Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tôn giáo
Chủ Đề: Chính trị-Xã hội
Tác giả: GM
Vincent Nguyễn Văn Long
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Thanh Phong/Viễn Đông
LTS: Đức Cha Vincent Nguyễn Văn Long, Giám Mục
Phụ Tá Tổng Giáo Phận Melbourne, vừa được Tòa Thánh bổ nhiệm làm
Giám Mục Chính Tòa giáo phận Parramatta, Úc Châu, Trong dịp Tưởng
Niệm Tháng Tư Đen, do Quỹ Yểm Trợ Đấu Tranh cho Nhân Quyền Việt
Nam, tổ chức tại nhà hàng Seafood Palace, thành phố Westminster,
California, ngày thứ Năm 28 tháng 4, 2016, Đức GM Nguyễn Văn Long
đã có bài tham luận thật sâu sắc về nhiều vấn đề liên quan đến
đất nước, đến thái độ thờ ơ, vô cảm của các vị lãnh đạo tôn giáo
trước những bất công, áp bức của người dân và hiện tình lâm nguy
của đất nước.
Bài tham luận bị ngắt quãng nhiều lần bởi những tràng pháo tay
tán thưởng. Riêng GS Nguyễn Thanh Giàu, Hội Trưởng GH Phật Giáo
Hòa Hảo Nam Cali đã tuyên bố trước mọi người: “Tôi chưa từng nghe
một ông giám mục nào phát biểu có lửa như vị giám mục này. Nếu
tất cả các vị lãnh đạo tôn giáo đều có ý thức như Đức Cha Long,
tôi chắc chắn cộng sản không còn tồn tại.” Sau đây mời quý độc
giả nghe bài tham luận của Đức GM Nguyễn Văn Long được ký giả
Thanh Phong ghi lại.
Thanh Phong
Kính
thưa quý vị đại diện lãnh đạo các tôn giáo, các tổ chức và quý
đồng bào,
Hôm
nay, tôi rất hân hạnh được đến Thủ Đô của người Việt tỵ nạn trên
thế giới, một nơi tuy không phải là quê cha đất tổ của chúng ta,
nhưng nó mang đầy sắc thái của một tổ ấm của đàn chim Việt đang
tản mác khắp bốn phương trời. Với cái tên Sài Gòn nhỏ, với những
lá cờ vàng ba sọc đỏ tung bay ngạo nghễ, với những sinh hoạt văn
hóa truyền thống và lịch sử trong một môi trường dân chủ, tự do,
pháp quyền, đây không chỉ là nơi “đất lành chim đậu” hay là một
điểm son của một nước siêu cường Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Trong hoàn cảnh quê hương chúng ta bị
thể chế cộng sản độc tài đảng trị làm băng hoại về mọi mặt, đây
cũng là nơi bảo trì và phát triển văn hóa, lịch sử và truyền
thống tinh túy của cha ông chúng ta. Nơi đây chúng ta không đóng
khung, không quên nguồn gốc, không an phận trong tâm trạng tha
phương cầu thực mà thực hiện trách nhiệm thiêng liêng với đồng
bào quốc nội và với tiền đồ dân tộc.
Nơi đây, chúng ta –những người tỵ nạn
cộng sản, những con dân nước Việt còn trăn trở cho hiện tình đất
nước– cùng nhau thực hiện giấc mơ chưa thành của những người đã
hy sinh cho tổ quốc. Giấc mơ đó là gì thưa quý vị và đồng bào? Đó
là ngày khải hoàn của công lý, của sự thật, của sự nhân bản, của
những giá trị Chân-Thiện-Mỹ trên quê hương. Đó là ngày chiến
thắng của ánh sáng trên tối tăm, sự lành trên sự dữ, chí nhân
trên cường bạo và đại nghĩa trên hung tàn. Đó là ngày cánh chung
của chế độ cộng sản và ngày quang phục của một Việt Nam thực sự
độc lập, dân chủ và vững mạnh trước những thử thách mới. Bao lâu
còn bị cai trị bởi chế độ cộng sản, quê hương chúng ta sẽ mãi mãi
còn bị băng hoại và bế tắc toàn diện.
Tôn giáo và chính trị
Tôn giáo và chính trị là hai thực thể
mà nhiều người cho là không được trộn lẫn hay phải tách rời. Có
nhiều người công giáo rất quảng đại với các dự án tình thương ở
Việt Nam, xây nhà thờ, nhà xứ, Trung Tâm Hành Hương, v.v. nhưng
họ lại rất dị ứng với các vấn đề Nhân Quyền và Công Lý. Họ có thể
cho năm, ba ngàn cho giáo xứ này, dòng tu nọ ở Việt Nam. Còn mua
một cái vé số $10 để ủng hộ cho Tù Nhân Lương Tâm thì họ đắn đo
ngại ngùng. Họ cho rằng đó là làm chính trị! Thế thì Chúa Giê-su
có làm chính trị hay không khi Ngài thực thi sứ mạng cứu thế:
“Thần trí Chúa... giải thoát cho kẻ bị giam cầm, đòi tự do cho kẻ
bị áp bức?”
Nhưng không ai, kể cả những người tu hành như tôi, có thể dửng
dưng với những vấn nạn xã hội do sự lãnh đạo hay thể chế chính
trị gây ra. Chúng ta không thể sống đạo tức là tìm những điều hay
lẽ phải mà lại không quan tâm tới sự dữ và sự bất công đang tràn
lan trên quê hương. Chúng ta không thể yêu Thiên Chúa mà lại
không để ý tới tiếng kêu than của dân oan.
Trước khi làm người công giáo, trước
khi làm giám mục, tôi là người Việt Nam; tôi chịu ơn những anh
hùng hào kiệt đã hy sinh cho tiền đồ dân tộc trong suốt chiều dài
lịch sử. Tôi chịu ơn những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã bảo vệ
tự do cho tôi. Tôi chịu ơn những thuyền nhân đã không may mắn như
tôi, nhưng cũng chính vì những cái chết thương tâm của họ mà thế
giới tự do đã đón nhận những người tỵ nạn cộng sản còn sống sót
như tôi.
Tôi
không thể không trăn trở với hiện tình đất nước; tôi không thể
không nhắm mắt làm ngơ với hệ thống chính trị lỗi thời là chế độ
cộng sản đang làm cho đất nước băng hoại hoàn toàn. Trên huy hiệu
giám mục của tôi có lá cờ VNCH trải ngang như làn sóng trên nền
xanh là đại dương. Tôi không thể bỏ quên quá khứ và căn tính tỵ
nạn của mình. Tôi không ngần ngại khẳng định lập trường của mình
là: không bao giờ tách lìa lý tưởng một Việt Nam phi cộng sản và
một Việt Nam nhân bản ra khỏi sứ mạng giám mục của tôi.
Năm 1982 khi
về quê hương mình còn đang sống dưới chế độ cộng sản, ĐGH Gioan
Phao-lô II đã mạnh dạn công bố trong Thánh Lễ đại trào: “Anh
chị em thân mến. Dù đời sống của người Ba Lan khó khăn thế nào,
chúng ta cũng đừng nản lòng tranh đấu cho công lý và sự thật, cho
tự do và nhân phẩm của con người.”
Điều này đã cho chúng ta thấy rằng,
tranh đấu cho công lý và sự thật, cho tự do và nhân phẩm không
phải là việc làm của những kẻ muốn chính trị hóa tôn giáo mà là
bổn phận nhập thể hóa Tin Mừng và Ki-tô hóa môi trường của chúng
ta. Nếu chúng ta chỉ giữ đạo trong nhà thờ hay chùa chiền, nếu
chúng ta chỉ đóng khung tôn giáo trong những vấn đề siêu nhiên mà
hoàn toàn vô cảm với những vui mừng và hy vọng, những sợ hãi và
lo âu của đồng loại, thì phải chăng tôn giáo chỉ là thứ thuốc
phiện ru ngủ chúng ta như lời Karl Marx? Đây cũng là chiêu bài
của cộng sản. Họ muốn tôn giáo chỉ là thứ thuốc phiện ru ngủ dân
chúng. Họ muốn biến tôn giáo trở thành một công cụ của chế độ và
phục vụ sự độc quyền chính trị của họ.
Công lý xã hội dưới ánh sáng
Phúc Âm
Phúc Âm và đời sống không thể tách lìa
nhau; tôn giáo và chính trị không thể không liên hệ với nhau. Vai
trò ngôn sứ của Giáo hội đòi buộc người tín hữu ở mỗi bậc và mỗi
hoàn cảnh phải tranh đấu cho một xã hội phản ảnh Vương Quốc của
Thiên Chúa.
Thực thế, truyền thống công lý xã hội trong Kinh Thánh là bằng
chứng hùng hồn về sự nhập thế của các giá trị siêu nhiên vào đời
sống tự nhiên của con người. Ơn cứu độ không chỉ có nghĩa là một
sự giải thoát của linh hồn và đời sống vĩnh hằng trên Thiên Quốc
mà là sự giải thoát con người toàn diện. Ngay trên cõi đời này và
ngay trong xã hội này, con người được mời gọi để sống cuộc sống
sung mãn với Thiên Chúa và tha nhân. Do đó, sống đức tin và sống
thánh thiện không chỉ có một chiều dọc, tức là thờ phượng kính
mến Chúa. Sống đức tin và sống thánh thiện không thể tách lìa
khỏi tiến trình công lý hóa xã hội và phong phú hóa đời sống con
người.
Tiên
tri Isaiah đã định nghĩa cho chúng ta thế nào là giữ đạo, đó là “phá
vỡ xiềng xích của bọn ác nhân, cất đi gánh nặng của kẻ lầm than,
giải thoát cho kẻ bị áp bức và phá tan mọi gông xiềng”
(Isaiah 58:6).
Đức Ki-tô đi đến đâu cũng quan tâm đến người cùng khốn trong xã
hội. Ngài đứng về bên những người nghèo hèn, bị áp bức, bắt bớ,
thiệt thòi và bất công. Ngài lên án những người dùng quyền lực,
địa vị và ảnh hưởng của mình để làm tổn thương, triệt hạ người
khác và khuynh đảo xã hội.
Quan hệ giữa công giáo và cộng
sản qua những giai đoạn lịch sử
Một số quý vị lớn tuổi ở đây chắc đã
từng trải qua thời kỳ Việt Minh vào những năm sau Đệ Nhị Thế
Chiến. Ở Bắc Việt, Đức Giám Mục Lê Hữu Từ, đã có thời lập ra khu
Bùi Chu - Phát Diệm tự trị với cả những đội vũ trang Tự Vệ Công
giáo, chống lại chính quyền Việt Minh do ông Hồ Chí Minh lãnh
đạo. Đối với ngài cũng như rất nhiều giám mục miền Bắc trong thời
kỳ đó đã không ngần ngại dấn thân cho quê hương và có thể nói
vượt qua cái ranh giới thông thường của đạo và đời, tôn giáo và
chính trị.
Hôm
nay, tôi không có ý hoài niệm về một quá khứ mà nhiều người trong
thế hệ cha anh rất tự hào về giáo hội Việt Nam; tôi càng không có
ý cổ võ một con đường chống đối bạo động dù đối với chế độ vong
bản phi nhân. Tuy nhiên, khi lấy cuộc sống sung mãn làm mục đích,
chúng ta không thể mặc nhiên để sự ác hoành hành khống chế xã
hội. Sự ác này không những thể hiện nơi cá nhân hay đoàn thể.
Tôi cho rằng sự ác lớn nhất đang hoành
hành trên đất nước chúng ta hôm nay chính là tà quyền và hệ thống
chính trị đưa con người vào chỗ bế tắc. Tôi cho rằng chỉ có một
Việt Nam hết nô lệ bởi ý thức hệ cộng sản, hết trói buộc bởi cái
gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh, hết bị xiềng xích bởi định hướng xã
hội chủ nghĩa thì mới có thể vươn mình đứng dậy.
Tôi mở ngoặc ở đây để nói về những lời
phát biểu được coi là rất đột phá của một số đại biểu tại quốc
hội cộng sản Việt Nam (Trương Trọng Nghĩa, Dương Trung Quốc). Họ
dám mạnh dạn lên tiếng về tình trạng không an toàn về pháp lý,
các quyền tự do dân chủ không bảo đảm đầy đủ và lo sợ ở đất nước
bị lệ thuộc. Thế nhưng, cả những đại biểu phản tỉnh này vẫn còn
trong cái vòng luẩn quẩn của chủ nghĩa xã hội. Họ chưa có can đảm
để nói lên cái cội rễ của sự bế tắc toàn diện, thậm chí còn thần
thánh hóa ông Hồ Chí Minh: Bao lâu còn bị nô lệ bởi ý thức hệ
cộng sản, bấy lâu đất nước sẽ không có lối thoát. Chỉ khi không
còn cái quái thai do Hồ Chí Minh sinh ra và đảng cộng sản tiếp
tục nuôi dưỡng thì dân tộc ta mới ra khỏi cơn ác mộng.
Trong cuốn “Chứng từ của một giám mục”
mà các bác trong nhóm “Diễn Đàn Giáo Dân” đã xuất bản năm 2009,
người đọc có cảm tưởng tìm được một đóa hoa sen tinh khiết lừng
lững vươn lên giữa bùn lầy nhơ bẩn. Sống qua những biến cố hãi
hùng nhất khi Việt Minh cướp chính quyền, thanh trừng nội bộ, cải
cách ruộng đất, chủ trương bạo động cách mạng, di cư 54, xâm lăng
miền Nam, v.v. Giám Mục Lê Khắc Trọng luôn có cái nhìn sâu sắc để
nhận biết hư thật trong cái chế độ giả dối tuyên truyền. Quan
trọng hơn nữa, ngài luôn giữ vững lập trường không thỏa hiệp và
không nhượng bộ trước những âm mưu khống chế và lợi dụng tôn giáo
của cộng sản. Thái độ dứt khoát của ngài về cái tổ chức tiền nhân
của “Ủy Ban Đoàn Kết Công giáo” là một điều tiêu biểu.
Những năm gần đây, tiếp theo chính sách
đổi mới của đảng CSVN, một phong trào tô điểm cho chế độ với
những nới lỏng về kinh tế, tôn giáo, du lịch, v.v. được tuyên
truyền rầm rộ. Thực tế là như thế nào? Đó chỉ là một sự đổi mới
giả tạo, một kiểu sơn phết bên ngoài trong khi cả hệ thống chính
trị như căn nhà đã mục nát từ bên trong cái nền tảng của nó.
Theo chính sách đổi mới nửa vời này,
cái tôn giáo cũng đã được hưởng một số tự do “xin cho” của chế
độ. Vì thế, gần đây chùa chiền, nhà thờ, dòng tu, trung tâm hành
hương, v.v. cứ như trăm hoa đua nở trên khắp nước. Thậm chí có
những nơi người dân sống thật cơ cực nhưng nơi thờ phượng thì vẫn
sang trọng. Nếu là một du khách từ Úc hay Mỹ thăm Việt Nam, họ sẽ
ngạc nhiên khi thấy các nhà thờ hay chùa chiền xây lên với mức kỷ
lục.
Những khu
công giáo di cư như ở Hố Nai, Gia Kiệm, người ta có cảm tưởng là
có một phong trào xây và tu bổ nhà thờ. Lại nữa, họ sẽ thấy các
sinh hoạt tôn giáo như rước sách, lễ hội, hành hương, v.v. thật
đông đúc năng động. Có nhiều đấng bậc còn chế diễu những ai chỉ
trích chế độ là chúng ta phải cám ơn cộng sản vì họ đã làm ơn cho
giáo hội.
Tôi
không có ý chỉ trích việc xây cất sửa sang nơi thờ phượng. Tôi
cũng không phê bình việc tổ chức các lễ hội hay rước sách trọng
thể. Nhưng nếu chúng ta chỉ đo lường sự năng động của Giáo Hội
qua những sinh hoạt thuần tuý tôn giáo thì tôi e rằng đó là một
sự thẩm định phiến diện. Truyền thống đức tin công giáo luôn gắn
liền với công bình xã hội, nhân phẩm con người, lợi ích chung và
các giá trị căn bản. Nếu chúng ta có nhiều nhà thờ, nhiều người
đi lễ, nhiều linh mục tu sĩ, nhiều lễ hội, v.v. mà chưa làm muối
men cho tiến trình công lý hóa cho xã hội, chưa dấn thân trong
việc phục hồi nhân phẩm con người, lợi ích chung và các giá trị
căn bản thì tôi cho rằng chúng ta chưa thực hiện đầy đủ vai trò
làm lương tri của xã hội.
Tôn giáo là lương tri của xã
hội hay là công cụ của chế độ?
Lịch sử Việt Nam qua nhiều thời đại đã
minh chứng được sự dấn thân của người tín hữu thuộc mọi thành
phần giáo hội vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước. Thế
nhưng trong xã hội toàn trị, sự ru ngủ lương tri của giáo hội đã
trở thành một hiện tượng phổ biến nằm trong chính sách công cụ
hóa tôn giáo của tà quyền cộng sản. Các cụm từ như tôn giáo và
dân tộc, tốt đời đẹp đạo, giáo dân tốt công dân tốt, kính Chúa
yêu nước và đồng hành cùng dân tộc đã trở thành những viên thuốc
an thần để ru ngủ lương tri và vô hiệu hóa vai trò ngôn sứ của
giáo hội.
Tại
La Vang năm 2010 Phó Thủ Tướng CSVN Nguyễn Thiện Nhân đã ban huấn
từ cho cả các giám mục Việt Nam về việc mà ông gọi là “đồng hành
cùng dân tộc”. Bằng chiêu bài đồng hóa đảng với dân tộc, họ biến
lòng yêu nước thành yêu đảng và chống đảng là chống lại dân tộc.
Điều đáng buồn là liều thuốc an thần này đang làm ru ngủ và làm
vô cảm lương tri của nhiều người VN, kể cả người tín hữu. Đồng
hành cùng dân tộc không thể là đồng hành cùng chế độ, nhất là khi
chế độ đó đang đưa dân tộc vào chỗ diệt vong.
Quý vị thân mến. Nhưng tôi nghĩ rằng
nếu tôn giáo mà mất vai trò ngôn sứ thì nó bị thuần hóa và trở
thành công cụ của chế độ. Lúc đó
chúng ta không còn là tiếng kêu trong hoang địa như ông Gioan Tẩy
Giả nữa mà sẽ là tiếng xèng xèng kêu inh ỏi
(I Cor 13:1).
Thánh Phao-lô nói là nếu tôi làm được nhiều điều cao trọng mà
không có đức ái thì tôi chỉ là chiếc thùng rỗng kêu to. Điều này
có thể áp dụng vào việc chúng ta chu toàn sứ mạng Phúc Âm. Nếu
Giáo Hội chưa dấn thân trong việc phục hồi nhân phẩm con người,
lợi ích chung và các giá trị căn bản, nhất là trong một xã hội
không tôn trọng nhân quyền như tại VN, thì có phải chúng ta chỉ
là tiếng xèng xèng kêu inh ỏi hay không?
Gần đây tại Việt Nam, có phong trào xây
cất các trung tâm hành hương và các trung tâm sinh hoạt của các
địa phận và dòng tu. Riêng tại Xuân Lộc, giáo phận đã mua được
hàng trăm mẫu đất và một chương trình kiến thiết đồ sộ đang được
tiến hành. Được biết giáo phận lớn nhất nước này có hy vọng Trung
Tâm Núi Cúi sẽ là nơi tiếp đón Đức GH Phan-xi-cô một khi ngài
được đảng CSVN cho phép đến!
Tôi chắc chắn rằng nếu đặt chân tới
Việt Nam, Đức Giáo Hoàng sẽ được tiếp đón một cách vô cùng long
trọng. Thế giới bên ngoài sẽ nhìn thấy hình ảnh một Giáo Hội công
giáo hơn cả nhiều nước bên Tây Phương về con số giáo dân, linh
mục, tu sĩ và về những biểu hiện đức tin bề ngoài. Đó sẽ là một
hình ảnh để chế độ CS có thể tuyên truyền về chính sách tự do tôn
giáo của họ. Thế nhưng nếu chúng ta đo lường vai trò giáo hội
theo tiêu chuẩn phúc âm, tức là ảnh hưởng của giáo hội như men
dậy bột, như đèn sáng trong đêm tối, như tiếng nói sự thật giữa
sự giả dối thì tự hỏi sứ mạng đó đang được chu toàn như thế nào?
Nếu chúng ta có đội ngũ linh mục, tu sĩ đông đảo, có nhà thờ to,
chùa đẹp, Trung tâm hành hương “hoành tráng”... nhưng với cái giá
là bị vô hiệu hóa vai trò làm lương tri xã hội, làm người đồng
hành với người dân sầu khổ, bênh vực dân oan, quan tâm tới kẻ
chịu bất công, đóng góp vào tiến trình công lý hóa xã hội, v.v.
thì còn ý nghĩa gì?
Tôi cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Giáo
Hội vị Cha Chung luôn quan tâm đến những người bị bỏ rơi, nhất là
những nạn nhân của bất công. Trong tông huấn mang tựa đề “Niềm
Vui Của Tin Mừng”, Đức GH Phan-xi-cô nói rằng, “Tôi muốn một Giáo
Hội bị thương tích, đau đớn và lấm bùn vì đã dám dấn thân xuống
đường thay vì một Giáo Hội ẩn mình sau một lớp bình phong của
kinh kệ, lễ nghi và lề luật mà xa lìa những tâm hồn đổ nát.”
Tôi cho rằng đây là một lời hiệu triệu
và một sự thách thức cho Giáo Hội Việt Nam để chúng ta ẩn mình
trong những cơ sở vật chất “hoành tráng” mà quên đi sứ mạng đồng
hành với những người bị ức hiếp trong lộ trình đấu tranh cho công
lý.
Cách đây
30 năm Đức Hồng Y Giacobe Sin ở Phi Luật Tân đã dẫn hơn một triệu
giáo dân xuống đường trong cuộc “Cách Mạng Hoa Mân Côi”. Sở dĩ
gọi như thế vì những người biểu tình chỉ cầm trong tay cỗ tràng
hạt! Họ đọc kinh, ca hát và đồng thời kêu gọi Tổng Thống
Ferdinand Marcos từ chức vì sự bế tắc chính trị trong nước. Ông
Ferdinand Marcos đã bị lật đổ vì sức mạnh quần chúng (people
power). Nhưng xét cho cùng, sự sai trái của ông Marcos không thể
so sánh với những tội ác tầy trời của cộng sản Việt Nam.
Một chút nữa đây, chúng ta sẽ cùng xem
qua một vài hình ảnh nói lên tội ác tầy trời của cộng ản. Từ cải
cách ruộng đất cho đến di cư 1954, từ Tết Mậu Thân cho đến Mùa Hè
Đỏ Lửa, từ biến cố 30 tháng Tư, 1975 cho đến cuộc vượt biên vô
tiền khoáng hậu. Những năm gần đây, một cuộc dàn xếp trao đổi mờ
ám giữa Đảng cộng sản Việt Nam và quan thầy Trung Cộng đã diễn
ra. Hậu quả là Đảng CSVN được bảo vệ quyền lực và bổng lộc để đổi
lại sự mất chủ quyền cho Trung Cộng và khống chế toàn diện trên
các lãnh vực kinh tế, môi trường, quân sự, quốc phòng.
Biến cố ô nhiễm tại Vũng Áng gây tổn
thất sinh thái và ảnh hưởng độc hại cho hàng triệu người tại các
tỉnh ven biển miền Trung là tiêu biểu cho sự trao đổi mờ ám này.
Đây có phải là biến cố “tức nước vỡ bờ” và cơ hội để người dân VN
vượt qua sự sợ hãi hay không? Cô giáo Trần Thị Lam ở Hà Tĩnh đã
viết lên một bài thơ thật ai oán:
“Đất
nước mình ngộ quá phải không anh?
Bốn
ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn
tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất
công vẫn không biết kêu đòi
Đất nước
mình lạ quá phải không anh?
Những chiếc
bánh chưng vô cùng kỳ vĩ
Những dự án và
tượng đài nghìn tỷ
Sinh mạng con người
chỉ như cái móng tay
Đất nước mình buồn
quá phải không anh?
Biển bạc, rừng
xanh,cánh đồng lúa biếc
Rừng đã hết và
biển thì đang chết
Những con thuyền nằm
nhớ sóng khơi xa
Đất nước mình thương
quá phải không anh?
Mỗi đứa trẻ sinh ra
đã gánh nợ nần ông cha để lại
Di sản cho
mai sau có gì để cháu con ta trang trải?
Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu
Tám mươi tỷ, 95% CDP mức an toàn 60%
Đất
nước mình rồi sẽ về đâu anh?
Anh không
biết, em làm sao biết được
Câu hỏi gửi
trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai
trả lời giùm đất nước sẽ về đâu!”
Giáo Hội Phi Luật Tân đã mạnh dạn vào
cuộc khi chính phủ độc tài Marcos ban hành lệnh thiết quân luật
và triệt hạ các đối thủ chính trị. Giáo Hội VN có thể đứng ngoài
lề khi đất nước đang đứng trước bờ vực thẳm của sự diệt vong?
Muốn phục hưng đất nước, chúng ta không thể làm ngơ với hệ thống
chính trị tha hóa, chúng ta không thể cắt bỏ cái bướu ung thư là
chế độ cộng sản.Tôi dám khẳng định là chúng ta không thể yêu nước
mà không chống Cộng và diệt Cộng vì ý thức hệ cộng sản chính là
căn nguyên cội rễ của mọi bế tắc, mọi băng hoại mà người dân ta
đang gánh chịu.
Kính thưa quý khách và đồng bào,
Lịch sử sẽ đào thải những gì không còn
thích hợp dù có ngoan cố cưỡng lại. Không ai có thể ngăn cản thế
lực của lịch sử, cũng như không chính thể nào có thể làm ngược
lòng dân mà tồn tại. Chúng ta hãy can đảm dấn thân cho tương lai
của chúng ta và con cháu chúng ta, chúng ta hãy góp một bàn tay
khai thông những bế tắc hầu cùng với toàn thể dân tộc mở ra một
kỷ nguyên mới cho quê hương Việt Nam. Hãy “Vượt Qua Mọi Sợ Hãi”.
Hãy liên kết thành sức mạnh để phá tan xiềng xích của sự bạo tàn,
dối trá và gian ác là chế độ cộng sản. Hãy cùng nhau khai thông
dòng lịch sử để nó được chảy và làm tươi mát phì nhiêu cho đất
Việt thân yêu.
Xin Thiên Chúa chúc lành và kiện toàn
cho mọi hy sinh và nỗ lực của chúng ta, người con dân của tổ quốc
trong và ngoài nước đang khát khao và tranh đấu cho công lý. Hãy
vững tin tiến về bình minh mới, ngày mùa gặt của quê hương, vì
“Người đi gieo trong đau thương sẽ về giữa vui cười.”
GM Vincent Nguyễn Văn Long
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
Thánh Vincent
|
Hình nền: Quảng Trường Thánh Phê-rô Tông Đồ tại Va-ti-căng. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MĐ Nguyễn Minh Hoàng chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, April 8, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang