Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản
mạn về Thánh nhạc Việt Nam
Chủ đề:
Thánh Ca Giáng sinh
Tác giả:
Nguyễn Đức Cung
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Cho
đến nay thời điểm xuất hiện của nền tân nhạc Việt Nam vẫn còn
chưa được giới nghiên cứu lịch sử âm nhạc xác định một cách rõ
rệt. Có người cho rằng nguồn gốc ấy bắt nguồn từ bản vọng cổ nổi
tiếng có tên Dạ Cổ Hoài Lang của ông Sáu Lầu viết từ năm 1916.
Theo cố nhạc sĩ Lê Thương chủ trương – năm chính thức xuất hiện
của phong trào âm nhạc mới là tháng 3/1938 khi nhạc sĩ Nguyễn
Văn Tuyên từ Sài Gòn ra hô hào tại đất Bắc qua việc ông được
Thống đốc Nam Kỳ thời đó là Rivoal trợ cấp để đi diễn thuyết về
âm nhạc cải cách tại Bắc Hà. Tuy nhiên vẫn có người như giáo sư
nhạc sĩ Tô Vũ thì “tân nhạc viết solfège đầu tiên xuất hiện
ở Sài Gòn do một tu sĩ Công giáo người Việt Nam viết những bài
hát ca ngợi Đức mẹ từ năm 1911”
[1].
Trong thập niên đầu của thế kỷ 20
trước đây, phong trào thánh nhạc Việt Nam ra đời với sự xuất
hiện của nhiều bài ca Công giáo vốn được coi là những tư liệu để
chứng minh rằng có thể đây là khởi nguyên của nền âm nhạc Việt
Nam chăng? Vào thời điểm đó, một bản thánh ca bất hủ được coi là
một sáng tác kiệt xuất mà nhiều giáo xứ trước đây ở Trung, Nam
hay Bắc mỗi khi mùa Giáng Sinh về cũng đều chọn làm bài hát
chính trong thánh lễ hoặc trong các hoạt cảnh văn nghệ, đó là
bài “Nửa Đêm Mừng Chúa
Ra Đời”, do hai linh mục Phao-lô Đoàn Quang
Đạt (1877–1956) và Gabriel Long là đồng tác giả. Về cuộc đời của
cha Gabriel Long chúng tôi chưa có tư liệu để trình bày về tiểu
sử của ngài chỉ biết cha Gabriel Long là một vị nhạc sư có lẽ
dạy ở trong Tiểu chủng viện Sài Gòn trong những năm đầu của thế
kỷ 20 và Linh mục Phao-lô Đoàn Quang Đạt là học trò của ngài.
Nếu trong cả một rừng nhạc xuân của
Miền Nam trước năm 1975, bản Ly Rượu Mừng của nhạc sĩ Phạm Đình
Chương được nhà văn Trần Doãn Nho gọi là bản quốc ca
[2]
nghĩa là không thể thiếu nó trong tất cả các buổi văn nghệ mừng
Xuân, và nếu không hát bài đó thì mất đi nửa cuộc vui thì bài
“Nửa Đêm Mừng Chúa Ra Đời” của cha Gabriel Long và cha Phao-lô
Đạt là đỉnh cao của nền thánh nhạc Việt Nam mùa Giáng sinh, cũng
mang một ý nghĩa từa tựa như vậy mà không thể bất cứ một bản
nhạc do nhạc sĩ Công giáo Việt Nam nào sáng tác sau này chiếm cứ
hay xô ngã được chỗ đứng trọng yếu của nó trong lòng những người
say mê nhạc giáng sinh.
Thuở nhỏ sống tại giáo xứ Tam Tòa Đồng
Hới (Quảng Bình) những năm trước khi có hiệp định Genève chia
đôi đất nước năm 1954, mỗi dịp lễ Giáng Sinh vào thời tiết rất
lạnh, tôi thường theo gia đình đi dự lễ nửa đêm và vẫn được nghe
bản thánh nhạc tuyệt vời này...
1. Chân dung vị linh mục nhạc sĩ ở đầu
nguồn suối nhạc thánh ca
Nói rằng hai linh mục Phao-lô Đạt và
Gabriel Long là những nhạc sĩ tiên khởi của nền âm nhạc Việt Nam
nói chung và thánh nhạc nói riêng là một lời nói không ngoa chút
nào. Chắc chắn sáng kiến sử dụng nhạc lý và ký âm pháp của nền
âm nhạc Tây phương vốn được dạy trong các trường dòng, chủng
viện và dòng tu Việt Nam đã ảnh hưởng không ít đến các nhạc sĩ
Việt Nam và dòng nhạc mệnh danh là nhạc tiền chiến. Điều này
cũng chứng minh rằng trong lãnh vực văn hóa đạo Công giáo đã
đóng góp nhiều công sức của mình vào kho tàng tinh thần quý giá
của Dân tộc trong hành trình đức tin.
Theo nhà sử học Lê Ngọc Bích
(1937–2009), “Linh mục Phao-lô Đoàn Quang Đạt sinh năm 1877
tại làng Bình Sơn (Lái Thiêu) ngày nay thuộc xã An Sơn, huyện
Thuận An, tỉnh Bình Dương. Tuy sinh quán tại Bình Sơn–Lái Thiêu
nhưng quê quán tổ phụ gốc từ Thừa Thiên, di dân vào Nam cuối
triều Gia Long hoặc đầu triều Minh Mạng. Dòng họ Đoàn của cha
Phao-lô Đạt theo đạo Công giáo từ lâu đời và có người làm quan
trong triều đình Huế. Có lẽ vào đầu triều Minh Mạng, nhà vua gay
gắt với đạo Công Giáo, cho nên nhiều người dòng họ Đoàn đã theo
dòng người Công giáo chạy vào Nam trốn tránh cơn bắt đạo, tìm
cuộc sống tự do để giữ đạo, cuộc sống tự do trong muôn vàn gian
khổ có thể bỏ xác ở những vùng chướng khí, ác địa, những vùng gò
nỗng cây cối um tùm đầy rắn dữ, cọp beo ma thiêng nước độc...”
[3]
Ở Thừa Thiên, tại làng An Truyền cũng gọi làng Chuồn có dòng họ
Đoàn với hai anh em nổi tiếng qua biến cố Giặc Chày Vôi ở Huế
thời Tự Đức với người anh tên Đoàn Hữu Trưng và em là Đoàn Hữu
Trực cũng gọi Đoàn Tư Trực. Họ Đoàn này có gốc ở tỉnh Quảng Bình
gọi Chuồn gốc và họ Đoàn ở làng An Truyền gọi là Chuồn ngọn. Nếu
tư liệu của Lê Ngọc Bích cho rằng dòng họ Đoàn của linh mục Đoàn
Quang Đạt có người làm quan ở Huế thì biết đâu trong số những vị
đó lại có bà con liên hệ với hai anh em Đoàn Hữu Trưng – Đoàn
Hữu Trực. Và vì biến cố Giặc Chày Vôi mà nhiều người bị án tru
di tam tộc trong đó có dòng họ Đoàn nên họ phải tìm cách trốn
vào Miền Nam?
Cũng theo nhà sử học Lê Ngọc Bích, “Người
họ Đoàn chạy vào Miền Nam có thể số đông, cho nên lúc đầu định
cư khai khẩn ở vùng Lái Thiêu, sau đó trong thời bắt đạo quá gay
gắt thì phân tán ra các vùng phía Đông phía Tây của đất Nam Kỳ
Lục tỉnh. Điều này, ta có thể thấy rõ nét: Linh mục Đoàn Công
Quí (Thánh Tử Đạo) sinh tại Búng (Thuận An, Sông Bé ngày nay),
còn người cháu gọi bằng chú là linh mục Đoàn Công Triệu thì sinh
tại Bình Sơn. Còn linh mục Đoàn Thanh Xuân thì sinh quán tại
Lương Hòa (Long An). Qua vài nét về dòng họ Đoàn như trên, còn
cho ta thấy gia tộc của cha Phao-lô Đạt có được nhiều người làm
linh mục, là một gia tộc có một nền móng đạo hạnh Công giáo sâu
xa bền vững, có được một vị hiển thánh linh mục Tử Đạo: Thánh
Đoàn Công Quí.”
[4] Giống tốt thì
sinh cây tốt cho nên tất cả tinh hoa đạo hạnh của các bậc tiền
bối đã quy tụ vào tài năng của vị linh mục tác giả bài thánh ca
bất hủ “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” mà chúng ta sẽ đề cập đến sau
nhưng trước tiên cần biết qua quá trình tu đức, công tác mục vụ
và sáng tác thánh nhạc của cha Phao-lô Đạt.
Thuở nhỏ, cậu Phao-lô Đạt đã đáp lại
ơn gọi khi được nhận vào Tiểu Chủng Viện Sài Gòn và đã tỏ ra có
tư chất thông minh nhất là có năng khiếu về âm nhạc trong những
năm theo học các lớp nhỏ. Lúc bấy giờ linh mục Phao-lô Nguyễn
Văn Qui là cha giáo tại Tiểu chủng viện, một vị giáo sư thông
minh và có năng khiếu âm nhạc, đã lưu ý đến kỹ năng âm nhạc của
cậu Đạt nên tận tình hướng dẫn nhạc lý, kỹ thuật hòa âm, cách sử
dụng một số nhạc khí căn bản của Tây Phương như Harminium,
Piano, Violon v.v. cho cậu. Cha Qui cũng giúp cậu dịch các bài
ca vịnh Trái Tim Chúa Giê-su và ca vịnh Đức Mẹ từ tiếng La-tinh
sang Việt ngữ ngắn gọn và phổ nhạc theo nhịp điệu riêng biệt,
làm thành hai quyển: một quyển “Ca Vịnh Trái Tim” và một quyển
“Ca Vịnh Đức Mẹ”. Năm 1913, nhà in Tân Định xuất bản cả hai
quyển nói trên, có in cả nốt nhạc. Nhà in Tân Định vốn có tên
Imprimerie de la Mission là cơ quan xuất bản kỳ cựu nhất Việt
Nam của Địa phận Sài Gòn vốn đã in rất nhiều sách báo về tôn
giáo và văn hóa, có cơ sở ấn loát tại nhà thờ Tân Định đường Hai
Bà Trưng, Sài Gòn.
Nghe những bài hát ca vịnh của Thầy
Phao-lô Đạt, linh mục Bề Trên Chủng viện Ernest vốn là một người
giỏi dương cầm cũng phải khen ngợi: “Một lối nhạc vừa Đạo
đức vừa Dân tộc.” Cha Gabriel Long, một nhạc sư lúc bấy giờ
ở Sài Gòn cũng khen rằng: “Nhạc của Phao-lô Đạt thật ngọt
ngào say mến, đi sát với tinh thần của mỗi bài hát...” Có
lẽ câu nói được thường xuyên nhắc tới “Hát bằng hai lần cầu
nguyện” cũng là lời khích lệ mọi người tu sĩ, giáo dân
trong cuộc sống tinh thần hằng ngày.
Ngày 23/9/1911, Thầy Phao-lô Đoàn
Quang Đạt được Đức Giám Mục Lucien Mossard (tên VN là Mão)
truyền chức linh mục tại nhà thờ Đức Bà Chính Tòa Sài Gòn. Sau
khi được thụ phong chức thánh, linh mục Phao-lô dạy học tại Tiểu
chủng viện Sài Gòn trong gần hai thập niên, đem kiến thức truyền
thụ lại cho các thế hệ đàn em, nhất là phát triển kỹ năng sáng
tác thánh nhạc của mình
[5]. Theo tư
liệu của Trần Nhật Vy, sau khi chịu chức, linh mục Đạt làm Thư
ký Tòa Tổng giám mục Sài Gòn, rồi linh mục phụ tá nhà thờ Tân
Định từ năm 1920–1933 và về phụ trách nhà thờ Bà Rịa từ
1933–1949.
Năm 1933 làm cha sở giáo xứ Đất Đỏ (Bà Rịa, 1933–1949), linh mục
Phao-lô đã có sáng kiến tổ chức sinh hoạt giáo xứ rất ngoạn mục
và có nhiều ý nghĩa sâu xa như tổ chức hoạt cảnh giáng sinh với
cuộc rước tượng Chúa Hài Đồng vòng quanh nhà thờ, hát những bài
ca giáng sinh La-tinh rồi sau cùng ca đoàn cử lên bài hợp xướng
“Nửa đêm mừng Chúa ra
đời” do ngài sáng tác và tập dượt với phần
thánh lễ kết thúc. Có tư liệu cho rằng khi làm cha sở Bà Rịa,
cha Phao-lô Đạt thường xuyên đích thân tổ chức các buổi học giáo
lý vào mỗi chiều Chúa Nhật, giải thích các lễ nghi, ý nghĩa các
phép bí tích và kinh đọc hằng ngày. Cha xây dựng thói quen đánh
chuông “Truyền tin” – gọi là “Nhật một” mỗi ngày sáng, trưa,
tối. Ngài cũng lập thói quen tốt giật chuông “báo tử” đọc kinh
cầu cho linh hồn người vừa qua đời trong họ đạo
[6]. Thật ra lối đọc
kinh Truyền Tin (Angelus) có từ lâu bên Âu châu nếu ta theo dõi
một bức danh họa của Rembrand vẽ hai cặp vợ chồng của một nông
dân đang làm việc ngoài đồng đang giữa trưa nghe tiếng chuông
nhà thờ đã đứng lên kính cẩn đọc kinh nhớ về Thiên Chúa, thì
sáng kiến của cha Phao-lô cũng chỉ là tuân thủ theo một tập quán
tôn giáo lâu đời ở Việt Nam rất đáng phục hoạt mà thôi.
Ngày 22/11/1933, khi 56 tuổi, cha Đoàn
Quang Đạt được thuyên chuyển về giáo xứ Bà Rịa với cái đầu bạc
trắng và bệnh hen suyễn khá nặng. Cha phải theo chế độ ăn uống
kiêng cữ nhiệm nhặt để tránh cơn bệnh hành hạ cha suốt ngày đêm.
Tuy bệnh tình [trầm
trọng] nhưng cha vẫn
không bao giờ bỏ việc dâng Thánh lễ và các công tác mục vụ khác.
Tháng 8 năm 1949, Đức Cha Địa phận Sài Gòn Jean Cassaigne đưa
cha về Chủng viện để dưỡng bệnh. Sau đó linh mục Giu-se Thiên,
cha sở Chí Hòa xin bề trên cho cha Đạt về nhà hưu dưỡng các linh
mục ở Chí Hòa.
Sáng ngày 21 tháng 2 năm 1956, Cha Đạt
dâng thánh lễ sáng, đến trưa cơn suyễn nổi lên quá mạnh khiến
ngài không chịu nổi, đã tắt thở lúc 13 giờ trưa, thọ 79 tuổi,
sau 45 năm phục vụ Chúa và dâng hiến những công trình tim óc cho
nền Thánh nhạc Công giáo
[7].
2. Về bản thánh ca giáng sinh
bất hủ “Nửa đêm mừng Chúa ra đời”
Linh mục Phao-lô Đoàn Quang Đạt có một
nếp sống rất khắc khổ, đạo đức, bị hen suyễn thường xuyên. Vốn
là người đa tài thuộc nhiều lãnh vực như âm nhạc, hội họa, kiến
trúc, linh mục Đạt được coi là tác giả thiết kế nhà thờ Biên Hòa
hiện nay. Những sáng tác của cha Phao-lô Đạt để lại tuy ít nhưng
đều là những bài hát có phảm chất cao, kỹ thuật phong phú, điêu
luyện có lẽ đã được sáng tác trong thời gian làm giáo sư Tiểu
chủng viện Sài gòn giai đoạn 1911–1933. Đó là 3 bài thánh ca:
– Nửa đêm mừng Chúa ra đời,
– Kinh nguyện Chúa Thánh Thần,
– Tôi
kính lạy Chúa Giê-su.
Các bài thánh ca này hòa âm ba phần,
tiết tấu dịu dàng, êm ái, không cầu kỳ, đúng tinh thần thánh
nhạc. Các bài ca ngợi Chúa Giê-su và ca ngợi Đức Mẹ được khắp
nơi trong các nhà thờ giáo phận Sài Gòn hát lên trong thánh lễ.
Theo ông Nguyễn Văn Quí, “sở dĩ
linh mục Đoàn Quang Đạt viết nhạc là vì những tác phẩm ca hát
trong nhà thờ trước đây đều là nhạc nước ngoài và bằng tiếng
La-tinh, số đông giáo dân hát không được. Chính vì vậy, ông Đạt
liền nghĩ ra cách dịch lại những bài hát này cho giáo dân hát.
Nhưng những bài hát nhạc ngoại
[quốc]
bằng tiếng Việt này vẫn khó hát. Cuối cùng, ông nghĩ viết hẳn
những bài hát bằng tiếng Việt ký âm theo nhạc lý phương Tây.”
Còn linh mục Nguyễn Hữu Tấn, Giám đốc Đại chủng viện Sài Gòn,
cho biết những bài hát của linh mục Đạt rất khác với nhạc Tây,
mà giống với vọng cổ của miền Nam hơn. Còn linh mục Đỗ Xuân Quế,
đặc trách về thánh nhạc của giáo phận Sài Gòn, cũng thừa nhận
linh mục Đạt “rất giỏi nhạc” và “bài hát Nửa đêm mừng Chúa ra
đời của ông đến nay vẫn còn dùng”. Linh mục Quế còn cho biết ông
được nghe kể linh mục Đạt đã nghiên cứu từng bước chân trâu bò
đi trên đường để viết phần nhạc trong bài Nửa đêm mừng Chúa ra
đời và bài ca này ông đã nghe từ những năm 1930 khi còn ở miền
Bắc... Thế nhưng cha Đạt viết những bài hát ấy từ lúc nào? Theo
tài liệu hiện có thì ít nhất ông đã viết những bài hát bằng
tiếng Việt từ trước năm 1913. Trong tập nhạc Ca ngợi rất thánh
trái tim đức Chúa Giê-su in tại nhà in Imprimerie de la Mission
(nhà in trong nhà thờ Tân Định) số 289 rue Paul Blanchy (nay là
đường Hai Bà Trưng) năm 1942 có ghi lời bạt của linh mục Phao-lô
Qui vào ngày 1/5/1913. Linh mục Qui mất vào năm 1914. Một tài
liệu khác là cuốn kinh Mục lục Sài Gòn in năm 1899 có chép toàn
bộ phần lời của bài ca Nửa đêm mừng Chúa ra đời, nhưng không có
phần nhạc... [8]
Như vậy bài thánh ca bất hủ Nửa đêm mừng Chúa ra đời chính là
bản tân nhạc đầu tiên của Việt Nam, xuất hiện ít nhất cũng từ
năm 1899, do một linh mục sáng tác để ca tụng Thiên Chúa đã
giáng sinh làm người và ở cùng chúng ta (Emmanuel).
Cũng theo Lê Ngọc Bích, Anh Lê Đình
Bảng, nhà thơ, nhà nghiên cứu thi ca, âm nhạc Công giáo Việt Nam
có ý kiến rằng: “... Theo nhận định của những nhà nghiên cứu
về nhạc sử thì ngay từ năm 1910 ở Nam Bộ đã có những linh mục,
thầy giảng, nữ tu và bổn đạo người Việt hát hoặc điều khiển được
những bài hát 2, 3 bè khá thành thạo. Có người đã sử dụng nhuần
nhuyễn các loại nhạc cụ như harmonium, piano, violon... Chúng
tôi dựa vào một chứng từ cụ thể của nhà in Tân Định (Imprimerie
de la Mission) năm 1942. Dó là 2 tập sách hát mang tên ‘Ca ngợi
Rất thánh Trái tim Đức Chúa Giê-su’ và ‘Ca ngợi Đức Bà Maria’.
Có thể xác định thời điểm xuất hiện và tác giả của những bài
thánh ca VN đầu tiên ấy qua phần giới thiệu do ‘linh mục bổn
quốc’ Phao-lô Qui (1855–1914) cha sở họ đạo Cầu Bông viết ngày
1/5/1913 cho cả 2 tập sách này: ‘... Nguyên những bài ca trong
sách này đã rút ra bởi những kinh (La-tinh) Hội thánh quen
đọc... Những ca ngợi ấy là của cha Tô-ma Đoan, cha ở Huế và cha
Phao-lô Đạt.’”
“Nổi tiếng nhất trong đó có bài ‘Nửa
đêm mừng Chúa ra đời’ của cha Phao-lô Đoàn Quang
Đạt (1877–1956). Đã có dư luận cho rằng bài này là bản thánh ca
mang dáng dấp hợp xướng đầu tiên trong lịch sử Thánh nhạc Thánh
ca Việt Nam? Chúng tôi chưa dám quyết đoán như thế, bởi chưa có
đủ chứng cứ cụ thể. Chỉ trộm nghĩ, có lẽ cảm hứng từ những ca
khúc về Giáng sinh như ‘Il est né le Divin Enfant’, ‘Les Anges
dans nos campagnes’, ‘Puer natus est’, ‘Gloria in excelcis Deo’
và đặc biệt xuất phát từ tâm tình vồn vã, sốt sắng và nhạy cảm
của một người con Chúa ở quê hương miệt vườn xứ Búng, tác giả
Đoàn Quang Đạt...”.
“Bên cạnh giá trị về giai điệu và
cung bậc mang âm hưởng dân tộc, còn phải kể tới giá trị về lời
ca là toàn văn của bài kinh vãn cùng tên trong Sách kinh Mục lục
của địa phận Sài Gòn, một pho bách khoa toàn thư đậm đặc thứ
ngôn ngữ giàu hình tượng rất riêng của những người con Chúa ở
phương Nam.” [9]
Trong đêm Thánh ca Giáng sinh tổ chức
tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo phận Sài Gòn tối 12/12/2010, ca
đoàn giáo xứ Thị Nghè đã trình bày bản thánh ca Nửa đêm mừng
Chúa ra đời cùng với dàn nhạc dân tộc của các nghệ sĩ Nhạc viện
Thành phố với sự điều khiển của linh mục Sỹ Tùng. Bản thánh ca
này với giai điệu du dương, cung bậc dịu dàng mang âm hưởng dân
tộc và lời hát tuy cổ xưa nhưng được sử dụng đúng chỗ, đúng cách
đã mang đến cho tác phẩm giá trị vượt cả không gian lẫn thời
gian cũng đáng được thưởng thức và chiêm nghiệm lại nguyên tác
như sau:
“Nửa
đêm mừng Chúa ra đời.
Bức khăn sạch vấn
để nơi hang lừa.
Nửa đêm mừng Chúa ra
đời.
Cỏ rơm trải lót bơ thờ. Chút cỏ
rơm bơ thờ.
Cỏ rơm trải lót bơ thờ.
Mượn ấm bò lừa quỳ thở dâng hơi, quỳ thở dâng hơi.
Kiểng tinh soi sáng thâu đêm. (Soi thâu đêm)
Kiểng tinh soi sáng thâu đêm. (Soi thâu đêm).
Chói lói giữa trời, nhỏ xuống Bê–Linh.
Thiên thần chín đấng chầu quanh,
Thiên
thần chính đấng chầu quanh.
Tấu nhạc
rập ràng, đờn hát, đờn hát xướng ca.
Vậy có ca rằng, rằng ca Thiên Chúa, rằng ca Thiên Chúa.
Ớ loài người ấy phúc lành bình an cho người vì cửa Thiên Đàng
rộng mở,
Tang tình tình tang Thiên Đàng
rộng mở.
Tang tình tình tang Thiên Đàng
rộng mở.
Chúa cả ra ơn, ơn cả chữa đời.
Rằng: Hỡi chúng dân (Kìa trong hang đá
nọ), tới xem điềm lạ.
Kìa trong hang
đá, nọ trước lều tranh.
Rằng tính tình tang, Thánh Tiểu Hài
sinh.
Thật ngôi linh tính tang tình là
tình Thiên Chúa.
Nằm trong!máng cỏ bó
bức khăn đơn.
Rằng: Bớ chúng ngươi! Tới xem điềm lạ!
(Bay xem thì biết),
Kìa trong hang đá,
nọ trước lều tranh rằng tinh tình tinh
Thánh Tiểu Hài sinh. Thật ngôi linh tính thất tinh là tình Thiên
Chúa.
Thiên thần vô số. Nhạc thổi rân.
Thiên thần vô số. Nhạc thổi tung hô.”
Với một số danh từ cổ được sử dụng nơi
đây như kiểng tinh (sao sáng, rất sáng); bơ thờ có nghĩa đơn sơ,
hèn mọn; tình tang âm hưởng của những làn điệu dân ca; ớ, bớ là
những tán thán từ đậm nét dân tộc cùng với những luồng nhạc khi
mạnh mẽ như sóng gió để biểu lộ sự vui mừng, lúc chậm rãi kêu
mời như tơ vàng óng ánh, bản thánh ca Nửa đêm mừng Chúa ra đời
với ba phần hòa âm nhịp nhàng, gắn bó, quyện khúc, nâng đỡ, tung
hứng trong những tiết điệu say sưa, hấp dẫn bộc lộ cả cung lòng
mến yêu diệu vợi như không thể nào nói lên hết được tâm tình của
một người tín hữu mà nhà thơ Hàn Mặc Tử từng thống thiết say mơ:
Cho tôi thắp hai hàng cây bạch lạp
Khói nghiêm trang sẽ dâng lên tràn ngập
Cả Hàn giang, cả màu sắc thinh không
Lút trí khôn và ám ảnh hương lòng
Cho
sốt sắng, cho đê mê nguyền ước...
Truớc khi tôi viết bài này thì cũng
được biết chị Ngọc–Diếu vốn là một ca đoàn trưởng nhiều kinh
nghiệm từng đóng góp lời ca tiếng hát của mình suốt gần 60 năm
từ những ngày còn ở xứ đạo Tam Tòa, Đồng Hới, Quảng Bình năm
1949–1950 cho đến giáo xứ Tam Tòa, Đà Nẵng năm 1954 và sau năm
1975 đến nay còn tiếp tục giúp cho các ca đoàn của Giáo xứ Tân
Hòa, Đa Minh, Tổng Giáo Phận Sài Gòn hiện cũng đang đóng góp
phần kỹ thuật cho các ca viên hát lại bản thánh ca bất hủ này.
Đây là một nét trổi bật trong nghệ thuật thánh về nguồn thông
qua suối nhạc mà công sức của hai linh mục Gabriel Long và
Phao-lô Đạt cần được hậu thế ghi nhớ.
Ước mong hằng năm vào dip lễ Giáng
sinh, bài thánh ca Nửa đêm mừng Chúa ra đời dù khó hát, khó tập
vì đòi hỏi nhiều kỹ thuật và cố gắng của ca viên, sẽ được các ca
đoàn trong mọi giáo xứ trên khắp miền đất nước Việt Nam cùng các
cộng đoàn hải ngoại hát lên để nhớ về một bản thánh ca tuyệt tác
của nền thánh nhạc Việt Nam tiên phong đi vào vườn hoa nghệ
thuật của Dân Tộc, mở đường cho nền tân nhạc Việt Nam tiến lên,
đồng thời cũng là để dâng lên Chúa Hài Nhi một tác phẩm xứng
đáng là đại diện của nền thánh nhạc Việt nam có khả năng chen
vai thích cánh với các bài ca bất hủ như Silent Night của Âu
châu và Bắc Mỹ, Il est né le Divin Enfant của Pháp, bài Adeste
Fideles của văn chương La-tinh, bản Hội nhạc Thiên quốc của
Thánh Alphonso, bài Feliz Navidad của các giáo hội Trung và Nam
Mỹ...
Jersey City 19/12/2010,
Mùa Giáng Sinh 2010
Nguyễn Đức Cung
Tác giả ghi chú:
[1] –
Trần Nhật Vy, Tân nhạc Việt Nam từ năm 1911?, Tuổi Trẻ Xuân Canh
Thìn, 2000, trang 30.
[2] – Trần
Doãn Nho, Nhạc Xuân, Tạp chí Thế Kỷ 21, số Xuân năm 2005.
[3] – Lê
Ngọc Bích, Nhân Vật Công giáo Việt Nam, Thế kỷ XVIII–XIX–XX, tài
liệu lưu hành nội bộ, 2006, trang 501.
[4] – Lê
Ngọc Bích, Sđd, trang 502].
[5] – Lê
Ngọc Bích, Sđd, trang 502.
[6] – Lê
Ngọc Bích, Sđd, trang 503
[7] – Lê
Ngọc Bích, Sđd, trang 505.
[8] – Trần
Nhật Vy, bài đã dẫn.
[9] – Lê
Ngọc Bích, Sđd, trang 504.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
|
Hình nền: Ngàn Ánh Sao Đêm. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by psxh chuyển
Đăng ngày Thứ Hai, December 23, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang