như thế này đây
(Vietthuc)
Vào
một buổi tối giữa tháng 5/1976,một số tù Trảng Lớn bị chuyển đi
xa đợt đầu tiên,và tôi có tên trong danh sách này. Khoảng 4 giờ
chiều thì có một đoàn xe tới đậu giữa sân trại tôi là T3. Từng
đoàn tù từ những trại lân cận bị dẫn đến và tống lên xe, sau đó
mới đến tù T3, mỗi xe 40 người. Tôi đếm được tất cả 25 chiếc xe,
và tôi được lệnh lên chiếc xe cuối cùng.
Trong xe, không kể 2 thằng vệ binh ngồi
2 bên ở cuối xe, tôi đếm kể cả tôi là 24 người, Non và Tỷ bị trói
ngồi bên trong (bị tố cáo là 2 tên CIA hạng bét, biệt giam
trước đó 1 tháng). Trời sắp tối thì có 1 chiếc xe con chạy tới
đậu sát bên xe tôi, một người tay bị trói quặt đằng sau được lôi
ra và tống lên xe tôi: Nguyễn Ngọc Trụ. Anh Trụ bị tống vào
trong, cùng với Non và Tỷ. Lúc đi ngang chỗ tôi, lợi dụng bước
chân anh chao đảo vì tay bị trói, tôi đứng lên vờ như đỡ cho anh
khỏi bị ngã và nắm cánh tay anh bóp bóp, anh mỉm cười nhìn tôi
rồi gật đầu chào mọi người. Một người nào đó nói vừa đủ nghe với
anh Trụ “Xin anh đừng chết”. Như vậy đoàn xe có 25 chiếc, chúng
tôi ở xe thứ 25, và trong xe thêm anh Trụ nữa là 25 người. Xe bắt
đầu chạy khi trời tối hẳn.
Lại một lần nữa Bác Đảng cho ôn lại bài
“Lắt Léo Lươn Lẹo”, xe lúc ngừng lúc chạy, mãi khoảng 2 giờ đêm
thì chúng tôi được đổ xuống khu Trung Tâm An Dưỡng, Biên Hòa. Anh
Trụ bị tống thẳng vào thùng sắt Connex ngay cổng trại. Non,Tỷ
được cởi trói và đứng xếp hàng chung với mọi người. Chúng tôi 24
người cùng 40 người nữa bị chia ra và sáp nhập chung với anh em
Cảnh Sát, đã ở đây từ trước, vào 3 đội Mộc, Rèn, Chăn Nuôi; tôi
vào đội Mộc có cả nhà văn Nguyễn Hữu Nhật tức thi sĩ Động Đình
Hồ.
Khu An
Dưỡng gồm nhiều trại, mỗi trại khoảng 1000 người và được gọi là
T1, T2, T3... Tôi không nhớ trại tôi ở là T mấy, nhưng chắc chắn
một điều là chiếc connex đựng anh Trụ nằm ngay sát cổng trại tôi
ở, nơi lúc nào cũng có vệ binh đứng gác. Ngay từ cổng là một con
đường khá lớn sát hàng rào bên trái, kéo dài thẳng tắp suốt bề
ngang trại. Từ cổng theo con đường này đi vào, đầu tiên sẽ thấy
bên phải là 2 dãy nhà nằm song song nối tiếp nhau dọc theo hàng
rào chiều dọc của trại, Quang và Vũ ở nhà đầu. Qua khỏi 2 dãy nhà
là sân trại, cuối sân là 1 cái hội trường thật lớn bằng tôn (nghe
nói là nhà ướp và mổ xác của Mỹ để lại), nơi sẽ là tòa án xử anh
Trụ 5 tháng sau. Cứ tiếp tục theo con đường ngang, qua khỏi sân
trại tới cuối hàng rào là dãy 4 căn nằm song song nhau, tôi ở nhà
đầu tiên sát con đường, và bên kia con đường đối diện với nhà tôi
ở là một dãy hơn chục cái cầu tiêu nổi dành cho cả trại.
Mỗi ngày cỡ 8 giờ sáng thì anh Trụ có
khoảng 15-20 phút đi cầu tiêu. Trên đường đến khu cầu tiêu, anh
phải đi ngang nhà có Quang và Vũ, băng qua chiều ngang sân trại
tới nhà tôi ở thì quẹo vào khu cầu tiêu, trên tay cầm lon “gô”
nước để làm vệ sinh, thường có 1 tên vệ binh cầm súng đi theo.
Dáng anh đi trông thất thểu, nhưng nét mặt rất an nhiên, và đặc
biệt miệng lúc nào cũng mỉm cười. Vào những ngày không lao động,
anh em thường đứng dọc theo hiên nhà dõi nhìn theo anh. Có lần
anh hướng về phía Quang và Vũ đang đứng trong đám anh em, nói
“Thầy không hề buồn giận em, thầy biết bằng mọi cách họ sẽ giết
thầy.” Anh em vẫn thường xuyên tiếp tế cho anh bằng cách lén buộc
sẵn một gói nhỏ đồ ăn vào cái cầu tiêu trong cùng, nơi được chỉ
định dành riêng cho anh, mặc dầu trong khu cầu tiêu lúc ấy đã
được bảo đảm hoàn toàn không có ai, dĩ nhiên anh phải ăn tại chỗ,
chung quanh đầy cứt đái.
Đợt thăm nuôi đầu tiên trong đời tù bắt
đầu gần những ngày cuối tháng 10/1976. Đội Mộc có 5 người, trong
đó anh Nguyễn Hữu Nhật và tôi, được thăm vào ngày 29/11/1976 cũng
là ngày cuối cùng của đợt thăm nuôi. Buổi tối ngày Thứ Bảy cuối
cùng của tháng 10/76, tôi cùng mấy người nữa được chỉ định đi
theo 2 vệ binh đẩy nước ra Khu Thăm Nuôi, để đổ nước vào những
cái lu đặt trong những lều thăm, cách trại khoảng 2km. Trên đường
quay lại trại, có 4 người bộ đội đứng chờ. Chúng tôi được lệnh
lôi từ trong một bụi rậm ra một chiếc quan tài bằng gỗ mộc,
khiêng lên chiếc xe và đẩy tiếp. Đến gần trại thì bọn họ bảo
chúng tôi ngừng lại, họ bắt chúng tôi dấu chiếc quan tài vào một
bụi cỏ cao gần đó, và họ cấm không được nói cho ai biết. Chúng
tôi thật hoang mang, và không biết chính chiếc quan tài đó sẽ
dành cho anh Trụ ngày hôm sau.
Sáng hôm sau, tôi nhớ chắc chắn là ngày
Chúa Nhật cuối cùng của tháng 10/1976, không thấy anh Trụ ra khu
cầu tiêu như thường lệ, có lẽ họ cho anh đi cầu sớm hơn. Khoảng 7
giờ sáng thì các Nhà Trưởng được lệnh đi “giao ban”. Cỡ gần tiếng
sau thì anh Nhà Trưởng quay về tập họp cả nhà lại, thông báo về
phiên tòa xử Nguyễn Ngọc Trụ, đọc tên những người được tham dự
phiên tòa gồm Nhà Trưởng và các Tổ Trưởng Tổ Phó, lệnh trên cấm
không được bàn tán, nhưng làm sao cấm được, và người ta đoán non
đoán già về số phận người anh hùng, người thì bảo chỉ cảnh cáo,
kẻ thì đoán mấy năm, cũng có người bảo phải vài chục năm... Tôi
nghĩ tới chiếc quan tài dấu trong bụi rậm, và nói khẽ với một
người bạn: Tử Hình.
Tự nhiên ruột gan tôi như có ai đang
bóp nhào nháo cả lên. Trong một lúc, tôi thấy người và cảnh chung
quanh như đang thấy một đoạn phim mà không có tôi trong đó. Tôi
không có tên trong danh sách đi dự phiên tòa, nhưng tôi xin và
được chấp thuận cho đi thay một người bị “Tào Tháo đuổi” (hình
như là “Hùng Mặt Mâm”, không thuộc đoàn tù từ Trảng Lớn). Những
bạn tù từ những trại quanh vùng cũng bị điệu đến, chật kín cả hội
trường.
CÔNG
LÝ LÀ CÔNG LÝ, CÔNG LÝ LUÔN LUÔN THẮNG
Bên ngoài, chung quanh hội trường, là
một hàng rào bộ đội súng cầm tay. Bên trong, mấy chục cái ghế nhỏ
được xếp thành 2 hàng ở trên cùng, dành cho các lãnh đạo và cán
bộ các trại.
Trên sân khấu có vài cái bàn dài kê liền nhau trải vải bên trên,
sau bàn phía trên cao là hình Ông Thần Đói Hồ Chí Minh với lá đại
kỳ Cờ Đỏ Sao Vàng trông thật lạnh lùng chết chóc. Mặt tiền sân
khấu, ở trên cao là mấy hàng chữ đỏ nền vàng mà nổi bật nhất là
mấy chữ “Tòa Án Quân Sự Khu 7”, trên và dưới sân khấu cả 2 bên là
những toán bộ đội võ trang đứng nghiêm chỉnh. Vành móng ngựa là 1
tấm “cover”, đó là nửa cái ống cống bằng sắt, có khía, hình bán
nguyệt, đường kính khoảng trên 1.50m, của Mỹ để lại. Khi mọi
người, mọi việc đã được ổn định đâu vào đấy, tất cả được lệnh
đứng lên. Một tiếng hô nghiêm thật to, Thượng úy Mão Chính Trị
Viên Tiểu Đoàn cùng tên Đại úy Tiểu đoàn trưởng ra tận cửa đứng
nghiêm chào đoàn xử án và mời lên sân khấu.
Trên sân khấu, ngồi chính giữa bàn là 2
tên lớn nhất đều mang cấp bậc trung tá, phái đoàn khá đông, cả
chục tên, có đứa ngồi hàng ghế dưới sân khấu. Sau đó, anh Nguyễn
Ngọc Trụ được dẫn ra, cởi trói, bị đứng vào trong tấm sắt tròn
gọi là vành móng ngựa. Một cây đèn dầu được thắp lên, kèm theo
một lời thuyết minh rất dõng dạc: Cây đèn này là tượng trưng cho
ánh sáng công lý. Một tấm sắt “tàn dư Mỹ Ngụy” và một cây đèn tù
mù để tượng trưng cho ánh sáng công lý cách mạng!!! Khắp cả Thế
Giới, có sân khấu hề nào hí lộng hơn, ngu xuẩn hơn, khôi hài hơn
cái sân khấu được tạo ra bởi “đỉnh cao trí tuệ loài người” như
thế này?
Bản
lý lịch đọc trước tòa, tôi chỉ còn nhớ một phần:
Nguyễn Ngọc Trụ,
Trung úy, Cao Học Luật, Giáo Sư Chính Trị Trường Võ Bị Đà Lạt;
tên cha là Nguyễn văn Thắng, trung tá Cảnh sát, đang cải tạo
ngoài Bắc; (mẹ và vợ: không nhớ); có vợ và 2 con. Sau vài thủ tục
lấy lệ, tòa hỏi: Sau khi nghe giới thiệu Thành Phần Xử Án, tội
phạm N.N.Trụ có cần thay đổi ai không?
– Thưa quý tòa, tôi nghĩ không cần
thiết. Tòa hỏi tiếp, “N.N.Trụ, anh có phải là nhà trí thức
không?” Anh Trụ ngắn gọn: Thưa quý tòa, đúng. Tiếp theo là những
câu hỏi để gài tội, một cách vu vơ rất khờ khạo. Tên trung tá
đóng vai Công Tố lôi cả ông bà cha mẹ ra để buộc tội “bị cáo”.
Những lời buộc tội, được đọc từ một tờ giấy viết sẵn mà cứ vấp
váp vì đọc không thông, tới bây giờ vẫn còn tìm được trên những
tờ báo trong nước như: tay sai đế quốc, phản động, nợ máu... Chủ
yếu tên Công Tố tập trung vào tội: đã cử người trốn trại để đưa
tàn quân quay lại giải thoát đồng bọn, đã xúi dục những “cải tạo
viên” chống lại đường lối chính sách khoan hồng... Phiên tòa
không có luật sư biện hộ, nhưng anh Trụ được phép phát biểu sau
phần buộc tội.
Anh phủ nhận tất cả mọi lời cáo buộc,
và dẫn giải rằng những người đang kết tội anh mới chính là kẻ có
tội. Anh nói rất ngắn gọn, nhưng thật sắc bén. Một lần nữa, tại
tòa, anh xác nhận anh chỉ muốn giảng giải Thuyết cộng sản cho
chính những người gọi là cộng sản mà không biết gì về lý thuyết
cộng sản. Đáp lại lời cáo buộc “không chịu cải tạo”, anh nói:
“Tôi rất muốn được ‘cải tạo’, nên mới bày tỏ hết tư tưởng ra để
cho cách mạng thấy mà cải tạo, đấy là tôi đã đáp ứng đúng yêu cầu
‘thành khẩn khai báo’ của Cách Mạng, và tôi đã thành khẩn khai
báo tư tưởng bằng chính những lời phát biểu thật thà của tôi.
Thưa quý tòa, Công Lý là Công Lý, Công Lý luôn luôn thắng. Tôi
tin vào Công Lý và chấp nhận mọi số phận cho niềm tin đó.”
Sau mươi phút gọi là nghị án, chắc các
quan tòa vào bên trong làm điếu thuốc lào hay nhấm nháp cái gì
đó, vì với thời gian mươi phút làm sao vừa “nghị” vừa đánh máy
xong bản án dài mấy trang, ông tòa trung tá cầm mấy tờ giấy đánh
máy sẵn, đọc liền tù tì hàng trăm chữ “Chiếu” với “Xét Vì” rồi
mới tới chữ “... Quyết Định: Tử Hình Tội Phạm Nguyễn Ngọc Trụ.
Bản án phải được thi hành ngay sau khi phiên tòa bế mạc.” Tới đây
thì “ánh sáng công lý cách mạng” từ tù mù đã trở thành tối thui,
vì chiếc đèn dầu đặt trên bàn đang bập bùng với cái bóng đèn đã
bị muội khói ám đen nghịt.
Ngay khi 2 chữ “tử hình” vừa phán xong,
một người trong đoàn xử án thổi tắt phụp “ngọn đèn công lý” đã bị
ám khói đen thui, vừa lúc có 2 thằng vệ binh phóng tới anh Trụ,
mỗi đứa một bên, chộp 2 cánh tay anh kéo giựt về sau và trói, tên
thứ 3 tiến lên tay cầm một cái giẻ. Anh Trụ nói lớn “Xin đừng bịt
mắt tôi.” Anh không vùng vẫy chống cự, nhưng anh cố ưỡn thẳng
người lên, hướng về phía anh em và kịp nói to “Chào các anh em ở
lại tôi đi.” trước khi bị nhét giẻ vào mồm và bịt mắt dẫn đi.
Không kể những thủ tục rườm rà, phiên
tòa chỉ diễn ra không đầy 1 giờ. Mọi người giải tán, cả ngàn
người không một tiếng nói, chờ nhau ra khỏi hội trường. Đoàn tù
im lặng cúi đầu lầm lũi bước, chỉ nghe tiếng những bước chân mộng
du trên sỏi đỏ, và xen lẫn thỉnh thoảng có tiếng “chó cắn ma” tru
lên lạc lõng “khẩn trương lên”. Cả ngày hôm ấy không ai thiết ăn,
dù có đồ ăn thăm nuôi chia sẻ với nhau. Thấm thía hơn bao giờ câu
“Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ.”
Dù đã bị cũng như chứng kiến biết bao
nhiêu thương đau mà Đảng và Cách Mạng đã gieo rắc, đôi khi tôi
vẫn nghi ngờ tấm lòng... khát máu của loài ma cà-rồng. Suốt hơn
30 năm sau phiên tòa ấy, đôi khi tôi vẫn thầm mơ ngủ “Hay là bản
án tử hình ấy chỉ làm giả để răn đe số đông, còn anh Trụ thì được
đem đi giam nơi khác?”, vì chính chúng tự biết anh Trụ không làm
gì hết mà chỉ có “tội” nói thật lòng. Mãi cho tới khi tìm được
anh TTT vào cuối tháng 3/2008 (ở khác nhà nhưng cùng một trại
với tôi trong Khu An Dưỡng Biên Hòa), tôi mới hoàn toàn hết nghi
ngờ lòng dạ của cái đảng cướp của giết người kia, vì chính anh
TTT là người đào lỗ và chôn cái xác chi chít những lỗ đạn của
anh Trụ. Xin đọc môt đoạn trong thơ của TTT viết ngày
25-03-2008:
“Sáng sớm khoảng 3 giờ sáng, tổ của tôi, gồm toàn là cuộc trưởng
cảnh sát lớn tuổi và chỉ có tôi là người trẻ của quân đội, bị kêu
đi công tác khẩn; khi ra đến cổng trại thì có một toán bộ đội
khoảng mười người đón nhận chúng tôi. Mười người tù mà đến mười
bộ đội đi kèm, chúng tôi linh cảm có điều gì ghê gớm sắp xảy ra.
Đi khoảng 200 thước thì có tiếng lên đạn, tiếp theo là tiếng hô
đứng lại, tình hình rất là căng thẳng; một người bộ đội đi vào lề
đường và kêu chúng tôi vào lôi chiếc xe bốn bánh loại dùng để kéo
(rờ-mọt), ở trên xe có cái hòm gỗ.
Đi khoảng 500 thước thì dừng một lần,
và chúng tôi cũng không định hướng được là đi đâu; đến khoảng 5
giờ sáng thì nằm nghỉ ở ngoài một ụ đất cao quá đầu người. Đến
sáng thì chúng tôi nhận ra được là đang nằm ở khu chống pháo kích
của thiết giáp VNCH, gồm nhiều ô vuông với vách đất có chỗ cho
thiết giáp ra vào. Đến gần trưa thì có một đoàn xe jeep băng qua
trảng trống đi thẳng đến chỗ chúng tôi, đám bộ đội đi với chúng
tôi lại lên đạn và nói là ngồi yên không được nhúc nhích. Tôi
nhìn thấy một người cao lớn hơn những người khác bị trói và xô
đẩy đi vào trong ô vuông phía sau vách đất, khoảng 10 phút sau
thì chúng tôi nghe nhiều tràng AK và 2 tiếng súng ngắn một phút
sau đó. Sau hai tiếng súng ngắn, chúng tôi được hộ tống vào trong
ụ đất, và thấy cuốc xẻng đã có sẵn tại chỗ, anh Trụ nằm dưới chân
cột, chân bị trói và mắt bị bịt.
Một tên trung tá VC hỏi chúng tôi có ai
là học trò anh Trụ không và nói ‘tên này ngoan cố đến cùng’,
chúng tôi lắc đầu không nói gì cả. Một tên trung tá khác nói với
chúng tôi ‘Các anh làm thủ tục của các anh đi’, khi thấy chúng
tôi không hiểu anh ta nói tiếp ‘Quỳ lạy và cầu nguyện đi’, chúng
tôi không ai nhúc nhích, hắn ta bèn nói tiếp ‘Chôn nó đi’. Tôi
cởi trói và tháo băng bịt mắt cho anh Trụ, trên người anh lỗ chỗ
toàn vết đạn và máu ra không nhiều, da anh trắng bệt, gương mặt
bình thản không có vẻ đau đớn gì nhiều. Chúng tôi chôn anh xong
về láng mới nghe kể chuyện xảy ra tại tòa.... Đó là những gì tôi
có thể tường thuật cho anh được, còn về tâm sự thì không có gì
đặc biệt, tuy nhiên tôi mong gặp gia đình anh Trụ để có thể nói
ra những gì anh Trụ đã nói với tôi trước khi bị nhốt connex...”.
(những “ô vuông với vách đất” trong thư của Tcó lẽ là những “ụ
thiết giáp”).
Có nhiều người coi “Hồn Thiêng Sông Núi” như là một vị thần đầy
phép tắc để khấn vái. Một cách giản dị, tôi chỉ hiểu Hồn Thiêng
Sông Núi chính là Di Sản Văn Hóa, là Lịch Sử Dựng Nước và Giữ
Nước bằng xương máu của Cha Ông mà bổn phận thế hệ đang thừa
hưởng phải giữ gìn và phát triển, để bảo hộ cho những thế hệ
tương lai tiếp nối. Trong ý nghĩa đó, Tâm và Huyết của anh Trụ đã
làm lên Hồn Thiêng Sông Núi, mà nhà ái quốc Phan Bội Châu gọi là
“hồn thành thánh” và “phách hóa thần”. Nguyễn Ngọc Trụ, một Kẻ Sĩ
anh hùng, chính là Hồn Thiêng Sông Núi.
TÙ CỰU (XM520)
Lời bàn:
Anh
NGUYỄN NGỌC TRỤ là cựu Sinh Viên Sĩ
Quan Khóa 10A-72/SQTB, Quân trường Đồng Đế, Nha Trang-Khánh Hòa vào
niên khóa 1972-1973. Lúc bấy giờ anh Trụ là đại diện cho toàn thể
Tiểu Đoàn 7 Sinh Viên Sĩ Quan Khóa
10A-72 chuyên lo về việc giám sát và đề bạt những nguyện
vọng của SVSQ trên nhiều phương diện như ẩm thực, nhu yếu phẩm, đến
các nhu cầu tinh thần như tôn giáo, đi phép, v.v. Theo
Danh số 219
thì anh Trụ thuộc
Đại đội 751/TĐ7SVSQ.
Tên của KHÓA 10A-72 là
“Yên Thế”.
Khóa 10A-72/SQTB năm xưa gồm nhiều thành phần, bé nhất là các nam
sinh vừa đỗ bằng Tú tài I & II, trung cấp gồm những sinh viên đại
học đang học dở dang thì được gọi vào quân ngũ, và thành phần cấp
cao có bằng đại học, giáo sư cỡ như anh Nguyễn Ngọc Trụ.
Lũ
khốn nạn cộng sản phải chịu hết mọi trách nhiệm về những cái chết
“oan” mà chúng gây ra cho rất nhiều người Việt Nam vô tội. Làm ác sẽ
gặp ác, chẳng chóng thì chầy bọn “giết người”, lũ “mao-mác ác nhân”,
quân “bán nước” hại dân… này sẽ bị trời tru đất diệt!
–BKT.
(*)
Huy hiệu bên trái thuộc Quân trường Võ Bị Quốc gia Đà Lạt; Huy
hiệu bên phải thuộc Quân trường Đồng Đế-Nha Trang. Cố Trung úy
Nguyễn Ngọc Trụ khi còn sinh tiền là cựu SVSQ quân trường Đồng
Đế, K10A-72/SQTB. Anh đã tốt nghiệp với cấp bậc Trung úy vì trước
đó đã tốt nghiệp đại học Sài Gòn với văn bằng Cao Học Luật -
ngành Công Pháp Quốc Tế như tác giả đã trình bày. Sau khi mãn
khóa 10A-72/SQTB, anh được Bộ Giáo Dục biệt phái về Trường Đại
Học Quân Sự Võ Bị Quốc Gia-VNCH tại Đà Lạt, giảng dậy môn Văn
Hóa. Đấy là lý do bài viết này mang 2 huy hiệu của hai quân
trường danh tiếng VNCH.
Riêng về Quân Trường VBQGĐL, đây
là Trường Đại học quân sự có một không hai của quốc gia VNCH, với
chương trình cử nhân đại học 4 năm, mục đích đào tạo các sĩ quan
hiện dịch văn-võ song toàn cho QLVNCH, với ý niệm mai sau các sĩ
quan này sẽ là thành phần lãnh đạo quốc gia. Phải công nhận Quân
trường VBQGĐL-VNCH là một trường đại học quân sự danh tiếng nhất
vùng Đông-Nam-Á Châu trong thời chiến tranh Việt Nam. Trân trọng.
--bkt.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Trung tâm lưu trữ các Bộ Huy hiệu QLVNCH
Anh đứng nghìn năm thao-diễn-nghỉ
Em nằm xõa tóc đợi chờ anh!
|
Hình nền: Bãi Tiên, Đồng Đế-Nha Trang. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by Vĩnh Tường chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy,
March 4, 2017
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ,
ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
Khóa 10A-72/SQTB-QLVNCH/Vùng Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Liên lạc: Ban Điều Hành
Trở lại đầu trang