Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Lời tường thuật
Chủ Đề:
Cái chết của Vị Giám Mục
Tác giả:
Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời giới thiệu:Quý Vị kính mến!
1. Hôm nay Lễ Giỗ 32 năm Đức Cố TGM Phi–líp–phê Nguyễn Kim
Điền 8/06/1988–2020, kính xin Quý Vị tiếp tục Hy Sinh Hiệp
Nguyện.
2. Xin kính gửi lại Quý Vị Lời Chứng số 3 ngày
30/01/2001, về Đức Cố TGM Phi–líp–phê Nguyễn Kim Điền đã Tử Đạo
ngày 8/06/1988 tại Sài Gòn.
3. Xin luôn Hy Sinh Hiệp
Nguyện.
Thay mặt Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền
Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý
Lời Chứng số 3
Lời Chứng của Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý ngày 30/01/2001
1. Ðức Cố Tổng Giám Mục
Phi–líp–phê Nguyễn Kim Ðiền trước 1975
Đức
Cố TGM Ðiền, sinh năm 1921, nguyên là một Linh mục xuất sắc về
đạo đức và trí thức của Giáo phận Sài Gòn. Ngài làm giáo sư Tiểu
chủng viện, rồi làm Giám đốc Tiểu chủng viện Giáo phận Sài Gòn.
Ngài nói và viết tiếng Pháp gần như một nhà trí thức Pháp. Ngài
đã trở nên một trong những thành viên đầu tiên của Dòng Tiểu Ðệ
Phúc Âm theo tinh thần của Cha Charles de Foucault do Cha René
Voillaume thành lập. Từ đó, Ngài đạp xích lô để mưu sinh và gần
gũi với giới lao động. Năm 1960, Ngài được chọn làm Giám mục Cần
Thơ. Năm 1964, Ngài được chọn làm Giám quản Tông Tòa Tòa Tổng
Giám Mục Huế. Ít lâu sau Ngài chính thức làm Tổng Giám Mục Huế.
Ngài thánh thiện, hiền từ, kín đáo, tế
nhị, đến nỗi Ngài làm Giám mục ở Huế suốt 11 năm, trừ một căn
phòng nhỏ Ngài dùng để ngủ, còn lại tất cả các phòng khác trong
Tòa TGM Huế cách bày biện trang trí Ngài vẫn cố tình để y nguyên
như thời Ðức TGM Phê–rô Ngô Ðình Thục, để đợi Ðức TGM Thục trở
về, ngay cả ghế quỳ mỗi ngày Ngài quỳ chầu Mình Thánh Chúa cả
tiếng đồng hồ, Ngài cũng để y nguyên như thời Ðức TGM Thục vậy.
Sau 1975 Ngài mới cho thay đổi, vì biết chắc chắn Ðức TGM Thục
không bao giờ trở về nữa.
Ngài có đời sống nội tâm sâu xa, mỗi
ngày quỳ chiêm ngắm Mình Thánh Chúa đủ hoặc hơn một giờ đồng hồ
không động đậy, không sách vở. Ngài Xưng Tội đều đặn với một Linh
mục đạo đức đang ở hưu tại Nhà Hưu dưỡng Giáo phận.
Ngài luôn xử sự với mọi người cách lễ
độ, ôn tồn. Ðặc biệt, với hàng Linh mục, Ngài luôn tôn trọng và
thân tình. Với các Tôn Giáo bạn, Ngài luôn chân thành kính cẩn.
Nhóm Hướng Thiện Phật Giáo, một tổ chức từ thiện nổi tiếng ở Huế,
luôn coi Ngài là Vị Bảo Trợ Tinh Thần, mỗi năm đều đến kính thăm
Ngài ít nhất 4 lần: Tết Nguyên đán, Giáng Sinh, Phục Sinh và ngày
Giỗ của Vị Bồ Tát sáng lập nhóm Phạm Văn Siêu. Mỗi lần, họ đều
quỳ lạy Ngài, không bao giờ nhận sự trợ giúp vật chất, chỉ xin
Ngài Cầu Nguyện cho Việc Từ Thiện của họ mà thôi. Ngài đỡ họ dậy,
không muốn họ quỳ lạy như thế, nhưng họ vẫn cứ làm mãi.
Ðặc biệt là Ngài rất cẩn thận để Giáo
Hội tách biệt khỏi chính trị thế tục, đến nỗi suốt 11 năm làm
Tổng Giám mục ở Huế từ 1964 đến 1975, Ngài không hề sử dụng một
chuyến máy bay nào của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa và Không Lực
Hoa Kỳ, Ngài cũng không hề tiếp một Nhân viên nào của Chính phủ
Việt Nam Cộng Hòa hay Sĩ quan cao cấp nào tại Tòa TGM Huế, với tư
cách là quan quyền phần đời cả. Ðầu năm 1975, Tướng Ngô Quang
Trưởng, Tư lệnh Quân Khu I, một Vị Tướng lúc đó rất uy tín trong
chế độ Sài Gòn cũ, muốn gặp Ðức TGM Ðiền, Ngài đã trả lời: “Tôi
là nhà tu hành, nếu Ngài muốn gặp tôi với tư cách là một con
người đi tìm chân lý và bình an thì xin kính mời Ngài đến bình
thường như mọi người lúc nào cũng được, nhưng nếu Ngài muốn đến
thăm tôi với tư cách một Sĩ quan của Quân Lực VNCH thì tôi không
đủ tư cách tiếp Ngài”. Nghe trả lời thế, Tướng Ngô Quang Trưởng
đã không đến.
Năm 1974, Ngài đi dự Thượng Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới ở Rô–ma,
nhiều phóng viên báo chí bao vây Ngài, có người hỏi Ngài: “Có dư
luận cho rằng cộng sản Bắc Việt sẽ chiếm được miền Nam, Ngài nghĩ
sao về cộng sản VN”? Ngài đã trả lời rằng: “Là Giám mục Công
giáo, tôi không bao giờ chấp nhận Chủ nghĩa và Chế độ cộng sản,
nhưng người cộng sản Việt Nam cũng là người anh em của tôi”. Vì
thế sau đó, có dư luận cho rằng Ngài là TGM “đỏ”. Ngài im lặng
hoàn toàn.
Ðầu
năm 1975, Ngài tiên đoán quân CS Bắc Việt thế nào cũng đánh chiếm
Huế, nên có bí mật thăm dò các Linh mục Giáo phận Huế, để biết
nếu quân Bắc Việt chiếm Quảng Trị – Thừa Thiên, thì liệu có bao
nhiêu Linh mục tình nguyện ở lại để làm việc trong chế độ cộng
sản. Cuộc thăm dò cho kết quả đáng buồn: chỉ có 6 / khoảng 120
Linh mục dám ở lại với CS mà thôi.
Ngài tức khắc vào Sài Gòn tìm 1 Nhà hưu
cho các Linh mục già lão của GP Huế di tản vào và bàn giao Hội
Thừa Sai VN cho Ðức TGM Phao–lô Nguyễn Văn Bình, để vội về lại
Huế cho kịp. Ngày 19/03/1975 Ngài về đến Ðà Nẵng bằng một trong
vài chuyến Boeing cuối cùng của Hàng Không VN lúc đó. Từ Ðà Nẵng,
xe của Tòa TGM Huế đưa Ngài về đến Huế lúc 2 giờ sáng ngày
20/03/1975. Ðược biết chỉ còn khoảng hơn 6 Linh mục thật sự ở lại
trong tỉnh Thừa Thiên, còn tỉnh Quảng Trị thì không còn Linh mục
nào, Ngài vội nhờ đường dây điện thoại còn lại cuối cùng của
phòng Tuyên úy Công giáo, để gọi gấp vào Sài Gòn gọi tôi ra, là
người đã tình nguyện theo Ngài ra sống trong vùng cộng sản.
Tôi đang dâng Thánh Lễ tại Nhà Thờ Giáo
xứ Vườn Xoài trong một tuần giảng tĩnh tâm tại đây, nhận được tin
Ðức TGM Huế lúc 6 giờ sáng muốn tôi ra Huế. Tôi vội về lại cộng
đoàn Thừa Sai thu xếp và ra Ðà Nẵng lúc 12 giờ trưa ngay ngày hôm
đó. Tôi chỉ ra Huế sau Ðức TGM Ðiền 10 giờ đồng hồ, nhưng Ðèo Ðá
Bạc đã bị quân Bắc Việt chiếm, nên từ Ðà Nẵng, tôi phải dùng
nhiều phương tiện, cuối cùng sau 5 đêm và gần 6 ngày trọn, tôi về
được đến Tòa TGM Huế chiều 25/03/1975.
2. Ðức Cố TGM Phi–líp–phê
Nguyễn Kim Ðiền sau 1975
Sáng 26/03/1975, quân Bắc Việt treo cờ
giải phóng trên Thành phố Huế. Quân đội giải phóng miền Nam VN
thực chất cũng là quân Bắc Việt thôi, nhưng phải lấy cớ là quân
miền Nam giải phóng để tránh tiếng cho Hà Nội khỏi xâm lược miền
Nam.
Ngay
ngày 01/04/1975, Ủy Ban Quân Quản tỉnh Thừa Thiên đã mời Ðức TGM
Ðiền tham dự buổi mít–tinh để chào mừng ngày Huế giải phóng. Ngài
đã phát biểu theo tinh thần tích cực, vui mừng vì chiến tranh
chấm dứt tại một phần Ðất Nước. Sau đó Ngài đều cổ vũ mọi người
vui sống theo tinh thần lạc quan đó. Ngài phổ biến tập sách “Tôi
Vui Sống” để hướng dẫn Dân Chúa sống Phúc Âm trong hoàn cảnh mới
một cách tích cực.
Ðể đề phòng việc có thể thiếu vắng Chủ
Chăn, ngày 09/07/1975, Ngài dùng năng quyền đặc biệt, tấn phong
ngay Ðức TGM Tê–pha–nô Nguyễn Như Thể làm TGM Phó với quyền kế
vị.
Dịp
02/09/1975, Ngài xin đi Hà Nội để chào mừng Ðức Hồng Y Tiên Khởi
của Giáo Hội Công giáo Việt Nam là Ðức Hồng Y Giu–se Maria Trịnh
Như Khuê, đồng thời để 2 Vị Lãnh đạo gặp nhau lần đầu tiên. Trên
đường đi, Ngài thăm 2 Ðức Giám mục Gp Vinh và Thanh Hóa. Tại Hà
Nội, Ngài gặp Ðức Giám mục Bắc Ninh hiện nay là Ðức Hồng Y Giu–se
Maria Phạm Ðình Tụng. Ngài lưu lại Tòa Tổng Giám mục Hà Nội gần 2
tuần, gặp Ðức TGM Phó Hà Nội, sau này là Đức Hồng Y Giu–se Maria
Trịnh Văn Căn, gặp Cha Fx. Nguyễn Văn Sang, hiện nay là Giám mục
Thái Bình, Tổng Thư ký HÐGMVN, gặp Cha Tổng Ðại diện Giu–se Trần
Bình Trọng, hiện nay là GM Phụ tá Hà Nội, gặp cha Nguyễn Tùng
Cương, về sau làm Giám mục Hải Phòng, gặp Cha Tông, hiện nay là
Tổng Ðại Diện TGP Hà Nội, và nhiều linh mục quan trọng khác.
Chuyến đi miền Bắc này giúp Ngài thấy rất rõ CSVN đối xử thế nào
với các Tôn giáo tại VN và nhất là Giáo hội Công Giáo VN. Về lại
Huế, CSVN yêu cầu Ngài viết và nói lại chuyến đi ấy, Ngài nhất
mực từ chối. CSVN cũng mời tôi, Linh mục Thư ký cùng đi với Ngài
làm như thế, nhưng tôi cũng từ chối.
CSVN đàn áp các Tôn Giáo ngày càng rõ
rệt, nhất là việc phân biệt đối xử các Tín hữu ghi rõ trong lý
lịch mình là “Công Giáo”. Rất nhiều sinh viên Công Giáo không thể
tốt nghiệp đại học, bao nhiêu học sinh Công Giáo không thể thi
vào đại học, bao nhiêu nhân viên bị mất việc làm chỉ vì mình là
Công Giáo. Việc bổ nhiệm, thuyên chuyển Linh mục càng ngày càng
khó khăn. Giữa năm 1975, Ngài phong chức được 2 Linh mục, đầu năm
1976, được 4 Linh mục và sau đó đành chịu. Mãi 18 năm sau, năm
1994, Ðức TGM Tê–pha–nô Nguyễn Như Thể mới phong chức được thêm 5
Linh mục khác.
Từ một người rất sợ cộng sản, nhưng
trong Ðức Tin và Ðức Ái, Ðức TGM Ðiền cố gắng sống cởi mở, hài
hòa, tích cực. Dần dần Ngài nhận thức rõ, CSVN thực sự muốn tiêu
diệt các Tôn Giáo và nhất là Công Giáo. Năm 1977, trong 2 cuộc
họp do Ủy ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam (UBMTTQVN) tổ chức, Ðức
TGM Ðiền đã phát biểu 2 bài đòi Tự do Tôn Giáo, Ngài xác nhận,
người Công Giáo bị đối xử là “công dân hạng hai”. Tôi đánh máy
phổ biến cho các Linh mục Gp Huế. Sau đó, 2 bài này được in ra
khá nhiều ở Sài Gòn và báo chí nước ngoài đăng lại. Cuối tháng
8/1977, Linh mục Hồ Văn Quý, Giám đốc Ðại chủng viện Huế và tôi
bị bắt, các tòa án nhân dân của các tổ chức quần chúng kết án
chúng tôi 20 năm, nhưng năm 1977, Việt Nam vừa nộp đơn xin gia
nhập Liên Hiệp Quốc, nên chiều 24/12/1977, hai chúng tôi đột ngột
được thả ra. CSVN buộc Ðức TGM Huế phải bổ nhiệm 2 anh em chúng
tôi đi làm việc, không cho ở Nhà Chung, nhưng không được bổ nhiệm
ở thành phố, giáo xứ lớn, ở vùng núi, ở vùng biển; chỉ được ở
giáo xứ nhỏ vùng quê mà thôi. Ðầu tháng 7/1978, Linh mục
Augustinô Hồ Văn Quí đi Bố Liêu, Quảng Trị; còn tôi đi Ðốc Sơ,
ngoại ô Tp Huế.
Trước Giáng Sinh 1979, CSVN dùng bạo
lực cưỡng chiếm Tiểu chủng viện Hoan Thiện, đuổi 3 Linh mục đang
dạy trong đó phải đi làm việc khác và hơn 80 chủng sinh phải về
sống với gia đình. Giáng Sinh năm đó, Ðức TGM Ðiền ra lệnh cho cả
Giáo phận Huế phải để tang cho đứa con yêu 149 tuổi này đã bị
giết. Ngài nói: “Chủng viện là con mắt của Giám mục, nay tôi đã
bị móc mắt rồi”. Cả Giáo phận quá đau lòng về việc Tiểu chủng
viện bị cưỡng chiếm, mãi đến nay vẫn bị chiếm.
Lúc bấy giờ, CSVN không muốn giáo hữu
đi hành hương kính Ðức Mẹ La Vang, ngăn chận xe khách dọc đường,
đuổi tất cả những ai muốn đi La Vang xuống. Nên việc hành hương
kính Ðức Mẹ La Vang rất khó khăn. Cha Tô–ma Trần Văn Cầu, Quản xứ
Trí Bưu phụ trách Trung Tâm La Vang; về sau Cha Emmanuel Nguyễn
Vinh Gioang, Quản xứ Diên Sanh phụ trách La Vang, và tất cả các
Linh mục vùng Quảng Trị đã phải kiên trì đấu tranh bằng nhiều
cách để có thể đưa giáo hữu đến La Vang. Dịp 15/08/1981, tôi phải
hướng dẫn khách hành hương La Vang bị chận dọc đường, đứng tại
chỗ, hướng về La Vang mà nguyện kinh 4 lần 4 nơi khác nhau, mới
có thể khai thông tuyến đường. Năm đó, lần đầu tiên sau 1975, số
người hành hương La Vang lên đến 10 ngàn người.
Từ 1976, Ðức TGM Huế không truyền chức
Linh mục được thêm cho một chủng sinh nào. Ðại chủng viện Huế coi
như bị đóng cửa với 1 Linh mục giám đốc duy nhất. Các Dòng tu
liên tiếp gặp quá nhiều khó khăn. Phải tu chui, khấn chui, một
cách vô lý và rất ấm ức. Các giáo xứ “kinh tế mới” và xa xôi quá
khó khăn mới có một Thánh Lễ dịp Giáng Sinh, Phục Sinh...
Năm 1980, cùng với Ðức TGM Phó
Tê–pha–nô Nguyễn Như Thể, Ngài đi dự buổi họp đầu tiên của HÐGMVN
tại Hà Nội. Khi về lại, cả 2 Vị TGM đều rất buồn về Bức Thư Chung
không được vừa ý, nhưng vì muốn bày tỏ tính hiệp nhất của Giáo
hội mà đành lòng ký chung. Thư Chung này, hầu như không có Linh
mục Gp Huế nào đọc chung trong Nhà Thờ cho giáo hữu nghe, chỉ trừ
một Linh mục duy nhất là Linh mục nay đã qua đời. Sau đó, Ngài
được đi Rô–ma. Ðức Giáo Hoàng Gioan Phao–lô II đã gọi Ngài là
“TGM anh dũng”, chia sẻ với Ngài công thức lừng danh để sống
trong chế độ cộng sản là: “cộng tác trong tình trạng luôn luôn đề
kháng” (collaborer en résistant).
Năm 1983, CSVN bắt 10 Chủng sinh đóng
kịch tôi dẫn Giáo hữu đi La Vang hồi 1981, kết án 5 chủng sinh
2–5 năm tù, đuổi 5 chủng sinh khác về nhà, kết án tôi 10 năm tù &
4 năm quản chế, rồi đưa tôi ra Thanh Hóa. CSVN lại bắt Linh mục
Lê Thanh Hoàng, kết án 3 năm, nhưng phải ở 5 năm.
Ngài lặp đi lặp lại nhiều lần, tại
nhiều nơi: VN chưa có tự do tôn giáo thực sự. Nhiều lần, Ngài
viết thư cho Hội Ðồng Giám mục Việt Nam và Linh mục Nguyễn Hữu
Vịnh, Chủ tịch Ủy Ban Ðoàn Kết Công Giáo (UBÐKCG) chứng minh rằng
Giáo Hội Công giáo VN đang bị bách hại thực sự; và GHCGVN đã có
Hội Ðồng Giám mục VN là cơ quan chính thức để điều hành sinh hoạt
Giáo hội, liên lạc với Chính quyền cộng sản, không cần có thêm
một Ủy ban nào hết. Nếu UBÐKCG hoạt động thì UB ấy cao hơn
HÐGMVN, tạo nên sự bất hợp lý trong Giáo hội. (Tại nhiều giáo
phận, việc thuyên chuyển, bổ nhiệm Linh mục, việc du học và du
lịch nước ngoài do UBÐKCG này lèo lái, sắp đặt). Ngài viết: “Ai
không đi qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo qua lối khác mà
vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp”
(Ga 10, 1).
Ngài phải tìm cách chuyển các tài liệu
ấy ra nước ngoài. Vì thế, Ngài đã bị CSVN gây bao nhiêu đau khổ.
Rất tiếc, hiện nay tất cả các tài liệu này đã bị một Linh mục của
Tòa TGM Huế thiêu hủy năm 1994 (đành phải dấu tên cho Linh mục
ấy). Khi đó, có một Nữ tu thấy và biết, khóc lóc xin đừng làm như
thế, nhưng Linh mục này vẫn không nghe, vì cho rằng những tài
liệu ấy không phù hợp và có hại (?!). Hiện nay tôi chưa thể có
điều kiện thu tập các tài liệu rất quý này. Hy vọng vẫn có ai đó
trên trái đất này còn cất giữ được.
Lm Phê–rô Nguyễn Hữu Giải nhiệt tình
chống đối việc thành lập UBÐKCG nên ngày 26/11/1983, Linh mục
Giải bị bắt, bị ở trại tập trung đến cuối 1989 mới được thả, dù
không có tội gì. Nhiều Linh mục, Tu sĩ khác bị triệu tập làm việc
rất căng thẳng. Ðức TGM Ðiền càng đau buồn.
Rồi Lm Phê–rô Trần Văn Quí, Thư ký của
Ngài bị bắt và bị quản chế. Về sau bị cưỡng bức đưa đi giáo xứ
Buồng Tằm, một giáo xứ nhỏ tận thượng nguồn sông Hương, nhưng
Linh mục Quí phản đối và bỏ vào Sài Gòn học thêm tin học và ngoại
ngữ. Năm 1995, Lm Quí được bổ nhiệm làm Quản xứ Phường Ðúc và
Nguyệt Biều.
Ðức TGM Ðiền đã nói một câu rất thời danh: “Xưa nay đã có nhiều
Giám mục, Linh mục, Tu sĩ, Giáo dân đã chết vì Ðạo, nhưng đã có
mấy ai dám chết vì quyền con người?”
3. Ðức Cố TGM Phi–líp–phê
Nguyễn Kim Ðiền đã Tử Ðạo thế nào?
Năm 1975, Ðức TGM Ðiền không hề bị một
bệnh nào, chỉ thỉnh thoảng bị cảm lạnh. Nhưng chịu quá nhiều
phiền toái do CSVN gây ra như bị ép buộc ký giấy trao cho CSVN sử
dụng hầu hết các cơ sở giáo dục và từ thiện của Giáo phận, bị
triệu tập làm việc suốt hơn 100 ngày, suốt ngày bị nghe những lời
thóa mạ, bị buộc viết các lời khai, bị buộc ăn năn sám hối vì đã
đấu tranh các quyền lợi chính đáng của Giáo Hội, bị buộc tố cáo
chê bai các Linh mục, Tu sĩ con cái của mình, không thể truyền
chức Linh mục cho các chủng sinh đã học xong từ lâu, không thể bổ
nhiệm các Linh mục, có thời gian không thể đi cử hành Nhiệm tích
Thêm sức trong Giáo phận, nên từ 1981, Ngài bị bệnh nhồi máu cơ
tim, thỉnh thoảng tim ngừng đập vài giây, cao huyết áp, xơ cứng
động mạch, suy thận, cột sống và cao đường máu, mỗi thứ một ít,
nhưng chưa có bệnh nào nặng đến nỗi gây ra cái chết đột ngột.
Ðức TGM Ðiền qua đời ngày 8/06/1988,
lúc bấy giờ tôi đang ở trại giam Nam Hà, Hà Nam Ninh. Khoảng 1
tuần sau đó, tôi biết tin Ngài qua đời qua nhật báo Nhân Dân của
CS. Các điện tín và các thư thân nhân (nay còn sống và tạm dấu
tên) báo tin cho tôi Ngài qua đời, đều không đến tay tôi.
Cuối năm 1992, tôi ra khỏi tù. Nghe
nhiều người bàn tán về cái chết “đầy bí ẩn” của Ðức TGM Ðiền và
về các “ơn lạ” mà nhiều người đã xin được, nhờ cầu nguyện với
Ngài. Tôi quỳ trước mộ Ngài cầu nguyện rất lâu rằng: “Nếu việc
làm sáng tỏ nguyên nhân cái chết của Ðức Tổng làm Vinh Danh Chúa
và có lợi cho Hội Thánh CGVN, thì xin Ðức Tổng cầu bầu cùng Chúa
phù trợ cho con đủ điều kiện làm xong việc quá khó khăn này”. Sau
đó, tôi bắt đầu âm thầm tiến hành điều tra. Sau đây là kết quả
bước đầu. Kính xin mọi người bổ sung đầy đủ hơn:
Cuối tháng 5/1988, Ngài xin vào điều
trị tại bệnh viện Nguyễn Trãi, mong tạm ổn định để có thể đi
Rô–ma. Ngài rất nôn nóng đi Rô–ma để báo cáo về Ðức TGM Phó mà
Ngài định đặt, về Ðức GM Phụ tá Gia–cô–bê Lê Văn Mẫn mà Ngài đã
tấn phong “bí mật” và về GHCGVN, về GP Huế. Có 2 bác sĩ quen săn
sóc, 1 bác sĩ ở đường Sương Nguyệt Ánh, gần Nhà thờ Chợ Ðũi và
một bác sĩ bạn của bác sĩ này. Theo họ, Ðức TGM bị ung thư đường
tiểu, không thể chữa.
Ngài bị nhổ 2 răng: 1 răng vàng và một
răng khôn, có đem 2 răng ấy đến 42 Tú Xương nhờ em ruột của Nha
sĩ Phạm Thị Thân khám. Cô Y tá ở phòng khám này có quen cô Bích
Hồng. Cô Nguyễn Thị Kim Anh 12 A Trương Quốc Dung, F.10 Phú Nhuận
ÐT 08.8350482 – 08.8449472 quen biết cô Bích Hồng, Thị Nghè,
thuộc Tu hội Trợ Tá Tông Ðồ, người săn sóc Ðức Tổng vào những giờ
cuối. Hai Lm Stanilaô Nguyễn Ðức Vệ – và Gioakim Lê Thanh Hoàng
đi theo Ðức TGM Ðiền để săn sóc Ngài biết cô Hồng này.
Không biết có sự gợi ý của CSVN hay
không, nhưng cho dù có, thì cũng chỉ vì chân tình và ngay tình, 2
Ðức Giám mục (tạm thời xin dấu tên) thăm Ngài 2 lần khác nhau tại
bệnh viện Nguyễn Trãi khuyên Ngài xin vào bệnh viện Chợ Rẫy để có
thể xét nghiệm làm hồ sơ xin đi nước ngoài chữa bệnh, vì 2 Ðức
Giám mục này cho biết trên nguyên tắc CQ CSVN đã đồng ý. 2 Ðức GM
này còn cam đoan là CSVN không đến nỗi dùng thủ đoạn gì đâu (?!).
Ngài nghe lời và xin chuyển qua bệnh viện Chợ Rẫy đầu tháng
6/1988, mục đích để được khám nghiệm trước khi lên máy bay đi
Rô–ma. Tại đây, các bác sĩ cho rằng bệnh Ngài quá nặng, không
chữa được. 1 lần, Ngài đau đớn quá, Ngài bấm chuông gọi 2 Cha Vệ
– Hoàng đưa Ngài về, vì không chữa được, nhưng sau đó, có 1 điện
tín báo: Nhà Nước đã cho đi chữa bệnh nước ngoài, giấy tờ đã
xong. Tòa Thánh đã bằng lòng tài trợ mọi phí tổn. Ngài rất mừng,
vui, ăn hết một tô xúp, nhưng bí tiểu.
CSVN từ Huế đã vào Sài Gòn theo dõi
Ngài sít sao và tham gia chỉ đạo các kế hoạch. Tôi có thể nêu tên
1 sĩ quan công an CS lo việc này hiện nay dang công tác tại Huế.
Sáng 6/06/1988, cả 2 Linh mục Huế: Vệ
và Hoàng theo chăm sóc Ngài đều vắng mặt. Ngài có người em ruột
là Nguyễn Thị Thủy, Nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán (quen gọi
là Dì Sáu) thường trực bên cạnh Ngài rất chu đáo, cẩn thận, không
để Ngài uống thuốc gì mà không kiểm tra chặt chẽ. Nhiều Nữ tu Huế
xin được vinh dự chia sẻ gánh nặng túc trực chăm sóc Ngài. Sáng
hôm đó, Nữ tu Nguyễn Thị Quí, Dòng Con Ðức Mẹ Vô Nhiễm Huế, xin
phép thay Nữ tu Thủy để được săn sóc Ngài. Dì Sáu không chịu, 2
người dằng co nhau, nên Ðức Tổng nói: “Thôi em để cho người ta
săn sóc 1 lát, em về nghỉ ngơi đôi chút”. Lợi dụng chỗ sơ hở này,
khoảng từ 10 giờ đến 11 giờ ngày 6/06/1988, 1 cô y tá đến trao
cho Ngài 1 nắm thuốc. Ngài hỏi cô y tá: “Cô cho tôi uống thuốc gì
vậy?”. Cô trả lời rất cộc cằn lỗ mãng: “Nhiệm vụ của ông là phải
uống những gì chúng tôi điều trị ông, không được hỏi lôi thôi gì
cả”. Ngài rất phân vân. Cuối cùng Ngài bằng lòng uống. Uống xong,
Ngài cảm thấy rất đau đớn. Ngài hỏi cô y tá: “Cô biết tôi mấy giờ
nữa thì chết không?”. Cô y tá ấy hốt hoảng và run sợ trả lời:
“Con lạy cụ, xin cụ tha lỗi cho con. Việc này là do cấp trên.”
Ngài trả lời: “Không những tôi tha lỗi cho cô mà thôi, tôi còn
tha thứ cho cả cấp trên sai cô làm, tôi tha thứ hết”. Sau đó,
thấy dì Sáu vào, Ngài nói với Dì Sáu: “Chén đắng Chúa trao anh đã
uống xong. Xin trọn theo ý Chúa”. Dì Sáu báo cho cô y tá biết
Ngài đau đớn lắm. Khoảng 12 giờ 30 trưa, cô y tá ấy trở lại cho
Ngài uống một liều thuốc khác. Sau đó Ngài bị tiêu chảy liên tục
cho đến chết, không cầm lại được. Các nhân chứng hiện nay đều còn
sống, 1 số Nữ tu cần tạm dấu tên 1 thời gian.
Khoảng 13 giờ ngày 8/06/1988, Ngài bấm
chuông gọi cấp cứu, nhưng không ai đến. Vài phút sau, Ngài qua
đời tại phòng Ngài nằm điều trị, phòng này nay đã đổi số, (thân
nhân không ai nhớ số phòng), ở tầng lầu thứ 9, bệnh viện Chợ Rẫy,
Sài Gòn, lúc ấy chỉ có Dì Sáu bên cạnh.
Vì vụ việc có nhiều ám muội, lúc Ðức
TGM Ðiền qua đời xong, môi miệng Ngài tím bầm, 2 tay cũng tím
thẫm, nên có một nữ tu kín đáo theo dõi cô y tá đã cho Ngài uống
thuốc, đã đi theo cô và nghe được câu nói rất quan trọng này của
cô y tá khi cô gọi điện thoại cho cấp trên: “Vụ việc đã hoàn
thành”. Nữ tu ấy nay còn sống ở Huế.
Vì muốn đưa ra Huế, bệnh viện đã mổ bộ
ruột của Ngài. Bộ ruột nát bầy nhầy khác thường. Bác sĩ tên Bình,
bệnh viện Chợ Rẫy trao cho thân nhân, và đề nghị không nên đưa bộ
ruột này về nhà nữa. Lúc đó, các thân nhân quá đau lòng, không ai
còn bình tĩnh để nhận lãnh và cất giữ cả. Bệnh viện đã đem chôn,
nay chưa tìm ra dấu vết. Thật là đáng tiếc.
Sau đó, cô y tá ấy thanh minh rằng cô
không biết Vị mà cô cho uống thuốc là ai, và cô đã xin lỗi thân
nhân. Cô được gửi đi du học ngay tại Cộng Hòa Dân Chủ Ðức (Ðông
Ðức) theo thời hạn là sẽ trở về Việt Nam tháng 3/1995. Không rõ
nay đang ở đâu.
Xác Ngài được đưa về Tòa TGM
Sài Gòn.
Tin tức về cái chết của Ngài bị bưng
bít. Tất cả các đường điện thoại gọi ra Huế đều bị cắt. Lúc bấy
giờ chưa có FAX, chưa có Email. Nội bộ Giáo hội không ai có điện
thoại di động. Và tất cả các điện tín khẩn gửi ra Huế đều không
được trao, chỉ mang đến cho Tòa TGM Huế cả một chồng dày sau khi
đã an táng Ngài. Giáo phận Huế đã thành lập một phái đoàn vào Sài
Gòn gồm tất cả các Linh mục Quản hạt để thăm viếng và tiễn đưa
Ðức Tổng đi Rô–ma. Ðau đớn thay, khi phái đoàn ấy lên xe tại Huế
sáng 9/06/1988 để đi thăm Ngài, thì thực ra Ngài đã chết hôm
trước rồi mà vẫn chưa biết! Khi phái đoàn Gp Huế vào đến Tòa TGM
Sài Gòn, hỏi Ðức Tổng Huế ở đâu? Nhân viên chỉ 1 phòng, Gp Huế
tưởng Ðức Tổng còn sống, không ngờ nhân viên chỉ phòng đang quàn
xác Ngài! Các linh mục Gp Huế tại Huế chỉ biết tin nhờ Radio
Veritas, Philippines. Sau đó mới tổ chức để đưa xác Ngài về Huế.
Nhà Nước gây rất nhiều trở ngại để việc đưa xác Ngài về Huế bị
chậm lại. Dầu vậy, giáo dân GP Huế quá thương tiếc Ngài đã đón
tiếp xác Ngài rất trọng thể. Có công an kín đáo tháp tùng bám
sát, có nhân viên quay phim của CSVN quay phim đầy đủ.
Xác Ngài được liệm trong hòm bọc kẽm,
phần mặt có lồng kính để thấy mặt. Ðoàn xe tang chở thi hài Ðức
Tổng Giám mục về Toà TGM Huế lúc 21 giờ 30, ngày 13/06/1988, và
sáng 14/06/1988 được đưa lên an vị tại Nhà Thờ Chính Tòa Phủ Cam
để Tín hữu và quan khách kính viếng Ngài suốt ngày đêm. Dù được
lau sạch, nhưng môi Ngài vẫn tím bầm, mũi Ngài thay nhau liên tục
trương sình bong bóng máu đen, nhiều Giáo Dân quá thắc mắc. Tối
14/06/1988, vì mặt Ngài biến dạng khác thường, ban tẩm liệm, nay
1 số còn sống, đã xin đậy nắp hòm gỗ che mặt Ngài lại. Sáng
15/06/1988, Thánh Lễ Ðồng tế an táng trọng thể do Ðức TGM Phao–lô
Nguyễn Văn Bình, TGM Sài Gòn chủ tế cùng hầu hết các Ðức Giám mục
trong HÐGMVN và rất đông các Linh mục các Giáo phận cả Nước và
Giáo phận Huế. Vì Giáo Hữu quá đông, tối 15/06/1988 mới hạ huyệt
được, ban tẩm liệm đã khoan 5 lỗ quanh hòm kẽm để xác dễ phân hủy
và an táng Ngài tại phía trái Cung Thánh Nhà Thờ Phủ Cam.
Linh mục Phao–lô Nguyễn Kim Bính, Hạt
trưởng Thành phố Huế, Chánh sở Nhà Thờ Chính Tòa Phủ Cam trang
hoàng mộ Ngài rất lộng lẫy như mộ một Vị Thánh Tử Ðạo. Sau đó,
phái đoàn Tòa Thánh thăm Nhà Thờ Phủ Cam, thấy vậy có ý kiến
rằng: không nên đi trước ý kiến của Tòa Thánh, nên Lm Kim Bính đã
trang hoàng đơn giản như hiện nay: phần mộ sát với nền Nhà Thờ,
bên trên có một tấm đá cẩm thạch đen, có khắc vài dòng về Ngài.
Dì Sáu, em ruột Ngài là Nữ tu Mến Thánh
Giá Chợ Quán, 118 Trần Bình Trọng, Q. 5, Sài Gòn. ÐT 08.8350482.
Nay ở Nhà Hưu dưỡng Dòng MTG Chợ Quán, 30/1 ấp Truông Tre, xã
Linh Xuân, Thủ Ðức, Sài Gòn. ÐT 08.8964116.
Cô y tá đã cho Ngài uống thuốc là nhân
viên cũ của nữ BS Dương Quỳnh Hoa, hôn thê của BS Trần Văn Thọ,
117 CM 1–11 cũ, nay là 1 cơ quan Nhà nước. Cô có làm việc cho BS
Nguyễn Văn Thọ, 99 Võ Tánh, gần cổng xe lửa số 6, đối diện với
Nhà thờ Giáo hội Tin Lành Cơ Ðốc Phục Lâm. Cô có 1 người bạn Công
Giáo, đã trọ học ở 40/5 Ngô Tùng Châu, Gia Ðịnh, đối diện với
phòng mạch BS Hoàng Văn Ðức, khoa trưởng Y khoa Minh Ðức. 2 Lm Ðỗ
Quang Biên, dạy trường Trí Ðức do Lm Nguyễn Văn Ngà làm hiệu
trưởng, và Lm Nguyễn Văn Hòa (nay là GM Nha Trang và đã được bổ
nhiệm TGM Phó Hà Nội) làm hiệu phó, biết anh bạn của cô y tá này,
anh hiện ở Ðà Lạt.
4. Kết luận:
Liều thuốc Ngài bị buộc uống sáng
6/06/1988 là liều thuốc độc. Liều thuốc Ngài bị uống sau trưa
ngày 6/06/1988 là liều thuốc xổ để giúp tẩy bớt các dấu vết chất
độc trong ruột, tạo nên cơn tiêu chảy cho đến ngày 8/06/1988 mà
bệnh viện cố tình không cho cầm lại, mặc dù Chợ Rẫy là một bệnh
viện lớn nhất nhì ở Sài Gòn. Bộ ruột nát bầy nhầy khác thường;
miệng Ngài tím bầm, hai bàn tay Ngài cũng bị bầm tím, 2 hốc mắt
trái và phải đều bị tím bầm, 2 bong bóng máu đen sẫm rất lớn tại
2 lỗ mũi, vỡ rồi lại hiện, làm gương mặt Ngài biến dị khác
thường, khiến tối 14/06/1988 một Giáo Hữu trong ban tẩm liệm (nay
còn sống, nhưng tạm dấu tên) phải xin Lm Nguyễn Kim Bính cho phép
đậy nắp hòm gỗ bên ngoài hòm kẽm, không để khách đến viếng thấy
mặt Ngài nữa, vì quá đau lòng và khó nhìn. Kèm theo những diễn
biến chung quanh việc Ngài bị buộc uống thuốc sáng 06/06/1988 nói
trên, các điều này không đủ là những bằng chứng Ngài đã thực sự
bị trúng độc sao?
Sau đám tang Ðức TGM Ðiền, Công an tỉnh
Bình Trị Thiên đến tận trại giam Bình Ðiền, Thừa Thiên, gặp Linh
mục Phê–rô Nguyễn Hữu Giải nguyên một buổi sáng, kể lại cái chết
và đám tang Ngài, thanh minh về việc CSVN không hề đầu độc Ngài
và dặn: “Khi được tự do, anh đừng có tin lời đồn ấy”. Sau đó, Cán
bộ Giáo dục trại giam lại gặp Lm Giải thêm một buổi, thanh minh
rằng Ðức TGM Ðiền không hề bị trúng độc, khuyên nên biết giải
thích lại cho dân. Năm 1989, khi thả Lm Giải ra khỏi tù, CSVN lại
nói với Lm Giải: “CQ không đầu độc TGM Ðiền”. Tại sao CSVN lại
phải mất công thanh minh nhiều lần thế và tại sao lại tự phải
thanh minh một điều không ai chất vấn cả?
Trong Tuyên ngôn 24/11/1994, tôi ghi
rõ: “Ðức TGM Ðiền đã khổ vì Đạo và đã chết vì Đạo”, mà CSVN trong
suốt 5 tuần làm việc liên tiếp và cả hiện nay, không hề dám nói
gì đến chuyện ấy. Vì sự thực là thế.
Chắc chắn dù chưa chứng minh khoa học
100% Ngài đã bị cho uống thuốc độc, vì bộ ruột Ngài đã bị hủy,
chưa tìm được, và việc khai quật mộ Ðức Cố TGM Ðiền là điều chưa
làm được trong lúc này, thì việc Ngài suốt 13 năm liên tiếp chịu
khổ vì Giáo Hội và vì Nhân Quyền từ 1975 đến qua đời 1988, đã đủ
cho mọi người thành tâm ngay chính xác nhận Ngài ÐÃ CHẾT VÌ ÐẠO!
Ngày 26/12/2000, Lễ Thánh Tê–pha–nô Tử
Ðạo tiên khởi, tôi nằm sấp trên mộ Ngài, khóc rất nhiều và cầu
nguyện thiết tha khá lâu giờ, xin Ngài phù trợ cho công việc đấu
tranh Tự do Tôn Giáo của một nhóm Linh mục Huế và tôi được thành
công theo ý Chúa. Tôi xin Ngài chuyển cầu cùng Chúa cho tôi một
dấu chỉ từ Trời trong ngày hôm đó. Và tôi đã được nhận lời mau lẹ
ngay sáng hôm đó.
Hiện nay, nhiều Giáo Hữu thường đến
kính viếng, quỳ cầu nguyện trước mộ Ðức cố TGM Phi–líp–phê, được
nhiều Ơn lạ. Như 2 Tín hữu Giáo xứ Nguyệt Biều bị hiếm muộn, vợ
là em ruột 1 Lm Gp Phú Cường, xin Ngài được 1 bé gái sinh năm
1994, cha mẹ đặt tên bé là Philippa để tạ ơn Chúa qua sự chuyển
cầu của Ngài. Ðối với đa số Tín hữu Gp Huế, Ðức cố TGM Ðiền là
một Vị Thánh Tử Ðạo.
Trong Sổ Tang của Ðức Cố TGM Ðiền tại
Nhà Xứ Nhà Thờ Chính Tòa Phủ Cam, rất nhiều người viết những câu
rất ý nghĩa. Ðặc biệt là ngay khi ra khỏi tù, trước khi thăm
viếng bất cứ ai, trước hết, Lm Nguyễn Hữu Giải đã đến kính viếng
mộ Ðức TGM Ðiền, và ghi vào Sổ Tang: “Xin Chúa cho chúng con được
duy trì mãi phong cách và tinh thần Phi–líp–phê Nguyễn Kim Ðiền”.
An Truyền, Huế, ngày 30/01/2001.
Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý
Quản
Xứ An Truyền, Tổng Giáo phận Huế.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND QLVNCH
|
Hình nền: Vương Cung Thánh Đường ĐBVNNT, Washington, D.C. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by psxh chuyển
Đăng ngày Thứ Hai, June 8, 2020
thư ký dù
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang