Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản
mạn đời sống đạo
Chủ đề:
Đức Tin
Tác giả:
Trần Xuân Thời
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
1.
Nhập đề
1-
Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ và nhân loại và cho nhân loại
sử dụng mọi sinh, thực, khoáng vật trên thế trần để xây dựng
cuộc sống hạnh phúc đời đời, kiếp kiếp. Nhưng tổ tông của nhân
loại đã sa ngã, phản lỗi nghĩa cùng Thiên Chúa (Genesis 3). Tội
bất tuân Thiên lệnh và ăn trái cấm là tử tội (mortal sin) mà hậu
quả di hại đến đời sống của nhân loại. Con người thì yếu đuối,
dễ bị cám dỗ, nên sa ngã. Tuy nhiên, có luân lý ràng buộc nhưng
nếu không có tự do lựa chọn thì nhân loại không thể chịu trách
nhiệm về hành vi của mình. Vì thế, hễ có luât cấm thì cũng có tự
do lựa chọn làm lành, lánh dữ hay ngược lại. “There can be no
morality without freedom. It is only in freedom that man can
turn to what is good”.
2- Chúa có thể ngăn cản ông A-dong và
bà E-va sa ngã, nhưng vì tôn trọng ý chí tự do (free will) mà
Chúa đã ban cho nhân loại nên không ra tay cấm đoán. “God left
man in the power of its own counsel” (Sirach 15:14). “God could
have easily compelled Adam and Eve to conform to His command but
He didn’t. Even though He knew they were making a bad decision,
He respected their freedom enough to allow them to make it. The
freedom to do good implies the freedom to reject the good.”
(Gaudium es Spes. 11).
3- Vì có sự lựa chọn, nên tự do có thể
phân ra hai loai: Tự do làm việc chính trực và tự do làm điều
bất chính. Tự do chân chính là tự do chọn lành, lánh dữ là loại
tự do biểu hiện ý Trời trong lòng người. “Genuine freedom is an
outstanding manifestation of the divine image in man. For God
willed to leave man in the power of his own counsel (Sirach
15:14) (VS 34).” Vì không chọn tự do chân chính, tổ tông nhân
loại đánh mất bản tính trường sinh, bất tử mà phải chịu đựng mọi
gian khổ kể cả sinh, lão, bệnh, tử về thể xác và khi chết, linh
hổn cũng không được cứu rỗi.
4- Thiên Chúa tạo ra vũ trụ và nhân
loại như một tuyệt tác. Mặc dù, nhân loại sa ngã nhưng Thiên
Chúa không muốn hủy hoại tuyệt tác đó vì lòng thương yêu của
Ngài đối với nhân loại. Ngài là Đấng Công Chính, nghĩa là phải
đối xử công bằng, có công thì thưởng và có tội thì phạt, để duy
trì trật tự cho vũ trụ (moral order of the universe). Một mặt
giữ tư thế công chính, thưởng phạt công minh, mặt khác vì (1)
thương yêu nhân loại không đành lòng xử phạt (2) nhân loại cũng
không đủ khả năng đền bù tội lỗi của mình gây ra và cũng không
đủ khả năng để cứu lấy mình. Để công, tư vẹn cả hai bề. Thượng
Đế là Tình Yêu (Love) nên khi thấy nhân loại trầm luân đã nhủ
lòng thương xót, ân xá (pardon) cho nhân loại bằng cách gởi con
Một của Ngài là Chúa Giê-su nhập thể làm người, mặc lấy nhân
tính (humanity) đồng bản thể với nhân loại để có thể cứu rỗi
nhân loại. “God so loved the world that he gave his only Son”
(Jn 3:16).
5- Trong tác
phẩm Cur Deus Homo (Why God was a man – Tại sao Chúa xuống thế
làm người) Thánh Anselm nguyên Tổng Giám Mục Canterbury, Anh
Quốc, năm 1096, nhận định:
“Owing to the Fall and mankind’s
fallen nature ever since, humanity has offended God. Divine
justice demands restitution for sin but human beings are
incapable of providing it, as all the actions of men are already
obligated to the furtherance of God ‘s glory. Further, God’s
infinite justice demands infinite restitution for the impairment
of his infinite dignity... Instead, full recompense could only
be made by God, which His infinite mercy inclines Him to
provide. Atonement for humanity, however, could only be made
through the figure of Jesus, as a sinless being both fully
divine and fully human. Taking it up himself to offer his own
life on our behalf, his crucifixion accrues infinite worth, more
than redeeming mankind and permitting it to enjoy a just will in
accord with its intended nature...”
6- Với Nhân tính (humanity): Chúa
Ky-tô phá hủy tội lỗi cho nhân loại “Con Một Thiên Chúa trở
thành con người để cho nhân loại trở nên con cái Thiên Chúa”
(Sermon 194:3-4. Với nhân tính, Chúa Ky-tô thông cảm với mọi đau
khổ và hy vọng của con người. Chúa Giê-su chữa lành mọi đau khổ
cho những ai nhận lãnh ơn Chúa. Vì tội phản nghĩa cùng Thiên
Chúa là tử tội. Muốn thoát tử tội phải có “người chết thế”, nên
Chúa Giê-su đã xuống thế làm người. Chúa Giê-su đã vâng phục Đức
Chúa Cha, tự thoát khỏi thần tính của mình (kenosis), để hoà
đồng với nhân loại, Thiên nhân hợp nhất (hypostatic union) mới
có tư cách đại biểu cho nhân loại nhận lãnh sứ mệnh tự hiến mình
để làm hy lễ đền tội thay cho nhân loại. (Phil 2:5-11).
7- Với Thiên tính (divinity): Chúa
Giê-su phán “Ta và Cha ta là Một” (Jn 10:30), “Ai thấy Ta thì
thấy Cha Ta” (Jn 14:9). “Thiên hà ngôn lai”. Đức Chúa Cha không
nói gì mà nói qua Chúa Ky-tô giáng trần. Chúa Ky-tô là Ngôi Lời
(Logos) truyền thông mệnh Trời với nhân loại.
8- Thánh Phao-lô đã nói “Ta đã được
thanh tẩy trong Chúa Giê-su Ky-tô. Chính trong sự chết của Người
mà ta được thanh tẩy... tất cả anh chị em cũng vậy, hãy coi mình
như đã chết với tội lỗi và đang sống lại trong Chúa Giê-su
Ky-tô”. Nghĩa là “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, chính
Chúa Ky-tô đang sống trong tôi” (Gal 2:20). “I have been
crucified with Christ. It is no longer I who live, but Christ
who lives in me” (Gal 2:20).
9- Mầu nhiệm tử nạn để chuộc tội cho
nhân loại và sống lại là Mầu nhiệm Cứu độ (Miracle of
Redemption). Mầu nhiệm cứu độ thể hiện: (1) Tình yêu hằng hữu
của Thiên Chúa đối với nhân loại, một mối tình cao thượng, cho
không biếu không. (2) Chúa xuống thế để nối lại nhịp cầu giữa
Thiên Chúa và nhân loại vì mối liên hệ này đã bị gián đoạn từ
khi Ông A-dong và Bà E-va phạm tội, bất tuân Thiên lệnh. (3)
Chúa Giê-su đã chết đi và sống lại để những ai tin và thờ phượng
Thiên Chúa cũng sẽ được cứu rỗi. (4) Mầu Nhiệm Cứu Độ là một Quà
tặng (Gift) của Thượng Đế ban cho nhân loại và cũng là lời mời
gọi (invitation) nhân loại đón nhận Mầu Nhiệm Cứu Độ của Chúa.
(5) Những ai chấp nhận lời mời gọi của Chúa sẽ được sống đời
đời. (6) Cuộc tử nạn của Chúa Giê-su nhằm cứu rỗi và kết hiệp
con cái của Chúa đã tản mác thành một khối duy nhất. “To gather
into one the children of God who are scattered abroad” (Jn
11:52) và kết hiệp Thiên sự với Thế sự “and to unite things in
heaven and things on earth”. (Eph 1:9-10).
Sau khi quán triệt được các ý niệm căn
bản nêu trên, chúng ta thử bàn về tiến trình sống đạo của người
tín hữu giáo dân. Tiến trình sống đạo của Ky-tô hữu thể hiện qua
ba giai đoạn: (1) Tìm kiếm Thiên Chúa, (2) Gặp gỡ Thiên Chúa và
(3) Sống theo Giáo huấn của Thiên Chúa.
1. Tìm kiếm Thiên Chúa
10- Hãy để cho tâm hồn những ai đang
tìm kiếm Thiên Chúa hưởng tận niềm vui. “Let the hearts of those
who seek the Lord rejoice” (Ps 105:3) 9-. Chúa đã phán ta là
“Ánh sáng, là Chân lý, là sự Sống, ai theo ta sẽ được sống đời
đời.” (Jn 4:16). Ánh sáng giúp con người được đắc đạo. “The rue
light that enlightens everyone (Jn 1:19); và Chân lý sẽ cứu rỗi
con người. You will know the truth, the truth will make you
free” (Jn 8:32). Từ cổ chí kim, nhân thế không ngừng đi tìm chân
lý cơ hồ như không bao giờ biết mệt mỏi. Chủ đích là để tìm giải
đáp cho các vấn nạn về Thiên Chúa, vũ trụ, đời người và người ở
đời. Nhìn chung từ Âu sang Á, triết lý nhân sinh được dựa trên
hai tín niệm hệ chính là Hữu thần và Vô thần. Hữu thần tin tưởng
vũ trụ và nhân loại do môt vị Thần được mệnh danh là Thượng Đế,
Zeus, Dieu hay God sáng tạo. Con người có linh hồn và linh hồn
bất diệt. Vô thần không tin vào sự hiện hữu của Thần linh, con
người không có linh hồn, tự nhiên được sinh ra và chết là hết.
Con người tìm kiếm Thiên Chúa do (A) Ước vọng bẩm sinh, (B) Cảm
nghiệm trước sự huyền diệu của vũ trụ (C) Nhu cầu nhân bản (D)
Giáo huấn của Giáo Hội.
A. Do Ước Vọng Bẩm Sinh
11- Phàm là nhân sinh, mỗi người trong
chúng ta đều có nhu cầu và ước vọng. Nhu cầu về thỏa mãn đời
sống vật chất, tìm kiếm hạnh phúc và nhu cầu về tinh thần như
thỏa mãn sự hiểu biết. Tìm kiếm Thiên Chúa để thỏa mãn nhu cầu
tinh thần, tìm giải đáp cho những vấn nạn về sự biến hoá khôn
lường của vũ trụ, với bốn mùa thay đổi, sự sống, sự chết, tiền
kiếp, hậu lai.
12- Uớc vọng tìm kiếm Thiên Chúa đã có
sẵn khi con người mới chào đời là ước muốn bẩm sinh (innate
desire) vì Thiên Chúa tạo dựng con ngườì theo hình ảnh của Chúa.
Thiên Chúa mời gọi con người hướng về Thiên Chúa. “Con người
không thể sống hạnh phúc toàn vẹn nếu không biết đến Thiên Chúa”
“Only in God will he find the truth and happiness that men never
stop searching for” (Giáo lý Công Giáo – CCC 27).
13- St. Augustine đã xác quyết: Khi
con kết hiệp với Chúa thì con được tràn đầy ơn Chúa, con không
còn lo âu, không còn thử thách, hưởng được đời sống toàn diện,
sung mãn. “When I completely united with God, there will be no
more sorrow or trials; entirely full of God, my life.”
B. Do Sự Huyền Diệu của Vũ Trụ
14- Nhà Bác học nổi danh Albert
Einstein đã cảm nghiệm sự huyền nhiệm của Tạo Hóa với câu nói
bất hủ. “L’homme auquel le sentiment du mystère n’est pas
familier, qui a perdu la faculté de s’émerveiller, de s’abimer
dans le respect, est comme un home mort”. Người mà không biết
say đắm trong niềm tôn kính trước những huyền bí của vũ trụ, thì
chẳngg khác gì người đã chết.
15- Tự tận đáy lòng, nhân thế luôn
luôn hướng về chân lý và khao khát tìm hiểu về chân lý. Sự tìm
kiếm không biết mệt mỏi để tìm hiểu tận cùng sự vật (cách vật
chí tri - extention of knowlege through investigating things) là
bằng chứng hùng hồn chứng minh cố gắng của nhân loại. “In the
depth of his heart there always remains a yearning for absolute
truth and the thirst to attain full knowledge of it. This is
eloquently proved by man’s tireless search for knowledge in all
fields.” (Thông Điệp Veritatis Splendor). Hai quan niệm chính
của thế nhân là vũ trụ quan của Đông phương và Vũ trụ quan của
Tây phương:
(1) Vũ Trụ Quan của Đông Phương
16- Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II,
vào đầu tháng 11 năm 1999, trong cuộc viếng thăm Ấn Độ, đã công
bố Tông Thư: Giáo Hội tại Á Châu: “Giáo Hội Công giáo tỏ lòng
cung kính và ngưỡng mộ tất cả truyền thống tinh thần của các Tôn
Giáo Á Châu và muốn dấn thân trong cuộc đối thoại chân thành với
các tín hữu của các tôn giáo. Những giá trị tôn giáo mà các đạo
giáo dân gian giảng dạy đang chờ đón sự viên mãn trong Đức
Giê-su Ky-tô”. “Asia is also the cradle of the world’s major
religions—Judaism, Christianity, Islam and Hinduism. It is the
birthplace of many other spiritual traditions such as Buddhism,
Taoism, Confucianism, Zoroastrianism, Jainism, Sikhism and
Shintoism. Millions also espouse traditional or tribal
religions, with varying degrees of structured ritual and formal
religious teaching. The Church has the deepest respect for these
traditions and seeks to engage in sincere dialogue with their
followers. The religious values they teach await their
fulfilment in Jesus Christ.”
17- Tông Thư Veritatis Splendor và
Ecclesia in Asia giúp chúng ta am hiểu thêm công việc của Chúa
Thánh Linh qua các phương cách cứu rỗi tiềm ẩn thêm vào chủ
trương “Ngoài Giáo Hội Công giáo, không có sự cứu rỗi - Extra
Ecclesiam, nulla salus” và “No one can enter the Kingdom of God
unless he is first born of water and Spirit”. (Jn 3:5).
Từ thuở tạo thiên lâp địa, từ Đông chí
Tây, từ Nam chí Bắc, con người đã tin vào một Đấng Tạo Hóa toàn
năng, là đệ nhất tác nhân, (First Cause/Agent) tạo nên muôn loài
và vũ trụ. St. Thomas Aquino qua sách Tổng Luận về Thần học -
Summa Theologia đã minh xác: “Thiên Chúa nội tại (immanent) ở
trong vạn vật và trong nội tâm hay lương tri của mỗi người nên
trên bình diện tự nhiên, Chúa đã hiện hữu trong tâm trí họ rồi”.
Vì thế Thiên Chúa đã ẩn tàng trong tâm hồn của nhân thế. Người
Tín hữu Thiên Chúa Giáo chân chính không những phải yêu chuộng
những người đồng tín ngưỡng mà cả những người không cùng tín
ngưỡng nhưng có lòng thành. Công đồng Vatican II trong Hiến chế
Vui Mừng và Hy Vọng (Gaudium et Spes,4) The Church’s Pastors...
speaking with love and mercy not only to believers but to all
people of good will vì ơn Cứu Độ của Chúa được ban cho mọi
người. “Salvation is open to all”.
18- Để xác minh ý niệm cứu rỗi một
cách rộng rãi, Công Đồng Vatican II đã tuyên bố đối với những ai
không vì lỗi của họ, không biết gì về Chúa Ky-tô và Giáo Hội của
Ngài, nhưng cố công tìm kiếm Thiên Chúa với lương tâm chính
trực, có thể được sự sống đời đời.... Vì lòng thành và chân lý
tìm thấy trong những người này chờ đón sự viên mãn trong Đức
Giê-su Ky-tô. “Those who without any fault do not know anything
about Christ or His Church, yet who search for God with sincere
hearts and under the influence of grace, try to put into effect
the will of God as known to them through the dictate of
conscience...can obtain eternal salvation...” (Hiến chế Lumen
Gentium, 16).
Với “Tình nhân loại hỗ tương và bác ái
cộng đồng cố hữu của Giáo Hội” được nới rộng, đặc tính này đã
gây ảnh hường lớn lao khiến cho dân chúng của các dân tộc dị
giáo và công dân La Mã đã trở lại Thiên Chúa Giáo khiến cho
Thiên Chúa Giáo trở thành quốc giáo của Đế Quốc La Mã vào thề kỷ
thứ 4 sau Công nguyên. Hoàng Đế La Mã Constantine. (A.D.306-337)
cũng đã trở lại đạo. “It was the Christian spirit of mutual love
and communal charity that astonished and impressed the pagans
and the Romans”. Sự hiện hữu của các giáo dân trong các tổ chức
là bước khởi đầu cho công cuộc thánh hoá. Sự tham gia vào các tổ
chức phải đặt trên căn bản thánh thiện, nhằm mục đích phục vụ
phúc lợi chung, tránh vấn đề ủng hộ hay phản đối mù quáng, không
vì phe phái mà quên rằng thiên hạ đang nhìn mình như là một chi
thể của Giáo Hội, xử thế không đúng cách sẽ bị xem như “cành nho
khô héo, sẽ bị thiên hạ bỏ vào lửa mà đốt đi”. (Jn. 6:16)
19- Theo triết học Đông phương, Vũ Trụ
là thập hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông nam, Tây nam, Đông bắc,
Tây bắc, Tây bắc, Thượng và Hạ. Trụ là cái trục mà các hướng
muôn đời vẫn xoay quanh. Từ đời vua Nghiêu (2356 BC), vua Thuấn
(2255 BC), trước Công nguyên, đã có công trình nghiên cứu về vũ
trụ và biểu thị các hành chất chính (original material) luân lưu
trong vũ trụ như Kim, Môc, Thủy, Hỏa, Thổ và tạo nên thuyết Âm,
Dương Ngũ hành. Thuyến Âm Dương Ngũ Hành được ghi chép trong
kinh Dịch, (Book of change), sách nói về sự biến hóa huyền diệu
của vũ trụ, biểu tượng bằng hình Thái Cực.
20- Thái cực được biểu tượng bằng một
hình vòng tròn. Một nửa, bán nguyệt, màu đen có chấm trắng: Màu
đen biểu tượng cho Âm và chấm trắng biểu tượng cho Dương, nghĩa
là trong âm có dương. Và một nửa màu Trắng biểu tượng cho Dương,
có chấm đen, nghĩa là trong dương có âm. Âm và Dương luôn luôn
điều hòa mọi biến hóa của vũ trụ và nhân sinh. Trong đàn ông có
cái nhu mì của đàn bà và trong đàn bà có cái cương trực của đàn
ông. Âm Dương hoà gia đạo thành!
21- Kinh Dịch là một cuốn kỳ thư nói
lên kỳ công của Thượng Đế (natural laws) tạo dựng nên vũ trụ từ
một bầu khí vô cực gọi là Nguyên Khí (souffle originel), có hai
luồng điện chính là Âm (negative -) và Dương (positive +) hay
Lưỡng nghi (dualités). Kinh Dịch viết “Dịch hữu Thái cực, thị
sinh Lưỡng nghi”. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (bốn mùa Xuân, Hạ,
Thu, Đông). Tứ tượng sinh bát quái (8 quẻ) gồm có: Kiền, Đoài,
Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Căn, Khôn... Cao điểm của sự tăng giảm của
hai lượng điện Dương và Âm là Kiền và Khôn. Kiền gồm 3 dương và
Khôn gồm 3 âm. Kiền thể hiện cho Thiên và Khôn thể hiện cho Địa.
Hai quẻ này là đầu mối cho mọi biến chuyển của vũ trụ. Vì thế cổ
nhân dùng chữ kép Kiền Khôn hay Càn Khôn để chỉ vũ trụ hay Thiên
Điạ. Đây là một phương cách diễn tả sự vận hành của luật âm
dương trong vũ trụ.
22- Khi Dương lên quá cao thì tự nhiên
sẽ chuyển dần sang Âm. Ngược lại khi âm lên cực điểm sẽ chuyển
dần sang dương. Sau cơn mưa trời lại sáng, sau cơn nắng hạn trời
lại mưa. Trong một ngày trời nắng đến cao độ vào lúc 12 giờ
trưa, thì dần dần chuyển sang âm khi chiều xuống. Âm đến cao độ
vào lúc 12 giờ đêm thì dần dần chuyển sang dương khi trời
sáng... vạn vật cứ thế mà luân chuyển điều hoà, “hết cơn bĩ cực,
tới hồi thái lai”, tránh sự thái quá, thái quá bất cập. Từ đó
phát sinh ra quan niệm Trung Dung (Principle of the Mean) ở đời
lấy sự trung dung làm tiêu chuẩn tiến hóa. “Chồng (vợ) giận bớt
lời, cơm sôi bớt lữa”! Thì gia đạo được thái hòa.
23- Sự điều hòa Âm và Dương do một
Nguyên lý Siêu Việt vận hành. Nguyên lý Siêu Việt vận hành vũ
trụ này gọi là Đạo. Đạo là Nguyên lý Siêu Việt, là Thượng Đế, là
Thiên Chúa. Chữ Thiên gồm hai chữ: Chữ nhất và chữ lớn hay Lớn
nhất là Thiên Chúa hay Thượng Đế, là Đấng Vĩ Đại. Đạo còn có
nghĩa là Logos, Ngôi lời, Verbum, Word of God ám chỉ Đấng Cứu
Thế là nguyên thuỷ và cũng là cứu cánh (Alpha and Omega). (LM
Đường Thi)
24- Thánh Kinh ghi về sự hình thành mặt Trời và mặt Trăng “God
made the two great lights, the greater light to rule the day,
and the small one to rule the night”. Nhà Bác học Newton ca ngợi
công trình của Tạo Hóa: “His most beautiful system of sun,
planets and comets could only proceed from the counsel and
dominion of an intelligent and powerful being. God was active
agent sustaining the heavenly bodies in their positions and
solicitous of His special creation, man”. Thái Dương hệ vận
chuyển đúng theo phương vị nhờ vào tài năng siêu việt của Đấng
Tạo Hoá.
25-
Theo Tứ Thư và Ngũ Kinh do Đức Khổng Tử san định, lời kinh cầu
trong nghi lễ Tế Trời hằng năm cầu cho mưa thuận gió hoà, quốc
thái dân an, từ đời nhà Chu (1122-255 BC, trước Công nguyên, qua
các triều đại của Trung Hoa, và các quốc gia chịu ảnh hưởng của
văn hóa Trung Hoa như Đại hàn, Nhật bản, Việt nam.
26- “Đấng Thượng Đế là vị Hoá Công tạo
nên vũ trụ và nhân loại, là chủ tể của lịch sử, căn nguyên của
các mệnh lệnh luân lý. Đấng phán xét, thưởng người lành, phạt kẻ
dữ”. Kinh Thi nói rằng “Đức Thượng Đế rất lớn, soi xuống dưới
rất rõ ràng, xem xét bốn phương để tìm sự khốn khổ của dân mà
cứu giúp. Vậy nên người bao giờ cũng phải kính và sợ Trời. Kính
Trời và sợ Trời là căn bản đạo đức của người Tàu” (Nho Giáo của
Trần Trọng Kim).
27- “Trời rất thông minh nên các thánh
quân phải bắt chước Trời, quần thần sẽ khâm phục, dân chúng sẽ
an vui (Sách Thượng Thư)”. Điều dân chúng ước ao thì Trời cũng
chiều theo. “Dân chi sở dục, Thiên tất tòng chi” “Ý dân là ý
Trời”. (Kinh Thư). “Đã làm người thì ai cũng là con của Trời”.
28- Trời không phụ kẻ có lòng tốt.
“Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân”. Trời sinh ra con người, ban
cho con người trí tuệ, có lý trí, có ý chí và tự do, có quyền
quyết định, lựa chọn cuộc sống. Con người có cố gắng thì Trời
bồi bổ thêm lên, “khi nên Trời cũng chiều người”. Nếu con người
biếng nhác thì sẽ bị chi phối bởi luật đào thải (loi de
selection). “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”. Trời
hành đạo rất mạnh, người quân tử phải theo mà tự cường không
được ngưng nghỉ, bỏ cuộc.
29- Sách Trung Dung cũng nhấn mạnh
Trời sinh ra muôn vật tất nhiên vì cái tài lực của mỗi vật mà
đôn đốc thêm vào, cho nên vật nào có thể vun đắp được thì vun
trồng cho tốt thêm, vật nào nghiêng ngả thì đành chịu lụn bại.
“Thiên chi sinh vật, tât nhân kỳ tài nhi đốc yên, cố tài giả bồi
chi, khuynh giả phúc chí” để khích lệ con người tự lực tự cường
thay vì biếng nhác.
30- Theo Thánh Kinh, Chúa cho nhân thế
tự quyết định vận mạng của mình. “God left man in the power of
his own counsel”. (Sir 15:14) hay Chacun est l’artisan de sa
fortune! Vì thế chúng ta nên: “Thành tâm, chánh ý vì tư tưởng sẽ
phát sinh ra lời nói; lời nói sẽ phát sinh ra hành động; hành
động lâu ngày sẽ phát sinh ra thói quen, thói quen sẽ phát sinh
ra nhân cách, nhân cách sẽ định vận mệnh của mỗi người!”
31- “Vi thiện giả, Thiên báo chi dĩ
phúc, vi bất thiện giả Thiên báo chi dĩ họa”. Ai có nhân cách
tốt và làm điều lành thì Trời ban phúc cho, ai làm điều chẳng
lành, Trời lấy vạ mà báo cho. “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”.
Đúng là “Grace respects nature”. Ơn Trời ban cho tuỳ bản tính
của mỗi người. Vô công bất thọ lộc! Vinh danh Thiên Chúa trên
Trời, bình an dưới thế cho ngươi thiện tâm.
32- Đức Khổng Tử viết “Thuận Thiên giả
tồn, nghịch Thiên giả vong”. Thuận theo ý Trời thì sống, chống
lại ý Trời thì chết. Trên không oán Trời, dưới không trách
người, cứ sống bình dị mà đợi mệnh. Tóm lại, Thiên mệnh chính là
ý chí của đấng Tạo Hóa, vô cùng thương dân, chỉ muốn đem lại an
hoà, hạnh phúc cho nhân loại mà thôi.
33- Thánh Kinh đã ghi “Christ came not
to condemn, but to forgive, to show mercy” (Mt 9:13) “Chúa xuống
thế không phải để trừng trị mà đển để tha thứ và thương xót”.
Tất cả các đạo lý trong triết học Đông phương nêu trên đều đang
chờ đón sự viên mãn trong Đức Ky-tô. “The Asian religious values
await their fulfilment in Jesus Christ”.
34- Thiên Chúa Giáo đã được truyền bá
vào Trung Hoa từ thế kỳ thứ 6, năm 578 đời nhà Đường. Thời mà
tại phương trời Tây, dưới thời Hoàng Đế La Mã Theodosius, Công
Giáo đã trở thành Quốc Giáo của Đế Quốc La Mã. “In 381, the
emperor Theodosius made Christianity the only and official
religion of the Roman Empire... a Roman was to be a Christian”.
Sau đó nhà thám hiểm Marco Polo đến Trung Hoa giúp nhà Nguyên
(Mông Cổ) từ thế kỷ thứ 13 thuật lại những di tích lịch sử của
Thiên Chúa Giáo đã tìm thấy cây Thánh Giá Khải Hoàn cắm vào Bông
Sen. Đến năm 1532, Thánh Phan-xi-cô Xavie đến Nhật Bản và lâm
chung trên một hòn đảo thuộc Trung Hoa, hưởng thọ 46 tuổi.
Vị Giáo sĩ truyền giáo nổi danh tại
Trung hoa từ năm 1583 là Linh Mục Matteo Ricci. Ngài thông thạo
Hán văn và đã dịch bộ sách Tứ thư (Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại Học,
Trung Dung) ra tiếng La-tinh và soạn tác phẩm “Thiên Chủ Thực
Nghĩa”, xuất bản năm 1603. LM Ricci dùng phương pháp suy luận và
quan niệm về vũ trụ, Thượng Đế của Nho học để trình bày và giới
thiệu Thiên Chúa Giáo với dân tộc Trung Hoa. Theo phương pháp
thực tiễn là nhà truyền giáo phải am hiểu, thông thạo cả giáo lý
lẫn nền văn học, ngôn ngữ của nơi mình giảng đạo.
35- Thánh GH Gioan Phao-lô II ngày 25
tháng 10 năm 1982 đã tuyên dương LM Ricci nhân kỷ niệm năm 400
sinh nhật của cố LM Ricci: “Xưa kia các Giáo phụ của Hội Thánh
đã hòa hợp Thiên Chúa Giáo với văn hoá Hy lạp, thì Cha Matteo
Ricci cũng đã xác tín một cách đứng đắn là niềm tin vào Thiên
Chúa Cứu Thế sẽ không làm thương tổn cho nền văn hóa Trung Hoa,
trái lại còn làm phong phú và kiện toàn hơn nữa”. (Trích Thiên
Chúa Giáo và Tam Giáo, Đường Thi).
36- Tại Việt nam, năm 1627 Cha Đắc Lộ
(Alexandre De Rhode) cập bến tại Cửa Bạng/Ba Làng, sau khi đã
đến Đà Nẵng năm 1624. Sau 27 năm phục vụ Cha Đắc Lộ đã trở về
Roma và đã qua đời tại Iran. Gần đây, một số người Việt đã đến
thăm mộ Ngài thể hiện lòng tri ân Ngài đóng góp công lao cho nền
văn hoá Việt bằng cách, cùng với các giáo sĩ khác, sáng chế chữ
Quốc Ngữ. “Quốc Ngữ, chữ nước ta” và có công khai sáng Giáo Hội
Công Giáo Việt Nam.
(2) Vũ Trụ quan của Tây Phương
37- Theo Thánh Kinh “When God spoke,
the mind of the spirit moved and the chaos was transformed into
creation” (Genesis 1). Bên phương trời Tây, từ thế thứ VI, trước
Công nguyên, nhiều triết gia Hy lạp đã nghiên cứu về Vũ trụ và
Thần linh qua tác phẩm Thần Minh Luận (Theogony) gồm thi ca và
bút ký của Homère và Hésiode để giải thích và luận về vũ trụ.
Theo quan niệm cổ sơ này thì sự hình thành của Vũ trụ phát xuất
từ Thần Linh. Mỗi vị thần đảm trách một phần vụ. Nỗ lực hình
dung vũ trụ khi còn hỗn mang do thần Chaos. Thần Eros được quan
niệm là Thần đảm trách quá trình hình thành và tuần hoàn của vũ
trụ. Ngoài ra có thần Gaia với bộ ngực vĩ đại để nuôi dưỡng vạn
vật và Thần Zeus tượng trưng cho nguyên lý sinh sản với cái bụng
chứa được muôn vật.
Vạn vật biến hóa vô luờng, nên phải có
một nguyên chất cơ bản (matière originelle qui subissait toutes
les transformations) và trường tồn để duy trì sự biến hoá.
Nguyên chất cơ bản là cái bất biến trong sự luân lưu của vạn
vật. Ngoài vũ trụ luận, các triết gia nghiên cứu về chiều sâu
của cuộc sống như tư tưởng, tâm lý, giác quan, sự biến dịch,
nhân đức, linh hồn, tình yêu... tính cách biến dịch cũa vũ trụ
và nhân sinh với các ý niệm luân chuyển “không ai có thể tắm hai
lần trong một dòng sông”. “You can never stop in the same river
twice”. Con nguời là thước do của vạn vật (Men is the measure of
all things). Tuỳ theo cặp kính ta đeo mà mọi vật bên ngoài đều
thay đổi, theo chủ quan của mỗi người. No one really knows what
is outside of himself.
38- Triết gia Socrates (470-399 BC)
cho rằng kiến thức là nhân đức, vô minh là tội lỗi “Knowlegde is
virtue, ignorance vice”. Socrate là ngươi khôn ngoan nhất
Athenes vì chỉ có Socrate mới biết rằng ông không biết gì cả.
“Socrate was the wisest man in Athens because he was the only
one who knew that he did not know anything”. Socrate cho rằng
chỉ có Thượng Đế là toàn thiện, toàn mỹ, vì suốt đời, ông phụng
sự Thượng Đế và khuyên nhân thế không nên tham lam của cải thế
gian mà phải biết lo cho sự thăng tiến của tâm hồn “He must obey
God than man, for knowing that this is the command of God and I
believe that no greater good has ever happened in the state than
my service to God. For I do nothing but go about persuading you
all, old and young alike, not to take thought for your persons
or your properties but first and chiefly to care about the
greatest improvement of the soul”. Socrate bị bọn cường hào, ác
bá lên án, buộc Socrate phải thu hồi ý tưởng của mình. Socrate
giữ khí tiết tử đạo, thà chết vinh hơn sống nhục, đã bị xử chết
bằng độc dược năm 399 trước công nguyên.
Triết gia Platon (427 BC), lập Đại học
gọi là Academy với châm ngôn: “Ngươi hãy tự biết lấy ngươi” –
Know Thyself- Platon quan niệm con người là linh hồn nhập thể.
Linh hồn và thể xác là hai đơn vị tách biệt, linh hồn bị đóng
khung trong thể xác như con sò nằm trong vỏ sò cho đến khi chết
linh hồn mới thoát ra. “Platon characterizes man as a soul
imprisoned in a body, like an oyster in his shell”.
Thánh Augustine, cũng trong quan niệm
về linh hồn cho rằng linh hồn và thể xác linh thông. Khi Chúa
tạo dựng nên con nguời thì Chúa tạo dựng linh hồn đồng thời với
sự tạo dựng thể xác. Linh hồn và thể xác tuy hai mà một. St.
Augustine định nghĩa “Man as a rational soul using a body. A new
soul comes into being with each new human being created by God.”
Triết gia Aristote (384-322 BC) là đồ
đệ của Platon. Ông phân biệt tình yêu ra: Tình yêu vị kỷ
(selfish love) và tình yêu vị tha (Altruistic love). Với Platon
và Aristote, các vị thần được quan niệm như sống trong một thế
giới chân lý hoàn hảo, vô hạn và sáng ngời, với chân lý ấy họ
biết được mọi sự. Trong thế giới của thần linh, mọi sự được tắm
trong ánh sáng huy hoàng, mọi bóng tối đều bị tan biến hết.
Triết gia/toán học gia Pythagore
(570-496) quan niệm bản tính con người có tính cách nhị nguyên:
Thể xác là thành tố khả tử, linh hồn là thành tố bất tử. Đời
sống đạo đức thiết yếu là liều thuốc thanh tẩy nhờ đó linh hồn
mới thoát ly được.
Triết gia Heraclite (544-484 BC) cho
rằng tất cả mọi sự đều luân lưu trôi chảy, tất cả đều biến động
như một dòng sông. Tất cả đều luôn luôn thay đổi, không có gì
trường tồn, ngưng đọng. “Không ai có thể tắm hai lần trong cùng
một dòng sông”.
Triết gia/khoa học gia Democrite quan
niệm linh hồn con người được cấu tạo bởi những nguyên tử di
động, đó là những nguyên tử tròn trĩnh của lửa. Những nguyên tử
ấy được phân phối và vận hành trong toàn thể xác. Nhờ hô hấp mà
các nguyên tử trong thể xác được thay đổi, nhờ hô hấp mà sự sống
trong cơ thể mới tồn tại được.
C. Do Nhu Cầu Nhân Bản
39- Khi nhân thế nghe được sứ điệp về
sự tạo dựng vũ trụ và tiếng nói của lương tâm, thế nhân hẳn cảm
nghiệm được sự hiện hữu của Thiên Chúa, là thuỷ, chung của mọi
sự. “When he listens to the message of creation and to the voice
of conscience, man can arrive at certainty about the existence
of God, the cause and the end of everything (Thánh GH Gioan
Phao-lồ II, Thông Điệp Veritatis Splendor (1993)”. Thế nhân có
trí tuệ, lý trí, ý chí và tự do mà Đấng Tạo Hoá ban cho theo
hình ảnh của Hoá Công. Ý hướng về Thượng Đế, tự cổ, theo triết
học Tây phương, có liên hệ với nhân thế qua những nhận định:
“(1) Thần chỉ thể hiện ra với con người biết nghe tiếng của
Thần. (2) Thần liên hệ với con người, và vạch cho họ thấy mặt
Thần để con người nhận ra mặt mình; (3) Muốn am tường Thần, phải
hy vọng một cái gì không thể hy vọng. Không hy vọng thì không
thể gặp được Thần; 4) Nếu không tin tưởng vào Thần, loài người
cũng không hiểu được Thần”. Tin trước, hiểu sau cũng là nguyên
tắc của Thần học/Theology (theo: thần, logy: lời nói).
40- Như vậy Tin là điều kiện của tri
thức suy lý, có tin mới hiểu được. (Credo ut intelligam). Quan
điểm này rất gần với quan điểm của St. Thomas trong Summa
Theologia – Tổng Luận về Thần học. Thượng Đế tạo dựng nhân loại
theo hình ảnh của Thượng Đế “God himself created us in his image
and likeliness”. Hình ảnh đây có nghĩa là của cả Ba Ngôi Thiên
Chúa. Ba Ngôi nhưng chỉ một Chúa. Sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi vào
một bản thể. Cá nhân của mỗi người trong chúng ta và những người
khác cũng phải được hiệp nhất thành một bản thể, thành một Cộng
đồng dân Chúa. Một Giáo Hội Duy nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và
Tông Truyền.
41- Hội Thánh là một nhiệm thể. Thánh Phao-lô sánh Hội Thánh là
Thân thể của Chúa Giê-su. Mỗi giáo hữu là chi thể của Hội Thánh,
nên giáo hữu phải hoạt động theo phần vụ của mình như các cơ
phận trong thân thể phải hoạt động đúng vai trò của mình thì cơ
thể mới lành mạnh. Hoạt động trong sự hiệp nhất vì chúng ta được
thánh tẩy bằng nước, thể hiện máu của Chúa Giê-su và ơn của Chúa
Thánh Thần trong tinh thần hiệp nhất “For by one Spirit we were
all baptized into one body” (1 Cor 12:13).
D. Nhờ GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI
42- Đặc điểm của Thiên Chúa Giáo là
tinh thần hòa đồng, không phân biệt tự do hay nô lệ, dân tộc này
hay man di khác. Thánh Phao-lô đã nói “Không phân biệt Do Thái
hay Hy Lạp; không phân biệt tự do hay nô lệ; không phân biệt nam
hay nữ. Tất cả đều duy nhất trong Chúa Ky-tô”. “There is neither
Jew nor Greek, there is neither slave nor freeman; there is
neither male nor female. For you are all one in Christ” (Gal.
3:27). Như vậy, nhờ tình nhân loại hỗ tương và bác ái cộng đồng
được nới rộng, mà Thiên Chúa Giáo tạo được ảnh hường lớn lao
khiến cho dân chúng của các dân tộc dị giáo và công dân La Mã đã
trở lại Thiên Chúa Giáo. Thiên Chúa Giáo trở thành quốc giáo của
Đế Quốc La Mã vào thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên. Hoàng Đế La Mã
Constantine (AD. 306-337) cũng đã trở lại đạo. “It was the
Christian spirit of mutual love and communal charity that
astonished and impressed the pagans and the Romans”. Với quan
niệm “Kết hiệp trong sự khác biệt” (E pluribus Unum/one out of
many), mọi người đều là một, nhằm tái tạo sự liên kết theo tinh
thần Tông Huấn Unitatis Redintegratio (Restoration of Unity), để
phụng sự phúc lợi chung, không phải chỉ tạm thời và có tính cách
thế tục, mà còn mang ý nghĩa siêu nhiên và liên kết với Đấng Tạo
hóa.
43- Sau
Công Đồng Vatican II, ĐGH Paul VI ban hành Tuyên Cáo Nostra
Aetate về Liên Tôn. “Ngài tuyên bố Giáo Hội Công giáo không bài
bác bất cứ những gì là chân thực và thánh thiện nơi các tôn giáo
khác và nhất mực tôn trọng những cách thức hành đạo và nếp sống,
các điễn mô và giáo huấn của các tôn giáo khác, tuy có nhiều
điểm khác biệt với chủ trương mà Giáo Hội Công Giáo duy trì,
nhưng cũng thường phản ảnh lại chân lý chiếu soi cho hết mọi
người. -The Catholic Church rejects nothing that is true and
holy in these religions. She regards with sincere reverence
those ways of conduct and of life, those precepts and teachings
which, though differing in many aspects from the principle she
holds and sets forth, nonetheless often reflect a ray of that
Truth which enlightens all men”.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II
tuyên bố: “Giáo Hội phải luôn công bố Đấng Cứu Thế là Ánh Sáng,
sự Thật và sự Sống” (Jn 14:6). Chính trong Ngài, nhân loại tìm
được sự sung mãn của đời sống tôn giáo và trong Ngài, Thiên Chúa
đã hòa giải mọi sự nơi Ngài (2 Cor 5:18-19). Vì thế Giáo Hội
khích lệ các con cái mình: Nhìn nhận, bảo trì và cổ võ cho những
thiện ích tinh thần và luân lý và những giá trị trong mọi xã hội
và các vấn đề văn hóa của các tín đồ thuộc các tôn giáo khác
bằng cách đối thoại và cộng tác một cách khôn ngoan và thân tình
với các tông đồ của các tôn giáo mà vẫn làm chứng tá của Đức tin
và đời sống của Ky-tô Giáo. (Nostra Aetate – Tuyên Ngôn của Giáo
Hội Công Giáo với các Tôn giáo ngoài Ky-tô Giáo.)
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, năm
1993, đã công bố quan điểm của Giáo Hội qua Thông Điêp
“Veritatis Splendor/The splendor of the truth: Those without any
fault do not know anything about Christ or his Church, yet who
search for God with a sincere heart and under the influence of
grace, try to put into effect the will of God as known to them
through the dictate of conscience... can obtain the salvation...
Nor does Divine Providence deny the helps that are necessary for
salvation to those who, through no fault of their own, have not
yet attained to the express recognition of God “. Như vậy, dù
nhiều người, không phải lỗi của họ (invincible ignorance), không
biết để thờ phượng Thiên Chúa, nhưng họ sống cuộc đời thánh
thiện và tìm kiếm Thiên Chúa theo lương tâm chính trực vẫn có
thể được cứu rỗi.
III. Gặp gỡ Thiên Chúa
44- Trước hết phải hiểu là Thiên Chúa
luôn luôn tìm kiếm chúng ta. Chúng ta cũng tìm kiếm Thiên Chúa:
Chúa là tình yêu. Ai sống trong tình yêu là sống trong Chúa và
Chúa sống trong người ấy. “God is love, who abides in love,
abides in God and God in him”. Tình yêu Thiên Chúa tức là Bác
ái. Chúng ta có trí tuệ (intellect), lý trí (reason), Ý chí
(will) và tự do (freedom). Trí tuệ để thu nhận kiến thức, mệnh
Trời; Lý trí để suy xét, hiểu biết tình yêu của Chúa đối với
chúng ta qua mặc khải của Chúa; Ý chí là quyết tâm của chúng ta
đền đáp lại tình yêu của Chúa đã ban cho chúng ta; và tự do để
chấp nhận hay thoái thác ơn sủng. Gặp gỡ Thiên Chúa là ân sủng
vì Chúa đã phán: Các con không chọn mà Thầy đã chọn các con, sai
các con đi để mang về hoa trái, hoa trái không bao giờ hư nát.
“You did not choose me, I chose you and I commissioned you to go
out and bear fruit, fruit that will last”. (Jn 15:16). Gặp gỡ
Chúa Ky-tô là đã tìm thấy Chân lý và sự Sống, là lý tưởng cao cả
nhất của Ky-tô hữu. Lý tưởng chung của chúng ta là quy về Chúa
Ky-tô, đấng cứu độ chúng ta. Thầy là cây nho, chúng con là cành.
Ai kết hợp trong Thầy, Thầy ở trong người đó, kẻ ấy sẽ trổ sinh
hoa trái, vì nếu xa lìa Thầy các con sẽ không làm gì được. “I am
the vine, you are the branches. Whoever remains in me, with me
in that person, bears fruit in plenty, for cut off from me, you
can do nothing “(Jn 15:5).
45- Thánh Augustine đã nóí “Con đã
biết con, nay con lại được biết Chúa”. “Người đã đến để ban cho
chúng ta sự sống dồi dào” (Jn 10:10). Người là “Mạch nước làm
cho chúng con không khát đời đời” (Jn 4:13-14). Chúa là Đấng
toàn vẹn; vừa có nhân tính; vừa là Thiên Chúa; là Đấng Cứu độ vĩ
đại. Người có nhân tính nên biết cảm thông với tôi. Người là
Thiên Chúa nên Người có quyền lực chữa lành mọi vết thương của
tôi. Tôi cảm tạ ơn Chúa và mong muốn được theo Người. “Lạy Thầy
chúng con theo ai? Vì thầy có lời ban sự sống đời đời” (Jn
6:68). Vì muốn được theo Người, chúng ta mong muốn được học đạo
để hiểu thêm về Thiên Chúa, “vì thế giới là địa bàn và phương
tiện để Ky-tô hữu thực thi ơn gọi của mình.” Nếu chúng ta thờ
phượng Thiên Chúa, thì chúng ta cũng phải quý trọng tất cả những
gì Thiên Chúa tạo nên trên trái đất cho chúng ta hưởng dụng, như
sinh vật, đất đá, cỏ cây, hoa lá... những loài vật này đã thể
hiện sự hoàn mỹ của Thiên Chúa mà chúng ta không nên phí phạm.
Để hiểu biết Thiên Chúa mỗi ngày một nhiều hơn, chúng ta phải
học Đạo vì: “Không học Thánh kinh thì không biết gì đến Chúa
Ky-tô” “Ignorance of the Scriptures is ignorance of Christ” (St.
Jerome 400 AD).
46- ĐTC Phao-lô VI đã nói “Để uốn nắn
trở thành một Ky-tô hữu, chúng ta phải canh tân não trạng chúng
ta, phải sống theo khuôn mẫu đời sống Chúa Ky-tô và chấp nhận
trách nhiệm biến đổi những cơ cấu trần thế nơi chúng ta đang
sống”. “Toàn bộ con người cần được uốn nắn hay đào luyện cho đến
khi Chúa Ky-tô thành hình ngay trong con người ấy”. (Gal 4:19)
và cho đến khi nhận thức được rằng không phải tôi sống mà chính
Chúa đang sống trong tôi “It is no longer I who live, but Christ
who lives in me”. Nghĩa là học cho đến khi Thánh kinh tràn ngập
tâm hồn. Học Thánh kinh không phải chỉ để hiểu nghĩa, biết thêm
tin tức (information) mà thôi mà chính là làm sao áp dụng Thánh
kinh vào sinh hoạt hằng ngày (formation) đế tạo sự tự hoán cải
liên tục (Metanoia/conversion). Bởi nhờ vào đào luyện, với những
phương cách khác nhau, mới biến đổi hay hoán cải con người toàn
diện. Việc học đạo làm cho con người “thực sự vững vàng về những
gì là thiết yếu và hạnh phúc một cách khiêm nhường trong đức
tin. Đặc biệt am hiểu các ý niệm căn bản như ân sủng, vai trò
của Ky-tô hữu, ân, sủng, đức tin, sùng đạo, học đạo, hành đạo.
47- Ân Sủng: Chúa đã tự hiến tế trên
cây Thánh giá để chuộc tội cho thiên hạ. Ơn cứu độ của Ngài dành
cho mọi người, thể hiện tình yêu Thiên Chúa cũng là phương tiện
tuyệt hảo an bài cho chúng ta được tương ngộ với Ngài. Ân sủng
đã giúp chúng ta gặp gỡ Chúa trong một thế giới đầy những thực
tại bất ngờ, và chỉ có Chúa mới lấp đầy được những sự trống vắng
trong tâm hồn chúng ta. Nói khác đi “Ân sủng là sự gặp gỡ sống
động với Thiên Chúa” giúp chúng ta trở thành những Ky-tô hữu có
phẩm giá. Nhờ ân sủng của Chúa, chúng ta đã được xác nhận là
Ky-tô hữu về mặt thiêng liêng.
48- Giáo Hội: “You are Peter, and on
this rock, I will build my church” (Mt 16; 18, JnI:42) “Này con
là đá, trên viên đá này Cha xây Giáo Hội muôn đời vinh quang”.
Chúa không bao giờ để chúng ta cô đơn, lạc lõng nhưng trái lại
hội tụ con cái của Người vào trong một đại gia đình. Đại gia
đình này được thể hiện qua hai hình ảnh (1) Giáo Hội là Cộng
Đồng Dân Chúa, mỗi Giáo hữu cũng là một Giáo Hội (2) Giáo Hội
cũng là nhiệm thể của Chúa Ky-tô, hình ảnh nói lên được sự tham
gia của Ky-tô hữu trong đời sống của “Chúa Ky-tô toàn diện”.
Thánh GH Gioan Phao-lô II đã nói “Nhờ ơn sủng của các Ky-tô hữu
sống hiệp thông với các Thánh: Hình ảnh cây nho và cành nho đã
làm sáng tỏ sự hiệp thông thiết yếu giữa các Tông đồ với Chúa,
và giữa các Tông đồ với nhau: Tất cả đều là cành nho của một cây
nho duy nhất”. Khi thi hành sứ mệnh của một Ky-tô hữu giữa trần
thế, chúng ta thi hành kế hoạch tuyệt diệu của Chúa với Đức tin:
Nghĩa là nhìn nhận kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đặt căn bản
trên “Đức tin”.
49- Đức Tin: Đức tin là nguyên động
lực thúc đẩy chúng ta hoàn thành nhiệm vụ Chúa giao phó cho
chúng ta ở trần gian này, với tâm niệm: “Bất luận anh em ăn gì,
hoặc uống gì hay làm bất cứ điều gì, hãy làm cho vinh quang của
Thiên Chúa” (1 Cor 10:31). Chúa đã ban chính bản thân mình làm
món quà cho con người thì sự đền đáp duy nhất và thích ứng nhất
là hoàn toàn chấp nhận kế hoạch cứu chuộc của Chúa, không chỉ là
một sự tán thành, nhưng là một sự gắn bó, đam mê (passion) Chúa
với tất cả tâm can cũng như yêu người như mình ta vậy. “Love the
Lord, your God with all your heart, soul, mind, and strength,
and love your neighbor as yourself” (Mk 12:30-31). Một hình thức
theo Chúa Ky-tô thực sự, một thái độ chia sẻ công cuộc cứu chuộc
của Chúa. Nhờ phép Thêm sức mà chúng ta được đức tin vững vàng
“The confirmation gives us a special strength of the Holy Spirit
to spread and defend the faith by word and action as true
witnesses of Christ” (Catechism of Catholic Church – CCC, 1303).
Đức tin như vậy là một trong những điều kiện ắt có để được nên
thánh. Đức tin được thể hiện qua các tác động sùng kính Thiên
Chúa hằng ngày qua tâm tình sùng đạo.
50- Với tư cách Ky-tô hữu, chúng ta
hiểu vai trò của mình là giáo hữu trong Giáo Hội và cũng là Giáo
Hội. Đã là giáo hữu trong Giáo Hội, chúng ta chấp nhận tin mừng
cứu chuộc của Chúa với Đức tin mãnh liệt vào Chúa. Đến đây hẳn
nhiên chúng ta đã có sự lựa chọn vì “Đức tin không hành động là
Đức tin chết” (Gia-cô-bê 2:17). Nghĩa là Đức tin phải được thể
hiện qua mọi hành vi sùng đạo hằng ngày của người giáo hữu. Chúa
đã hứa “Ở đâu có hai hay ba người hợp nguyện ở đó có Chúa hiện
diện” “Where two or three are gathered in my name, there am I in
the midst of them” (Mt 18:20) và “Anh em có nói gì, làm gì thì
hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa
Cha” (Col. 3:17). Nhất là phải làm hoà với người anh, em trước
khi tham dự vào Thánh lễ thì của lễ mới được Chúa chấp nhận. “If
you are offering your gift at the altar, and there remember that
your brother has something against you, leave your gift before
the altar and go, first be reconciled to your brother, and then
come and offer your gift” (Mt 5:23-24). Trong kinh Lạy Cha chúng
ta đọc, có câu “và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có
nợ chúng con – “Forgive us our sins, as we forgive those who sin
against us” và vì vậy Chúa sẽ không tha thứ cho chúng ta nếu
chúng ta không tha thứ cho người khác “God will not forgive
anyone who fails to forgive others” (Mt 6:14-15). Có thể có
nhiều phương cách thể hiện Đức tin trong hành vi Sùng đạo để nên
Thánh, những ý niệm về sùng đạo chính trực, gạt bỏ những quan
niệm sai lầm. Chúng ta phải chọn đời sống thánh thiện đích thực
với đức tin kiên định được đánh động nhờ tình yêu mà Chúa Giê-su
công bố trong điều răn mới của Người.
51- Đặc Trưng của Giáo Hội: Chúa
Giê-su đã nhập thể (incarnation) làm người và đã chịu chết trên
cây Thánh giá để chuộc tội cho nhân loại. Ngài đã thiết lập Giáo
Hội như ngôi nhà với đầy đủ tiện nghi cho chúng ta và mong muốn
chúng ta sinh sống trong ngôi nhà đó. Giáo Hội dẫn dắt chúng ta
ngày nay như “trụ lửa” Chúa đã ban xuống, ngăn chận quân thù, để
dẫn dắt dân Israel khỏi Ai cập. Chúa ban cho chúng ta mỗi người
một vai trò mà Chúa muốn chúng ta thực hiện trong Giáo hội. Chúa
đã phán Giáo Hội Chúa là “Ánh sáng của muôn dân - The light of
the world”. Là Giáo Hội hữu hình với những đặc tính vĩnh cửu cho
đến khi Chúa lại đến. Giáo Hội Chúa đã trường tồn trên 2000 năm,
trải qua biết bao nhiêu nghịch cảnh và vẫn vững vàng như bàn
thạch, đúng như lời Chúa đã phán với Thánh Phê-rô “Này con là
đá, trên viên đá này Cha xây Giáo Hội muôn đời vinh quang”. Nếu
là một tổ chức của nhân thế thì Giáo Hội đã suy sụp từ lâu. Đây
là Giáo Hội của Chúa, khởi sự với công lao của 12 Thánh Tông đồ
và được giáo quyền các cấp qua các thời đại đã tiếp nối chương
trình cứu độ và rao giảng lời Chúa qua 2000 năm đã kiến tạo
thành một Giáo Hội vững vàng nhất thế trần, với hằng tỷ giáo
dân. Giáo Hội thể hiện “Thần quyền” vĩnh cửu của Chúa trên “Thế
quyền” nay đổi mai thay của các quốc gia trên thế giới.
52- Giáo Hội Công Giáo có 4 đặc trưng
(1) Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội Duy
Nhất: (The Church is oneness,) nghĩa là Chúa chỉ thành lập một
Giáo Hội duy nhất trên trần gian này với một nền giáo lý thuần
nhất, trước sau như một, như lời Chúa đã giảng dạy, hoặc đã phán
qua các Tiên tri, các Thánh Tông đồ... qua Kinh thánh. Tín lý
của Giáo Hội càng ngày càng được khai triển sâu xa hơn qua các
Công đồng. Cho đến nay Giáo Hội đã họp được 22 Công Đồng, kể từ
Công Đồng Jerusalem năm 49 sau khi Chúa tử nạn và Công Đồng gần
nhất là Công Đồng Vatican II (1962-1965) với nhiều canh cải thể
hiện qua các Tông huấn, Sắc lệnh, nhưng luôn luôn trung thành
với tín lý nguyên gốc (Jn. 16:12-13).
(2) Giáo Hội Chúa là Giáo Hội Thánh
Thiện (The Church is Holy): Thánh thiện vì đấng thành lập là
Thánh thiện. Tuy nhiên không có nghĩa là mọi giáo hữu đều thánh
thiện, cũng như không có nghĩa là mọi tín hữu đều sẽ được hưởng
phước đời đời. (Jn 6:70, Matt 7:21-23). Giáo Hội là nguồn thánh
thiện, là cơ quan quản nhiệm ơn Thánh Chúa qua các phép bí tích
(Eph.5:26).
(3) Giáo Hội là Công Giáo: (The Church is Catholic) Giáo Hội
Công Giáo là ân sủng Chúa ban cho nhân loại, là tôn giáo chung
của hoàn vũ (Catholic = Universal / of all nations). Công giáo
là tôn giáo chung của nhân thế (Matt.28:19-20). Qua hơn 2000 năm
Giáo Hội vẫn rao truyền tín lý căn bản: Chúa đã chết để chuộc
tội cho thiên hạ và Chúa yêu thương nhân thế như con cái chung
của đại gia đình nhân loại (Gal: 3:28). Ngày nay, Giáo Hội Chúa
hiện hữu trong tất cả các quốc gia và các vị thừa sai vẫn đang
loan truyền Giáo lý Công Giáo khắp nơi trên thế giới. Danh xưng
Công giáo (Catholic) được phổ thông từ thời Thánh Ignatius of
Antioch, từ năm 107 sau Công nguyên, nhưng đã thực sự bắt nguồn
từ thời các Thánh Tông đồ, tức là từ thế kỷ thứ nhất sau Công
nguyên.
(4)
Giáo Hội là Tông Truyền (The Church is Apostolic): Giáo Hội Công
giáo là Tông Truyền vì Chúa đã phong các Tông đồ lãnh đạo Giáo
Hội và các Tông đồ truyền nhiệm cho các tông đồ kế vị qua các
niên đại. Giáo Hội hoàn vũ do các Đức Giáo Hoàng kế vị của vị
Giáo Hoàng tiên khởi là Thánh Phê-rô, đến các vị chủ chăn như
Tổng Giám Mục, Giám Mục và Linh Mục trong các Giáo Hội địa
phương với tín lý căn bản: Chúa Giê-su đã sống lại vinh hiển.
Chúa ở với nhân lọai trong Bí tích Thánh Thể. Nhân loại có thể
hòa giải với Chúa qua các vị chủ chăn, qua bí tích rửa tội, bí
tích giải tội, đền tội...
53- Truyền thống Tông truyền này được
Giáo Hội trung thành tuân chỉ qua các thời đại mà chúng ta gọi
là thừa kế Giáo quyền được truyền từ các vị lãnh đạo Giáo Hội
tiên khởi với tinh thần phục vụ nhân loại như Chúa đã làm gương
rửa chân cho các môn đệ. Các tông đồ là những hiền nhân, cho nên
từ thời sơ khai của Giáo hội, đã được gọi là Cha (Father) như
Thánh Phao-lô đã đề cập trong thư gởi tín hữu thành Coriento:
“Ta trở nên thân phụ các con trong danh nghĩa Chúa Ky-tô qua
Kinh Thánh” “I became your father in Jesus Christ through the
Gospel”. (1 Cor 4:15). Chúa đã ủy quyền cho các vị Tông đồ cai
quản nuớc Chúa ở trần gian (Jn 21:15-17) qua hình ảnh Chúa chọn
Peter làm vị “Giáo hoàng” tiên khởi. Peter nguyên tên là Simon.
Chúa đã đổi tên Simon sang Kepha, có nghĩa là một tảng đá lớn
theo tíếng Aramaic. Sau đó chuyền sang tiếng Hy lạp là Petros
(Jn 1:42), tiếng Anh là Peter, tiếng Pháp là Pierre, đều có
nghĩa là đá. Chúa đã xây Giáo hội trên tảng đá vững chắc này.
Chúa ban quyền cho Thánh Peter làm chủ chăn (Jn 21:15-17). Thánh
Peter hướng dẫn Giáo Hội, tuyên xưng đức tin qua Kinh thánh và
có quyền quyết định, cai quản Giáo hội. (Acts 2:1-41, 15:7-12).
Thánh Peter là vị Giám Mục Roma tiên khởi, tử đạo năm 64 trong
thời Hoàng Đế La Mã Nero. Các Giám mục kế vị Thánh Peter được
tín hữu mệnh danh là Pope có nghĩa là Cha (Papa), là Đức Giáo
Hoàng. Giáo Hội Công giáo duy trì bốn đặc trưng nêu trên không
phải nhờ sức tín hữu mà Chúa tự duy trì (self-sustained) các đặc
tính trên cho Giáo Hội do Chúa đã hình thành cho nhân loại (Mat.
16:18, 2028). Trước kia, Chúa đã dùng trụ lửa (pillar of fire)
đề soi sáng hành trình cho dân Do Thái vuợt khỏi Ai Cập. Ngày
nay Chúa cũng dùng trụ lửa để hướng dẫn Giáo Hội (Exod.13:21).
Vì thế mà Giáo Hội Công Giáo còn được goị là “Trụ cột và nền
tảng của Chân lý. (The pillar and foundation of the truth (1
Tim3:15)” và Ngài ban quyền cho các vị chủ chăn ở trần gian “Ai
nghe các con là nghe Ta. Ai từ chối các con là từ chối Ta” “He
who listens to you listens to me, and he who rejects you rejects
me” (LK 10:16).
54- Quyền Giáo huấn của Giáo Hội
(Magisterium) dùng để quảng diễn Thánh kinh và Thánh Truyền...
Quyền Giáo huấn của Giáo Hội (Magisterium) là quyền giải thích
về tín lý của hàng Giáo phẩm qua các Công Đồng. Quyền Giáo Huấn
có tính cách bất khả lầm lẫn (The Magisterium is infallible) nhờ
sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. “The magisterium is infallible
when it teaches officially because Jesus promised to send the
Holy Spirit to guide the apostles and their successors into all
truth” (John 16:12-13) (CCC101-141). Thánh kinh, Thánh Truyền và
quyền Giáo huấn tạo thành thế chân vạc (tripod) bảo đảm sự vững
chắc nền Giáo huấn Công giáo qua hơn 2000 năm nay và mãi mãi về
sau. (CCC 85-87)
55- Chúa lưu lại cho chúng ta những
Thiên ân nào?: Chúa hứa sẽ không để chúng ta sống đơn côi (John
14:18) và Chúa đã gởi Chúa Thánh Thần đến hướng dẫn chúng ta
(John 15:26) “cho chúng ta được biết việc phải làm, cùng khi làm
xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh, mỗi việc, từ khởi sự cho đến hoàn
thành đều nhờ bởi ơn Chúa”. Những Ân sủng Chúa ban để giúp sức
cho chúng ta chiến thắng ba thù là Bảy phép Bí tích:
Thứ 1-Phép Rửa tội, (Baptism);
Thứ 2-Phép Thêm sức, (Confirmation);
Thứ 3-Phép Mình Thánh Chúa, (Eucharist);
Thứ 4-Phép Giải tội, (Penance);
Thứ
5-Phép Xức Dầu Thánh, (anointing of the sick);
Thứ 6-Phép Truyền chức Thánh, (Holy order);
Thứ 7-Phép Hôn phối (Matrimony).
Những phép bí tích này đã được tiềm ẩn
trong Cựu Ước qua các biểu tượng (symbol) như lễ “cắt bì” là dấu
hiệu của phép rửa tội, lễ tiệc Vượt qua (Pass Over Meal) là tiền
thân của phép Thánh Thể... Khi Chúa Giê-su đi rao giảng, Chúa đã
siêu nhiên hoá các biểu tượng thành Ơn Sủng (grace). Chúa đã làm
nhiều phép lạ với các vật liệu thế trần như bùn, nước, bánh mì,
dầu, rượu... như biến nước thành rượu trong tiệc cưới Cana, chữa
lành bệnh mù loà bằng cách đắp bùn lên mắt, biến bánh mì thành
của ăn cho hằng ngàn người theo nghe Chúa giảng dạy... qua các
phép Bí tích Chúa tiếp tục nuôi sống linh hồn chúng ta, để lại
cho chúng những quà tặng hay Ân sủng qua các Phép Bí Tích.
Thứ 1. Phép Rửa Tội (Baptism) (CCC
1213-1284): Vì tội tổ tông, chúng ta sinh ra thể xác nhưng phần
hồn thiếu ân sủng kết hiệp với Chúa. Chúa đã vì vậy xuống thế
gian, mặc lấy hình hài nhân loại, dùng máu của Người để rửa sạch
tội tổ tông, cứu vớt chúng ta, giúp chúng ta kết hiệp với Cha cả
trên trời. Chúa phán “Không ai có thể vào được nước Thiên đàng
nếu không được tái sinh bằng nước và ơn Thánh linh. –He said no
one can enter the kingdom of God unless he is first born of
water and the Spirit” (Jn 3:5). Chúa Giê-su đã nêu gương sáng và
để lại thí dụ cụ thể cho nhân loại bằng cách đích thân xuống
sông Jordan để Thánh Gioan Tẩy Giả dùng nước làm phép rửa cho
Chúa. Với phép rửa tội, chúng ta được tái sinh trong Ơn sủng của
Chúa. Chính ngày rửa tội mới là ngày sinh nhật thiêng liêng của
chúng ta. Chúng ta được rửa tội qua hy lễ của Chúa, vì thế chúng
ta được thông phần Phục sinh với Chúa (Rom. 6:3-7). Phép rửa tội
tẩy sạch tội lỗi của chúng ta, nhờ đó Chúa Thánh linh và ơn sủng
của Ngài tràn ngập tâm hồn chúng ta (Acts 2:38, 22:16). Thánh
Phê-rô cũng đã thốt lên “Phép rửa tội cứu rỗi các con – Baptism
now saves you” (1Pet.3:21). Phép Rửa tội mở đường cho chúng ta
trở thành công dân nước Chúa.
Thứ 2. Phép Thêm sức (Confirmation)
(CCC 1285-1321): Chúa tăng cường đức tin cho chúng ta qua phép
Thêm sức. Vào ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (Pentecost)
Chúa Thánh Thần đã đến để tăng cường đức tin cho các Thánh Tông
Đồ trước khi lên đường “vui kiếp gió sương”, thi hành sứ mệnh
loan truyền tin mừng của Chúa cứu thế, với lòng trung kiên, cam
đảm phi thường. Các Thánh Tông đồ, các vị Giám mục sau đó cũng
thừa lệnh Chúa cử hành bí tích Thêm sức để tăng cường sinh lực
thiêng liêng cho giáo dân. (Acts 8.14-17).
Thứ 3. Phép Mình Thánh Chúa (The
Eucharist) (CCC 1322-1419): Mỗi khi chúng ta đã trở thành công
dân nước Chúa, Chúa không nỡ lòng nào để cho chúng ta đói khát,
thiếu lương thực tinh thần, nhưng nuôi sống chúng ta hằng ngày
bằng mình và máu Thánh Chúa qua phép Thánh Thể. Trong Cựu Ước,
khi cứu dân Chúa ra khỏi Ai cập, Chúa đã sai thiên thần thông
báo cho dân Do Thái giết cừu và thoa máu lên cửa để tránh bị Tử
Thần sát hại và sau đó ăn thịt cừu để giữ gìn kết ước với Chúa.
Đó là “Tiêc cừu của lễ Vượt qua”. Chúa Giê-su cũng đã hy sinh và
dùng máu của Ngài để xóa tội trần gian. “Lạy Chiên Thiên Chúa,
đấng xoá tội trân gian, xin thương xót chúng con” (Jn.1. 29).
Chúa đã lập “Kết Ước mới” với chúng ta và cho chúng ta sự sống
đời đời. Chúa phán “Trừ phi các con ăn thịt Ta và uống máu Ta,
nếu không các con sẽ chỉ là xác vô hồn”. (Jn 6:53) “Unless you
eat my flesh and drink my blood you have no life within you”.
Trong buổi Tiệc ly, Chúa cầm lấy bánh, rượu và phán: “Đây là
mình Ta, hãy cầm lấy mà ăn, và máu Ta hãy cầm lấy mà uống. Máu
Tân Ước sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội” (Mk
14:22-24). Đây là hình ảnh sống động về Hy lễ Chúa lập để nuôi
sống linh hồn chúng ta và Chúa sẽ ở với chúng ta cho đến ngày
Tận thế. Thánh Phao-lô đã xác quyết, qua Ơn phúc, đây là mình và
máu thật của Chúa Giê-su. Những ai thiếu đức tin thì không nên
rước lễ vì rước lễ trong lúc tâm thần bất ổn thì sẽ chuốc lấy
tai hoạ “Anyone who eats and drinks without recognizing the body
of the Lord eats and drinks judgment on himself” (1
Cor.11:27-29). Sau phần phụng vụ Thánh Thể trên bàn thờ, không
còn bánh và rượu mà là mình và máu thật của Chúa ẩn thân trong
bánh và rượu để nuôi sống chúng ta.
Thứ 4. Phép Giải tội (Penance)
(CCC1422-1498): Chúa là Thần, nhưng đã mặc xác loài người, Chúa
hiểu sự yếu đuối của con người đôi khi sa chước cám dỗ của
Satan. Chúa luôn luôn sẵn sàng nâng đỡ chúng ta qua bí tích Giải
Tội. Chúa ban cho các chủ chăn quyền tha tội cho chúng ta. “Với
ơn Chúa Thánh Thần, con tha tội cho ai thì Cha tha cho người đó
và con cầm giữ tội ai thì Cha cũng sẽ cầm giữ người đó - Receive
the Holy Spirit. Whose sins you forgive are forgiven them, and
whose sins you retain are retained” (Jn 20:22-23). Xưng tội để
thống hối là phương thức hòa giài với Chúa. Chúng ta là sứ giả
của Chúa, qua phép giải tội, thống hối, Chúa tha tội cho chúng
ta và giúp chúng ta khỏi sa chước cám dỗ.
Thứ 5. Phép Xức Dầu Thánh (Anointing
of the Sick). (CCC 1499-1532): Các chủ chăn luôn luôn ân cần, lo
âu về phần xác khi chúng ta bị đau yếu bằng cách ban phép “Xức
Dầu” cho chúng ta. Thánh Kinh lưu ý rằng “Nếu có ai trong các
con đau khổ, con phải cầu nguyện... Nếu có ai trong chúng con
đau yếu, chúng con phải mời Linh Mục đến cầu nguyện và nhân danh
Chúa xức dầu cho kẻ liệt. Lời nguyện sẽ cứu thoát kẻ liệt và
Chúa sẽ nâng người đó lên. Nếu người đó có sai phạm điều gì thì
Chúa sẽ tha tội cho họ”. (Jas.5:14-15)
Thứ 6. Phép Truyền Chức Thánh (Holy
Order). (CCC 1536-1600): Chúa mời gọi nhân thế dâng mình trở
thành Tu sĩ và Giáo sĩ để phụng sự Chúa. Qua Cựu Ước, chúng ta
thấy trong xã hội Do Thái có nhiều người trở thành Thầy cả. Họ
đã đáp ứng ơn gọi của Chúa để trở thành tông đồ, suốt đời phụng
sự Chúa (Exod. 19-22). Trong Tân Ước, Chúa đã mời gọi đặc biệt
nhiều người dâng mình cho Chúa. (Rom.15-16). Các vị Giáo sĩ các
cấp được tấn phong và được ủy quyền cai quản Giáo Hội. (2
Tim.1:6-7). Quan trọng nhất là rao giảng Tin Mừng và quản nhiệm
các phép Bí tích.
Thứ 7. Phép Hôn Phối (Matrimony) (CCC
1601-1666): Qua phép Hôn Phối, Chúa ban cho nhiều người ơn đặc
biệt để hai người Nam – Nữ trải qua những khó khăn của cuộc đời
nhất là vấn đề nuôi dưỡng con cái. Hôn phối thường tạo nên liên
hê ba chiều “Cô Dâu, Chú Rể và Chúa”. Khi hai người kết hợp, có
Chúa ngự trị giữa họ, chứng kiến sự trao đổi lời thề hứa và ban
phúc cho họ qua vị Giáo sĩ chủ lễ. Hôn phối là lời hứa trọn đời
(Mk.10.1-12), Rom.7:2-2, 1Cor.7:10-11). Là sự kết hợp thánh
thiện, biểu tượng cho mối liên hệ không thể phá vỡ giữa Giáo Hội
và Thiên Chúa (Eph.21-33).
III. Sống theo Giáo huấn của Thiên
Chúa
56- Sống
theo Giáo huấn của Thiên Chúa tức là sống và tuân giữ các giới
răn, tức là tuân luật. Luật này hướng dẫn con người đến chân lý,
đến sự sống đời đời. Thánh kinh đã ghi lại lời của người phú hộ
trẻ tuổi hỏi Chúa “Thưa Thầy con phải làm gì để được sống đời
đời – What good must I do to have internal life? Chúa trả lời
nếu con muốn sống đời đời con phải tuân các giới răn” “If you
wish to enter into life keep the commandments”.
Người Tín Hữu Giáo Dân lãnh nhận ơn
cứu độ của Chúa, phải biết sống vuợt qua những trở ngại để trở
thành người Công giáo đích thực. Từ thuở ấu thời sách Kinh Nghĩa
đã giảng dạy giáo dân: “Chúa tạo nên con để làm gì?”
Câu trả lời “Chúa tạo nên con để biết
Chúa, để yêu mến Chúa, để phụng sự Chúa ở trần gian này và sống
hạnh phúc với Chúa đời sau” “Why did God make you? God made me
to know him, to love him, and to serve him in this world and to
be happy with him forever in the next”. Chúa đã phán: “Ta đến để
cứu rỗi các con và cho các con đời sống sung mãn hơn” “I came so
that you might have life and have it more abundantly” (Jn
10:10). Chương trình của Chúa ban cho chúng ta rất đơn giản.
Chúa muốn cho chúng ta tất cả mọi sự tốt đẹp, kể cả cuộc sống
vĩnh cữu đời sau. Chúa chịu chết trên cây Thánh giá để chuộc tội
cho chúng ta. Khi Chúa cứu chuộc chúng ta, Chúa ban cho chúng ta
trở nên kết hiệp với Chúa, như là một phần tử của Giáo hội.
“When he saves us, he makes us part of his Body, which is the
Church” (1 Cor.12:27-30). Chúng ta, từ đó, được kết hiệp với
cộng đồng Ky-tô hữu khắp nơi trên thế giới, trên Thiên đàng và
trong Luyện ngục. Chúng ta sống đạo qua 3 phương thức:
(1) Sùng đạo: Sống với Đức tin Công
Giáo của mình bằng cách thể hiện Đức tin Công giáo một cách hiển
nhiên trong mọi hoàn cảnh, mọi hành vi của cuộc sống, không dấu
diếm, mặc dù có khi gặp cơ may, có khi gặp rủi ro! Nhưng bất kể
cảnh huống nào hãy tận hưởng đức tin mình có: “Rejoice and glad,
for your reward is great in heaven” Hãy vui sướng và hoan hỉ vì
phần thưởng rất lớn trên Thiên đàng (Mt.5:12). Sùng đạo để nên
thánh, để được cứu rỗi.
Lời Chúa hứa đời sống vĩnh cửu là một
món quà tặng không cho chúng ta. (A gift, freely offered to us
by God- CCC 1727). Chúa muốn chúng ta dự phần vào ơn cứu độ của
Chúa (1 Cor. 3:9). Nhưng Chúa không áp đặt món quà lên mọi người
mà chỉ ban cho những người có thiện tâm nhận lãnh. Hoán cải là
sự đan kết giữa ân sủng và tự do. Con người được cứu rỗi nhờ đức
tin và ơn phúc (Jas.2:24). Chúa đã phán tin vào Chúa chưa đủ,
cần phải thực hành các điếu răn của Chúa. “Tại sao con gọi ta
Chúa, Chúa, nhưng không thực hiện điều ta sai bảo”. (Lk 6:46,
Matt. 7:21-23, 19:16-21). Điều tốt nhất muốn tránh xa tội lỗi là
phải cầu nguyện, giữ các Phép Bí tich và làm việc lành phước
đức. “The best way to keep away from sins is to embrace regular
prayers, the Sacraments and charitable acts”. “Nhất nhật bất
niệm thiện, chư ác giai tự khởi”. Một ngày mà không nghĩ đến
điều thiện, ác ý sẽ dấy lên.
Cầu nguyện là công tác quan trọng nhất
trong đời sống của người tín hữu. Không có cầu nguyện thì không
có đời sống tâm linh. Cầu nguyện cá nhân hay cầu nguyện tập thể
như dâng Thánh Lễ, chúng ta cầu nguyện, ca ngợi Thiên Chúa, xin
tha thứ tội lỗi. Với cầu nguyện, chúng ta phát triển sự kết hợp
với Chúa và với các tín hữu khác trong Giáo Hội. (CCC
2663-2696). Đức tin được thể hiện qua lời cầu nguyện. Gia đình
của Giáo Hội gồm chúng ta, các tín hữu, những người đã qua đời
trong Luyện ngục, hay ở trên Thiên đàng và các Thánh. (Rom
8:3-8, 1 Cor. 3:12-15). Thánh Phao-lô khuyên “Rejoice always,
pray constantly, give thanks in all circumstances” (1 Thes
5:16-18)
(a)
Cầu nguyện Cá nhân: Chúa dạy chúng ta tìm nơi thanh vắng, tránh
lo ra, để cầu nguyện với Thiên Chúa. Cầu nguyện không phải độc
thoại (monologue) mà đối thoại (dialogue), tâm sự với Chúa. Đọc
Kinh Thánh, không chỉ để biết (information) mà còn để đào luyện
(formation) nghĩa là áp dụng Thánh kinh vào mọi hoàn cảnh trong
đời sống hằng ngày. Đọc Kinh Thánh tức là đối thoại với Chúa vì
Chúa ngự trị trong Thánh Kinh. “When you pray, go to your room
and shut the door and pray to your Father who is in secret “(Mt
6:6).
(b) Cầu
nguyện Nhóm: “When two or three are gathered in my name, there
am I in the midst of them” (Mat 18:20). (CCC 2689). Khi có hai
hay ba ngươi hợp nhau cầu nguyện thì Chúa sẽ ngự trị giữa họ.
(c) Cầu nguyện Cộng đồng: Trong các
phương cách cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ là phương cách được
Chúa truyền dạy trong buổi tiệc ly biệt với các Thánh Tông Đồ.
Chúa cầm lấy bánh mà bảo: “Đây là mình ta, các con nhận lấy mà
ăn” và cầm rượu mà nói “Đây là máu Ta, các con nhận lấy mà uống.
Máu Tân ước vĩnh cữu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được
tha tội, các con hãy làm việc này mà nhớ đến ta”. “Do this in
remembrance of me”. Trước hết Eucharist có nghĩa là Lễ Tạ Ơn.
“Eucharist means first of all Thanksgiving”. Tạ ơn Thiên Chúa đã
tạo nên trời, đất muôn vật, tạo nên nhân loại và đã xuống thế
làm người, chịu đóng đinh trên cây Thánh giá để chuộc tội cho
thiên hạ. Chúng ta gọi là Thánh Lễ Misa, Anh ngữ là Mass, Pháp
ngữ là Messe, do chữ Missa (La-tinh) có nghĩa là lên đường sau
khi nhận sứ mệnh (Mission-Go, it is sent), lên đường đi công
tác. Trong buổi tiệc ly Chúa đã truyền lệnh cho các Thánh Tông
đồ đi khắp thế gian để rao truyền tin mừng Cứu Độ. Tham dự Thánh
Lễ để tạ ơn và nhắc nhở lại lệnh của Chúa đã ban ra và sau lễ,
chúng ta nhận lệnh lên đường thi hành công tác truyền bá ơn cứu
độ của Chúa cho muôn dân thiên hạ. “Lễ xong chúc các con đi bình
yên” và đem về hoa trái, những hoa trái không bao giờ hư nát.
“The Mass is ended, go in peace to love and to serve the Lord”.
Tham dự Thánh Lễ Misa là một việc trọng đại trong đời sống của
người giáo hữu, cần phải chuẩn bị chu đáo, sốt sắng.
(2) Học đạo hiểu biết về Giáo lý Công
giáo: Muốn sống đời sống đức tin, trước hết phải biết thế nào là
Đức tin Công Giáo. Chúng ta không thể chia sẻ đức tin của mình
với người khác, nếu chúng ta không biết đức tin của mình là gì?
(Catechism of the Catholic Church/CCC. 429). Vì thế, chúng ta
phải học đạo. Học đạo cần sự cố gắng, nhưng rất hữu ích và khích
lệ. “Ignorance of Scriptures is ignorance of Christ (St. Jerome
400). Không học Thánh Kinh thì không hiểu gì về Chúa Ky-tô”.
Nhiệm vụ của người tín hữu là học hỏi Thánh kinh, tuân giữ giới
răn của Thiên Chúa và truyền bá ơn Cứu Độ của Thiên Chúa cho
muôn dân thiên hạ. Chúng ta không phải biến hành động của mình
phù hợp với “việc làm của Ky-tô hữu” nhưng là “để trở nên Ky-tô
hữu”, nhờ đó nảy sinh ra việc làm của Ky-tô hữu, đó là loan
truyền tin mừng đúng với sứ mệnh người Ky-tô hữu.
(3) Hành đạo: Thực thi Sứ mệnh Truyền
giáo: Chúa muốn chúng ta rao giảng chương trình cứu độ đến cho
mọi loài thọ tạo. “Chúa là Ánh sáng, là sự Thật, là sự
Sống”(John. 14:6). Truyền bá đức tin là nhiệm vụ chung của mọi
người Công giáo (CCC. 905). Trước khi lên trời, Chúa nói với các
môn đệ “Các con hãy đi và làm cho nhân thế trở thành con cái của
Chúa, rửa tội cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” và
“giảng dạy cho họ tuân giữ các giới răn mà Ta đã truyền cho các
con” (Mt. 28:19-20). “Go into all the world and preach the
gospel to the whole creation” (Mk 16:15). Phải có sự thông hiệp
với Chúa thì sự rao giảng Tin mừng mới có hiệu lực. “Only from a
personal relationship with Jesus can an effective
E-vangelization develop.” (L’Observatore Romano).
(a) Chúa Thánh Thần cũng ban cho chúng
ta bảy năng lực thiết yếu: Trí thông minh, khả năng am hiểu, khả
năng hướng dẫn, đức tính can trường, sự hiểu biết, đức tính sùng
đạo và lòng kính sợ Chúa. (Wisdom, understanding, counsel,
fortitude, knowledge, piety and fear of the Lord). (Isaiah
11:2). Trong lúc sinh sống và hành đạo, chúng ta phải biết đề
phòng những trở ngại giăng mắc trên đường đời: Đó là tội lỗi.
Tội lỗi do hai nguyên nhân (1) Vi phạm điều cấm kỵ (Sin of
commission) (2) Không thi hành điều phải làm (Sin of omission).
Tội lỗi làm cho chúng ta (1) mất cân bằng nội tâm, (2) chống lại
Thiên Chúa, (3) làm hỏng thánh ý Chúa muốn cho tất cả chúng ta
được cứu rỗi, (4) gây thương tích cho nhiệm thể Chúa Ky-tô, (5)
hủy hoại sự hiệp nhất trong gia đình và xã hội, gây nên sự lầm
than, tan tác.
(b) Muốn hành đạo có hiệu qủa, chúng
ta phải can đảm nhận lãnh trách nhiệm lãnh đạo (Leaders): Lãnh
đạo là cơ hội để cải tiến và để phục vụ (Leadership is an
opportunity to fight and to serve) trong tư thế Tư tế, Ngôn sứ
và Vương giả. “Through confirmation, we become shares in Jesus’s
priesthood, prophetic ministry, and kingly dignity”. Lãnh đạo
đây không ám chỉ những người có quyền lực hay hiểu biết sâu xa,
nhưng muốn nói đến một Ky-tô hữu có khả năng thực hiện “hành
động Ky-tô hữu” bằng cách làm dậy men môi trường bằng Phúc Âm.
Trong ý nghĩa này, bất cứ người Ky-tô
hữu nào cũng có thể là người lãnh đạo. Người Ky-tô hữu lãnh đạo
là người Ky-tô hữu nhận lãnh trách nhiệm, sẵn sàng hợp tác trong
sứ mệnh của Hội Thánh, giữa trần thế. “Do phẩm giá đã nhận lãnh
từ phép rửa tội, mỗi tín hữu giáo dân chia sẻ trách nhiệm đối
với sứ mệnh của Hội Thánh. Thế giới sẽ trở thành địa bàn và
phương tiện để Ky-tô hữu thực thi ơn gọi của mình” (Tông huấn
NTHGD). Mỗi chúng ta đều có thể trở nên Ky-tô hữu lãnh đạo,
nghĩa là trở nên Ky-tô hữu có trách nhiệm, bền đỗ và dấn thân
với tinh thần xung phong, can đảm, chấp nhận rủi ro, trung thành
với những đòi hỏi của lý tưởng, ý thức trách nhiệm, khiêm tốn,
phục tùng sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh.
(c) Biết nghiên cứu và Phúc Âm hoá môi
Trường: Công việc nghiên cứu môi trường đòi hỏi Ky-tô hữu phải
có sáng kiến, biết tự khởi xướng để ra đi làm dậy men môi trường
bằng cách: (1) Bắt đầu xác định các môi truờng của họ; (2) Giúp
họ thâm nhập vào từng môi trường; (3) Thôi thúc họ hoạt động
trực tiếp và hăng say với tha nhân bằng phương pháp: Gây cảm
tình trước, rồi đến lý trí và sau đó thì đến ý chí. Nói khác đi
là làm quen, trở thành bạn và hướng bạn về với Chúa. Nhờ cầu
nguyện và hy sinh người tín hữu sẽ củng cố được lòng tự tin.
“Tôi có thể làm mọi sự trong Người vì Người tăng sức cho tôi”
(Philip 4:13).
Công đồng Vatican II đã nhắc nhở:
Chính “nơi trần thế” mà người Tín hữu Giáo dân “được Thiên Chúa
mời gọi” hầu nhờ Chúa Thánh Linh huớng dẫn đến với Phúc Âm. Họ
có thể đóng góp vào việc thánh hoá thế gian, từ bên trong như
men đối với bột, bằng cách chu toàn phận sự đặc thù của họ (Ánh
Sáng Muôn Dân).
Theo hướng dẫn của Tông huấn Người Tín
Hữu Giáo dân -Christifideles Laity, sống Phúc Âm là sống để: (1)
Phục vụ con người và xã hội; (2) Thúc đẩy sự tôn trọng phẩm giá
mọi người; (3) Tôn trọng quyền bất khả xâm phạm; (4) Bảo đảm tự
do của mọi người; (5) Bác ái là linh hồn nuôi dưỡng tình đoàn
kết; (6) Làm tác nhân nơi trung tâm đời sống kinh tế, xã hội,
chính trị (7) Phúc Âm hóa văn hóa và phong tục của loài người.
Không thể nào có Phúc Âm hóa môi
trường nếu chính những người làm công việc này không thấm nhuần
tinh thần Cứu độ: (1) Truyền đạt nhu cầu hoán cải, một nhu cầu
có ý thức, đang diễn tiến, liên hệ giữa nhiều người và nhằm vào
việc làm dậy men các môi trường (2) Nêu lên các trợ lực như nhu
cầu Thánh thể là lương thực cho cuộc lữ hành (3) Tuyên xưng sự
kết trái của một xã hội mới xây dựng trên nền văn minh đầy tình
thương.
(d)
Đây là cuộc sống mới mẻ mà Thánh GH Gioan Phao-lô II đã mệnh
danh là “Văn minh của dân tộc mới”. Đời sống Ky-tô khuấy động
mọi người đã nhận lãnh phép Rửa và buộc họ phải: “Theo chân, bắt
chước Chúa Giê-su Ky-tô; ôm ấp các mối Phước Thật; lắng nghe và
theo lời Chúa; tham gia tích cực vào đời sống phụng vụ và bí
tích của Giáo Hội; cầu nguyện riêng tư trong gia đình và ngoài
cộng đồng; khao khát công lý; phục vụ và yêu thương tha nhân
trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt với người bất hạnh, nghèo khó, đau
khổ.”
Cộng đồng Ky-tô hữu là một nhóm
người nòng cốt, cam kết và hiệp nhất trong Chúa Ky-tô, hoạt động
như men trong bột giữa trần thế mà họ tiếp xúc. Cộng đồng tín
hữu được biểu thị bằng các đặc tính: (1) Sự kiên trì của Giáo
Hội sơ khai (2) Nỗ lực Phúc Âm hoá chính mình và thế giới (3)
Thoát khỏi cô đơn và gia nhập vào sinh hoạt cộng đồng (4) Thuộc
vào các nhóm nhỏ để có thể liên lạc, gây hứng khởi cho nhau,
thêm sức cho nhau và họp bạn với nhau (5) Cộng đồng trở nên điểm
liên kết (6) Chia sẻ đời sống tận hiến, lớn lên và trưởng thành
trong đức tin, vượt qua các chướng ngại.
Thánh GH Gioan Phao-lô II đã tuyên bố:
“Giáo Hội ngày nay cần phải bước những bước đi thật xa trong nỗ
lực truyền bá Phúc Âm cũng như phải bước vào một giai đoạn lịch
sử mới trong sự năng nổ truyền giáo của Giáo Hội. Cộng đồng Giáo
Hội cần phải củng cố mối liên kết chặt chẽ giữa mọi chi thể với
nhau, trao đổi với nhau những phương tiện và năng lực chính yếu
và tự cam kết thành một nhóm để thực hiện sứ mệnh chung duy nhất
là tuyên xưng và sống Phúc Âm” (Tông huấn Người Tín Hữu Giáo Dân
– Chritifideles Laity).
57- Phục vụ Giáo xứ
(1) Tu thân
là tự thánh hoá cá nhân mình, nhờ đó chúng ta có thể phụng sự
Giáo Xứ và Giáo Hội một cách hữu hiệu. Về phương diện vật lý,
nhiều tiểu vũ trụ tạo thành đại vũ trụ, nhưng Giáo Hội thế giới
không phải là tổng số các Giáo Hội địa phương hợp lại mà Giáo
Hội địa phương được hình thành theo hình ảnh của Giáo Hội hoàn
vũ.
(2) Giáo
xứ là một gia đình của Chúa, một cộng đồng đầy tình huynh đệ,
chỉ có một linh hồn (Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội – Lumen
Gentium, 1964) hay nói một cách khác giáo xứ là một cộng đồng
Thánh thể, có năng cách cử hành bí tích Thánh thể, một cộng đồng
đức tin. Đức GH Phao-lô VI đã tuyên bố với hàng giáo sĩ Roma:
“Ta tin tưởng là cơ cấu cổ kính của Giáo xứ là cộng đồng tiên
khởi của dân Chúa. Chính Giáo xứ phải khai trương đời sống phụng
vụ và tập hợp dân Chúa. Giáo xứ có bổn phận bảo tồn và nung nấu
đức tin. Giáo xứ còn là trường dạy dỗ giáo lý cứu rỗi của Chúa
Ky-tô. Giáo xứ là nơi tích cực thực thi các công tác bác ái
huynh đệ. Giáo xứ là giếng nước của thôn xóm để mọi người đến
giải khát. Giáo dân là nguồn mạch làm cho Giáo xứ càng ngày càng
thêm phong phú. Vì mỗi giáo dân là một hữu thể cá biệt không
thay thế được. Mỗi giáo dân có sở trường, sở đoản, có nhiều khả
năng về nhiều khía cạnh khác nhau. Với tinh thần xây dựng và cởi
mở, chúng ta có thể giải quyết thỏa đáng mọi nhu cầu chính đáng
của giáo dân.”
(3) Giáo dân phải tôn trọng vị chủ
chăn trong tình nghĩa phụ tử. Vị Chủ chăn là nguyên lý hiển hiện
và là nền móng của sự hợp nhất. –”Ta trao cho người chìa khóa
nước trời. Những gì người ràng buộc dưới đất, trên trời cũng
ràng buộc. Những gì người tha trên trần thế, trên trời cũng sẽ
tha” (Mt. 16,19; 18,18). ĐGH Phao-lô VI đã nói: “Để xây dựng
chắc chắn ngôi nhà chung, chúng ta phải khước từ óc chia rẽ, phe
phái. Ngược lại chúng ta phải tôn trọng và sẵn sàng cộng tác với
nhau bằng một tâm hồn nhẫn nại, sáng suốt và sẵn sàng hy sinh.”
58- Phục Vụ Giáo Hội
Sau giai đoạn thánh hóa bản thân,
phụng sự Giáo Xứ, người Ky-tô hữu tiến đến công tác phục vụ Giáo
Hội, nghĩa là dấn thân vào các môi trường xã hội ngoài Giáo xứ
với nổ lực “Làm cho ý định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan
rộng đến tất cả mọi người, mọi nơi và mọi thời đại” (Lumen
Gentinum). Hai sứ mệnh chính của Giáo Hội, cũng là nhiệm vụ của
mỗi Ky-tô hữu là: Thánh hóa nhân loại và đào tạo cho con người
một lương tâm Công giáo đích thực để họ có thể đem tinh thần
Phúc Âm thấm nhuần mọi môi trường cũng như mọi lãnh vực của đời
sống.
(1)
Canh tân trật tự thế giới vì thế giới càng sống xa tinh thần
Phúc âm thì càng tao loạn. Người Ky-tô hữu có sứ mệnh phải canh
tân trật tự hoàn vũ hầu cải thiện đời sống của nhân thế trong
tình mến Chúa, yêu người. Giáo Hội không thể tránh né sứ mệnh
thường trực của mình là đem Phúc Âm đến cho hằng trăm triệu
người cả nam lẫn nữ chưa nhận biết Chúa, đấng cứu rỗi con người.
Công đồng Vatican II “Đã khuyến khích người Ky-tô hữu nên chu
toàn công tác trần thế một cách nhiệt tình, trung tín và vâng
theo tinh thần Phúc âm”.
(2) Sứ mệnh của người Ky-tô hữu là rao
truyền Phúc Âm, thánh hóa nhân loại và đào taọ cho con người một
lương tâm Công giáo đích thực để họ có thể đem tinh thần Phúc âm
thấm nhuần mọi người, mọi nơi và mọi thời đại. - Opostolican
Actuosiatem- “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm”
(1Cor. 9:16). Rao giảng không phải chỉ là nhiệm vụ của các vị
thừa sai mà còn là nhiệm vụ của mỗi giáo hữu, đừng để Chúa phải
nhắc nhở “Tại sao các con đứng dây suốt ngày mà không làm gì
cả”. Thánh GH Gioan Phao-lô II đã nói “Chúa đã giao phó trọng
trách thánh hoá nhân loại trên vai của mỗi Ky-tô hữu trong sự
hiệp nhất với cộng đồng dân Chúa trên toàn thế giới”. Tuy nhiên
ĐGH cũng nhấn mạnh công tác Phúc Âm hoá môi trường không phải
chỉ hạn hẹp trong phạm vi sinh hoạt hội đoàn tại các giáo xứ mà
phải dấn thân vào các công tác trần thế... Thế nhân đang đi tìm
kiếm hạnh phúc nhưng hạnh phúc chân chính chỉ có thể được mang
lại cho nhân loại khi chúng ta biết dấn thân, nhập thế, để đem
tinh thần Phúc âm vào các sinh hoạt nhân sinh phức tạp như văn
hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, các lãnh vực hoạt động thường
nhật của đời sống con người. ĐGH Phao-lô VI cũng đã vạch cho
chúng ta 4 sứ mệnh chính yếu:
(a) Dấn thân vào trận đời để hoằng
dương Nuớc Chúa qua hình thức kết hợp thân tình với nhân thế để
tìm cơ hội cải hoá nhân thế.
(b) Khi dấn thân vào trường đời như
vậy, mỗi tín hữu tự trao dồi khả năng truyền đạo của mình bằng
chứng tá của một đời sống thánh thiện trong tinh thần phúc âm.
(c) Chúng ta chỉ có thể cải tạo thế
trần bằng cách cải tiến các sinh hoạt văn hoá, xã hội, kinh tế,
chính trị... để thăng tiến đời sống nhân thế. Mục đích tối hậu
của chính trị là sửa trị các sinh hoạt nhân thế trở nên chính
trực.
(d) Qua
thái độ nhập thế, người tín hữu đã thực thi lý tưởng của mình:
Làm chứng tá của Chúa trước mọi người với một đời sống thánh
thiện nhằm cải hóa nhân thế và điều hướng sinh hoạt trong các
môi trường theo tinh thần phúc âm.
(3) Mỗi tín hữu có khả năng khám phá
và hoàn tất một phần ơn cứu độ của Chúa ở trần gian này. Chúng
ta sống theo tinh thần Phúc âm trong mọi hoàn cảnh của cuộc
sống, phụng thờ Chúa khắp mọi nơi bằng một đời sống thánh thiện.
Sống với Đức Tin mãnh liệt, Đức Cậy vững vàng, Đức Mến bao la,
với niềm tin tưởng tràn trề, xác tín vào một ngày mai sáng lạn,
khi nhiệm vụ ở thế trần đã mãn hạn, chúng ta được áo gấm hồi
hương – Sinh ký tử quy - về Thiên quốc hưởng phước đời đời.
Chúng ta sống trọn vẹn với ơn phúc của Chúa ban như lời của ĐGH
Gioan XIII “Ky-tô hữu là nguồn vui cho chính mình, cho Chúa và
cho nhân loại.” “The Christian is a joy – a joy to himself, to
God and a joy for other people”.
Tạm kết
Tìm kiếm, gặp gỡ và sống theo Giáo
huấn của Thiên Chúa là niềm hạnh phúc nhất trần gian. Cùng với
Chúa Ky-tô, chúng ta sẽ dấn thân vào thực tại của đời sống trần
thế. Ý thức được nhu cầu dấn thân vào trần thế và sinh hoa trái.
Sống với những tín lý căn bản để trở thành Ky-tô hữu đích thực
trong cuộc gặp gỡ riêng tư với Thiên Chúa và trong tình bạn với
anh chị em tín hữu, không phải để “một mình, mình biết một mình
mình hay” mà phải được bộc lộ ra bên ngoài thế giới là lãnh vực
đặc thù của giáo dân. Làm quen với tha nhân, kết bạn, dẫn đưa
bạn về với Thiên Chúa là sứ mệnh chung của chúng ta trong Tiến
Trình Sống Đạo vậy.
Các đạo học Nho, Thích, Lão và Thần
học... đểu là các dấu chỉ của thời đại (sign of the times) nhằm
giúp nhân loại “Tri Thiên Mệnh”, sống theo mệnh Trời để duy trì
trật tự của vũ trụ (the moral order of the universe) tức là sống
theo luật thiên nhiên (law of the nature). “Thuận Thiên giả tồn,
nghịch Thiên giả vong.” Nhân loại trải qua hằng ngàn năm vẫn
sống theo niềm tin vào huyền cơ của Trời đất mà lý trí suy lý
theo triết học hay khoa học thực nghiệm vẫn còn hữu hạn chưa
thay thế được Đức tin (faith).
Cũng có thể kiến thức triết học, khoa
học, dù tiến bộ đến đâu, cũng không bao giờ có thể thay thế đức
tin vì thế giới mà thiếu huyền cơ (mysticism), nhân loại biết
mình từ đâu đến và chết sẽ đi về đâu thì thế giới này sẽ đảo lộn
và không còn hấp dẫn nữa! Thôi thì hãy để niềm tin (faith) hướng
dẫn cuộc đời theo luật của Hoá Công vậy.
Merry Christmas, 2019
Trần Xuân Thời
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Danh sách những Bài viết của Tác giả Trần Xuân Thời
|
Hình nền: Ngàn Ánh Sao Đêm. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Trần Xuân Thời chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, December 24, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang