Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Sưu tầm Tôn giáo
Chủ đề:
NOEL
Tác giả:
LM An-phong Trần Đức Phương
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Tại Hoa Kỳ, cứ sau lễ
Tạ Ơn (Thanksgiving)
nhiều gia đình và nhà hàng bắt đầu trang hoàng trong nhà, cũng
như trước cửa nhà để chuẩn bị vào mùa Lễ Lớn: Đại Lễ Giáng sinh
và năm mới sắp tới. Một cách đơn giản chúng ta thường hiểu Lễ
Giáng sinh là ngày lễ mừng “Sinh Nhật” (Birthday) của Chúa
Giê-su và ngày 25 tháng 12, 2005 này là ngày sinh nhật thứ 2005
của Chúa Giê-su. Tuy nhiên, nghiên cứu lịch sử về ngày lễ này,
chúng ta thấy có những điều không hẳn đơn giản như vậy.
Một chút lịch sử ơn cứu độ.
Theo truyền thống Do Thái mà nền tảng
là Thánh kinh Cựu Ước, sau khi tổ tông (Thủy tổ) loài người là
ông A-dong và bà E-va sa ngã phạm tội, liền bị mất ân nghĩa với
Thiên Chúa (Sách
Sáng Thế 3:23).
Tuy nhiên vì “Thiên Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh của
Chúa” (ST 1:27)
Ngài không để con người phải án phạt đời đời, nên Ngài đã hứa
ban một Đấng Cứu Thế đến để cứu chuộc tội lỗi nhân loại
(ST 3:15)
và danh hiệu của Ngài là “Đấng Cứu Tinh” (Messiah). Nguyên ngữ
trong tiếng Do Thái thì “Messiah” có nghĩa là “Đấng được xức
dầu”. Theo thói tục của người Do Thái thì ai được chọn làm
“Vua”, làm “Tiên tri” (Prophet), làm thầy “Tư Tế” đều được phong
chức chính thức bằng việc xức dầu (thánh) (dầu ô-liu) trên đầu.
Danh từ “Messiah” chuyển dịch qua tiếng Hy Lạp là “Christos”.
Danh từ “Christos” chuyển sang tiếng La-tinh là “Christus” và
sang tiếng Pháp, tiếng Anh là “Christ”, Tiếng Việt Nam (theo các
bản dịch Thánh kinh của Công giáo, và các sách đạo đức) chuyển
dịch là “Ki-tô” (hay Ky-tô).
Theo Do Thái giáo thì đấng “Messiah”
(Ki-tô) chưa tới cứu độ Dân Ngài. Hàng năm người Do Thái vẫn đến
bên bức “Tường Khóc” để cầu nguyện xin “Đấng Cứu Độ” đến.
Theo Ki-tô Giáo thì “Đấng Ki-tô” đã
giáng sinh, và khi Ngài sinh ra thì được đặt tên là “Giê-su”
(Jesus) theo như lời sứ thần truyền tin cho Maria, mẹ Ngài, đã
báo trước (Xin
xem Phúc âm Lu-ca 1:31 và 2:21).
Danh từ “Giê-su” theo nguyên ngữ Do Thái có nghĩa là “Đấng Thiên
Chúa Cứu Độ”, sau đó hiểu là “Đấng Cứu Độ” (Savior). Vì Chúa
“Giê-su” chính là “Đấng Ki-tô” Thiên Chúa đã hứa, nên tên Ngài
thường được gọi là “Giê-su Ki-tô”. Thánh Phao-lô trong các thơ
gửi các giáo đoàn thường dùng danh hiệu “Giê-su Ki-tô”. Chúng ta
cũng nên lưu ý là vào thời xưa một người chỉ có “tên gọi”, chưa
có “tên họ” và “tên đệm”; nhưng có những “tên hiệu” ghép vào
“tên gọi” trong một số trường hợp, nhất là trường hợp của các
vua chúa hay các “Danh Nhân”. Theo Kinh thánh, Chúa Giê-su cũng
được gọi là “Emmanuel” hay “Immanuel”
(PÂ Lu-ca 1:23).
Danh từ “Emmanuel” trong tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên Chúa ở
cùng chúng ta”. Danh hiệu “Emmanuel” đã được Tiên tri Isaia
(740-687BC) nói đến
(Sách Isaia 7:14).
Chúa Giê-su sinh ra năm nào?
Năm Thiên Chúa giáng sinh làm người
được kể là năm thứ nhất theo lịch chung chúng ta dùng hiện nay;
như thế sinh nhật của Ngài đã chia đôi lịch sử nhân loại.
Theo lịch sử Thánh kinh thì từ “tạo
thiên lập địa” đến năm Chúa giáng sinh được gọi là “Thời Kỳ Cựu
Ước” và từ năm Chúa giáng sinh trở về sau được gọi là “Thời Kỳ
Tân Ước”. Theo lịch chung chúng ta dùng hiện nay thì trước thời
Chúa giáng sinh gọi là “trước Công Nguyên”, thường ký hiệu là
B.C. “Before the birth of Christ” và từ năm Chúa giáng sinh cho
đến ngày “tận thế” thì gọi là “sau Công Nguyên” thường ký hiệu
là A.D. “Anno Domini” “Theo năm của Thiên Chúa”.
Như vậy ngày 25 tháng 12 năm 2005 này
chúng ta mừng sinh nhật thứ 2005 của Chúa Giê-su Ki-tô. Tuy
nhiên vì các nhà làm lịch lúc đầu tính lầm nên năm Chúa Giê-su
giáng sinh bị lệch đi mất 6 hoặc 7 năm. Nếu tính đúng thì năm
2005 sẽ phải là năm 2011 (hoặc 2012). Nói một cách khác, đơn
giản hơn, thì vào năm 2005 này tuổi của Chúa Giê-su đã là 2011
(hoặc 2012) [năm].
Lý do của việc “tính lầm” này là vì
vào thời xưa người ta chưa có lịch chung như ngày nay, nên
thường tính năm theo triều đại của các vua như “Đời Vua Hùng
Vương thứ 18”... chẳng hạn, hoặc theo một biến cố lịch sử nào đó
như năm Tần Thủy Hoàng ra lệnh xây “Vạn Lý Trường Thành” chẳng
hạn. Các thánh sử khi viết sách “Phúc âm” hay “Tin Mừng” cũng
dùng niên hiệu các vua cùng với những biến cố lịch sử nào đó.
Thí dụ: Thánh Mat-thêu viết: “Khi Chúa Giê-su ra đời tại Bê-lem,
miền Giu-đê-a, thời vua Hê-rô-đê trị vì...”
(xin xem PÂ theo Thánh
Mat-thêu 2:1...).
Thánh Lu-ca viết: “vào thời Hoàng Đế Au-gus-tô ra chiếu chỉ Kiểm
Tra dân Số... Khi Giu-se và Maria đang ở Bê-lem, thì Maria đến
ngày sinh con...”
(xin xem PÂ Lu-ca 2:1...)
Khi Chúa giáng sinh thì nước “Do Thái”
(vùng Palestina) đang dưới quyền “đô hộ” của Đế Quốc Rô-ma. Lúc
đó Đế Quốc Rô-ma đang cai trị nhiều vùng rộng lớn, bao gồm cả
vùng Trung Đông. Hoàng Đế Rô-ma lúc đó là Au-gus-tô. Còn vua
Hê-rô-đê chỉ là một “tiểu vương” thay mặt hoàng đế Rô-ma cai trị
miền Giu-đê-a (phía nam Palestina) và nhà vua không phải là
người Do Thái. Vùng đất Palestina (nơi người Do Thái sinh sống
thời đó) gồm ba miền: Ga-li-lê (Bắc), Samaria (Trung) và
Giu-đê-a (Nam). Thành Bê-lem nơi Chúa giáng sinh và thủ đô
Giê-ru-sa-lem nằm phía nam thuộc Giu-đê-a. Vua Hê-rô-đê này
thường được gọi là vua “Hê-rô-đê Cả” (Herod the Great) để phân
biệt với Hê-rô-đê “Antipa” là con. Vua “Hê-rô-đê Cả” là người đã
tiếp kiến các nhà đạo sĩ “phương đông” đến triều yết, để hỏi
đường đến chiêm bái vị vua mới sinh ra
(Mat-thêu 2:1...).
Cũng nhà vua này đã ra lệnh “giết các hài nhi mới sinh từ hai
tuổi trở xuống...”
(xin xem thêm PÂ Mat-thêu 2:1...).
Theo các sử gia thì nhà vua này chết vào năm 4 trước Công
Nguyên, tức là sau khi Chúa Giê-su sinh ra chừng 3 hay 4 năm (vì
Chúa Giê-su sinh ra vào năm 6 hay 7 trước Công Nguyên, do nhà
làm lịch tính lầm năm, như đã nói trên) Khi Thánh Giu-se nghe
tin nhà vua đã chết, liền đem Đức Maria và Chúa Hài Nhi trở lại
quê hương (PÂ
Mat-thêu 2, 19...)
(Như vậy là Thánh Giu-se, Mẹ Maria và Chúa Hài Nhi Giê-su cũng
đã phải trải qua một thời “di cư” sống nơi “đất khách, quê
người” như nhiều người Việt Nam chúng ta hiện nay!).
Riêng về Hê-rô-đê “Con”, ông là người
đã ra lệnh xử trảm Thánh Gio-an Tiền Hô
(PÂ Mat-thêu 14:4).
Nhà vua này cũng là người đã “Rất mừng rỡ khi gặp mặt Chúa
Giê-su...” (PÂ
Lu-ca 23:6...)
khi Người bị bắt và đang bị xử án.
Nếu tính theo triều đại Hoàng Đế Rô-ma
Au-gus-tô, thì Chúa Giê-su sinh ra vào “đời Hoàng Đế Au-gus-tô
thứ 20”.
Thực
ra người chủ trương lấy năm Chúa Giê-su sinh ra là năm I để bắt
đầu Công Nguyên là ông Di-ô-ni-si-ô (khoảng năm 556) đã tính lầm
năm sinh của Chúa, vì ông căn cứ vào năm xây dựng thành Rô-ma và
tính là Chúa giáng sinh vào cuối năm 753 sang năm 754 (sau khi
thành lập thành Rô-ma) là năm Chúa giáng sinh, tức là năm I của
Công Nguyên. Nhưng sau này các sử gia và các học giả Kinh thánh
và lịch sử Đế Quốc Rô-ma nghiên cứu lại các thời đại Hoàng Đế
Au-gus-tô và vua Hê-rô-đê Cả mới thấy là Chúa Giê-su phải sinh
ra sớm hơn khoảng năm 746 hay 747 sau khi thành lập thành Rô-ma,
và vì thế năm sinh của Chúa bị ghi hụt đi mất 6, 7 tuổi và cũng
vì thế mừng sinh nhật cúa Chúa năm 2003 chính ra đã là năm 2009
(hay 2010). Tóm lại, năm Chúa Giê-su Ki-tô giáng sinh.
*Cách thời của Abraham: 21 thế kỷ;
*Cách Maisen với công cuộc xuất hành
khỏi Ai Cập: 13 thế kỷ;
*Cách thời bà Ruth và các thẩm phán:
11 thế kỷ;
*Cách thời vua David được xức dầu phong vương: một ngàn năm;
*Cách năm đại hội Olympics đầu tiên:
776 năm (Đại Hội thứ 194);
*Khoảng 747 năm sau khi thành lập
Thành Rô-ma.
(Quý vị có thể xem thêm tài liệu trong các sách chú giải về Kinh
thánh hoặc đọc phần Dẫn Nhập vào Kinh thánh Tân Ước trong các
bản dịch Kinh thánh của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn; hoặc của Nhóm
Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ; hoặc trong The New American
Bible; hoặc trong Bible de Jê-ru-sa-lem).
Chúa Giê-su sinh ra ngày nào?
Đọc tiểu sử của các “vĩ nhân” trên thế
giới thời xưa, chúng ta thường không thấy nói đến ngày sinh;
chẳng hạn Socrate (khoảng 470-399 BC) hay Platon (khoảng 428-348
BC), v.v. Ngay các cụ trọng tuổi của người Việt Nam chúng ta bây
giờ, nhiều vị cũng không nhớ “ngày sinh, tháng đẻ” của mình;
nhiều cụ chỉ nhớ là tuổi “Mùi” hay tuổi “Thìn”. Ngay cả ngày
tháng năm sinh của các cụ trên giấy khai sinh cũng không đúng
hẳn... Ngày sinh của Chúa Giê-su cũng không được ghi lại đầy đủ
trong các sách Phúc âm (Tất nhiên Chúa Giê-su cũng không có giấy
khai sinh hay sổ bộ khai sinh...)
Nhưng tại sao lại mừng ngày
Chúa Giê-su ra đời vào 25 tháng 12 hằng năm?
Thực ra, trong ba thế kỷ đầu (các
Ki-tô hữu chỉ họp nhau để kỷ niệm việc Chúa Giê-su đã chịu đau
khổ, đã chịu chết và đã sống lại. Đặc biệt tụ họp vào ngày thứ
nhất trong tuần (Ngày
Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết: xin xem PÂ Gio-an 20, 1...)
và gọi ngày này là “Chúa Nhật”. Việc cử hành phụng vụ này gọi là
“Nghi Lễ Bẻ Bánh” (ý nói đến việc cử hành nghi lễ “Thánh Thể”)
(xin đọc sách Tông Đồ
Công Vụ đoạn 2, câu 42...).
Trong những cuộc “họp mặt” này, các Ki-tô hữu cùng gặp gỡ nhau,
chia sẻ tình thân hữu và niềm tin, rồi cùng nhau cầu nguyện và
dự “Lễ Thánh Thể” (Nghi Thức Bẻ Bánh). Lúc đầu chưa có các
“Thánh Đường”, nên thường tùy tiện họp mặt tại các tư gia hay
nơi nào có thể được, như tại “hành lang Salomon”
(TĐCV 5:12...).
Tuy nhiên việc “Cử Hành” này cũng không được đều đặn, vì ngay từ
lúc đầu các Ki-tô đã bị bách hại và xua đuổi. Đọc sách “Tông Đồ
Công Vụ” (The Acts of Apostles), ta thấy rõ điều này: trong khi
các tông đồ và các tín hữu ra sức rao giảng “Tin Mừng tình
thương của Chúa cho mọi người ở mọi nơi họ sống, thì họ cũng
luôn bị những thế lực thù nghịch chống đối và bách hại;” vì
“bóng tối” luôn thù nghịch “ánh sáng”. Những người sống theo
“thế gian” thì thù ghét những ai sống ngược lại với lối sống của
họ! Tất nhiên “Thầy” của mình là Chúa Giê-su Ki-tô đã bị thù
ghét, bị bắt, bị hành hạ và bị giết nhục nhã trên thánh giá, thì
các môn đệ của “Thầy” qua các thế hệ đều cũng bị bách hại cách
này hay cách khác... Tuy nhiên, trong ba thế kỷ đầu thì các cuộc
bách hại rất dữ dội ngay tại nơi đất nước quê hương của Chúa
Giê-su và các tông đồ, và sau đó là ở khắp các nơi trong toàn Đế
Quốc Rô-ma. Hơn nữa, lúc đó chưa có các tổ chức “Bảo Vệ Nhân
Quyền” hay “Bảo Vệ Tự Do Tôn Giáo”, nên các nhà cầm quyền tự do
đàn áp và tàn sát các tín hữu và các vị lãnh đạo tôn giáo của
họ, bất kể ở các chức vụ nào. Thánh Phê-rô, vị Giáo Hoàng đầu
tiên và các Thánh Tông Đồ đều bị giết, trừ Thánh Gio-an thì bị
lưu đày cho đến chết. Các vị Giáo Hoàng tiếp theo cũng như các
thành phần trong giáo hội đều bị xua đuổi, bị bắt, bị tù đày và
bị giết thảm khốc (nhất là dưới thời Hoàng Đế Nê-ron).
Trong hoàn cảnh cực khổ đó, các vị
lãnh đạo và các tín hữu tiếp tục giữ vững đức tin và tiếp tục
rao giảng Tin Mừng và họp mặt cầu nguyện và cử hành nghi lễ
“Thánh Thể” bất cứ lúc nào và nơi nào có thể được để an ủi và
nâng đỡ lẫn nhau trong cuộc sống đức tin đầy khó khăn như thế.
(Xin xem thêm về chuyện các “Hang Toại Đạo” “Catacombs” tại
Rô-ma ngày xưa). Cho mãi đến năm 313 khi một Hoàng Đế Rô-ma có
tên là Constantino Đại Đế (Constantine “The Great”) (280-337)
(theo đạo Công giáo, Mẹ là Thánh Helene) ký hiệp ước Milan (Edit
de Milan) để bảo đảm quyền tự do tôn giáo, lúc đó giáo hội mới
được hưởng một thời kỳ an bình (Paix de L’Eglise) và lúc đó, các
Ki-tô hữu mới được hưởng chút tự do để thờ phượng Chúa và các
thánh đường được xây cất, các buổi “họp mặt” cầu nguyện, học hỏi
Thánh kinh và cử hành “Lễ Thánh Thể” mới được thường xuyên
hơn... Tuy nhiên đến năm 336 mới thấy việc cử hành ngày Chúa
giáng sinh (Christmas Day) xuất hiện trong lịch phụng vụ của
Giáo Hội. Việc mừng Lễ Giáng sinh của Chúa Giê-su chắc là trùng
hợp với việc các Ki-tô hữu, khi đã được hưởng thời gian an bình
để sống đạo, liền nghĩ đến việc hướng về quê hương của Chúa,
nhất là nơi Chúa giáng sinh là thành Bê-lem và hành hương kính
viếng và chung tay xây cất Đền Thờ Chúa giáng sinh tại Bê-lem
vào năm 330.
Vì ngày Chúa giáng sinh không được ghi rõ ràng trong các văn
kiện lịch sử cũng như trong các sách Phúc âm, nên Giáo Hội đã
chọn một ngày thích hợp là 25 tháng 12 là ngày gần với ngày đông
chí (winter solstice), ngày ngắn nhất đã qua và ánh sáng lại trở
lại... và vì thế các dân tộc Trung Đông thời cổ hay mừng “ngày
ánh sáng” vào 25 tháng 12; rồi Giáo Hội muốn thánh hóa ngày này
bằng việc kính nhớ ngày Thiên Chúa giáng sinh “Đất Trời Giao
Hòa”. Như vậy ngày 25 tháng 12 không phải là ngày có tính cách
lịch sử mà chỉ là ngày kỷ niệm mừng Chúa giáng trần để giao hòa
với nhân loại và loan báo tin mừng cứu độ (xin xem thêm
“Preaching the Lectionary” của R. H. Fuller). Đây chỉ là một
việc làm theo “tiện lợi”, tạm ví như nhiều cụ khi ở Việt Nam thì
không có thói quen mừng ngày sinh nhật (birthday) (tất cả chỉ
mừng vào dịp Tết). Nhưng đến Hoa Kỳ, giới trẻ thích sống theo
văn hóa địa phương, đã có thói quen mừng “sinh nhật”, và cũng
muốn các bậc cha mẹ có một ngày để mừng cho con cháu vui vẻ
trong gia đình. Các cụ nào không nhớ được ngày sinh nhật chính
thức của mình, đã chọn một ngày nào đó; chẳng hạn có cụ chỉ nghe
cha mẹ nói là mình sinh vào dịp tháng tám mưa bão, liền chọn một
ngày trong tháng 8. Có cụ chỉ nhớ cha mẹ nói là sinh vào giữa
mùa gặt (ở ngoài bắc thì vào tháng 5) nên chọn một ngày vào
tháng 5. Kể cả việc ngày giỗ của một số vị trong gia đình cũng
không thể đúng ngày; nhiều gia đình có chồng con mất tích trong
cuộc chiến, khi biết chắc là đã chết, liền chọn một ngày để kính
nhớ (thường hay chọn vào ngày nghe tin mất tích...).
Vì ngày mừng lễ Giáng sinh vào 25
tháng 12 hàng năm không xác thực theo lịch sử nên thường có
những ý kiến chống đối; đặc biệt vào thế kỷ 17 tại Anh Quốc,
những người “Thanh Giáo” (Puritans) đã nỗ lực để yêu cầu xóa bỏ
việc mừng lễ Giáng sinh của Chúa Giê-su; nhưng mọi nỗ lực đều
thất bại, và việc mừng Chúa giáng sinh vào 25 tháng 12 hàng năm
vẫn tiếp tục ở Anh Quốc cũng như khắp nơi trên thế giới. Hơn
nữa, việc mừng lễ Giáng sinh của Chúa không phải chỉ đơn thuần
mừng ngày “sinh nhật” của Chúa, mà còn có ý nghĩa thiêng liêng
chuẩn bị tâm hồn đón Chúa vào tâm hồn tín hữu, và ngày Chúa trở
lại trần gian lần thứ hai trong ngày thẩm phán. Vì thế có gần
một tháng để tín hữu chuẩn bị lễ Giáng sinh, gọi là “Mùa Vọng”
(ngày xưa gọi là “Mùa Áp”) (Advent). Mùa Vọng là mùa Giáng sinh
khởi đầu niên lịch phụng vụ của Giáo Hội, tiếp theo là “Mùa
Thường Niên I”, rồi đến “Mùa Chay” (Lent) để chuẩn bị Đại Lễ
Phục Sinh và Mùa Phục Sinh, rồi đến “Mùa Thường Niên II” kéo dài
đến “Mùa Vọng” cho một niên lịch phụng vụ mới.
Nơi đây chúng tôi cũng xin nói thêm là
trước lễ Giáng sinh 9 tháng, Giáo Hội có một ngày mừng lễ đặc
biệt gọi là “Lễ Truyền Tin” (Annunciation) để kỷ niệm giờ phút
sứ thần Thiên Chúa báo tin cho Đức Maria biết Thiên Chúa đã chọn
Ngài làm người được diễm phúc cưu mang và sinh Đấng Cứu Thế...
Và Đức Maria đã “Xin Vâng”
(xin xem Phúc âm Lu-ca đoạn I, từ câu 26...).
Đây chính là giờ phút rất quan trọng trong lịch sử ơn cứu độ,
giờ phút “Đất Trời Giao Hòa”, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và
cư ngụ giữa chúng ta”
(PÂ Gio-an 1, 14).
Chính vì thế mà trong toàn Giáo Hội có thói quen “Nguyện Kinh
Truyền Tin” vào ba lúc quan trọng trong một ngày: sáng, trưa,
chiều. Khi nghe tiếng “Chuông Nguyện” mọi tín hữu đều ngưng các
công việc để nguyện kinh “Truyền Tin” mà nhớ đến giây phút quan
trọng này: “Và Ngôi Lời đã nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ
Maria.” Rất nhiều nhạc sĩ, thi sĩ Công giáo các nơi đã sáng tác
các bài thánh ca hoặc các bài thơ diễn tả giây phút “huyền
nhiệm” này; đan cử như bài thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử, bài “Theo
Tiếng Thiên Thần xưa Kính Chào” của Hoàng Diệp, bài “L’Annonce
faite à Marie” của Paul Claudel (văn hào Pháp).
Ngày nay lễ Giáng sinh (có nơi gọi là
lễ “No-en” “Noel”) càng ngày càng lan rộng đi khắp nơi, đến cả
các dân tộc ít có các Ki-tô hữu, và ngay cả các nước còn đang
dưới chế độ “cộng sản” như Cuba, Trung cộng, Việt Nam, Bắc Hàn
cũng không thể ngăn cản dân chúng rầm rộ mừng lễ No-en. Đáng
tiếc là ngày nay người ta đã “thương mại hóa” dịp lễ này mà làm
giảm đi phần nào ý nghĩa thiêng liêng cao cả. Tuy nhiên điều
“lạm dụng” đó cũng không thể làm giảm đi tinh thần mừng lễ đích
thực trong lòng những người thành tâm thiện chí (Abusus non
Tollit Usum) và họ được hưởng “ơn phúc lộc” an bình trong tâm
hồn và trong gia đình họ, như lời các Thiên Thần hát mừng trong
đêm Chúa giáng sinh:
“Vinh
Danh Thiên Chúa trên Trời,
Bình an
dưới thế cho người thiện tâm!”
Kính chúc quý vị được hưởng nhiều ơn
phúc lộc của Chúa trong dịp lễ Giáng sinh này, và những ơn phúc
đó sẽ tràn lan sang năm mới, đem đến bình an thật của Chúa trong
tâm hồn và gia đình mỗi người chúng ta, cũng như cho toàn thể
thế giới và trên quê hương dân tộc Việt Nam chúng ta.
LM An-phong Trần Đức Phương
(Cựu giáo sư chủng viện Simon Hòa)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
... hỡi Thần dân, hãy đi và loan Tin Mừng... Chúa Cứu Thế giáng trần
|
Hình nền:
Nguồn: bkt
đọc báo
http://tinmung.net/Holiday/Christmas/Tim-hieu-GS/Ngay-sinh-nhat-cua-Chua.htm
Đăng ngày Thứ Hai, December 10, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang