|
Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tạp
ghi
Chủ đề:
Vinh danh Chiến Sĩ
QLVNCH
Tác giả:
Phạm Văn Duyệt
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa sản sinh hàng vạn bậc anh hùng. Không riêng các chiến sĩ xông
pha ngoài trận mạc, mà ngay cả nữ quân nhân, những người vợ hay
con của lính cũng góp công hỗ trợ chồng cha chống lại quân thù.
Vinh danh chiến sĩ can trường mà không
nói đến Trung tá Lê Văn Ngôn (tử thủ Tống Lê Chân hơn 500 ngày),
Trung tá Nguyễn Đình Bảo (Người ở lại Charlie), Đại úy Nguyễn Văn
Đương (Anh hùng Mũ Đỏ tên Đương), Trung tá Đặng Sĩ Vinh (cả nhà 9
người tự tử ngày 30/4), Thiếu tá Thương binh Phan Ngọc Lương
(lãnh đạo Phục Quốc bị tử hình)... thì quả là một thiếu sót lớn
lao.
Xin để
quân sử bổ sung cho khiếm khuyết này được đầy đủ hơn trong mai
hậu.
Với tất
cả lòng thành, người viết bài mạo muội lược ghi vài câu chuyện
chiến sĩ can trường để cùng nhau nhớ lại những ngày chinh chiến
điêu linh.
1. ĐẠI TÁ HỒ NGỌC CẨN (1938–1975)
Cuộc đời Đại tá Cẩn được rất nhiều
người thuật lại. Dưới đây là phần tóm tắt một số bài viết đó.
* “30/4: Vinh Danh Cố
Đại tá Hồ Ngọc Cẩn”, (Phạm Phong Dinh, Nhan Quyen.com):
Tên tuổi Hồ Ngọc Cẩn đã bắt đầu lừng lẫy khi Ông còn là sĩ quan
mới ra trường phục vụ binh chủng Mũ Nâu. Chỉ trong 4 năm, Chuẩn
úy Cẩn được vinh thăng lên tới đại úy, nắm chức tiểu đoàn trưởng.
Năm 1972, Ông là chiến sĩ được tưởng thưởng nhiều huy chương hàng
đầu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với 78 chiếc, và cũng là Tỉnh
trưởng trẻ nhất nước lúc mới 34 tuổi.
Ngày 30/4/1975, Ông
cùng các chiến hữu bất chấp lệnh buông súng của Dương văn Minh,
đánh đến viên đạn cuối cùng. Vì là con chiên ngoan đạo, luật Công
Giáo không cho phép tín đồ tự tử, nên Ông đành bị bắt. Lúc sắp
hành hình, Đại tá Cẩn đã nói lời khẳng khái: “Tôi chỉ có một
mình, không mang vũ khí. Tôi không đầu hàng, các ông cứ bắn tôi
đi. Nhưng trước khi bắn, tôi xin được mặc quân phục và chào lá
quốc kỳ của tôi lần cuối”.
* “Kỷ Niệm với Đại tá Hồ Ngọc
Cẩn”,
(MX Nguyễn Đăng Hòa, dongsongcu, 18/5/2022)
Năm 69,
Đại úy Thủy Quân Lục Chiến Nguyễn Đăng Hòa đang điều trị thương
tích trên bệnh viện Đệ Thất Hạm Đội. Một hôm nằm nghĩ ngợi miên
man thì nghe ai gọi tên mình:
– Hòa ơi! Hòa!
Tôi
quay lại và ngạc nhiên thấy Cẩn, người bạn cùng học thiếu sinh
quân và khóa sĩ quan năm nào. Sau đó tôi và Cẩn tham dự lớp Chỉ
Huy Tham Mưu. Rất thân tình, hai chúng tôi có thể nói là kỳ phùng
địch thủ về uống rượu. Gặp nhau, lúc nào cũng hai chai trở lên mà
chưa say, nhất là khi hay tin một thằng bạn vừa gục ngã.
Uống rượu mà không say thì nào hay
Uống rượu mà không say thì
nào mê
Xin mời anh nâng ly cùng tôi
Nào ta cùng uống
Ta tìm về bên ly rượu cay
Men nồng rượu ta quay cuồng say
Tâm hồn ta bay theo trời mây
Uống vui đêm này.
(Tác
giả: Giao Tiên – Y Vũ)
Đang học ở Đà Lạt, một bữa cả hai
được thằng bạn giới thiệu với vị thương gia Bảo Vinh rất có tiếng
tăm vùng Chợ Lớn. Ông cùng cô con gái tên Hương đến mời chúng tôi
đi ăn cơm chiều. Từ đó cứ mỗi cuối tuần là Cẩn và tôi hay hồi hộp
chờ điện thoại của Thu Hương. Nhận điện thoại thì mừng, nhưng đôi
khi cũng ú tim vì sạch nhẵn không còn một đồng dính túi. Chả lẽ
đi chơi với người đẹp lại để cho họ đài thọ?
Đêm Noel 69,
chúng tôi rơi vào tình cảnh ấy. Tôi lúng túng không biết tháo gỡ
bằng cách nào. Riêng Cẩn vẫn ung dung chọn bộ đồ thật đẹp, cạo
râu chải tóc cho đáng câu “mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”,
rồi đề nghị:
– Chúng mình đi sớm một chút nghe Hòa.
Thay vì trả lời, tôi chỉ vào cái túi quần lộn ngược. Cẩn cười
bảo:
– Yên chí lớn ông bạn!
Ra đến chợ Hòa Bình,
Cẩn ghé vào tiệm vàng. Một cô bé thật xinh cúi chào.
–
Thưa hai ông muốn mua gì?
– Tôi muốn bán cái này. Vừa nói
vừa chỉ vào cổ áo. Chiếc lon thiếu tá lấp lánh dưới ánh đèn đêm
làm nó càng rực rỡ thêm. Cô bé tưởng Cẩn trêu chọc mình nên chạy
vào gọi mẹ. Bà cụ ra chào và nói đùa:
– Bộ Thiếu tá muốn
tôi đóng cửa tiệm hay sao mà dám mua tới thiếu tá?
Cẩn vừa
cởi lon vừa nói:
– Xin lỗi cụ. Hôm nay kẹt quá phải nhờ
đến nó. Đây là vàng thật do Mẹ tôi tặng khi vừa được vinh thăng.
Cẩn bẻ đôi cặp lon, phần hoa mai bạc cho vào cái túi, và bán hai
cái đế đáng giá một lượng vàng. Nhờ vậy mà chúng tôi có đêm Noel
tràn ngập tiếng cười, quên đi cái xót xa “bán lon nuôi miệng!”.
Sau mùa hè đỏ lửa 1972, Cẩn đã là Tỉnh trưởng Chương Thiện, nơi
mà địa hình với muôn ngàn kinh rạch chằng chịt. Có viên Quận
trưởng, cứ mỗi chiều là gọi về tỉnh xin phản pháo vì bị pháo kích
hoặc tấn công. Một hôm được báo cáo thiệt hại kho xăng và kho
lương thực. Cẩn tức tốc lên đường xem xét sự tình.
Gặp
Cẩn, Ngài Quận qrưởng như từ cung trăng rơi xuống. Đâu ngờ giờ
này khuya khoắt tối tăm mà Ông Tỉnh dám đi đến với xe jeep không
có hộ tống, cũng chẳng cho đơn vị mở đường. Quan quận đang đu đưa
trên ghế xích đu nhắm Martell, máy truyền tin được kéo đến tận
chỗ nằm, bên cạnh là người đẹp tận tình phục vụ.
Cẩn đi
thẳng xuống trung tâm hành quân của quận, vừa nhìn bản đồ vừa ra
lệnh: Tôi muốn những ấp loại C sau 3 tháng được nâng lên loại B
và những ấp loại B được nâng lên loại A (xếp loại theo tình hình
an ninh).
Từ đó, Ngài Quận trưởng làm việc trối chết. Đúng
3 tháng sau, Cẩn trở lại ngủ đêm với Ông ở một số ấp do Cẩn chỉ
định. Kết quả đúng như lời yêu cầu. Và cặp lon mới dành cho công
lao của Ông quận.
* “Viết về Một Người Bạn Thân”,
(Trần
Đại Sỹ, nguyentin.tripod.com):
Năm 1966, tôi tới phi
trường Vĩnh Lợi bằng phi cơ Caribou của Mỹ, đi theo Tiểu đoàn 42
Biệt Động Quân, với Tiểu đoàn trưởng là Thiếu tá Lưu Trọng Kiệt,
và tiểu đoàn phó là Trung úy Hồ Ngọc Cẩn. 400 quân được trực
thăng vận vào trận địa. Họ vừa bắn vừa xung phong. Tôi đứng cạnh
Cẩn trên mô đất. Trực thăng võ trang nã rocket, đại liên. Cả tiểu
đoàn reo lên như sóng biển, người người rời chỗ nằm lao vào làng.
Mười phút sau, tiếng súng im bặt. Đến lượt tôi hành nghề. Những
binh sĩ bị thương nặng được băng bó, cầm máu, rồi tải về quân y
viện, nhưng họ xin ở lại, từ chối rời xa đơn vị. Tôi hỏi Cẩn:
– Cứ tưởng thương binh được về quân y viện chữa trị, an
dưỡng, hẳn họ mong ước mới phải. Vậy tại sao họ không chịu đi?
– Bọn cọp nhà này vẫn vậy. Chúng tôi sống bên nhau, kề cận
cái chết cùng nhau, thì xa nhau là điều buồn khổ vô cùng. Đấy,
thương tích như thế đấy, lát nữa anh sẽ thấy chúng chống gậy đi
chơi nhông nhông ngoài phố, coi như bị kiến cắn.
Tôi lội
một vòng thăm trận địa, hơn 200 xác chết, mặc áo bà ba đen, quần
đùi, gương mặt còn non choẹt, đa số tuổi 15–20. Cái nằm vắt vẻo
trên bờ kinh, cái cháy đen hoặc mất đầu.
Sau trận này, Cẩn
lên đại úy. Rồi Mậu Thân thăng thiếu tá. Thời gian ấy tôi bắt đầu
viết lịch sử tiểu thuyết, nên đọc rất kỹ Lục thao, Tam lược, Tôn
Ngô binh pháp, cùng binh thư của các danh tướng Đức, Pháp. Tôi
dùng kiến thức quân sự trong sách vở để đánh giá những trận chiến
của Cẩn từ năm 66, mới bật ngửa ra rằng, Cẩn không hề đọc, cũng
chưa từng học ở trường sĩ quan những binh pháp đó, mà sao từ cung
cách chỉ huy hay hành xử với cấp dưới, cấp trên, nhất là những
trận đánh bàng bạc như lý thuyết trong thư tịch cũ?
Lần
cuối gặp Cẩn vào mùa hè 74, tôi hỏi:
– Anh từng là trung
đoàn trưởng, bây giờ là tỉnh trưởng. Anh có nghĩ sau này sẽ làm
sư [đoàn] trưởng không?
– Tôi lặn lội suốt 14 năm qua,
chưa mỏi gối chồn chân, nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy
trung đoàn là cao lắm rồi. Người phải biết liêm sỉ chứ, coi sư
đoàn sao được.
– Thế anh nghĩ sau này anh sẽ làm gì?
– Làm tỉnh trưởng bất quá 1, 2 năm rồi tôi phải ra đi, cho
đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi trường thiếu
sinh quân hoặc các lớp huấn luyện đại đội trưởng, tiểu đoàn
trưởng, đem kinh nghiệm thu nhặt được dạy đàn em. Tôi sẽ thuật
trước sau hơn 300 trận đánh từng trải qua, nhờ anh viết lại.
Về sau, tôi được hai người chứng kể vụ xử tử Cẩn:
–
Trung tá Bùi Văn Địch, hiện ở Berlin, đã sống với Cẩn 2 năm tại
trường thiếu sinh quân.
– Vũ Thị Quỳnh Chi, phu nhân Trung
tá Bác sĩ Bodoret, em ruột thiếu sinh quân Vũ Tiến Quang, người
nạp đạn cho Cẩn sử dụng khẩu đại liên 30 trong trận tử thủ cuối
cùng.
Bắt được Cẩn, việt cộng hỏi anh có chịu nhận tội
không?
Cẩn cười nhạt: “Nếu tôi thắng cuộc chiến, tôi sẽ
không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm
nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi chiến đấu cho tự do
của người dân. Tôi có công mà không có tội. Các anh muốn giết
tôi, cứ giết đi. Nhưng xin đừng bịt mắt”.
Sau khi Cẩn bị
bắn chết, dân chúng hiện diện khóc ròng. Trời đang nắng chói
chang, tự nhiên sấm chớp ầm ầm làm rung động không gian. Rồi trận
mưa như thác đổ trút xuống. Dân chúng nghĩ rằng Trời xót thương
cho số phận người anh hùng.
Hai mươi mốt năm qua, đúng 12 giờ
trưa ngày 30 tháng Tư, dù ở bất cứ nơi nào, tôi cũng mua bó hoa,
đèn cầy, vào Nhà Thờ đốt nến, đặt hoa dưới Tượng Đức Mẹ, và cầu
xin cho linh hồn Cẩn được an bình trong vòng tay Người.
*
“Vài kỷ niệm về Đại tá Hồ Ngọc Cẩn”, Hồi ký của Hoài Ziang Duy,
(sd9bb.tripod.com):
... Còn nhớ những ngày làm sĩ quan
hành quân bên anh. Mỗi lần chạm lớn, anh gọi máy bảo tôi và Thiếu
tá Thảo, tiểu đoàn trưởng pháo binh chuẩn bị, anh bay về bốc cùng
đi với anh. Có những chiều đóng quân, bắc võng bên nhau, lúc lội
theo tiểu đoàn, anh kể cho tôi nghe chuyện tình ái, những cánh
thư tình giao tôi cất giữ. 33 tuổi, đại tá đặc cách do chiến công
An Lộc, 43 huy chương anh dũng bội tinh với nhành dương liễu và
một Bảo Quốc Huân Chương đủ bảo đảm về con người anh trong quân
lực.
Cái chết của anh làm tôi chợt nhớ. Có lần sau khi coi
tử vi, anh nói khôi hài: Thiếu tá Điền bảo tao không lên tướng,
mầy tin không? Cứ thử nghĩ, nếu bây giờ tao ngã xuống, thì làm
sao không có Cố Chuẩn Tướng. Câu nói đùa và lời đoán số, đâu ngờ
là thật sau này. Mấy ai nghĩ một ngày quân đội không còn.
* “Anh Hồ Ngọc Cẩn”,
(Nguyễn Văn Khậy, Đặc San Võ Khoa Thủ Đức số
7, năm 2000):
Những ngày tòng sự trong binh chủng Biệt
Động Quân, anh Cẩn tham dự hầu hết các trận đánh lớn nhỏ ở miền
Tây, đơn vị anh ráo riết truy tìm và diệt địch. Một thời gây
khiếp đảm cho giặc. Uy danh Đại úy Cẩn, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn
42 BĐQ “Cọp Ba Đầu Rằn” vang lừng một thuở. Sau đó, anh nắm chức
Tiểu Đoàn Trưởng, đánh trận để đời, tiêu diệt tiểu đoàn 514 Cơ
Động tại Mỹ Tho, hạ 320 tên, bắt sống 176. Chính chiến công này
mà anh được Tổng thống Johnson tưởng thưởng huy chương và Thống
tướng Westmoreland thay mặt trao tặng.
Đại tá Cẩn bị xử
bắn cùng ngày với Trung tá Võ Văn Đường (Trưởng ty Cảnh Sát) và
Đại úy Phạm Văn Bé (Đại Đội Trưởng Trinh sát). Quân sử Việt Nam
Cộng Hòa hơn 20 năm ghi nhận biết bao vị anh hùng. Tại miền Tây,
không thiếu những bậc anh hào lưu danh muôn thuở.
*
“14/8/1975, Ngày Cuối Cùng của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn”,
(Nguyễn Đỗ
Thu Vi, bienxua.wordpress.com):
Mới 3 giờ sáng, mỗi nhà
một người tập họp tại văn phòng khóm. Người ta đoán lờ mờ có lẽ
mít tinh như mấy lần trước, cũng đến rồi đi, cũng phải cùng nhau
la to: “hoan hô, đá đảo”...
Với những thân người uể oải,
gương mặt buồn rầu lo âu, những đôi mắt ngơ ngác, trắng bạch vì
mất ngủ, những mái đầu bù rối không chải gỡ vì muốn tránh sự dòm
ngó của bọn đầu trâu mặt ngựa, thấy mình sạch sẽ tươm tất dễ bị
chúng theo dõi, căm thù, ghen ghét, rồi bị tù, trù dập, tịch thu
nhà cửa như chơi.
Thành phố Cần Thơ còn ngái ngủ, đêm chưa
tàn, cảnh thu còn ảm đạm. Đó đây như rên rỉ, oán than. Đoàn người
đi vào sân vận động. Nhiều cán bộ tay cầm súng lăm le tỏ vẻ quan
trọng lắm. Cảm giác lạ đến với tôi như có điều gì báo trước, tôi
rùng mình ớn lạnh. Mọi người nhìn nhau lo sợ, đợi chờ...
9:30g, 4 quân xa chở đầy ắp bộ đội, thằng nào cũng đằng đằng
sát khí. Có tiếng xì xào, hình như xử án? Mà xử ai vậy?
Một
cán ngố lớn tiếng ra cái điều sành sỏi:
– Hôm nay cách
mạng lập tòa án nhân dân xử mấy tên “phản động”.
Nhiều xe
jeep nối đuôi nhau, giữa là một chiếc bít bùng. Bọn cộng sản chạy
đến sau xe này, cửa được mở ra, từ trên xe nhảy xuống 1, 2 rồi
3... người nào cũng bị còng quặt ra sau lưng. Tôi nhìn kỹ hơn,
một hình ảnh cao lớn, mặc bà ba đen, trông có nét gì quen quen.
– Trời ơi! Đại tá Cẩn!!!
Tôi nức nở nghẹn ngào. Mắt mờ
dần, đầu quay quắt, tay lạnh buốt, chân run, mặt mày choáng
váng...
Chồng nón cối để trên bàn, 5 tên cán cộm răng hô
ngồi đó. Chúa ơi! Tôi sợ quá!
Cả rừng người im lặng. Không
khí nặng nề nghẹt thở, nhiều tiếng thở nhanh, dồn dập theo sau
giọng nói của tên cán bộ xử án: “Tử hình”.
Từ ánh mắt như
nhìn vào cõi mênh mông, Đại tá Cẩn không một chút sợ hãi, đứng
hiên ngang sẵn sàng chờ cái chết. Bọn chúng gượng hỏi: “Anh muốn
nói gì không? Để tỏ lượng khoan hồng, nhân dân cho phép anh nói
lời sau cùng”.
Tôi nghe rõ Đại tá nói thật to, giọng khẳng
khái của người sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa: “Cảm ơn các
anh. Tôi nhận lãnh cái chết này. Lời yêu cầu cuối của tôi là cho
tôi nhận lá cờ quốc gia tôi và xin được phủ lên nắp quan tài khi
tôi nằm xuống”. Tiếp theo, Đại tá hô to:
– “Việt Nam Cộng
Hòa Muôn Năm. Đả Đảo Cộng Sản”.
Theo Việt Báo ngày
5/8/2010, một vị chân tu Phật Giáo đã âm thầm đưa hài cốt Đại tá
Cẩn qua Mỹ cải táng để Ông gần gũi gia đình, vợ và con cháu đang
sống ẩn dật tại California. Tên Đại tá được đặt cho một con đường
ở khu Bellaire, Houston, Texas.
2. TRUNG TÁ TRẦN NGỌC HUẾ
(1942)
Trung tá Huế được cả Việt Nam Cộng Hòa lẫn Hoa
Kỳ ca tụng như người anh hùng trong suốt cuộc chiến bảo vệ tự do.
Dưới đây là trang sử oanh liệt mà bản thân Ông đã dốc lòng cống
hiến cho quê hương, đồng bào và đồng minh.
* “Trần Ngọc
Huế, Chiến Binh Anh Dũng và Trung Thành với Tổ Quốc”
(batkhuat.net):
Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ James Webb nói rằng:
Harry Trần Ngọc Huế là một chiến binh lỗi lạc và Ông đã phải trả
giá đắt cho sự trung thành với Tổ Quốc mình trong cuộc chiến Việt
Nam.
Nhiều chiến sĩ Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến Mỹ gọi
Trần Ngọc Huế là “Hero of the Heroes”
(Anh Hùng của những Anh
Hùng).
Tướng cao to, khỏe mạnh, bàn tay trái chỉ còn hai
ngón nguyên vẹn, vài vết sẹo trên khuôn mặt và dưới cằm, ít ai
ngờ rằng, con người này đã từng vào sinh ra tử biết bao lần, nhất
là cuộc chiến lấy lại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh và Đại Nội Huế
vào Tết Mậu Thân.
Vì những hành động dũng cảm của mình,
Ông đã được Hoa Kỳ tặng thưởng Huy Chương Ngôi Sao Bạc và Huy
Chương Ngôi Sao Đồng. Ngoài ra, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trao
tặng Ông Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
Xin hãy nghe
Ông kể trận Mậu Thân:
“Cộng sản gian manh ở chỗ, những
ngày Tết là lúc hai bên đồng thuận hưu chiến, không đánh nhau.
Quân nhân về quê ăn Tết. Chúng lợi dụng thời điểm đó để lén lút
vận chuyển vũ khí vào thành phố, ém binh, đến giao thừa thì khai
hỏa.
Lúc đó, Đại Đội Hắc Báo là Lực Lượng Phản Ứng Cấp
Thời (Fast Reaction Forces) đóng tại sân bay Thành Nội, chỉ còn
200 người. Mồng một Tết, Việt cộng tấn công Nhà Đèn, Thiết Đoàn
7, Phú Văn Lâu, Tòa Hành Chánh và Bộ Tư Lệnh. Sau khi bố trí
quân, tôi về nhà nghỉ. Thấy pháo dữ quá, tôi trở dậy mặc đồ lính
quay lại đơn vị, đi phía sau quân Bắc Việt. Đến sân bay, thấy đặc
công địch đã tiếp cận bộ chỉ huy đại đội. Tuy nhiên, anh em Hắc
Báo rất thiện chiến, đã dũng cảm đánh bật đối phương. Kịp thời
cứu thoát hai lính Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đang bảo vệ sân
bay.
Sau đó, Trung tá Ngô Văn Chung, Trưởng phòng 3 Sư
Đoàn yêu cầu qua giải cứu Bộ Tư Lệnh. ‘Đây là lệnh của Mặt Trời
(Tướng Trưởng), nếu không thi hành sẽ bị đưa ra Tòa Án Mặt Trận’.
Gấp rút ổn định tình hình, tôi ban lệnh hành quân, nói với
anh em: một nửa đại đội phòng thủ phía Nam Sông Hương đã chiến
đấu đến viên đạn cuối cùng và tôi mất liên lạc. Nay Bộ Tư Lệnh
đang bị bao vây, tình thế thập tử nhất sinh, tất cả trông cậy vào
Hắc Báo. Vì sự sống còn của anh em và gia đình, của đồng bào và
thành phố, chúng ta quyết phải đánh với bất cứ giá nào. Binh sĩ
dưới quyền đồng loạt hô to: ‘Xin thề! Xin thề!’, ‘Huế ơi! Có
chúng tôi đây!’.
Nhờ sinh trưởng ở Huế, rất rành đường đi
nước bước, tôi dễ dàng dẫn quân luồn lách qua các ngõ ngách, đến
nơi mà địch hoàn toàn không biết.
Khi đứng bên này Cầu
Kho, tôi thấy bên kia cầu, gần cổng chính vào Bộ Tư Lệnh, địch
đang lúc nhúc đào công sự. Ở trong không thể nào ra được. Ngoài
binh sĩ Cộng Hòa, còn có một số cố vấn Mỹ. Nếu Bộ Tư Lệnh bị
chiếm, ta coi như rắn mất đầu.
Tôi cho bố trí 3 khẩu đại
liên bắn trực xạ khiến cộng quân rối loạn, quăng lựu đạn khói làm
địch không thấy đường. Sau khi hy sinh một tiểu đội, chúng tôi
chiếm lại cầu, mở đường vào bên trong Bộ Tư Lệnh.
Trung tá
Cẩm, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn, chỉ dẫn những nơi việt cộng ẩn núp,
tôi bảo anh em tung lựu đạn, giết và bắt sống một số tù binh.
Sau khi chiếm cửa hậu Đồn Mang Cá, thoáng thấy quân địch bò
lê bò càng theo bờ thành. Tôi cho các khẩu đại liên quạt vào,
cuộc chiến kết thúc sau 3 giờ”.
Trung sĩ Thái Quang Tỵ,
từng tham gia trận lấy lại Bộ Tư Lệnh cho biết: “Anh Huế là cấp
chỉ huy tài giỏi và mưu lược, lúc ở đơn vị anh, Hắc Báo đánh đâu
thắng đó. Chưa thua bận nào. Ở mỗi trận, anh đều quan sát địa
hình trước khi giàn quân. Các chỉ huy khác thường xua binh sĩ đi
trước, riêng anh lúc nào cũng theo sát họ. Vì vậy mà tinh thần
anh em hăng say”.
Về sau, khi chỉ huy Tiểu đoàn 2/2 Bộ
Binh, Trung tá Huế tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 vào tháng
3/1971, với nhiệm vụ đột kích bằng trực thăng vận vào mục tiêu
chiến lược Tchepone.
Vừa giải vây cho tiểu đoàn bạn, tiểu
đoàn ông lại bị bao vây. Ông kể: lúc đó pháo bắn vào dữ quá, tôi
chấn thương nặng nơi mặt, đầu, cổ. Ban chỉ huy ra lệnh mở đường
máu rút lui. Anh em đòi khiêng nhưng tôi không chịu, không muốn
ai bị thiệt hại vì mang tôi đi.
Bọn Việt cộng dẫn tôi đến
Vĩnh Linh rồi đưa lên xe lửa ra Hà Nội. Chúng chiêu dụ tôi nhiều
lần không thành. Đành đem nhốt vào Hoả Lò và nhiều trại giam
khác. 13 năm sau mới được thả về.
* “Cựu Trung tá Trần
Ngọc Huế, Người Hùng Thầm Lặng”,
(Người Việt, 27/4/2016):
Từ 22–24/5/2016, Trung tá Huế đến the Lowell Miken Centre for the
Unsung Heroes (Kansas) để phát biểu nhân dịp khánh thành Phòng
Triển Lãm Những Người Hùng Thầm Lặng, nơi tôn vinh Ông.
Phóng Viên Quốc Dũng (Người Việt) có cuộc phỏng vấn:
– Xin
Ông chia sẻ cảm xúc khi được vinh danh là “Người Hùng Thầm Lặng”.
– Tôi rất cảm ơn những người Mỹ trẻ, đặc biệt là thế hệ thứ 3
sau chiến tranh. Cảm ơn 2 Cô Nữ Sinh Hailey và Andrea dưới sự
hướng dẫn của Cô giáo Sử đã thu thập thông tin và dựng tài liệu
về tôi.
– Ông có biết vì sao họ chọn Ông?
– Cô
Susan có người chú là phi công tử thương trên chiến trường Việt
Nam. Vì vậy khi đọc tác phẩm của Giáo Sư Wiest, Cô đã liên lạc
với tôi để tìm kiếm những người có thành tích phi thường nhưng
không được thừa nhận công khai, nhằm phổ biến những câu chuyện
lịch sử đó đến người khác.
– Ông nhận xét cuốn phim tài
liệu như thế nào?
– Hai Cô nữ sinh làm cuốn phim về cuộc
đời binh nghiệp, cùng những năm tháng tù đày của tôi làm tôi rất
hãnh diện, tự hào vì đã có một sự ghi nhận cho thế hệ hôm nay và
mai sau nhớ đến. Tuy nhiên, Người xứng đáng được vinh danh nhất
phải là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một quân lực bất hạnh, hy
sinh rất nhiều, chiến đấu rất anh dũng, nhưng cuối cùng đã bị
lãng quên.
* Ý Kiến Nhà Văn Huy Phương về cuốn sách
Vietnam’s Forgotten Army – Heroism and Betrayal in the ARVN:
Anh hùng là Trung tá Trần Ngọc Huế. Kẻ bội phản là Trung tá
Đính, Trung đoàn trưởng Trung Đoàn 56, Sư Đoàn 3 Bộ Binh. Cuối
tháng 4/1972, tại căn cứ Carroll, Đính đầu hàng giặc, lên đài
phát thanh Hà Nội kêu gọi các chiến hữu buông súng theo “cách
mạng”, đeo cấp bậc trung tá Việt cộng, làm quản giáo trại tù.
Sau 1975, dù miền Nam đã bị cưỡng chiếm, dân chúng Huế và hầu
như cả nước đều nhìn ông ta với đôi mắt ghẻ lạnh, miệt thị, khinh
rẻ, bạn bè xa lánh, danh dự bị mai một.
* Ghi nhận của các
cố vấn Mỹ
(Quốc Dũng, Người Việt):
– Đại úy Wiseman: là
bạn thân với Huế lúc cùng phục vụ Tiểu đoàn 2/2. Ba lần bị
thương. Rất cảm kích tinh thần chiến đấu của Huế.
Sau 1975,
không biết bạn sống chết ra sao, Ông cầm tấm hình Huế đi khắp
vùng Thủ Đô Washington, D.C. đưa cho những người tị nạn Việt Nam
xem, nhưng không ai biết. Mãi về sau mới có người xác nhận Huế
sống ở Sài Gòn.
Wiseman mừng quá, tức tốc tìm cách liên
lạc, gởi cho Huế thư ngắn và trợ giúp 100 dollars hàng tháng.
“Harry, tôi biết anh còn sống. Tôi sẽ tìm mọi cách đưa anh sang
Mỹ. Còn nếu anh muốn ở lại, tôi sẽ gởi tiền về giúp”. Khi đến Mỹ,
chính Wiseman đón Huế ở phi trường, rồi lo mướn nhà và mua sắm
những vật dụng cần thiết.
Nghe Huế tới Mỹ, nhiều cố vấn,
bạn bè, coi Huế như anh em ruột, gọi điện thoại và ghé thăm tới
tấp. Ai cũng muốn giúp Ông ổn định cuộc sống mới.
Dù ở
hoàn cảnh nào, Huế luôn giữ khí tiết và danh dự của người lính
Việt Nam Cộng Hòa. Vì thế mà Ông được nhiều người kính nể.
– Devereaux, cố vấn cũ, từng bị thương với Wiseman và Huế năm
70 cho biết: “Gặp Harry lần đầu, tôi nghĩ ngay Ông ta là một sĩ
quan chuyên nghiệp, một người mà khi ra lệnh tôi sẽ theo ngay,
không thắc mắc. Harry làm tôi cảm thấy mình là thành viên trong
gia đinh quân đội của Ông. Những gì Ông làm giúp tôi hoàn thành
nhiệm vụ dễ dàng. Nếu phải viết một câu về Harry, tôi sẽ viết:
Harry là một anh hùng, tôi coi Ông như cùng huyết thống và thực
sự kính nể Ông.”
– Weyand, cố vấn Đại Đội Hắc Báo từ năm
67–69: Harry là người dấn thân nhất cho cuộc chiến. Cách chỉ huy,
sự trung thành và lòng can đảm của Ông khiến tôi tự hào khi được
làm việc chung trong 2 năm trời.
– Bolt, Trung tướng hồi
hưu thì nhận xét: Trong một trận đánh tại phía Nam thành phổ Huế
cuối 1968, chính Harry đã cõng Weyand ra sau khi bị thương. Harry
quả thực vô cùng can đảm. Ông là người yêu nước và hy sinh nhiều
nhất cho đất nước Ông mà tôi được biết.
* Buổi lễ trao
Silver Star
(vietmania.blogspot.com, 28/5/2008):
Hôm 25/5,
một ngày trước Lễ Chiến Sĩ Trận Vong, Sư Đoàn 101 Nhảy Dù đã thu
nhận Trần Ngọc Huế làm hội viên danh dự của một trong những Tổng
Hội Cựu Chiến Binh nổi tiếng nhất quân đội Mỹ. Buổi lễ tiến hành
tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington. Ông Hailey, Chủ Tịch Chi Hội
Washington, D.C. phát biểu: Cựu Trung tá Harry từng tham gia
nhiều cuộc hành quân với Sư Đoàn 101. Sự phối hợp giữa hai đơn vị
đã đem lại thành công mỹ mãn, đặc biệt là nỗ lực tái chiếm Huế
sau Tết Mậu Thân.
Một cựu chiến binh của Sư Đoàn 101 đến
từ Cali, đã ôm chặt Huế: “Những ngày ấy, hơn 40 năm trước, tên
tuổi vị này đã được lan truyền rộng rãi trong các đơn vị Sư Đoàn
Dù. Mọi người đều biết rõ sự can trường của Trung tá Huế. Khi tin
tức loan đi cho hay Ông được trao Huy Chương Silver Star từ chính
tay Đại tướng Creighton Abrams, những quan khách kinh ngạc thốt
lên: ‘Thật là tuyệt vời, một người Việt Nam được trao Huy Chương
Silver Star của quân đội Hoa Kỳ!’”.
Ông Huế nhớ nhất là
hai trận đánh khi đơn vị Ông được tăng phái cho Sư Đoàn 101 tại
Phước Yên, vào giai đoạn 2 chiến cuộc Mậu Thân. Lúc ấy Đại Đội
Hắc Báo phát hiện Tiểu Đoàn Bắc Việt đang ém sâu trong làng.
Trung tá Huế kể lại: “chúng tôi tấn công, còn Sư
[đoàn] 101 bao
vây, 2 ngày chiến đấu, bắt sống 112 tù binh, xóa số Tiểu đoàn 9.
Cuộc hành quân này sau đó trở thành một trận mẫu cho Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh trong những tình huống dùng lực
lượng nhỏ, cấp đại đội, để phát hiện tiểu đoàn địch, rồi dùng hỏa
lực và bao vây tiêu diệt.”
Người từng chiến đấu trong
chiến dịch Mậu Thân, Chủ Tịch Tổng Hội Cựu Chiến Binh Sư Đoàn 101
nhấn mạnh: “Chúng tôi nhận thấy điều đúng đắn nhất là phải trao
vinh dự này đến Trung tá Huế. Chúng tôi chỉ có một số rất ít
thành viên danh dự được kết nạp. Chúng tôi chọn Ông để vinh danh
những công trạng của Ông cho Sư Đoàn Dù”.
* Giải Cứu Huế
Tết Mậu Thân (18)
(thantrinhomhue.com, 25.1.20), Triệu Phong
chuyển ngữ:
Thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến Thompson không
ngớt ngợi khen: “Đại úy Huế là một quân nhân tuyệt diệu, kể cả cố
vấn Coolican. Cả hai đều hết sẩy”.
“Huế là một nhân vật
truyền kỳ. Nếu cần tìm một người đáng được khen thưởng công lao
đã ngăn cản địch quân khỏi tràn ngập toàn bộ Thành Nội thì phải
nói đó là Huế, người thanh niên 26 tuổi năng động và quả cảm. Năm
67, anh nắm quyền chỉ huy Đại Đội Hắc Báo lừng danh. Cao to hơn
mọi người Việt khác, anh có khuôn mặt tròn trịa khiến nụ cười
càng nổi bật thêm. Đằng sau nụ cười ấy lại bẩm sinh một nhà chỉ
huy quân sự lỗi lạc. Huế là khuôn mặt quen thuộc đối với Thủy
Quân Lục Chiến Mỹ ở cả vùng Phi Quân Sự lẫn Phú Bài. Nhờ tính
tình cởi mở và óc khôi hài, nên anh dễ dàng chinh phục cảm tình
của quân nhân Mỹ. Hắc Báo có phù hiệu riêng là hình con báo đang
nhe nanh mà họ mang trên túi áo. Họ là chuyên viên về hành quân
lưu động bằng không vận và được huấn luyện để có thể xuất quân
cấp thời.”
“Vừa mới tiếp xúc với họ, lập tức tôi muốn là
thành viên của họ ngay”, Coolican nói. “Tôi phải vận động hết sức
để được về với đơn vị này vì tôi muốn phục vụ nơi nào người ta
thực sự chiến đấu. Trong thời gian làm cố vấn, tôi vẫn luôn nghĩ
mình đang ở bên cạnh những con người cừ khôi bậc nhất. Harry và
tôi cùng sát cánh làm việc chung mọi thứ. Nhìn lại đời binh
nghiệp, tôi chưa thấy nơi đâu mới thực sự là một phần gắn bó với
đơn vị như hồi tôi sống cùng Hắc Báo.”
“Các cố vấn khác
thấy Huế là người không biết sợ hãi. Anh ta vẫn bước đi bình
thường khi đột nhiên bị pháo kích mà không hề nao núng. Chưa ai
từng trông thấy anh hốt hoảng trước súng đạn.
Hắc Báo trở
thành lực lượng bảo vệ cho Bộ Tư Lệnh từ ngày đầu cuộc giao
tranh. Huế nắm toàn bộ nhiệm vụ phòng vệ Mang Cá và đã đánh bật
nhiều đợt tấn công của địch.
Sau đó, Tướng Trưởng cử Hắc
Báo đến những nơi nào cam go nhất, để gây phấn khởi thêm cho tinh
thần binh sĩ các nơi ấy. Sự hiện diện của Hắc Báo, tuy cấp số đại
đội, nhưng có giá trị tương đương một tiểu đoàn.”
Tướng
Trưởng và Huế quả là cặp bài trùng. “Tôi luôn nói với Ông Tướng
tôi muốn ra chiến đấu, chứ không muốn ngồi yên một chỗ”, Huế nói.
“Tôi luôn kính trọng Ông ta, nhưng Ông ta cũng nể tôi không kém.
Nhiều sĩ quan sợ Ông té đái nhưng Harry này thì không”.
Điều quan trọng là Huế trở thành cố vấn sáng giá của Tướng Trưởng
và cũng là người chỉ huy hành quân nhờ am hiểu địa hình thành
phố.
Hôm 14/2/1968, Hắc Báo kéo đến khu tường thành Tây
Bắc để giải cứu Tiểu đoàn 1/3 đang bị bao vây.
4 ngày sau,
họ hà hơi tiếp sức cho Thủy Quân Lục Chiến Mỹ 1/5, dưới quyền
Thiếu tá Thompson, bằng cách giữ an ninh mạn phải của đơn vị Mỹ,
dọc theo khu Đại Nội.
Ngày 22/2, họ được gởi trở lại khu
tường thành Tây Bắc, kịp thời đẩy lui cuộc tấn công của lực lượng
địch từ Khe Sanh tăng phái. Hắc Báo xóa sổ một đại đội vừa được
tung thêm vào.
Cuối ngày hôm đó, Tướng Trưởng ra tận mặt
trận thăng cấp đại úy cho Huế. Coolican còn tặng Huế lon đại úy
của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ. Vài tháng sau, Huế được mời ra Đệ
Thất Hạm Đội tham dự một buổi lễ.
Năm 1997, Thompson cùng
Huế viếng thăm Tướng Trưởng. Nhắc lại trận Mậu Thân, Thompson
nói: “Tôi vẫn thấy kỳ diệu khi quân số của Ông nhỏ nhoi như thế
mà có thể ngăn địch không chiếm được Thành Nội”.
– “Đây là
người đã cứu Thành Nội và cũng là người đã cứu mạng tôi”, Ông
Tướng chỉ tay về Huế nói.
Xin gởi Vị ân nhân của xứ Huế
lời thơ chân thành:
Là dân Huế, tên anh Trần Ngọc Huế
Sống hiên ngang trọn một kiếp trai hùng
Toàn dân thương, cả
đồng minh kính nể
Suốt cuộc đời vì đất nước thủy chung.
3. TRUNG TÁ NGUYỄN VĂN LONG (1919–1975)
Hình ảnh Người
sĩ quan Cảnh Sát nằm chết hiên ngang trước tiền đình Quốc Hội vào
trưa ngày 30/4/1975 đã ghi sâu trong tâm khảm của hằng triệu con
dân miền Nam suốt gần nửa thế kỷ đau thương. Xin hãy cùng xem lại
một phần đời của Vị anh hùng lẫm liệt này.
* Trung tá
Nguyễn Văn Long
(Nguyễn An Vinh, namkyluctinh.google.com):
Để đổi phó với tình hình rối ren của Vùng l, năm 1966 Thiếu
tướng Nguyễn Ngọc Loan được bổ nhiệm Tổng Giám Đốc cảnh sát quốc
gia. Sau đó, Ông Võ Lương nhận chức Giám Đốc Vùng, liền ra lệnh
di chuyển Nha cảnh sát từ Huế vào Đà Nẵng, cho nhân viên một
tháng thu xếp gia đình.
Phần đông kịp ổn định nhà cửa và
con cái học hành. Riêng Long lúc ấy vừa đảm trách Chủ Sự phòng An
Ninh Nội Bộ kiêm Thanh Tra, lại còn loay hoay chưa kiếm ra nơi tá
túc cho gia đình. Hết hạn, Ông chẳng thèm lo toan nữa mà thực
hiện một sáng kiến cổ kim không giống ai.
Thấy đường Duy
Tân, giữa lòng thành phố, có khoảng đất công, Ông dựng lên cái
chái lợp tôn, dựa lưng vào bức tường thành của một công sở cho vợ
con cư trú, không điện không nước.
Hai nhân viên ghé thăm,
thấy cả nhà ban đêm thắp vài ngọn đèn dầu lù mù, họ hùn tiền mua
cho Ông cái Manchon. Ông từ chối nhất định không lấy. Nói thế nào
cũng mặc, bắt họ phải trả lại.
Một hôm ngồi chung xe với
Giám Đốc lên họp Quân Đoàn, tôi kể lại câu chuyện này. Ông lắc
đầu nói:
“... Tính Long là vậy, tôi biết Chả từ lâu. Một
người rất tốt, thanh liêm, cương trực”.
Vào tuần sau tôi
ghé thăm thì đã thấy có điện nước. Hỏi ra mới rõ, trong lúc Long
đi làm, có người tới bắt cho hai bóng đèn, hai ổ cắm điện, một
vòi nước. Họ không lấy tiền. Tôi hiểu ngay là do sự can thiệp kín
đáo của Giám Đốc. Một bữa, nhân lúc vui vẻ, tôi hỏi Ông lý do
không cho Long biết việc bắt điện nước. Ông từ từ kể:
“...
Tôi biết Long từ thập niên 40 khi Giả (Anh ấy, Ông ấy) mới gia
nhập ngành an ninh. Giả nổi tiếng là siêng năng, cần mẫn, kỷ luật
và trong sạch. Lương bổng không đến nỗi tệ, nhưng do đông con,
lại chẳng màng tơ hào những bổng lộc phi nghĩa nên thời nào cũng
nghèo, suốt đời ở nhà mướn...
Giả sống rất chừng mực,
lương thiện, không có khả năng xoay xở bậy bạ. Gặp khó khăn thì
cắn răng chịu đựng, chả muốn nhờ vả ai. Điều này giải thích vì
sao tôi không nói ra người bắt điện nước cho Giả.
Là viên
chức kỳ cựu trong ngành hơn 20 năm, Long có nhiều cơ hội để khá
hơn, nhưng Giả bỏ qua hết, nên đến giờ vẫn sống eo hẹp với đồng
lương công chức. Long hành xử trách nhiệm hoàn toàn vô tư, không
thành kiến, không nghe lời xúc xiểm. Để tránh môi giới chạy chọt,
xin xỏ đút lót, Long cắm trại luôn trong sở, thật khuya mới lọc
cọc đạp xe về. Nhà luôn cửa đóng then cài, không tiếp bất cứ ai.
Năm 65, Long được bổ nhiệm Trưởng Ty Công an Đặc biệt Bến
Hải. Nhận việc chưa bao lâu, Phòng lương bổng kế toán đưa cho Giả
phong bì dày cộm. Long hỏi cái gì thì họ cho biết, đây là tiền
bán bớt xăng nhớt và văn phòng phẩm nạp cho Trưởng Ty làm mật phí
giao tế. Giả đỏ mặt, trợn mắt, đòi bỏ tù cả đám. Từ đó hết ai dám
léng phéng chuyện tiền nong lem nhem với Giả...”
Kể tới
đây, Giám Đốc cười thành tiếng và nói đùa: “Nếu Long chịu nhận
vài ba phong bì như thế thì đâu đến nỗi bây giờ phải cắm dùi
đường Duy Tân. Một Trưởng Ty mà ngày trước ngày sau đành ở bụi
thì thế gian này chỉ có Nguyễn Văn Long!
Năm 1970, tôi đổi qua
Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Đà Nẵng. Không bao lâu thì thành phố
chịu cơn bão lụt khủng khiếp chưa từng thấy trong suốt trăm năm.
Phải huy động cả giang đoàn để di tản dân cư, mới biết gia đình
Long lọt nhằm khu nguy hiểm nhất, có thể bị cuốn trôi ra biển bất
cứ lúc nào. Tôi phải điện thoại năn nỉ, Giả mới chịu vào bờ.
Hết lụt, tôi tới thăm nhà Long ở trại tạm cư hỗn độn. Tôi nói
ngay hay là Ông vô ở chung với chúng tôi. Dẫn Giả tới coi khu đất
trống sau tư dinh chỉ huy trưởng ngay trung tâm thành phố. Tôi
đưa Long qua trại cây đường Phan Đình Phùng nói bà chủ chọn giúp
một số ván tốt, hóa đơn gởi cho tôi.
Không để lâu, Long
tháo căn nhà cũ, cha con chồng vợ cả gần chục người hớn hở dựng
nhà mới, chỉ hai tuần là xong. Chờ hoài chẳng thấy trại gỗ đưa
hóa đơn, hỏi ra mới biết: vì nể lòng tôi, Long chỉ lấy ít ván gắn
vào mặt tiền coi cho được, còn lại thì mua gỗ tạp nhạp từ bãi phế
thải đường Ông Ích Khiêm, chở xe ba gác về, đóng phía trong phía
ngoài tươm tất. Tôi phải phục tính Long sòng phẳng, thật thà,
không mong mỏi lạm dụng của công.
Ở gần nhau 5 năm thì Đà
Nẵng thất thủ. Chúng tôi vào Sài Gòn rồi chia tay mỗi người một
ngã.”
* “Trung tá Nguyễn Văn Long/Sử Liệu Cảnh
Sát Quốc Gia”,
(Phan Tấn Ngưu, canhsatquocgia.org, 21/1/2010):
Suốt nhiều năm tận tụy,
Ông đã lập được bao nhiêu chiến công trong nhiệm vụ tiêu diệt
cộng sản chờ chực cướp phá xóm làng, khủng bố lương dân. Ông là
sĩ quan có năng lực chuyên môn, tài giỏi, đặc biệt là đức tính
công minh chính trực, chẳng bao giờ dựa vào chức quyền để thủ
lợi, không khoan nhượng bất cứ vi phạm pháp luật nào cho dù được
sự che chở của một thế lực, phe nhóm hoặc cấp chính quyền nào. Đó
là lý do Ông có biệt danh “Long Lý”, có nghĩa là Pháp bất vị
Thân, vị Tình. Sự thanh liêm đó được chứng minh qua cuộc sống
thanh bần của bản thân và gia đinh Ông cho đến 30/4/1975.
Tác giả Phan Tấn Ngưu ghi lại vài nhận
xét của chiến hữu Hồ Anh Triết: “... Tôi về BCH/CSQG Khu l
vào tháng 5/1971. Lúc đó Trung tá Long là Chánh Sở Tư Pháp. Do
hai lãnh vực hoàn toàn khác nhau, không thường xuyên phối hợp nên
tôi ít biết hoạt động của Long, nhưng về phương diện ‘con người’
thì tôi có những nhận định về Trung tá Long:
– Một cấp chỉ
huy rất đường hoàng, ăn nói nhỏ nhẹ nhưng không kém cương quyết.
– Đối với thượng cấp, qua các buổi họp, tôi thấy Trung tá
Long lúc nào cũng cư xử từ tốn, có sự kính trọng cấp chỉ huy.
– Anh em trong Bộ Chỉ Huy CSQG đều có thiện cảm và quý trọng.
Được như vậy không phải do Ông lớn tuổi hay vì chức vụ mà vì tư
cách và đạo đức của chính Ông. Theo tôi, một cấp chỉ huy đã phục
vụ nơi nào từ 5 năm trở lên, mà vẫn giữ được sự kính trọng của
toàn thể anh em thì người đó phải thật đàng hoàng trong tư cách.
Trung tá Long là người như vậy.
Tôi ra tù năm 1988. Mấy
tháng sau đến công viên trước trụ sở Quốc Hội để tưởng nhớ bạn
đồng nghiệp một thời. Hình ảnh Long hiện về, nước mắt tôi giàn
giụa, văng vẳng đâu đây cảnh cũ người xưa.”
Người
xưa cỡi hạc đi rồi
Còn đây lầu hạc vắng người trống không
Hạc vàng đi biệt tăm mồng
Nghìn năm mây trắng ruổi giong ngút
trời...
(Hoàng Hạc Lâu, Thôi Hiệu)
* Tác giả Nguyễn An Vinh kể về cái chết và việc
mai táng Trung tá Long:
Qua Đảo Guam mấy ngày, tôi được tin
Long tuẫn tiết. Thật bàng hoàng xúc động. Thương Ông suốt đời lận
đận và kết thúc tức tưởi thế kia.
Ở Mỹ, tôi theo dõi các
báo lớn ngoại quốc có đăng trang bìa hình Long tự sát trước Tượng
Đài TQLC, sắc phục và cấp bậc sĩ quan cảnh sát ngay ngắn chỉnh
tề, nhưng không có báo nào nói xác Long đem đi đâu. Tôi cứ nghĩ
thi thể vô thừa nhận chắc bị vùi dập ở một xó xỉnh nào.
Nhưng không. Khoảng 2 tuần sau Bà Long nhận được giấy báo vào Nhà
Thương Grall nhận xác. Nguyên do là Long có để sẵn trong túi áo
thẻ căn cước địa chỉ 37 Nguyễn Thị Giang, Đà Nẵng. Họ gởi theo
địa chỉ đó.
Ngày ấy, Đà Nẵng mất lẹ quá, Long chưa kịp
lãnh lương tháng 3 nên nhà không có tiền. Chỉ Cô Tâm, con thứ ba
đi được. Tới nơi ngày 17/5, Tâm cùng Chị tên Đào và em gái tên
Thuận đang làm việc ở Sài Gòn vào nhà thương. Tại đây, nhân viên
như được lệnh của ban giám đốc, đã dành mọi dễ dãi, chỉ vẽ tận
tình chu đáo và tỏ ra có thiện cảm đặc biệt với người chết. Họ
tắm rửa, thoa thuốc, uốn nắn, chăm sóc thi thể nhẹ nhàng, đưa
tiễn đến nghĩa trang Giáo Xứ Công Giáo Bà Quẹo với đầy đủ lễ nghi
tôn giáo. Có Linh Mục đứng làm phép xác. Tất cả hoàn toàn miễn
phí. Rõ ràng là cái chết công khai uy linh của bậc anh hùng, ngay
lập tức đã có người trân trọng. Về sau gia đình cải táng, tro cốt
ký thác tại Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế Kỳ Đồng.
* “Trung tá Nguyễn Văn Long”,
(lexuannhuan.tripod.com):
Tôi trải qua nhiều năm cùng làm việc và có lắm kỷ niệm với
anh Long. Đậm nét nhất là lần rút ra khỏi Đà Nẵng. Khoảng 11 giờ
đêm, từ đài đặc cảnh Vùng l, Trung tá Long gọi tôi. Giọng anh
khác thường: “Tôi xin mời Ông Phụ tá đến ngay để tổ chức phòng
tuyến và chỉ huy đội ngũ tử thủ cùng với chúng tôi”.
Sau
nửa đêm thì cả thành phố đổ dồn qua cầu Trịnh Minh Thế để tới bến
cảng, chạy vào Sài Gòn. Quan sát xong tình hình bên đó, len lách
trở về, thoáng dưới ánh đèn pha tôi thấy rõ hình dáng anh Long,
gác khẩu M16 ngang đùi, mặt mày đỏ gay, tức uất nhưng đầy cương
nghị, lái xe vụt qua.
Sáng 29/3, Việt
cộng pháo kích bến cảng, phi trường, tấn công thành phổ. Tôi ra
lệnh giải tán Trung Tâm Hành Quân của Đặc Cảnh Vùng l, là bộ phận
cuối cùng còn hoạt động, và cho phép nhân viên tự tìm phương tiện
thoát thân. Xế chiều, tôi mới kiếm được chiếc thúng rời bờ, liều
lĩnh trước các lằn đạn pháo kích của địch. Từ đó không còn gặp
lại anh Long.
Năm 1982, tại trại tù Thanh
Liệt, Hà Nội, nơi giam giữ các phần tử cốt cán. Đa số là cán bộ
cấp trung ương, tôi được trung tá bộ đội tên Phạm trung Linh,
tổng thư ký tổ chức đảo chính nhưng bất thành, bị bắt cùng một số
tướng tá và cán bộ cao cấp khác, xác nhận gã có trông thấy bức
ảnh chụp Trung tá Long mặc cảnh phục tươm tất nằm chết trước
Tượng Đài chiến sĩ quốc gia in trên bìa một tạp chí Hoa Kỳ, trong
kho sách báo ngoại quốc mà cán bộ cấp cao sưu tầm để nghiên cứu
những gì liên quan đến Việt Nam.
Thế là từ đó không những
tôi nguôi sầu mà còn cảm thấy lòng mình vui thỏa cho anh Long.
Báo Mỹ đăng lên thì khắp thế giới đều biết. Anh cùng những vị anh
hùng tuẫn tiết khác trong biến cố 30/4 đã nói lên được hùng hồn
và cụ thể tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam yêu chuộng tự
do trước quyền lực của cộng sản bạo tàn.
Anh Long vĩnh
biệt cõi đời giữa cảnh nước mất nhà tan, bạn bè nói riêng và đồng
bào nói chung còn bận lo tự cứu mình, lấy đâu có những vòng hoa,
những nén nhang, cùng những dòng lệ thương tiếc tiễn anh về nơi
an nghỉ cuối cùng.
* Nguyễn An Vinh ca ngợi
cái chết bất tử của Trung tá Long:
Ngày mất
nước 30/4, khi biết mọi sự đã hỏng hết, nhiều tướng lãnh, sĩ
quan, binh sĩ, cánh sát và cả nhân viên dân chính đã tự sát tại
nhiều nơi, bằng nhiều cách, cách nào cũng nói lên chí khí bất
khuất không đầu hàng giặc. Nhưng cái chết của Trung tá Long mới
được cả thể giới biết đến mau chóng, gây xúc động mạnh nhất. Long
đã chọn cách thế, giờ giấc cho cái chết oanh liệt tại một địa
điểm không thể có chỗ nào thích hợp hơn. Trước tòa nhà Quốc Hội,
dưới chân Tượng Đài Chiên Sĩ là nơi biểu tượng trái tim đang thoi
thóp của miền Nam. Khỏi cần phải luận bàn dông dài, cả thế giới
cùng công nhận Long đã bình tĩnh sửa soạn cho cái chết từng chi
tiết. Trước khi bắn vào đầu, Long đứng nghiêm, chào kính Tượng
Đài rồi khoan thai nằm xuống. Chỉ một phát súng chính xác, Long
anh dũng đền ơn nước. Cái chết của Long là một cái chết bất tử.
* “Máu Trung tá Long đã thấm xuống Lòng Đất Mẹ”,
(Duyên Anh, http://baovecovang.wordpress.com):
Chúng tôi vào trung tâm thành phố, nhiều người đang bu kín
công viên dựng tượng chiến sĩ TQLC, họng súng nhắm thẳng vào Quốc
Hội. Những chiếc loa gắn trên cây cao, oang oang giọng nói mới
chào mừng giải phóng. Cộng sản đã tiếp thu đài phát thanh. Giọng
cầy cáo của Lý quý Chung và ca khúc Nối vòng tay lớn không còn
nữa.
Chúng tôi lách đám đông dưới chân tượng, xác người
cảnh sát nằm đó. Máu ở đầu chảy ra tươi rói. Viên sĩ quan đeo lon
trung tá, đồng phục màu xanh. Nắp túi ngực in chữ Long. Cộng sản
để mặc Ông nằm gối đầu trên vũng máu. Phóng viên truyền hình Pháp
quay rất lâu cảnh này. Lúc tôi đến là 14:30g. Dân chúng đứng mặc
niệm Trung tá, lệ rơi đầm đìa, những người không khóc thì mắt đỏ
hoe, chớp nhanh. Tất cả im lặng, thây kệ các bài ca cách mạng.
Tôi muốn biểu dương Trung tá Long như Hoàng Diệu hôm nay,
Hoàng Diệu của Sài Gòn. Ông đang nằm kia. Máu Ông đã thấm xuống
lòng đất Mẹ. Cái chết của Ông nếu chưa thức tỉnh được sự u mê của
thế giới tự do thân cộng, của bọn phản chiến làm dáng, thì ít ra,
cũng biểu lộ cái khí phách người sĩ quan Việt Nam không hàng
giặc... Chúng ta hãnh diện làm người lưu vong vì chúng ta còn có
Trung tá Long không đào ngũ và biết chết cho danh dự miền Nam,
danh dự của Tổ Quốc...
Tôi được nghe “huyền sử một người
mang tên Long” do một anh bạn kể:
“... 10:30g sáng,
Dương văn Minh đọc lệnh đầu hàng. Một số quân nhân và cảnh sát
vất quân trang quân dụng, giày vớ, nón mũ, bỏ chạy về nhà. Riêng
Trung tá Long không cởi chiến bào, không phi tang tích huân
chương, không liệng súng đạn. Từ nơi nào đến, chẳng ai rõ. Ông
xuất hiện trước Hạ Viện hồi 12 giờ. Ngồi trên ghế đá, trầm ngâm
hút thuốc, nhìn trước nhìn sau, ngó ngang ngó dọc. Rồi Ông đưa
tay ôm lấy đầu. Khi ấy Sài Gòn đã ồn ào hoan hô cộng sản. Bất
chợt, Ông chậm rãi bước gần chân tượng. Trung tá Long đứng thẳng,
ngẩng mặt. Thản nhiên rút khẩu colt, kề họng súng vào thái dương
bóp cò...
– Anh có mặt ở đây trước lúc Trung tá Long xuất
hiện?
– Phải. Tôi tuyệt vọng. Không thiết về nhà nữa!
– Rồi sao?
– Dân chúng bu quanh xác Trung tá. Cộng sản
chưa có thì giờ kéo Ông đi. Trung tá Long đã lấy máu rửa vết ô
nhục 30 tháng tư.”
Trích bài thơ Trung tá Nguyễn Văn
Long của Toàn Như (Gia
đình Khóa 1 Cựu SVSQ Hiện Dịch CSQG)
Tiếng súng nổ, anh từ từ ngã xuống
Máu anh loang trên nền đá
vỉa hè
Giữa Sài Gòn hoảng hốt một cơn mê
Anh tuẫn tiết
không một lời trăng trối
Anh nằm đó, tên anh còn trên túi
Nguyễn Văn Long, anh đã chết sao anh?
Bao người dân bàng hoàng
đứng vây quanh
Kính cẩn chào anh, giờ thứ 25 lịch sử.
4. Y SĨ THIẾU TÁ NGUYỄN VĂN QUÝ (1942)
Bác sĩ Quý tốt nghiệp Y Khoa Sài Gòn năm 1967. Là con trai
duy nhất của gia đình, theo luật tổng động viên, Ông hội đủ điều
kiện miễn dịch. Nhưng mộng tang bồng hồ thỉ thúc đẩy Ông tòng
quân nhập ngũ, theo con đường “Anh Đi Chiến Dịch” của Phạm Đình
Chương:
Anh đi chiến dịch xa vời
Lòng súng nhân
đạo, Anh đi cứu người lầm than
Thương dân nghèo ruộng hoang cỏ
cháy
Thấy nỗi xót xa của kiếp đọa đày Anh đi
Không quên
lời xưa đã ước thề
Dâng cả đời trai với sa trường
Nam nhi
cổ lai chinh chiến hề
Nào ai ngại gì vì gió sương.
Bác sĩ Quý nổi danh tại chiến trường An Lộc. Gần 3 tháng chịu
đựng những đợt pháo kích và tấn công tới tấp của cộng quân, Ông
vẫn làm công việc giải phẫu cho thương binh từ các mặt trận
chuyển về. Dù thiếu thốn phương tiện, nhân viên, bệnh xá cũng như
y cụ, Ông không một chút nản chỉ ngã lòng, tận tâm hoàn thành
xuất sắc 250 ca mổ lớn nhỏ. Quân y Hoa Kỳ rất nể phục, hết lòng
khen ngợi Ông ngay trên tờ Times.
Phần dưới đây ghi lại
vài nét chính từ Nhật ký An Lộc của Ông.
* Tấn
Công Đợt 1:
Ngày 6/4/1972:
vừa mổ vừa chuẩn bị trốn vô hầm tránh đạn. Người gác cổng bệnh
viện là nạn nhân đầu tiên của mưa pháo. Tất cả chỉ còn biết tin
vào số mệnh. Trời kêu ai nấy dạ.
9/4: B52
thả bom nổ rền trời. Cửa sổ bệnh viện đập ầm ầm theo nhịp bom,
rung rinh cả bức tường. Đang mổ phải đội nón sắt, mặc áo giáp
thay áo choàng.
12/4: địch pháo gây
thương vong 7 người. Đường dây điện thoại hư hỏng.
Giao
thông bị phong tỏa. Trực thăng thả dù tiếp tế: gạo sấy, thịt hộp,
trái cây hộp, đạn dược, thuốc men.
Việt cộng mở màn tấn
công. Hai phản lực oanh kích đồi Đồng Long đang bị chiếm. M72
thụt cháy 3 xe tăng địch, cách chỗ Bác sĩ Quý 500 mét. Ông ra
đứng xem cùng nhiều người khác. Lính reo hò, tung nón sắt lên
trời, vui sướng ôm nhau nhảy vòng tròn.
Bom mình thả rất
chính xác, nổ ngay trước đầu xe tăng. Vòng trong thì có M72. Ngay
cả đào binh và địa phương quân, nhân dân tự vệ cũng hạ được những
con cua sắt này. Bác sĩ Quý đếm tổng cộng 13 chiếc bị thiêu cháy.
Phòng mổ thiếu dụng cụ, phải giản dị tới mức tối thiểu. Thiếu
điện nước, không đèn đuốc, nhờ ánh sáng mặt trời. Dụng cụ giải
phẫu được khử trùng bằng cách đốt rượu cồn hay ngâm rửa trong
nước xà phòng (surgical soap). Pháo liên hồi. Phải làm nhanh để
tìm chỗ núp. Ai cũng cố giữ vẻ ngoài bình tĩnh, sợ quá hóa lỳ.
Càng ngày Việt cộng càng pháo nhiều. Tinh thần mọi người căng
thẳng, mạng sống tính từng giờ, chết không biết lúc nào.
Phòng Hậu Giải phẫu trúng một trái 61ly. Mấy hôm mà có gần 300
xác nằm xếp lớp sân sau bệnh viện, xông mùi hôi thối, ruồi nhặng
bu đầy. Gần 10 ngày chưa được đem chôn vì phải kiếm một khu nghĩa
địa.
Đêm khuya không dám nhìn phía nhà quàn với hàng quan
tài có những ánh nến leo lét. Trông thấy là lạnh người, dựng tóc
gáy, cố rảo bước cho mau.
Khu chợ Bình Long bị cháy, khói
lan tỏa ngút trời.
Đài BBC nói nản quá. Họ bảo chỉ có phép
lạ mới cứu nổi An Lộc!
Quân Dù tăng viện. Mọi người đặt
hết tin tưởng vào binh chủng bách chiến bách thắng này.
Bác sĩ Phúc, Trưởng Ty Y Tế bật nút radio tìm đài Việt cộng. Một
giọng the thé đanh đá chua như giấm vang lên:
– Quân đội
nhân dân đang làm chủ tình hình tại thành phố An Lộc. Cờ chúng ta
bay phất phới trên nóc dinh tên tỉnh trưởng ngụy. Bình Long đã
hoàn toàn được giải phóng.
Chúng tôi chẳng muốn nghe nữa.
Họ nói toàn không đúng sự thật. Chúng tôi còn đây. Dưới khu chợ
mới đầy rẫy lính mình. Hằng chục xe tăng bị hạ ngay trước mặt mà
họ dám giở luận điệu tuyên truyền giả dối.
Một đêm Bác sĩ
Quý dời chỗ ngủ từ bệnh viện qua phòng Bác sĩ Phúc thì đạn pháo
kích rơi trúng tấm nệm ông thường nằm. Thế là thoát chết trong
gang tấc.
Thương binh nằm la liệt quanh bệnh viện. Bác sĩ
Quý cùng mấy đồng nghiệp khác xuống gặp Đại tá Lê Văn Hưng, Tư
Lệnh Sư Đoàn 5. Ông có dáng cao gầy, mặc áo lót màu cháo lòng,
quần đùi nhà binh nhàu nát, dáng mệt mỏi, da mặt hơi xanh, chắc
vì lâu không ra nắng.
Trại Ngoại Khoa hoang vắng điêu tàn,
16 phòng chỉ còn nguyên vẹn 4.
Đã một tháng chưa tắm rửa
vì không có nước. Mỗi sáng chỉ mất một nắp bi đông, tức chừng
muỗng canh để rửa miệng.
* Hội ngộ Đại tá Lê
Quang Lưỡng:
Bữa nọ, Bác sĩ Quý theo chân
Thiếu tá Duệ về phía hầm Bộ Chỉ Huy Tiểu khu lo việc chuyển bệnh
viện thì gặp Đại tá Nhựt tại nơi phòng họp chính. Đang trò chuyện
với nhau thì Vị sĩ quan Dù đi vào, dáng cao lớn không thua gì Ông
Tỉnh Trưởng.
Đại tá Nhựt giới thiệu:
– Đây là Đại
úy Quý, bác sĩ giải phẫu bệnh viện tiểu khu.
– Còn đây là
Đại tá Lưỡng, chỉ huy trưởng Lữ Đoàn Dù lên cứu mình. Vị khách
đưa tay, vồn vã bắt tay tôi, miệng mỉm cười.
Đại tá Nhựt
tiếp:
– Quý là bác sĩ của moa từ hồi còn ở Trung đoàn 43,
Sư đoàn 18. Sau khi xong khóa giải phẫu binh đoàn, Quý lại xin
lên đây làm việc với moa.
Rồi Đại tá Nhựt cười cười nói
với tôi:
– Này bác sĩ, muốn lấy vợ thì phải lo o bế Đại tá
Lưỡng đi. Ông ấy có cô con gái đẹp như Thẩm Thúy Hằng ấy.
Xong Ông quay sang Đại tá Lưỡng:
– Bác sĩ Quý này tuổi trẻ
tài cao vẫn còn độc thân. Đang kén vợ. Lê Lai của tôi đấy.
Nói rồi Ông cười khà khà có vẻ khoái chí lắm.
Giữa lúc
dầu sôi lửa bỏng mà Ông vẫn tỉnh bơ nói chuyện tếu được. Tôi hằng
thầm phục Ông có biệt tài giao tiếp với bất cứ hạng người nào, từ
sang tới hèn. Ông tỏ ra thích nghi trong mọi trường hợp.
* Tấn Công Đợt 2:
Từ ngày 15/6,
đạn pháo nổ như mưa. Một giờ sau thì B52 trải thảm. Bác sĩ Quý
cảm thấy yên tâm hơn đợt trước vì địch đã suy yếu, còn bên ta vừa
tăng cường Lữ Đoàn Dù, Liên Đoàn Biệt Kích Dù và Biệt Động Quân.
Ông vững tin phe ta sẽ thắng. Lúc này bệnh viện không còn loại
chỉ silk 1.0 để đóng bụng sau khi mổ. Ông nghĩ ngay loại dây
nylon cột miệng bao cát, có thể dùng may tạm dưới da. Muốn khử
trùng thì đem ngâm rửa sạch bằng xà bông bột quân tiếp vụ.
Bác sĩ Quý đã sử dụng loại dây này cho 4 ca mổ. Sau đó Thiếu
tá David Risch đích thân mang dây chỉ silk lên cùng với phái đoàn
Y sĩ Mỹ thuộc Quân Đoàn lll.
Bác sĩ Risch ngỏ ý: Tôi
nghĩ tôi có thể giúp bạn một tay, vì biết bạn rất bận. Vả lại, ở
Biên Hòa, các cố vấn không tin một ai đủ sức làm được những cuộc
mổ lớn ở đây. Họ đánh cá với tôi là nếu quả thật tại mặt trận
này, Quân Y vẫn còn có khả năng giải phẫu và điều hành công việc
như bình thường thì họ sẽ chịu thua một chầu ăn.
Vừa
lúc ấy Risch dẫn tới 3 người cùng đoàn. Quý cho họ hay có quân
nhân bị thương vùng bụng đang sửa soạn mổ. Một bác sĩ đề nghị cho
Ông ta phụ ca này. Rồi Quý ung dung cầm dao, đi một đường ngoạn
mục quen thuộc rất nhanh và chính xác, mổ bụng thấy có máu bầm từ
gan trào ra. Quý hút sạch máu, lấy Catgut chromic 2.0 may lại vết
thương. Ông bác sĩ phụ phải dùng tay kéo bờ sườn lên một chút và
Quý khâu xong hai mũi. Cuộc giải phẫu kết thúc chưa đầy một
tiếng. Risch chăm chú đứng xem bên cạnh tới bắt tay Quý, bày tỏ
niềm hân hoan:
– I am very proud of you! You did a
great job!
Một buổi chiều, Bác sĩ Quý gặp lại Đại tá
Nhựt tại hầm chỉ huy. Vị Tỉnh trưởng nói:
– Có thế Tổng
thống sẽ lên đây thăm mình đấy. Để tôi rán kiếm cái Bảo Quốc Huân
Chương cho bác sĩ. Công việc Ông làm tại chiến trường này ai cũng
biết. Tụi cố vấn quân đoàn đề cao Bác sĩ lắm. Họ không tiếc lời
khen ngợi. Dù sao ngoài mặt trận vẫn có bác sĩ mổ cấp cứu được
thì binh sĩ lên tinh thần mà lo đánh giặc. Bác sĩ còn nhớ mổ được
bao nhiêu ca không?
– Dạ vào khoảng 250.
* Chiến Sĩ Xuất Sắc:
Sau khi Bình Long
giải tỏa vào đầu tháng 7. Mỗi quân nhân được thăng một cấp. Trước
khi nhận nhiệm vụ ở An Lộc năm 71, Bác sĩ Quý mang lon trung úy.
Qua đến tháng 9/1972 đã vinh thăng thiếu tá. Rồi giã từ vùng tử
địa đầy ắp kỷ niệm này vào ngày 29/7 để tiếp tục ngành Y tại bệnh
viện Cộng Hòa.
Ông là sĩ quan cao cấp nhất có tên trong
danh sách 195 chiến sĩ xuất sắc tham dự Lễ Quốc Khánh 1/11/1972.
Trong dạ tiệc tại vườn Dinh Tổng Thống, bác sĩ được ngồi bàn đặc
biệt cùng các vị lãnh đạo quốc gia, bên cạnh Tổng Tham Mưu Trưởng
Cao Văn Viên. Ông hỏi Bác sĩ Quý:
– Thiếu tá thuộc đơn vị
nào?
– Thưa Đại tướng, tôi ở bệnh viện tiểu khu Bình Long.
– À, Thiếu tá là bác sĩ ở An Lộc hả?
– Thưa vâng. Tôi
tham dự trận này từ đầu tới cuối.
Quay sang Tổng Thống
Thiệu, Đại tướng nói:
– Thưa Tổng thống, Thiếu tá đây là
bác sĩ tại bệnh viện Tiểu khu Bình Long, An Lộc.
Ông Thiệu
đang nói chuyện với bà Dược sĩ Nguyễn Thị Hai liền quay sang nhìn
tôi, mỉm cười rồi nhíu mày như cố nhớ điều gì. Ông nói:
–
Tôi có lên đó. Hình như tôi không gặp bác sĩ lần ấy.
Bác
sĩ Quý thầm nghĩ Ông này hay thật. Làm đến Tổng thống chắc cũng
phải có cái tài nào đó.
Rồi vội giải thích:
– Khi
Tổng thống lên ủy lạo binh sĩ thì trùng với ngày tôi về phép nên
không được hân hạnh tiếp kiến Tổng thống. Câu trả lời ấy làm Tổng
thống thích thú. Mọi người trong bàn cùng trầm trồ nhân cơ hội
này ca ngợi trí nhớ dai của Tổng thống. Ông Thiệu cười hài lòng
và có vẻ hãnh diện về trí nhớ của mình.
Tôi nhận thấy
tiếng Ông sang sảng như tiếng chuông. Chắc là một thứ quý tướng
nên Ông mới lên chức vụ cao nhất nước. Trong buổi tiệc, Ông cũng
hay nói chuyện tiếu lâm làm mọi người vui vẻ, đỡ căng thẳng vì
ngồi gần Mặt Trời.
* Bài viết về Trận An Lộc
đăng trên báo Time:
“... Bệnh viện độc
nhất của họ đã biến thành công sự chiến đấu. Những dụng cụ không
còn được khử trùng đúng quy tắc nữa, chỉ may vết thương cũng hết
sạch. Bác sĩ Nguyễn Văn Quý giải phẫu 250 trường hợp trong 2
tháng. Ông phải dùng chỉ bao cát để khâu vết mổ...
An Lộc
kiên cường đứng vững sau những đợt tấn công nặng nề hơn tất cả
những thành thị nào trong cuộc chiến này. Ngày khủng khiếp nhất
với khoảng 7,000 trái đại bác, súng cối, hỏa tiễn rơi xuống một
khu vực có thế dễ dàng băng qua được trong 10 phút”.
* Lời thơ tưởng nhớ chiến sĩ Biệt Kích Dù
Một trong những binh chủng thiện chiến nhất được tăng viện
cho An Lộc là [Liên Đoàn 81] Biệt Kích Dù. Sau thời gian cam khổ
gian lao trong sứ mạng giải cứu Bình Long, 68 người con thương
yêu của đơn vị này đã anh dũng hy sinh. Nhiều người chạnh lòng
xót xa khi đứng trước những nấm mồ đắp lên vội vã ở khu nghĩa
trang hiu quạnh kế bên ngôi chợ thị xã.
Tại đây, Tổng
thống Thiệu từng cúi đầu cầu nguyện trước anh linh tử sĩ đã bỏ
mình trong suốt 93 ngày đêm chiến đấu bảo vệ An Lộc.
Ai
ngang qua đó mà không khỏi ngậm ngùi khi đọc hai câu thơ của Cô
giáo Pha:
An Lộc địa sử
ghi chiến tích
Biệt Kích Dù vị quốc vong thân!
5. THIẾU TÁ NGỤY VĂN THÀ (1943–1974)
Gần nửa thế kỷ trôi qua, trong tâm tư người Việt vẫn còn thương
cảm Vị Hạm Trưởng tốt nghiệp Khóa 12 Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha
Trang cùng các chiến hữu của Ông đã can đảm chết theo tàu để bảo
vệ quê hương. Oái oăm thay, ngày đó Việt cộng lại thờ ơ trước
hành động xâm lăng của bè lũ Đại Hán. Xin cùng ôn lại trang sử
Hoàng Sa để biết Việt Nam Cộng Hòa và Việt cộng, ai mới thực là
người yêu nước?
* Theo wiki, Quần Đảo Hoàng Sa là một nhóm
khoảng 30 đảo, rặng san hô, cồn cát và bãi đá ngầm ở Biển Đông,
cách đảo Lý Sơn chừng 200 hải lý. Đây là thủy đạo nối liền Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương qua Eo Biển Malacca. Hoàng Sa đóng vai
trò quan trọng về quân sự và kinh tế đối với nhiều nước quanh khu
vực Á Châu.
* “Vì sao Trung cộng đánh chiếm
Hoàng Sa?”
(Vũ Mạnh Cường, Vnexpress, 19/1/2018):
Trung cộng sử dụng vũ lực khi mà:
– Nam Việt Nam đang
mở rộng sự có mặt ở Hoàng Sa
– Các lợi ích ngày càng thấy
rõ của biển khơi, đặc biệt là dầu mỏ, sau khi thế giới đang bước
vào cuộc khủng hoảng những năm 1970. Tháng 7/73, Sài Gòn đã ký
kết hợp đồng khoan thăm dò tại những nơi được cho là có nhiều dầu
mỏ trên Biển Đông.
Tháng 12/1973, Bắc
Việt cũng tuyên bố triển vọng của các giếng dầu ngoài khơi Vịnh
Bắc bộ.
Sau cuộc gặp lịch sử giữa Mao với Nixon đầu năm
1972 và sự kiện Mỹ rút khỏi Miền Nam sau Hiệp Định Paris đầu
1973, Bắc Kinh an tâm, loại trừ được khả năng can thiệp của Mỹ
nếu họ cưỡng chiếm các đảo do Việt Nam Cộng Hòa quản lý.
* “Bối Cảnh và Diễn Tiến Hải Chiến Hoàng Sa”,
(nghiencuuquocte.org).
Nguồn: Carl. 0. Schuster, “Battle
for Paracel Islands”, Historynet, 6/2017.
Biên dịch Lê Đỗ Huy, Hiệu đính Lê Hồng Hiệp
Hai biến chuyển trong tình
hình những năm 1970 đã thay đổi bàn cờ Biển Đông: các báo cáo trữ
lượng dầu tại thềm lục địa vùng này và Hiệp Định Paris lập lại
hòa bình, chấm dứt sự dính líu của Mỹ ở Việt Nam. Phe Mao tính
toán rằng những phần thưởng về kinh tế lớn hơn những rủi ro do
xung đột quân sự. Mao nhận thấy một chính phủ Mỹ đang rút khỏi
Việt Nam sẽ thiếu ý chí dấn thân vào cuộc xung đột khác, lại
trông mong Trung cộng hỗ trợ chống Liên Xô đang ngày càng thách
thức hơn. Mao kết luận rằng phía Sài Gòn khó có khả năng được Mỹ
hậu thuẫn, và sự sống còn của họ cũng không còn bao lâu nữa. Mao
cũng hiểu rằng Bắc Việt rất cần viện trợ Trung cộng trong cuộc
chiến ở miền Nam, đồng thời đồng minh khác của Hà Nội là Liên Xô
không có lực lượng trên địa bàn này để cản phá. Từ đó Ông ta ra
lệnh cưỡng chiếm Hoàng Sa.
* “Yểm Trợ Trận
chiến Hoàng Sa” (Cát Biển Nguyễn Văn Sang, Khóa 20 SQHQ Nha
Trang):
Trước đó 3 tháng, đột nhiên Bắc Kinh
tuyên bố chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa. Ngoại Trưởng Vương Văn
Bắc liền lên tiếng bác bỏ và cực lực tố cáo ý đồ xâm lăng của họ.
Ngày 16/1/1974, Trung cộng cho tàu chiến
cùng nhiều ngư thuyền vũ trang đổ bộ lên đảo Cam Tuyền. Họ có 16
chiến hạm và ghe thuyền với tốc độ nhanh, trang bị hỏa tiễn vượt
trội hơn hải quân ta.
Lúc 12:22g ngày 19/1,
hai tảo lôi hạm Trung cộng đồng tấn công tuần dương hạm HQ–10
(bán khiển dụng, một trong hai máy chính đã bị hư hỏng).
12:41g, Trung cộng đưa thêm hai tiềm thủy đĩnh, tập trung dồn hỏa
lực tấn công. 10 phút sau Hộ Tống Hạm Nhật Tảo chìm cùng Hạm
Trưởng và một số thủy thủ. Thiếu tá Ngụy Văn Thà đã can trường
nêu cao tiết tháo: “Thà chết theo tàu, chết theo tàu, thà
xương ngâm dưới đáy Hoàng Sa”
(nhạc Trần Thiện Thanh).
Wiki tiết lộ: lúc đó Sài Gòn yêu cầu Mỹ can thiệp, nhưng họ
trả lời đứng ngoài cuộc, không quan tâm đến Hoàng Sa. Trái với Mỹ
để yên cho Trung cộng đánh chiếm, Liên Xô lại phản đối gay gắt
hành động xâm lược này.
Theo Cát Biển, sau trận hải chiến,
Trung cộng huy động toàn bộ hải lục không quân với 42 chiến hạm,
42 tiềm thủy đĩnh đổ bộ chiếm đảo chính Hoàng Sa và các đảo kế
cận.
Họ hung hăng nhờ thái độ lật lọng trở cờ của Mỹ. Miền
Nam phải chọn giải pháp hy sinh, chiến đấu trong vô vọng, liều
chết để bảo tồn danh dự trước kẻ thù mạnh hơn mình về quân sự.
Tổng kết thiệt hại đôi bên:
– Việt
Nam Cộng Hòa: 74 thủy thủ tử trận, 48 tù binh.
– Trung cộng:
18 tử trận.
* “Hoàng Sa Nổi Sóng” (Phạm Văn
Hồng, aihuubienhoa):
Tuần Dương Hạm HQ–16
chở phái đoàn gồm 6 người ra Hoàng Sa: Thiếu tá Hồng, Kosh (nhân
viên lãnh sự Mỹ tại Đà Nẵng), 2 trung úy và 2 hạ sĩ quan công
binh.
Mục đích để lập phi trường trên đảo. Kosh sẽ giám
định, mở hầu bao, vì ta không kham nổi, ngân sách cạn kiệt, chỉ
300 triệu Mỹ kim/năm. Nhưng thực ra đó là phi trường ẢO, một kịch
bản tài tình của người Mỹ. Họ đã đi đêm với kẻ bành trướng từ lâu
rồi.
Thời điểm 1974 là thích hợp nhất cho bọn cướp nước vì
những toan tính rút lui, nhường miền Nam cho Bắc Việt đã gần kề.
Nếu để miền Bắc xâm chiếm toàn miền Nam rồi thì anh em “môi hở
răng lạnh” của bọn chúng sẽ trở thành “há miệng mắc quai”.
Thêm nữa, Trung đội trưởng Nghĩa Quân, Trung úy Phạm Hy kể
lại: vào tháng 10/1973, một thương thuyền không rõ của nước
nào đã tấp vào đảo tránh bão. Về sau mới biết, đó là tàu do thám
Trung cộng, giả thương thuyền để thám sát. Chúng thu thập chi
tiết quân số, vũ khí trên đảo. Như thế mới hay địch biết rất rõ
ta, còn ta chẳng biết gì về họ.
Tới ngày
17/1/1974, thường xuyên có một tàu nhỏ của Trung cộng
lấy danh nghĩa tàu đánh cá đậu chắn ngang trước mũi tàu HQ–16, rõ
ràng là có ý khiêu khích. Trung tá Hạm Trưởng chỉ thị cho chiến
sĩ ta gọi loa phóng thanh yêu cầu họ đi nơi khác vì đây là hải
phận của Việt Nam. Họ trả lời không di chuyển mà còn khuyến cáo
ta rời xa vùng biển này của Trung cộng. Đại dương mênh mông thiếu
gì chỗ câu sao lại đậu trước một chiến hạm cách vài chục mét? Rõ
ràng là để chọc giận.
10:00g sáng 19/1,
trên biển thấy tàu đôi bên đang ở thế cài răng lược. Rồi súng nổ.
Chỉ sau 15 phút, mấy chiến hạm ta đã quay lưng vào phía đảo Hoàng
Sa và dần dần mất hút.
Hàng chục tàu Trung cộng bao vây
chúng tôi đang ở trên đảo. Khi ấy Hải quân Vùng l Duyên hải nhắn
là hãy bình tĩnh, sẽ có không quân ra yểm trợ. Tôi vội lao vào ẩn
trốn trong các lùm cây chờ trống mái một phen, chứ không đầu
hàng. Ba giờ sau thì chúng vạch từng gốc cây, phát hiện và chĩa
súng bắt tôi.
Kosh đang nói chuyện với bọn xâm lăng bằng
Anh ngữ. Đây là điểm mấu chốt. Họ biết rõ trên đảo có một người
Mỹ và cho thông dịch viên ra làm việc. Tất cả binh sĩ ta bị đưa
lên tàu chở về Hải Nam. Kosh được thả sau một tuần.
Lúc
hải chiến xảy ra, chiến hạm Mỹ sát nách chúng ta mà họ chẳng hề
cứu vớt những bè thoát hiểm của anh em Hải Quân. Sau này hỏi
Trung tá Lê Lâm, Phó Trưởng Phòng 3, Sư Đoàn l, Ông nói đã chuẩn
bị một phi đội phản lực, từ Biên Hòa ra Đà Nẵng sẵn sàng tham
chiến, nhưng cuối cùng phải hủy bỏ vì phía Mỹ nói rằng nếu thực
hiện, đối phương có thế trả đũa từ nơi xuất phát, sẽ gây nguy
hiểm cho cư dân Đà Nẵng. Đối sách của mình bị kỳ đà cản mũi!
Những câu chuyện trên cho thấy thảm kịch Hoàng Sa đã được Mỹ
dàn dựng tỉ mỉ. Họ giúp Trung cộng cái cớ chiếm Hoàng Sa bằng
cách gợi ý giúp ta xây dựng phi trường chiến lược kiểm soát toàn
bộ hải trình quốc tế, chúng ta lọt bẫy điệu hổ ly sơn. Chiến hạm
ta chở phái đoàn ra thám sát thực hiện kế hoạch, những con mồi
nhử đã chờ sẵn, rốt cuộc phải xảy ra hải chiến thôi. Vài tàu cá
làm vật tế thần có thấm béo chi so với nước 7, 8 trăm triệu dân!
Trên đảo chỉ 20 nghĩa quân, trong khi họ dùng kế sách biển người,
đưa vào cả tiểu đoàn.
* “Việt Nam có vĩnh viễn
mất Hoàng Sa vào tay Trung cộng”?
Cư dân
mạng nghĩ rằng: mất Hoàng Sa là cái giá phải trả cho thứ ngoại
giao kiểu đồng chí của người cộng sản. Theo nhà nghiên cứu lịch
sử Đinh Kim Phúc: “Một vấn đề cần phải đặt ra là cứ mỗi năm đến
ngày 19/1 đều xuất hiện câu nói của Lê Đức Thọ: ‘Hãy yên tâm,
Hoàng Sa trong tay các đồng chí Trung quốc còn hơn là trong tay
ngụy quyền. Lập trường chính trị các anh để ở đâu? Đang có chiến
tranh lại phối hợp hoạt động với địch à? Cuộc chiến gay go của ta
rất cần sự ủng hộ của Trung quốc, anh lại nói quay sang chống
bạn. Trung quốc có giúp ta giải phóng Hoàng Sa, thì sau này cũng
trả lại cho ta thôi’”.
Nguyễn Văn Linh cũng nói: “Tôi
biết rằng dựa vào Trung quốc là mất nước, nhưng còn hơn mất đảng”.
Theo Ông Phúc, giới lãnh đạo Bắc Việt lúc bấy giờ ảo tưởng,
cả tin về người đồng chí cộng sản của mình để phải ngậm đắng nuốt
cay ngày hôm nay, khi mà Trung cộng tuyên bố cái gọi là Tây Sa,
Tam Sa là của họ. Họ dẫn chứng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từng
đồng ý trước 1975. Đặc biệt là công hàm Phạm văn Đồng ngày
14/9/1958 gởi cho Thủ tướng Chu Ân Lai, trong đó cho biết chính
phủ Hà Nội “tán thành” và “tôn trọng” bản tuyên bố ngày 4/9/1958
của chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa về hải phận 12 hải lý
của Trung cộng, điều này hàm ý công nhận chủ quyền của Bắc Kinh
về quần đảo Hoàng Sa.
* Thơ Gởi Ngụy Văn Thà
Nhớ Người họ Ngụy tên Thà
Liệt oanh chiến sử Hoàng Sa năm nào
Hy sinh xương trắng máu
đào
Xứng danh Hạm Trưởng, anh hào Việt Nam.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
|
Hình nền: Đêm Thánh với muôn muôn vàn vì tinh tú... Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Phạm Văn Duyệt chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, November 27, 2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang