Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Chuyện Tù “Cải tạo”
Chủ đề: Ngôn ngữ
Tác giả: Người Lính Già Oregon
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
1. Ai cũng
biết VC là vua chơi chữ, lúc chúng mới vào miền Nam, cũng như bây
giờ. Chúng bày ra nhiều danh từ quái dị, ví dụ “bức xúc”, không
biết từ tiếng nào ra (đúng nghĩa là “cần kíp”, nhưng người dân
lại dùng như “khó chịu, bực bội”: nghe nó nói, tôi bức xúc quá)
hoặc “ẩm thực”, từ Việt Hán, trong khi đã có sẵn chữ Việt thuần
túy “ăn uống”, hoặc “lô-gích” bởi tiếng Pháp logique, nghĩa tiếng
Việt là “hợp lý”. Thật là dốt mà hay nói chữ.
Vốn sắt máu, VC dùng những danh từ mang
giọng tranh đấu, đàn áp, bắt bớ. Từ ngữ vô tội bỗng bị “nâng cao
quan điểm”, trở thành phương tiện phô bày bản chất võ biền nằm
trong tiềm thức của chúng. Vài ví dụ:
-giải phóng mặt bằng; giải phóng chất
khí
-quản lý đời em, quản lý đời anh
(lấy vợ, lấy chồng?)
-xử lý hạt giống;
xử lý từ xa (remote control?); xử lý văn bản
-khống chế tốc độ; khống chế chi tiêu
-giáo án (thay vì bài dạy)
Vân vân...
Tương tự chữ chém trong từ ngữ dưới chế
độ phong kiến ngày xưa, như theo một chuyện khôi hài ta thường
được nghe kể: Thay vì nói “đang cắt khoai ăn”, một vị thuộc hoàng
tộc đã trả lời: “Mệ đang chém củ khoai.”
Từ ngữ VC chuyển biến, đổi màu như cắc
kè tùy theo lập trường, hoàn cảnh. Cũng là phi công nhưng của
“ngụy” thì trở thành giặc lái, của bọn chúng là chiến sĩ lái. Đối
với Trung Cộng, khi còn là tay sai, VC nâng bi hết cỡ: nào là
“đồng chí anh em”, “tình hữu nghị Việt-Trung thắm thiết, môi hở
răng lạnh, đời đời bền vững”, “trăng Trung quốc sáng hơn trăng Mỹ
[đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ]”. Khi bị Tàu Cộng đánh
cho tơi bời ở biên giới cuối thập niên 70 thì chúng chửi các
“đồng chí anh em” là “bọn bành trướng Bắc Kinh”, “chủ nghĩa
Xi-ô-nít (sionisme) xâm lược”. Khi đã bán đất, bán biển cho Trung
Cộng, và ở cái thế đầy tớ, VC sợ bọn này đến mức không dám viết
“tàu Trung quốc bắn chìm thuyền đánh cá Việt Nam”, mà gọi là “tàu
lạ”.
2. Tuy nhiên,
khi cần lừa bịp, bọn lãnh đạo VC không ngần ngại dùng cả kho từ
ngữ nghe rất xây dựng, ngọt như mía lùi: đi tù thì chúng gọi là
đi “học tập” (cải tạo). Một nhà văn bạn đồng tù của tôi, nguyên
là nhân viên Việt Tấn Xã, thỉnh thoảng ghé tai, nói nhỏ:
-Tao phải đề nghị cái thằng viết bức
thông cáo kêu gọi quân nhân “ngụy” đi trình diện “học tập cải
tạo” sau ngày 30/4/75 được lãnh giải Nobel về văn chương láu
cá...
-?
-Chúng bắt binh sĩ, hạ sĩ quan tập
trung “học” tại chỗ ba ngày, rồi cho về thật. Sĩ quan cấp úy cũng
“được” đi học, và đem theo lương thực đủ 10 ngày. Cấp tá mang
theo lương thực đủ một tháng. Thì thử hỏi bố ai mà không tin?
Nuốt một hớp nước cho đỡ tức, anh ta
tiếp:
-Mới
đây, thằng cha X đứng lên hỏi: “Thưa cán bộ, tại sao trong thông
cáo trình diện, Cách mạng nói học tập mườì ngày, mà bây giờ học
đã hơn một năm rồi, chúng tôi chưa được về?” Thằng quản giáo cười
khinh khỉnh, trả lời tỉnh bơ: “Đâu, anh chỉ tôi xem chỗ nào trong
thông cáo Cách mạng nói các anh ‘học tập mười ngày’? Thông cáo
chỉ bảo ‘mang theo lương thực đủ mười ngày’. Anh thấy không, mười
ngày ăn hết thì Cách mạng cung cấp tiếp kia mà!”
Cứng họng. Anh bạn VTX lắc đầu chép
miệng:
-Tiên
sư chúng nó, đau như hoạn, tức như bò đá. Tao cũng không rõ, tại
chúng mình ngu, hoặc tại chúng nó quá lưu manh?
Ngừng một giây, anh ta phun tiếp:
-Hoặc là tại người quốc gia mình quá
ngay thẳng, nếu không nói là ngây thơ, nên suốt đời bị chúng nó
lừa, từ 1945 tới hôm nay.
Có thể anh ta nói đúng: cho đến bây
giờ, một số người tỵ nạn chúng ta vẫn còn ngây thơ trước từ ngữ
của VC, bị bịp hoài mà vẫn chưa tởn. Ngày nay, sau khi chạy trối
chết ra tới hải ngoại, an toàn rồi, mà bọn VC vẫn đuổi theo phá
đám, dụ dỗ, lần này bằng những lời đường mật, dĩ nhiên, đầy dẫy
trong Nghị quyết 36, nào là “Việt Kiều, khúc ruột ngoài ngàn
dặm”, “bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam” (thay cho
“bọn vượt biên là ma cô, đĩ điếm” trước kia), nào là “quê hương
là chùm khế ngọt”, “hãy hòa giải hòa hợp, xóa bỏ hận thù”, nào là
“hãy đem tiền bạc và chất xám về xây dựng đất nước, đầu tư đi,
làm từ thiện đi, về mua nhà mua đất, hưởng già đi, gái Việt Nam
bây giờ đẹp lắm, đẹp lắm...”
3.
Tại trại cải tạo Vĩnh Phú, có anh bạn đồng nghiệp tại trường Đại
Học CTCT Đà Lạt, tên Nhung, kiếm đâu ra được chức thủ kho dụng cụ
lao động, cũng nhàn và ấm thân. Một hôm, anh ta kể, một tên công
an vẻ phách lối đến mượn cái xẻng. Theo thủ tục ai mượn cũng phải
ghi tên vào sổ. Thủ kho, người Bắc, lịch sự hỏi:
-Xin cán bộ cho biết quý danh.
Tên nọ không hiểu “quý danh”, há mồm,
ngơ ngác, suy nghĩ một hồi, rồi đột nhiên sừng sộ:
-Anh vi phạm nội qui. Ai cho anh nói
tiếng nước ngoài hử?
Nhung sửng sốt, á khẩu. May phước, nhờ
các bạn đồng tù xúm vào thông dịch giùm, anh ta mới thoát nạn,
sau khi bị xỉ vả tận tình:
-Bây giờ mà anh vẫn còn ôm chân đế
quốc, dùng toàn là chữ tư bản, phản động...
4.
Ngày Chúa Nhật tù nhân thường được nghỉ lao động. Nhưng thỉnh
thoảng bọn cán bộ bắt làm cái mà chúng gọi là “lao động xã hội
chủ nghĩa”, kiểu volunteering ở Mỹ, ví dụ đào “ao cá Bác Hồ”,
“trồng cây Bác Hồ”, “trồng rau cải thiện”. Coi như mất toi một
buổi sáng. Tôi đang nằm ngủ nướng, anh tù đội trưởng, tên Dũng,
đến vén mùng lôi dậy:
-Đề nghị anh thức dậy đi lao động xã
hội chủ nghĩa.
Tôi cự nự:
-Anh đề nghị, nhưng tôi từ chối, được
không?
Dũng là
một đội trưởng tốt, đấu dịu:
-Trong từ ngữ tụi nó, đề nghị có nghĩa
là bắt buộc đó cha nội. Không biết mà cứ lý sự hoài, khổ quá!
5.
Thời gian đầu mới ra Bắc, sĩ quan tù nhân bị giam ở những trại do
“bộ đội” quản lý được dựng lên cấp thời bằng gỗ, tranh, nứa. Dãy
hố vệ sinh được đào phía sau nhà (khác với những trại Công an sau
này, như Vĩnh Phú, phòng tiêu tiểu cất ngay trong mỗi buồng). Ban
đêm, tiểu tiện, đại tiện tù nhân phải xách đèn ra trước vọng
canh, hô to, xin phép vệ binh. Những thằng vệ binh, đa số gốc nhà
quê, nói ngọng, dùng nhiều thứ thổ ngữ địa phương khác nhau.
Tại trại Hoàng Liên Sơn, thường xuyên
có tiếng vang lên trong đêm trường lạnh lẽo:
-Báo cáo cán bộ, tôi xin đi tiểu.
Vệ binh gác hỏi:
-Đi tiểu là đi đâu?
-Là đi tè, tức đi đái đó...
-Đi đái thì nói đi đái, còn văn vẻ đi
tiểu với đi đại... Được.
Đêm sau, rút kinh nghiệm, một tù nhân
khác xin phép một thằng vệ binh khác:
-Báo cáo cán bộ, tôi xin đi đái.
Tiếng từ vọng gác:
-Đi đái... anh ăn nói kém văn hóa quá.
-Vậy cán bộ bảo tôi nói thế nào?
Thằng vệ binh:
-Đi giải.
Một đêm khác, một “cải tạo viên” khác:
-Báo cáo cán bộ, tôi xin đi giải...
Tiếng vệ binh:
-Không được. Đi đái thì nói đi đái.
Giải gì? Giải rút hả? Dân Nam bộ mà cũng tập nói tiếng Bắc. Nói
lại.
Được lời
như cởi tấm lòng, anh “cải tạo viên” la lớn:
-Báo cáo cán bộ, tôi xin đi đái.
Âm “ái.... ái... ái” vọng lên trên dãy
núi Hoàng Liên Sơn trong đêm vắng lặng, nghe “khẩn trương”, đau
khổ.
-Được.
Cũng may, vào thời kỳ đó, đa số sĩ quan
còn trẻ, còn khỏe, thận tốt, nên ráng nhịn được. Nhưng những ông
già trên sáu bó, đứng tranh luận về chữ nghĩa kiểu này, giữa trời
sương lạnh, chưa kịp đến hố đã “giải phóng” ra quần mất rồi.
6.
Chuyện bị Tào Tháo rượt sau đây thì bất kể tuổi tác, già trẻ,
nhiếp hộ tuyến sưng hay không sưng. Cũng tại trại Hoàng Liên Sơn,
cũng lại chuyện chữ nghĩa. Một “cải tạo viên”, vì buổi chiều lén
ăn sắn sống, nên đang đêm bị đau bụng, xách đèn chạy vội ra vọng
gác, khá xa.
-Báo cáo cán bộ, tôi xin đi cầu.
Thằng vệ binh, giọng còn trẻ:
-Không được. Giờ này anh đi ra cầu nàm
cái gì, có ý đồ gì?
Anh bạn ta, Nam kỳ rặt:
-Hổng phải đâu, đi cầu là đi ỉa đó. Lẹ
lẹ giùm lên cán bộ, tui chịu hết nổi rồi...
-Không được, anh phải học cách ăn cách
lói cho đúng văn hóa, nghe chửa: tôi xin phép đi đại tiện. Các
anh toàn nà người có tú tài hai, tú tài ba mà không biết dùng chữ
cho đúng và nịch sự. Anh lói nại đi...
Bạn ta trả lời, cộc lốc:
-Thôi khỏi cần nữa. Xong rồi.
-Anh lói xong rồi nà xong cái gì?
Bạn ta đùng đùng nổi giận, la lớn,
dường như không sợ gì nữa:
-Là ỉa ướt quần rồi đó cha! Không tin
cha cứ trèo xuống mà hưởi. Đau bụng thấy mụ nội mà cứ lèng èng
quoài.
“Sự cố
đột xuất” không mấy thơm tho này, và sự hy sinh vĩ đại của bạn
ta, hôm sau, đến tai “quản giáo” đội, không ngờ lại có kết quả
tốt, ngoài dự liệu. Theo lệnh trên, kể từ đêm đó, khi cải tạo
viên cầm đèn xin phép ra hố tiêu, nói kiểu nào, lính gác phải cho
đi, không hạch hỏi gì nữa.
7.
Một bữa, vác một bó nứa to tổ chảng ở rừng về, tôi bị té xỉu, và
được chuyển vào đội Rau Xanh của mấy ông già lụ khụ, ốm yếu ho
hen, loại sứt cán gãy gọng, và vì trẻ nhất tôi được chỉ định làm
trưởng tổ hốt phân, mỗi bữa ít nhất năm chuyến, đem giao cho một
tổ khác chế biến thành nước tưới rau, hoặc ủ thẳng trên các luống
khoai. Trước khi xuất quân, tên “quản giáo” lên lớp:
-Có bốn thứ phân: phân bắc, phân
chuồng, phân xanh. Các anh phải lấy ba thứ này cho đầy đủ chất
lượng. Còn phân đạm, hay u-rê là phân cao cấp, ta chưa dùng đến.
Phân chuồng (trâu bò) và phân xanh (lá
cây ngâm mục) thì ai cũng hiểu. Riêng phân bắc tên quản giáo
không cắt nghĩa. Một anh tổ viên, gốc Quảng, giơ tay hỏi:
-Thưa coáng bộ, còn pheng béc là pheng
chi?
Tên quản
giáo nhìn anh chằm chằm, rồi dằn từng tiếng:
-Có thế mà không hiểu. Phân bắc là phân
tươi...
-Pheng
tươi là pheng chi, coáng bộ?
-Là cứt chứ còn gì nữa. Hỏi mãi.
Sau khi tên “quản giáo” đi, một anh già
trong đội lên tiếng cắt nghĩa:
-Mấy cha biết tại sao tụi nó gọi cứt là
phân bắc mà không là phân nam, phân trung không?
-Làm sao biết được!
-Tại vì ở ngoài Bắc, cứt quý như vàng,
cho nên tụi nó giành lấy hết, cả trong chữ nghĩa tụi nó cũng
không chừa cho ai.
8.
Tại trại Vĩnh Phú, tôi được Linh mục Trần Thanh Cao, cựu tuyên
úy, giỏi nhạc, vui tính, có quen biết ngoài đời, “chiếu cố” bốc
về đội văn nghệ mới thành lập do ông làm đội trưởng, để tỵ nạn
lao động vài tháng, mặc dù tôi dốt đặc về ca nhạc kịch. Nhân tài,
cũng cỡ tôi, được biệt phái từ các đội. Ðội được lệnh trình diễn
giúp vui một phái đoàn thanh tra trung ương sắp đến thăm trại.
Cha Cao cho tôi vào ban hợp ca, bè alto
là bè hỗn tạp, ngang phè phè. Ông khuyến khich các ca viên:
-Ăn sắn và hút thuốc lào mà hát như vậy
là được rồi!
Một hôm trại phó đến thăm. Ban hát đang tập một bài có nhắc Hồ
Chí Minh và hang Pắc Pó, hay ao sen, ao cá gì đó, do cha Cao đặt
hòa âm thành bốn bè, mỗi bè tập riêng. Hắn chăm chú nghe ca sĩ bè
alto của tôi dượt, vui vẻ, rồi bỗng nhăn mặt, gọi cha Cao lại,
giận dữ quát:
-Anh bôi bác Cách mạng đấy phỏng? Tên Bác kính yêu như thế mà...
mà anh dám đổi nà Hô, Hố, Hộ, Hổ như thế thì... thì nà anh nếu
náo thật!
Cha
phân trần, nhưng hắn gạt đi:
-Bỏ, bỏ tất! Bè với không bè!
9.
Một sĩ quan đồng tù kể: được thả về, anh hành nghề xe ôm. Nhờ bộ
mã phi công đẹp trai còn sót lại sau tám năm “cải tạo”, anh lọt
vào mắt xanh của một em “cán bộ gái” tại một cơ quan nọ, Bắc kỳ
hai nút chánh hiệu.
Anh nói:
-Tao tranh thủ tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến lên chiếm mục tiêu ngay. Vì lần đầu lụp chụp, tao khóc ngoài
quan ải, nên thấy quê, mới rụt rè hỏi nhỏ em, “em thấy thế nào?”
-Rồi em trả lời sao? tôi nôn nóng hỏi.
Anh bạn thở dài:
-Mẹ kiếp, còn đang ôm nhau, em bật ngồi
dậy, nghiêm nét mặt, và lên lớp y chang mấy thằng “quản giáo” của
mình trước kia. Em bảo: “Cơ bản thì anh làm tốt đấy, có chất
lượng. Nhưng về mặt tiêu cực, em chưa thấy có ấn tượng sâu sắc,
anh chưa biểu hiện phấn đấu năng nổ để khống chế tốc độ. Rút kinh
nghiệm, lần sau, anh cần khắc phục sự cố tốt hơn”!!!...
Người Lính Già Oregon
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Tôn Thất Sơn chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, April 14, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang