Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản
mạn về Ngày Lễ Giáng Sinh
Chủ đề:
NOEL
Tác giả:
Phan Tấn Thành
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Chúa Giê-su ra đời vào ngày nào? Không ai biết đích xác. Thế thì dựa vào đâu để cử hành lễ Chúa Giáng sinh vào ngày 25 tháng 12 dương lịch? Ngoài ra, một chi tiết khác cũng đáng được lưu ý là lễ này được ghi vào lịch phụng vụ vào giữa thế kỷ IV. Tại sao lễ này không được nói đến trong ba thế kỷ đầu tiên? Có lý do gì để thiết lập lễ này không? Tại sao vào lễ này, các linh mục được cử hành ba Thánh lễ? Đó là những câu hỏi mà chúng tôi cố gắng trả lời trong bài này, gồm ba phần: lịch sử, thần học, phụng vụ lễ Chúa Giáng sinh.
Chúa Giáng sinh, họa sĩ Nguyễn Gia Trí vẽ năm 1941
I. Lịch sử ngày lễ Giáng sinh
Tại sao Giáo hội mừng lễ Chúa giáng
sinh vào ngày 25 tháng 12 dương lịch? Các sử gia đã đưa ra khá
nhiều giả thuyết. Nói chung, người ta cho rằng Giáo hội muốn
thay thế một lễ ngoại đạo tại Rô-ma vào cuối tháng 12; nhưng
cũng có ý kiến là cần phải quy chiếu vào lịch của đạo Do thái
thay vì lịch của người Rô-ma. Chúng ta sẽ lần lượt xét đến cả
hai ý kiến đó.
A. Lễ Chúa Giáng sinh thay thế
một lễ ngoại đạo Rô-ma
Trước hết chúng ta điểm qua những ý
kiến cho rằng lễ Chúa Giáng sinh được mừng vào cuối tháng 12
nhằm thay thế những lễ hội khác ở Rô-ma vào dịp ấy. Các sử gia
đưa ra 3 lễ được mừng vào dịp này: 1) lễ kính thần Saturnô; 2)
lễ kính thần Mitra; 3) lễ kính thần mặt trời.
1) Lễ kính thần Saturnô tại
Rô-ma: bắt đầu từ ngày 17 tháng 12 và kéo dài một tuần
lễ. Người ta tổ chức một cuộc tế lễ ở trung tâm thành phố (Foro)
kèm theo những bữa tiệc linh đình với sự tham gia của toàn dân.
Trong thời gian đó, nhiều cuộc giải trí cũng diễn ra, tựa như
đấu gươm, hóa trang, cờ bạc. Các nô lệ cũng được giảm bớt công
việc phục vụ. Các Ky-tô hữu lợi dụng cơ hội này để mừng lễ Chúa
Giê-su, đấng đã giải phóng cảnh nô lệ, hiến thân mình làm lương
thực, (trái ngược với thần Saturno, ăn thịt con cái mình).
2) Lễ kính thần Mitra:
một truyền thống khác cho rằng ngày 25 tháng 12 kỷ niệm thần
Mitra ra đời trong một hang đá, cầm trong tay một ngọn đuốc. Lập
tức thần này được các mục đồng thờ lạy. Về sau, thần Mitra biến
thành thần Mặt trời. Thật ra, các dữ kiện lịch sử về đạo này
không còn nữa, và người ta chỉ đọc được vài đoạn văn do các giáo
phụ kể lại.
3) Lễ nghi thờ mặt trời: có lẽ đây là giả
thuyết được nhiều sử gia nói đến hơn cả. Vào ngày đông chí,
người Rô-ma có tục lệ tổ chức lễ thờ mặt trời, đặc biệt là tại
đền thờ dâng kính thần Mặt trời cất tại Campo Marzio ở Rô-ma.
Hoàng đế Aurêlianô (270–275) ra lệnh cử hành lễ này trong toàn
đế quốc. Lý do chọn ngày này là vì khi chuyển từ mùa thu sang
mùa đông, ngày càng lúc càng ngắn lại; nhưng đến ngày đông chí
(25 tháng 12) thì ngày bắt đầu dài ra. Xem ra kể từ mùa thu,
bóng tối mỗi ngày một tăng thế lực, nhưng từ ngày đông chí, ánh
sáng bắt đầu quật khởi, dành lại chiến thắng trên bóng tối.
Người Rô-ma tin rằng ngay từ buổi nguyên thủy, tối tăm đã giao
chiến với mặt trời để làm suy giảm ảnh hưởng của mặt trời trên
địa cầu. Đêm trước ngày đông chí, xem ra tối tăm đã tới đỉnh cao
quyền lực, và sự tồn tại của mặt trời bị đe dọa. Một khi mặt
trời suy yếu thì sức sống trên dương gian cũng lâm nguy. Vì vậy,
vào đêm 24 tháng chạp, người dân đốt lò lửa trước cửa nhà, để hỗ
trợ cho mặt trời trong cuộc giao tranh với tăm tối. Lúc tảng
sáng, người dân làm lễ bái lạy thần mặt trời vì một lần nữa đã
chiến thắng. Lễ này mang tên là “Sinh nhật của Mặt trời vô địch”
(Natalis Solis Invicti) được tiếp tục với những tiệc tùng, chè
chén. Tục lệ này còn tồn tại lâu dài, bởi vì thánh giáo hoàng
Lê-o cả (+461) vẫn còn nhắc đến các tín hữu quay mặt về thái
dương để phục lạy, trước khi đặt chân vào nhà thờ mừng Chúa
giáng sinh (Sermo 27 in nativitatem). Ngài cũng nhắn nhủ các
Ky-tô hữu hãy dành ngày 25 tháng 12 vào việc cầu nguyện, đọc lời
Chúa, bố thí cho người nghèo, thay vì tổ chức múa nhảy đình đám.
Chúng ta cũng đọc thấy những lời khuyên nhủ tương tự nơi thánh
Augustinô (Sermo 198,2).
Giả thuyết về lễ Giáng sinh được mừng
để thay thế lễ kính thần mặt trời được củng cố bởi những kinh
nguyện phụng vụ, ca ngợi Đức Ky-tô như mặt trời công chính, soi
sáng thế gian chìm ngập trong đêm tối của sự dữ. Dù nói gì đi
nữa, điều này xem ra phù hợp với hoàn cảnh thiên nhiên ở miền
Bắc bán cầu, khi lễ Giáng sinh trùng vào mùa đông, ngày ngắn đêm
dài, và thời tiết lạnh lẽo đang mong đợi sức nóng và ánh sáng
sưởi ấm.
B. Lễ Chúa Giáng sinh thay thế lễ của đạo Do thái
Một nhóm ý kiến khác chủ trương rằng
Lễ Chúa Giáng sinh thay thế một lễ của người Do thái (cũng như
Tân ước thay thế Cựu ước), chứ không phải thay thế lễ của dân
ngoại đạo Rô-ma. Chúng ta có thể kể đến hai giả thuyết: 1) thay
cho lễ cung hiến đền thờ Giê-ru-sa-lem; 2) thay cho chu kỳ cứu
độ.
1) Lễ Chúa giáng sinh trùng với lễ cung hiến đền thờ
Giê-ru-sa-lem
Trong bài huấn giáo nhân cuộc tiếp
kiến chung ngày 23/12/2009, đức thánh cha Bê-nê-đích-tô XVI cho
biết rằng tác giả đầu tiên cung cấp thông tin về việc cử hành lễ
Chúa Giáng sinh vào ngày 25 tháng 12 là linh mục Hip-po-li-tô
Rô-ma trong sách chú giải Ngôn sứ Daniel (viết vào khoảng năm
204). Ngày 25 tháng 12 kỷ niệm lễ cung hiến đền thờ
Giê-ru-sa-lem được ấn định bởi ông Giu-da Ma-ca-bê năm 204 trước
CN. Việc chọn ngày này muốn nói lên rằng Đức Ky-tô đến trần gian
để cung hiến việc Thiên Chúa ở giữa nhân loại mãi mãi. Về sau,
lý do này được thêm bởi những động lực tuyên xưng Đức Giê-su là
mặt trời soi đàng công chính, chiến thắng sự tối tăm của tội lỗi
và sự chết, dựa theo tập tục của dân Rô-ma.
2) Lễ Chúa Giáng sinh trong
chu kỳ phụng vụ của đạo Do thái
Nhiều giáo phụ giải thích biểu tượng
lễ Chúa Giáng sinh dựa trên quan điểm của người Do thái về lịch
sử cứu độ. Đối với họ, ngày đầu năm (mừng vào ngày xuân phân, 25
tháng 3), đánh dấu ngày tạo dựng thế giới, ngày dựng nên nguyên
tổ Adam, ngày vượt qua (dân được Chúa giải phóng khỏi cảnh nô lệ
Ai cập) và ngày Đấng Mê-si-a sẽ xuất hiện. Người Ky-tô hữu cũng
lấy lại truyền thống ấy, khi mừng lễ Vượt qua (Tử nạn và Phục
sinh) của Chúa Giê-su vào ngày xuân phân. Ngày xuân phân cũng
trùng vào ngày xuất hiện của Đấng Mesia, bắt đầu bằng mầu nhiệm
Nhập thể. Như vậy, sự xuất hiện của Đấng Mesia được tách ra làm
hai lễ: lễ Truyền tin vào ngày xuân phân, và ngày giáng sinh vào
chín tháng sau (ngày 25/12). Dần dần, người ta xen thêm lễ sinh
nhật của thánh Gioan vào ngày 24 tháng 6, bởi vì vị tiền hô sinh
ra 6 tháng trước Đấng Cứu thế, căn cứ theo thông tin của Tin
mừng thánh Luca (1,26). Đàng khác, việc mừng sinh nhật của vị
tiền hô vào ngày hạ chí (ngày dài nhất trong năm) được móc nối
với ngày đông chí (ngày ngắn nhất trong năm), để diễn tả điều mà
chính ông đã thú nhận: “tôi phải giảm xuống để cho ngài tăng
thêm” (Ga 3,30): ánh sáng của ông Gioan cần phải giảm dần để cho
ánh sáng của Chúa Cứu thế bừng lên [1].
II. Thần học về lễ Chúa Giáng
sinh
Trên đây là những giả thuyết giải
thích vì sao phụng vụ cử hành lễ Chúa ra đời vào ngày 25 tháng
12. Nhưng còn một câu hỏi khác không kém quan trọng là: tại sao
phụng vụ không nhắc đến lễ Chúa Giáng sinh trong những thế kỷ
đầu tiên?
Thật vậy, các Ky-tô hữu đã mừng lễ Chúa Phục sinh rất sớm, vì
coi rằng đây là trọng tâm của niềm tin và hy vọng của Giáo hội.
Có lẽ đó đây cũng mừng lễ sinh nhật của Chúa, đặc biệt tại chính
nơi Người giáng trần là Belem, nhưng mãi đến năm 336 mới thấy
ghi lễ này trong phụng vụ của giáo hội Rô-ma. Khỏi nói ai cũng
đoán được, nhiều giả thuyết đã được đưa ra chung quanh sự xuất
hiện của lễ này.
Ngày nay, phần đông các sử gia cho
rằng lý do của việc cử hành phụng vụ không chỉ nhằm thánh hóa
các lễ ngoại giáo đã nhắc trên đây, nhưng nhất là nhằm tuyên
xưng đức tin vào bản tính của đức Giê-su vừa là Thiên Chúa vừa
là người. Nói cách khác, lễ này mang tính cách tín lý, nhằm
chống lại những lạc thuyết liên quan đến Chúa Ky-tô. Thực ra,
ngay từ thời các thánh tông đồ, đã có những thuyết sai lệch về
Đức Ky-tô, buộc thánh Gioan phải nhắc nhở trong Tin mừng thứ bốn
cũng như trong thư thứ nhất (1Jn 2,22): tuy có những khuynh
hướng không chấp nhận Người là Con Thiên Chúa (điều dễ hiểu) thì
cũng có những khuynh hướng không nhìn nhận Người là con người
thật (thuyết ảo thân: x. 1Ga 4,2; 2Ga 7). Sang thế kỷ II, chúng
ta thấy những thuyết cho rằng Người chỉ là một con người đạo
hạnh, và vì thế được Thiên Chúa nhận làm dưỡng tử. Thuyết này sẽ
được khai triển mạnh hơn khi bước sang thế kỷ IV. Nhờ những điều
kiện thuận tiện, các giám mục có thể họp công đồng tại Ni-xê-a
năm 325, để tuyên xưng Đức Ky-tô là Con Thiên Chúa được sinh ra
chứ không phải được tạo thành, đồng bản thể với Chúa Cha. Tuy
nhiên, lạc thuyết A-ri-ô vẫn được bành trướng nhờ sự yểm trợ của
các hoàng đế, và những cuộc tranh luận về Ky-tô–luận vẫn tiếp
tục trong suốt thế kỷ V, như chúng ta có thể đọc trong Sách Giáo
lý Hội thánh Công giáo (từ số 465 đến 477). Trong bối cảnh này,
không lạ gì mà lễ Giáng sinh được cử hành long trọng để tuyên
xưng đức tin. Chúng ta có thể thấy một thí dụ từ kinh Vinh danh
(“Gloria in excelsis Deo”) hát trong Thánh lễ. Hai câu đầu nhắc
lại lời của thiên sứ loan báo Tin mừng Chúa Giáng sinh: “Vinh
danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho
người thiện tâm” (Lc 2,14). Kế đó là những lời chúc tụng Thiên
Chúa, và đến một nửa phần sau dành cho Đức Ky-tô, từ câu “Lạy
Con Một Thiên Chúa” cho đến hết, với những ý tưởng chúc khen,
cầu khẩn, xưng tụng, tôn vinh. Vào thời thánh Lê-ô Cả (440–461),
bài ca này chỉ hát vào lễ Giáng sinh, và mãi đến thế kỷ XI mới
mở rộng đến các Thánh lễ khác.
III. Phụng vụ và linh đạo lễ
Giáng sinh
Trải qua bao thế kỷ, các nhà giảng
thuyết đã chú giải các bài Sách Thánh cũng như các bản văn phụng
vụ lễ Giáng sinh. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn dừng lại ở một điểm
liên quan đến phụng vụ và linh đạo, đó là đề tài ba lần Chúa
giáng sinh được cử hành qua ba Thánh lễ trong đại lễ này.
Trước tiên, nên nhớ là trong mùa Vọng
(trong tiếng La-tinh là Adventus: Đến), phụng vụ nhiều lần nói
đến hai lần Chúa đến (chẳng hạn kinh Tiền tụng, các thánh thi).
Thực ra Tân ước chỉ nói đến một lần Chúa Ky-tô đến vào cuối lịch
sử để hoàn tất chương trình cứu độ nhân loại; nhưng ngay từ thế
kỷ thứ II, các giáo phụ (chẳng hạn In-ha-xi-ô An-ti-ô-ki-a) cũng
gọi việc Chúa xuống trần là “Chúa đến”. Vì thế, để khỏi lẫn lộn,
người ta phân biệt ra hai lần Chúa đến, và thường đối chọi với
nhau. Lần thứ nhất trong cảnh âm thầm, khó nghèo ở Belem; lần
thứ hai trong cảnh huy hoàng, quen gọi là “Quang lâm”. Dù sao,
đây không phải là sự bịa đặt của các giáo phụ, nhưng đã có nền
tảng trong Tân ước. Trong các thư mục tử (của thánh Phao-lô gửi
Ti-mo-thê và Ti-tô), chúng ta thấy danh từ epiphania (quen dịch
là hiển linh) được áp dụng việc Chúa Giê-su “xuất hiện” ở biến
cố nhập thể cũng như việc “xuất hiện” trong vinh quang. Chẳng
hạn như trong thư gửi ông Ti-tô, được phụng vụ trích trong bài
đọc Một Lễ Nửa đêm giáng sinh, (ở chương 2 câu 11), tác giả
viết: “Ân sủng của Thiên Chúa đã xuất hiện, đem ơn cứu độ đến
cho mọi người”, thế rồi đến câu 13, tác giả lại nói: “chúng ta
trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ky-tô (...)
Đấng cứu độ chúng ta xuất hiện vinh quang”. Ngoài hai nghĩa của
từ biến cố “Chúa đến” được sử dụng từ thời các giáo phụ, vào
thời Trung cổ, thánh Bê-na-đô còn thêm Chúa đến một lần thứ ba,
đó là những lần Chúa đến viếng thăm ta bằng ơn thánh, bằng những
lời mời gọi nên thánh (xem bài đọc Hai của Giờ kinh Sách, ngày
thứ tư tuần thứ nhất mùa Vọng), và gần đây, Đức Thánh Cha
Phan-xi-cô nói đến những lần Chúa đến với chúng ta nơi những
người nghèo, dựa trên Tin mừng Mat-thêu, chương 25 về cảnh phán
xét.
1. Bước
sang mùa Giáng sinh, chúng ta gặp thấy những nhà giảng thuyết
nói đến ba lần Chúa sinh ra khi chú giải lý do phụng vụ cử hành
ba Thánh lễ trong ngày đại lễ này. Tuy nhiên, nên lưu ý: không
phải tại vì có ba lần Chúa giáng sinh cho nên Giáo hội cho phép
cử hành ba Thánh Lễ; thứ tự ngược lại: tại vì có ba Thánh lễ cho
nên các nhà giảng thuyết nói đến ba lần Chúa giáng sinh.
Lập tức một câu hỏi được đặt lên: tại
sao cử hành ba Thánh lễ vào lễ Giáng sinh? Theo các sử gia,
nguồn gốc khá đơn giản chứ chẳng có lý do thần học nào hết. Tất
cả bắt đầu từ Rô-ma. Cũng tương tự như bao nhiêu nơi khác trên
thế giới, Thánh lễ chính của lễ Chúa giáng sinh được phụng vụ cử
hành vào chính ngày, và do Đức thánh cha chủ sự tại đền thờ
thánh Phê-rô. Nhưng ở Roma, ngoài đền thờ thánh Phê-rô có một
đền thờ khác rất nổi tiếng có liên quan đến biến cố Chúa Giáng
sinh, đó là đền thờ Đức Bà Cả, nơi tục truyền lưu giữ di tích
máng cỏ của Chúa Giê-su. Vì thế đức thánh cha Si-x-tô III
(432–440) muốn cử hành thánh lễ nửa đêm tại đây, có lẽ vào thời
kỳ mà công đồng E-phê-sô vừa mới tuyên bố tín điều Đức Maria
Thánh mẫu Thiên Chúa. Vào buổi sáng, trên đường trở về đền thánh
Phê-rô, ngài dừng lại ở nhà thờ kính thánh nữ Anastasia (tử đạo
ở Sirmia khoảng năm 302), được kính vào chính ngày 25 tháng 12.
Tuy nhiên tục lệ này ra đời muộn hơn, vào khoảng thế kỷ thứ VI.
Dù sao đến thời thánh Grê-gô-ri-o Cả (590–604), thì tại Roma
việc cử hành ba thánh lễ đã trở thành tập tục. Đến khi các linh
mục bắt đầu cử hành thánh lễ thường xuyên hơn thì họ cũng muốn
cử hành ba thánh lễ vào dịp lễ Giáng sinh, mà chứng tích đầu
tiên là đan viện Cluny vào năm 1156. Khác một điều là các linh
mục cử hành thánh lễ tại cùng một nhà thờ (chứ không phải là tại
ba nhà thờ), và thậm chí có khi là ba thánh lễ liền nhau. Dù
vậy, tại các nhà thờ chính tòa và các đan viện, người ta vẫn duy
trì việc cử hành Thánh lễ vào ba lúc khác nhau: lúc nửa đêm,
bình minh, chính ngày, với ba bài lễ khác nhau.
2. Chính trong khung cảnh của ba Thánh
lễ mà nảy ra tư tưởng ba lần Chúa sinh ra. Thực ra, nếu chỉ dừng
lại ở các bài đọc Sách thánh thì chúng ta khó nhận ra sự khác
biệt này. Lễ đêm đọc trình thuật của thánh Luca kể lại việc Chúa
sinh ra ở Belem; lễ bình minh tiếp tục thuật lại việc các mục
đồng đến thờ lạy Chúa; lễ ban ngày đọc Tin mừng thánh Gioan về
mầu nhiệm Nhập thể. Nhưng các nhà giảng thuyết đã cố gắng tìm ra
vài ý tưởng thần học hoặc tu đức để nêu bật đặc trưng của mỗi
Thánh lễ, dựa trên những bản văn khác của phụng vụ.
– Người ta có thể khởi đi từ biểu
tượng của ánh sáng. Chúa Giê-su đem ánh sáng cho trần gian; ánh
sáng này chiếu lên tiệm tiến, từ ánh đèn leo lét lúc nửa đêm,
rồi ánh sáng lờ mờ lúc hừng đông, và sau cùng là ánh sáng rực rỡ
giữa ban ngày.
– Một biểu tượng khác là mặc khải,
cũng diễn ra cách tiệm tiến: lúc nửa đêm chỉ có Đức Mẹ và thánh
Giu-se chứng kiến; đến buổi sáng thì có thêm các mục đồng, còn
ban ngày thì mặc khải cho toàn thế giới.
– Tuy nhiên, có lẽ tư tưởng thâm thúy
nhất và phần nào còn ghi ấn vào bản văn phụng vụ là ba lần Chúa
Giê-su sinh ra: lần thứ nhất từ muôn thuở; lần thứ hai tại
Belem; lần thứ ba trong tâm hồn của mỗi người. Chúng ta đọc thấy
tư tưởng này trong các bài giảng của thánh Bê-na-đô và đặc biệt
là cha Gioan Tauler, dòng Đaminh người Đức, sống vào thế kỷ XIV.
a) Lần sinh thứ nhất
từ muôn thuở: Đây là một tư tưởng thần học thuần túy. Trong Tân
ước, Đức Giê-su được gọi là Con Thiên Chúa. Tại sao nơi Thiên
Chúa lại chuyện Cha và Con? Chắc chắn là không có chuyện sinh
sản thể lý như loài người chúng ta. Thánh Augustinô nghĩ đến một
thứ sinh khác. Khi chúng ta nghĩ tới một điều gì, thì trong đầu
chúng ta nảy ra một tư tưởng hoặc một lời; và điều này có thể
gọi là “sinh ra”, chẳng hạn như một nhà văn được gọi là cha của
một tác phẩm. Hiểu theo nghĩa này, ta có thể hình dung mối tương
quan giữa Ngôi Cha và Ngôi Con: Con được sinh ra bởi Cha, giống
như Lời được sinh ra từ một đầu óc.
b) Lần sinh ra thứ hai
không có gì khó hiểu, tức là khi Chúa Cứu thế ra đời ở Belem,
được sinh ra bởi Đức Trinh nữ Maria.
c) Lần sinh ra thứ ba
đáng cho chúng ta để ý hơn, đó là Chúa sinh ra trong lòng mỗi
người chúng ta. Chúng ta hãy nghe chính bài giảng của cha
Tau-lê-rô (Sermon de Noel):
Hôm nay Giáo hội cử hành ba lần sinh
ra của Chúa Giê-su. Lần thứ nhất, hết sức cao cả, diễn ra khi
Chúa Cha sinh ra Con Một trong mầu nhiệm của một bản tính duy
nhất và sự phân biệt ba ngôi vị. Lần thứ hai được cử hành hôm
nay, khi một trinh nữ được diễm phúc làm mẹ. Lần thứ ba diễn ra
mỗi khi Chúa sinh ra trong linh hồn lành thánh. Ba cuộc sinh ra
được cử hành trong ba thánh lễ. Lần thứ nhất được mừng giữa đêm
tối, và mở đầu ca nhập lễ bằng thánh vịnh 2 câu 7: “Thiên Chúa
phán bảo tôi rằng: Con là Con của Cha, Ngày hôm nay Cha đã sinh
ra Con”. Thánh lễ này nhớ đến sự sinh ra trong đêm tối ẩn kín
của mầu nhiệm Thiên Chúa. Lễ thứ hai mở đầu bằng những lời: “Hôm
nay ánh sáng bừng lên trên chúng ta” và cử hành ánh sáng của bản
tính con người được thiên hóa, vào lúc tranh tối tranh sáng, bởi
vì sự sinh ra mới chỉ được biết được có một phần. Thánh lễ thứ
ba được cử hành vào giữa thanh thiên bạch nhật, và bắt đầu bằng
những lời: “Một hài nhi đã sinh ra và một người con được ban cho
chúng ta”, biểu tượng cho sự hạ sinh diễn ra trong linh hồn, nếu
linh hồn biết hướng về Người với tất cả sự chú ý và tình yêu.
Nếu chúng ta muốn cho sự sinh ra này mang lại hoa trái, thì
trước hết chúng ta hãy học từ lần sinh ra thứ nhất, khi Chúa Cha
sinh ra Ngôi Lời. Thiên Chúa là chính sự tốt lành, nên không thể
nào khép kín trong mình nhưng cần phải thông đạt. Do sự thông
ban giữa Ngôi Cha và Ngôi Con mà xuất phát Thánh Linh. Bạn cũng
phải bắt chước như vậy, hãy biết chia sẻ và yêu thương, và đồng
thời bạn hãy biết quay trở về nguồn ngọn của mình. Nhờ việc trao
ban và quay về như vậy mà bạn trở thành giống như người mẹ tinh
thần.
Như vậy
là có hai chuyển động. Một đàng chúng ta phải “xuất ngoại”,
nghĩa là ra khỏi mình, trao ban mình cho Thiên Chúa và cho tha
nhân. Đàng khác, chúng ta phải “nhập nội”, nghĩa là trở về với
chính mình, khước từ những thú vui giả tạo, những quyến luyến
phù vân, chuẩn bị một “cõi không” thinh lặng để lắng nghe Chúa,
một căn phòng trống rỗng để cho Chúa ngự trị, một con tim dành
trọn cho Chúa. Như thánh Augustinô đã viết: “Hãy khoét rỗng
chính mình để cho Chúa lấp đầy; hãy ra khỏi chính mình để cho
Chúa có thể đi vào”.
Tác giả kết luận: “Chúa
Giê-su có thể sinh ra ngàn lần ở Belem, nhưng nếu Người không
sinh trong lòng bạn, thì rút cuộc, chẳng có ích gì hết”.
Phan Tấn Thành
Nguồn:
http://vietnamese.rvasia.org
Tác giả ghi chú:
[1]
H.Rahner, Miti greci
nell’interpretazione cristiana, EDB, Bologna, 1990 (nguyên bản
1957)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
|
Hình nền: Ngàn Ánh Sao Đêm. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: tkd sưu tầm
Đăng ngày Thứ Tư, December 18, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang