Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Văn Hóa Việt
Chủ Đề: Xã hội
Tác giả: Nguyễn Nhơn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Nhiều người vẫn cho là văn hóa Tầu với Khổng Khưu, Lão Tử, Phật... là văn hóa Việt Nam, cho đến nay văn hóa Việt Nam còn những gì hả quý vị? Riêng đạo Phật khởi từ Đạo Bà-La-Môn của dân da trắng Aryan (Brahamism=Đạo của ông Abraham, tổ của dân da trắng Do Thái) (xâm lăng Ấn Độ, nên dân Ấn Độ không còn da đen thuần túy mà da đen nhờ (nửa đen, nửa xám, mầu hơi xanh xanh, trừ những người chưa bị lai). 'sacle' viaDiendanTuoiHac<xomnhala_yamaha@googlegroups.com>.
Ai
bảo văn hóa tàu Khổng Lão Phật là Văn hóa Việt Nam?
Làm sao mà tự
ti, tự xóa bỏ cội nguồn Dân tộc làm vậy?
Khỏi cần sưu khảo, tra cứu chi cho nhiều. Chỉ cần
soi rọi bản thân rồi nhìn vào chú tửng, chú chệt xem mình có giống
thứ văn hóa chệt không?
Đây một nét Văn hóa thuần túy Lạc
Việt:
Nhân khi Tàu cộng âm mưu cùng Việt gian cộng sản,
dùng sách lược “tầm ăn dâu”, biến dất nước ta thành An-nam đô hộ phủ
thời hiện đại, xóa nhòa dân tộc tính. Xin gởi lại bài viết cũ có đôi
lời về DÂN TỘC TÍNH VIỆT NAM.
DÂN TỘC TÍNH VIỆT NAM
Trên Báo Tổ Quốc, tác giả Nguyên Thạch viết: Bản tính dân tộc?
Ai biết xin giải thích. Tôi đọc rồi ngẩn ngơ! Suy nghĩ cả buổi mà
không ra. Cái ông Nguyên Thạch này đúng là đá nguyên con, hay nguyên
chất. Ông chơi cắc cớ, ném một phát mà trúng cả làng. Nghe câu hỏi
tỉnh bơ của ông thấy phát nực. Thuở đời nhà ai, mình là người Việt
Nam rặt lại đi hỏi dân tộc tính nhà mình là gì? Nhưng mà nghĩ lại
thấy ông Đá này cũng có lý. À, chắc là ông Thạch muốn nói: Quý ông
cứ nói tới nói lui về cái dzụ “Truyền thống Dân tộc”. Vậy nó là cái
giống gì, nói thử tui nghe? Con mẹ nó (Xin lỗi ông Thạch, tui gốc
nhà quê, ưa nói ba chữ đó như tiếng cằn nhằn khi cực chẳng đã phải
làm việc gì trái khoáy chớ chẳng phải chửi thề) đã thế thì tự kiểm
điểm bản thân, xem từ thuở cha sanh, mẹ đẻ đến ngày lưu lạc xứ
người, ông, bà, cha, mẹ, thầy cô, làng, xóm, nghĩa là cả xã hội VN
đó dạy dỗ, rèn cặp mình những gì?
TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC
Tôi sanh ra nơi quê ngoại, làng Bưng Cầu, tên chữ là Tương Bình
Hiệp, quận Châu Thành, Tỉnh Thủ Dầu Một, tên chữ là Bình Dương. Ba
đi mần thầy ký dưới Chợ Thủ, ở nhà với má. Má tui là gái quê, chỉ
đọc thông quốc ngữ. Nhưng bà lo dạy dỗ con từ thuở còn thơ. Bà chỉ
dạy tui hai điều: Một là không được dối trá. Hai là sống cho có
nghĩa, có nhân. Cho nên thuở nhỏ chơi rắn mắt chuyện gì cũng được,
nhưng mà hễ nói láo là bị đòn nứt đít. Còn chuyện sống cho có nghĩa,
có nhân thì thuở nhỏ chưa biết, lớn lên, ra đời làm việc, đối đãi
với người mới biết.
Năm lên sáu, cắp cặp đệm, học trường làng. Cậu tui học
lớp nhì, trường Tỉnh, kêu cháu lại dạy. Hễ vô trường mà thấy hai chữ
Quốc Gia thì phải hiểu: Quốc là nước, gia là nhà. Quốc gia là nước
nhà mình, là ơn thủy, thổ, tấc đất, ngọn rau. Phải ráng lo học, mai
sau đáp đền. Tui nghe vậy thời hay vậy, nhưng chuyện này to tát quá,
cứ để đó, tính sau.
Vô lớp chót, chưa rành mặt chữ nên thầy
dạy đọc ca dao cho dễ thuộc rằng:
Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ, kính cha
Cho
tròn chữ hiếu mới là đạo con
Lên lớp nhì trường
làng đã đọc thông chữ nên thầy dạy cách ngôn bằng chữ hán việt: Ấu
bất học, lão hà vi.
Thầy diễn nôm là: Nhỏ mà không học, lớn lần sao
ra. Thằng Cu, con dì năm, giờ ra chơi, lên mặt song tàng, phụ đề cho
thằng Đực tui rằng: Nhỏ mà không học, lớn làm cu-li. Nó nói như vậy
là rõ ràng. Đúng là học thầy không tày học bạn!
Hồi đó, học
lớp hai là đã bặp bẹ tiếng Tây. Thầy dạy: Mình là người Việt Nam.
Tụi Tàu đô hộ khinh thị kêu là An-Nam. Tây dịch là anamite. Vậy,
đừng nói Je suis anamite mà phải nói là Je suis Vietnamien.
Một bữa, Tây đi “bố” (hành quân) về, dừng quân ở rừng me trước
trường. Thằng Đực thấy lính Ma-rốc cầm súng trường Mas 36 giống như
có hai nòng ngồ ngộ nên mon men lại ngó nghiêng. Thấy vậy, thằng
lính Ma-rốc nghi ngờ, ngoắc lại gần, hỏi: Es-tu vietminh?
Thằng nhỏ nghe lời thầy dạy, dõng dạc đáp: Non, je suis Vietnamien.
Thằng lính săn đá thất học, biết cóc gì vietnamien. Nó chỉ biết chữ
Anamite thôi, cho nên nó trợn cặp mắt trắng dã, một tay thộp cổ
thằng nhỏ. Tay kia rút dao găm sáng giới, kề cổ đứa nhỏ, nạt: Es-tu
vietminh? Thằng Đực sợ quá khóc ré, vừa khóc vừa la: Non, je suis
Vietnamien.
Biết rằng, chỉ cần nói Annamite thay vì
Vietnamien là yên thân, nhưng vì không chịu để người khinh thị trẻ
em Việt Nam nên dù sợ vẫn không lùi bước!
Thoát nạn rồi, về
khoe với cậu. Cậu biểu: Được, mầy làm vậy được!
Qua năm sau,
ban đêm việt minh lần mò về xóm, ba dời nhà về chợ Thủ. Thằng Đực
bây giờ là thằng Nhơn, học lớp ba trường Tỉnh. Lúc này đã đọc, viết
được chút ít tiếng Tây nên thầy dạy cách ngôn tiếng Pháp:
Aides-toi toi même et Dieu t’aidera. Giảng nghĩa nôm là: Hãy tự giúp
mình trước, rồi Trời mới giúp mình sau. Cũng giống như phải học
chính tả, ngữ pháp cho thông trước, đừng đợi khi ra thi gặp bài
“trúng tủ.”
Lên lớp nhất là lai rai Truyện Kiều:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ
tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Thì cũng giống như
học tài, thi phận vậy mà!
Rồi là Đồ Chiểu,
Lục Vân Tiên:
Trai thời trung
hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình
Cái dzụ hiếu đễ thì nghe tới, nghe lui dài dài. Còn như cái vụ
trung với ai thì thầy dạy thật kỹ: Hai chữ “trung quân” cần phân
biệt: Minh quân thì trung, Bạo chúa thì diệt. Lại nữa cũng cần phân
biệt: Vua với nước. Đối với Đất nước thì lúc nào cũng phải trung.
Cho nên, lớn lên gặp thời xã nghĩa, tà
quyền VC, vâng lời dạy già Hồ hô khẩu hiệu: Trung với đảng, hiếu với
dân, mới tức mình... chửi.
Học mệt quá rồi, mong mau tới ngày
bãi trường, nghỉ hè:
Năm năm mỗi lần nghe hè tới
Khi
ve sầu rả rích bên song cửa lớp
Cây điệp già trổ bông đỏ ối trước
sân trường
Lòng trẻ thơ rộn rã bồn chồn
Rộn rã là khi
còn ngồi lớp dưới, trông mau tới ngày lễ bãi trường để xem các anh
các chị lớp trên diễn kịch. Bồn chồn là khi học lớp nhất, tự mình
sắm vai diễn để các em lớp dưới xem. Mà có gì đâu! Năm nào cũng như
năm nấy, gái thời diễn kịch Hai bà Trưng, trai thời Hội nghị Diên
Hồng. Nhưng mà tâm trạng người xem mỗi năm mỗi khác.
Ở tuổi 7, 8
khi thấy quân Bà Trưng rượt Tô Định chạy sút giày, sút dép, quăng cả
mũ mảng, áo bào thì reo cười hỉ hả. Lớn lên ở lớp nhì, lớp nhất,
nghe lời truyền Hịch của Hai Bà đâm ra suy nghĩ:
Một xin trả sạch nước thù
Hai xin
thu lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin
vẻn vẹn sở công lịnh này
Tuy phận nữ nhi nhưng
làm tướng cầm quân, chỉ rõ mục đích ra quân có lớn có nhỏ, có trước
có sau: Trước tiên là thù nước, kế đến sự nghiệp dòng họ, sau rốt
mới thù nhà. Chỉ xin được bấy nhiêu thôi!
Về kịch
Diên Hồng thì cũng như vậy. Lúc nhỏ, chỉ biết reo hò “quyết chiến”
để đáp lại câu vấn “hòa hay chiến” trong điệp khúc Diên Hồng. Lớn
lên, khi nghe câu mở đầu ca khúc, thấy rúng động trong lòng:
Toàn dân nghe chăng
Sơn hà nguy
biến
Hận thù đằng đằng
Biên thùy rung chuyển
Vậy đó, tuổi thơ của tôi được dạy dỗ là như vậy: từ học hỏi tính
tốt làm người cho đến lòng tự hào dân tộc chí đến truyền thống yêu
nước, chống xâm lăng. Từ gia đình, cha mẹ, họ hàng cho chí đến thầy,
cô đều hết lòng dạy bảo.
Lên trung học
thì cũng như vậy, nhưng được dạy dỗ cho biết suy luận, thấu hiểu sâu
hơn. Có khi đặt vấn đề về thái độ sống trực tiếp hơn. Tôi còn nhớ
câu chuyện có quan hệ dến vận mạng chính mình vào năm học Đệ tứ
niên. Ai đi học cũng biết Lục Vân Tiên là tập thơ mộc mạc giảng về
luân lý. Có những câu bình dị đến phải mỉm cười:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng
là phận gái ta là phận trai
Vậy mà không hiểu sao
Thầy dạy Việt văn lại chọn hai câu làm đề tài nghị luận:
Người nay có khác xưa nào
Muốn ra ai cấm muốn
vào ai ngăn
Quý cô, quý cậu mà không thuộc bài gặp hai
câu này ắt lâm vào cửa tử. Cái dzụ đi dzô, đi ra tự do tầm phào làm
sao “nghị luận” cho thành bài văn đây? Thật ra, hai câu này nói về
quan niệm “xuất, xử” của kẻ sĩ thời xưa. Sau khi “đại đăng khoa”,
nghĩa là đỗ cử nhơn tiến sĩ rồi thì làm gì? Xuất chính, ra làm việc
quan hay lui về ở ẩn, dạy học, vui thú gió trăng? Hồi đó, gã thanh
niên gốc nhà quê tui còn hăng hái lắm nên lý luận đứng về lập trường
xuất chính theo kiểu ngạo nghễ của Uy Viễn Tướng công:
Nhân sinh tự
cổ thùy vô tử
Lưu thử đan tâm chiếu hãn thanh
Cho nên
năm 1959, sau khi thi đậu tú tài toàn phần, liển nạp đơn thi tuyển
vào Học viện Quốc Gia Hành Chánh Sài Gòn. Ngày khai giảng, gặp thằng
bạn người Bắc cùng học Đệ nhất Pe’trus Ký mới hỏi: Học món này ra
làm cái gì, mày? Nó nghênh mặt bảo: Ra làm “quan huyện”, mầy. Quan
quyền đâu chưa thấy chỉ thấy như vầy. Câu đầu tiên về môn Công vụ,
Thầy Tôn Thất Trạch giảng: Bổn phận người công bộc là: Tiên thiên hạ
chi ưu nhi ưu. Rồi suốt giảng khóa Thầy cứ nói đi nói lại về phục vụ
“công ích, công thiện”, nghe mà phát nản. Nhưng khi ra đời làm việc
mới nhớ ơn thầy. Ở đời, kẻ có quyền thường hay lạm dụng. Nhờ nhớ lời
Thầy dạy nên ráng giữ mình cho ngay chính. Còn nữa, cụ Đốc phủ sứ
Bùi Quang Ân, khi đó là Giám đốc Thực tập khuyên: Trong nghề Hành
chánh, có hai con đường tiến thân. Một là con đường tắt, tiến tới
mau lắm, nhưng phải khuất thân, lòn cúi. Con đường kia thì gian nan
hơn, có khi đi hoài không tới nhưng giữ được tư cách làm người.
“Qua” khuyên các em chọn con đường thứ hai mà đi! Tui nghe lời cụ
khuyên, cày một hơi suốt hơn 11 năm vẫn ở y một cấp chức vụ Phó quận
trưởng, Trưởng ty. Mãi đến năm 1973 mới phủi chân lên làm Phó Tỉnh.
Cái vụ Phó tỉnh này cũng lắm gian nan.
Một bữa trên đường đi
công tác, ông Tổng trưởng Bộ Nội vụ vui miệng kể: Khi đi du hành
quan sát Đoài Loan, ông hỏi một ông xã trưởng: Nhiệm vụ xã trưởng là
gì? Ông xã trưởng xứ Đài mau mắn đáp: “Y, thực, trú, hành”. Diễn nôm
là Ăn-Mặc-Ở và Đi lại.
Nghe nói vậy tôi bỗng thấy thương các
bác già trưởng Ấp của tôi. Học hành chữ nghĩa thì ít mà huấn thị,
công tác thì nhiều. Ở xứ người ta giàu có, thanh bình, xã trưởng chỉ
lo có bốn việc. Ở xứ VNCH khốn khổ của tôi, Trưởng Ấp được giao cho
toa thuốc làm việc ấp kêu là kế hoạch xây dựng ấp gồm 3 tiêu chuẩn,
8 công tác theo câu thiệu như vầy:
Ba Tiêu chuẩn là:
Tự phòng-Tự quản-Tự túc phát triển ấp.
Tám công tác
gồm có:
I. TỰ PHÒNG: 2 công tác:
1. lập hàng rào
bảo vệ ấp
2.
tổ chức đội Nhân dân tự vệ.
II. TỰ QUẢN: 3
công tác:
1. lập hương ước
2. bầu Ban Trị sự
3. xây dựng trụ sở ấp
III. TỰ TÚC PHÁT TRIỂN: 3 công tác:
1.
Dự án tự túc chăn nuôi heo, gà, ao cá
2. xây trường học sơ cấp ấp
3. xây dựng
bệnh xá ấp (1)
Đành rằng công việc có cán bộ lo nhưng bác già
trưởng ấp mà không lo đốc thúc, nhất là giữ cho được an ninh, không
thôi là du kích VC kéo vô phá phách, thì công việc khó hoàn thành.
Đáng lẽ ra tôi còn có thể kể lể đôi điều về các chương trình
Phát triển cộng đồng, Khẩn hoang lập ấp, Người cày có ruộng, nhưng
sợ rườm lời nên xin vắn tắt như vầy:
Thầy dạy, trò học vốn là
Khoa Quản trị Hành chánh Công quyền Âu Mỹ nhưng vẫn lồng vào đó một
số quan niệm đạo lý theo truyền thống Việt Nam, thể hiện qua công
tác:
Lập Hương ước: Tái lập truyền thống
“Phép vua thua lệ làng” hay nói theo ngôn ngữ hiện đại là nguyên tắc
“Địa phương phân quyền”. Một yếu tố quan trọng bảo đảm cho chế độ
dân chủ.
Nhà họp dân: Thể hiện lại truyền thống “Cái Đình”,
nơi kỳ hào, dân làng họp nhau bàn việc làng, việc nước. Đó là tinh
thần dân chủ truyền thống.
Tỉnh Điền: Thiết kế đồ án khu khẩn
hoang theo mô thức Tỉnh điền truyền thống nghĩa là mỗi khu gồm 50 hộ
dân, với một giếng khơi dùng chung, thể hiện tình làng, nghĩa xóm.
Nói theo kiểu hiện đại là tinh thần cộng đồng.
ĐÔI
LỜI BỘC BẠCH
Tôi vừa đem việc học, việc làm của cả đời mình, vẽ nên đôi nét
về nhân cách, truyền thống Việt, chỉ kể mà không dám xác quyết đâu
là tự tính dân tộc. Nhưng bỗng nhiên trực nhớ câu lẫm liệt Bình Ngô
Đại Cáo:
“Đem Đại nghĩa để thắng hung tàn. Lấy Chí Nhân mà
thay cường bạo”
Trong phần đầu thuật lời mẹ
dạy: Sống cho có nghĩa, có nhân, những tưởng là việc nhỏ giữa mẹ
con. Nhưng trên đây là lời Đại cáo của nhà Vua ban bố cho toàn dân,
nêu cao Đại nghĩa và lòng Nhân hậu Dân tộc, thiết tưởng có thể xác
định tự tính NHÂN NGHĨA của dân tộc.
Như vậy coi như đáp ứng một phần câu hỏi của tác giả
Nguyên Thạch: Bản tính dân tộc là gì? Còn mệnh đề thứ hai: Ai biết
xin giải thích thì như vầy. Gã nhà quê tui thiệt tình là không dám
giải thích mà chỉ giải bày theo như mình biết. Nhân là tình thương
ấp ủ trong lòng. Đem tình thương từ trong lòng ra đối đãi với người
cho phải lẽ thời kêu là nghĩa. Vậy, giữa người và người lấy tình
thương đối đãi nhau cho phải lẽ là thực hành đạo lý Nhân Nghĩa. Biết
bao nhiêu thì nói bấy nhiêu, thật không dám cho rằng mình thật biết.
Tôi lớn tuổi, chậm lụt rồi, phải mất mươi bữa vừa suy nghĩ vừa
gõ máy viết bài này, không phải đơn thuần là để đáp lời ông Nguyên
Thạch. Sở dĩ viết bài này đóng góp với ông vì thấy ông nói phải cày
thêm job để kiếm tiền in sách về tự tính dân tộc để biếu cho đồng
bào trong nước đọc. Cũng xin nói thêm, tôi viết nửa chừng, mệt quá
tính xù. Nhưng đọc bài “Chỉ dấu ngày tàn của một chế độ” của ông,
tôi thấy ông với tôi chừng như cùng một ý: Mong muốn mau lật đổ bạo
quyền VC để sớm gầy dựng lại truyền thống Nhân Nghĩa của dân tộc nên
mới nắn nót kết thúc bài viết này. Nhưng mà ông Thạch đừng lo. Đồng
minh của ông trong nước nhiều lắm. Các lời bình trên trang mạng
trích dẫn Diên Hồng, Bình Ngô Đại cáo nhiều lắm. Có người viết
nguyên bài đề tựa “Hãy vực lại truyền thống Diên Hồng” hẳn hoi. Khi
các cuộc biểu tình gặp khó khăn, nhiều ngưới đọc ca dao, “mong sao
chân cứng đá mềm” dài dài. Để kết thúc, tôi cũng đọc câu ca dao này
nhưng tích cực hơn:
Quyết cho chân cứng đá mềm
Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng
Nguyễn Nhơn
20/11/2011
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những
bài liên hệ
Bài xích Thuyết Việt Nho và Huyền sử Con Rồng Cháu Tiên để làm gì?
Sông cạn Đá mòn Bản sắc Lạc
Việt vẫn Trường tồn
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Hoa Anh đào. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Nguyễn Nhơn chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật,
April 1, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang