|
Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tham
Luận
Chủ đề:
QH–30T4Đ
Tác giả:
TS Lưu Nguyễn Đạt
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lưu
Nguyễn Đạt, PhD, LLB/JD, LLM CHÍNH TRỊ – PHÁP LUẬT – QUÂN SỰ,
KINH TẾ – XÃ HỘI – KHOA HỌC, LỊCH SỬ – TƯ TƯỞNG – TÔN GIÁO, NGƯỜI
VIỆT TỬ TẾ, THỜI LUẬN, VĂN HOÁ – LỊCH SỬ, XÃ HỘI Comments.
Hiện tượng và
hiệu ứng “Ngày 30 Tháng Tư” năm 1975 tới nay, sau 47 năm ròng rã,
vẫn bao hàm nhiều ngộ nhận cần sửa sai và định hướng lại.
I. Những Ngộ Nhận Căn Bản Về Hiện tượng
“Ngày 30 Tháng Tư”:
Trước hết, ngày 30 Tháng Tư năm 1975
không phải là ngày vui của toàn dân Việt, dù ông Võ Văn Kiệt có
nhận định “... ngày 30 tháng 4, có hàng triệu người vui, mà cũng
có hàng triệu người buồn”; dù trong buổi lễ tiếp thu Sài Gòn,
Tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban Quân quản, đã phát biểu một
cách bâng quơ trước mặt Tổng Thống chớp nhoáng Dương Văn Minh:
“Trong cuộc chiến đấu lâu dài này không có ai là kẻ thắng, ai là
kẻ bại. Toàn quân và toàn dân Việt Nam là người chiến thắng...”;
dù cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp lần đầu tiên gặp bại tướng Nguyễn
Hữu Có cũng đã cầm tay mà nói: “Chào mi, ta với mi lúc trước hai
đứa hai chiến tuyến nhưng nay ta đã là hai anh em”.
[1]
1. Lịch Sử Đã Cho Thấy Rõ Thực Trạng
“Ngày 30 Tháng Tư”:
Toàn Quân Và Toàn Dân Việt Nam Không Hề Chiến
Thắng. Chỉ vài ngày, vài tháng sau “ngày giải phóng” [sic], đã
phát động một hiện tượng “đổi đời” khốn khổ, khốn nạn nhất cho
“toàn quân và toàn dân” miền Nam trong dòng lịch sử hiện đại.
“Anh Em”, “toàn quân và toàn dân Việt Nam” chỉ là những xảo ngôn,
dối trá, “nói–dối–như–vẹm”.
[2]
Đương nhiên, đối với kẻ bên kia chiến
tuyến, khi là thành phần thua trận, kẻ thắng chỉ cần gọi họ là
“ngụy”, là tội phạm lý tưởng, họ sẽ bị vơ vét của cải, cướp đoạt
nhà cửa, đánh tư sản, rồi từng đợt, từng đợt đi “cải tạo”, nghĩa
là “được” cải huấn tù đày, “được” tra tấn, hành hạ chục năm này
sang chục năm khác, liên tiếp, theo khuôn khổ Gulag Cộng Sản Quốc
Tế. [3] CSVN tước đoạt nhân phẩm, tài sản và sức sống của người
dân thất thế một cách tàn nhẫn, dã man. Họ độc ác, khốn nạn hơn
lũ mật thám thực dân Pháp đối với dân bản xứ, thời thuộc địa. Chỉ
vì CSVN mặc cảm bất tài và tham lam đã tìm mọi cách củng cố vị
thế độc đảng, độc tôn, để ngoài họ ra không còn ai được quyền
quản trị đất nước, dù sau họ là phá sản, là tự hủy.
Kể cả cái gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải
Phóng Miền Nam Việt Nam thành lập từ năm 1960, dưới hình thức một
“Lực lượng Việt Cộng Miền Nam” trá hình cũng không hề “chiến
thắng”. Họ bị “thất sủng”, các lãnh tụ của “Mặt Trận” cũng bị thủ
tiêu, hoặc đi “cải tạo” như kẻ thù phản động. Đồng chí hôm trước,
kẻ thù hôm sau.
Kể cả “đồng bào” của người cộng sản
cũng không hề “chiến thắng”. Điển hình là đồng bào đói khổ Miền
Bắc từ 1954 tới 1975, dù được tuyên truyền tung hô là “dân làm
chủ”, bất cứ lúc nào “họ” cũng sống trên đe dưới búa và dưới lưỡi
liềm sát cổ. Kể cả gần 90 triệu người dân hôm nay cũng không hề
“chiến thắng”. Cũng như ông cha họ trước kia, người dân Việt ngày
nay vẫn là thứ dân oan, tiếp tục bị cướp bóc, thổ phỉ, sách
nhiễu, hành hạ bởi lũ đảng phiệt đội lốt mafia/tài phiệt đỏ, ác
với dân, hèn với giặc–lạ. Nhất là khi CSVN hạ mình để Hán Cộng
tùy tiện lấn đất, chiếm đảo, cắt rừng; tùy tiện phóng uế gây ô
nhiễm Tây Nguyên, sông ngòi; tùy tiện phá hoại sinh lực dân nghèo
bằng đủ loại thực phẩn chế biến độc hại, rẻ tiền.
Kể cả giới trí thức cộng sản cũng không
hề “chiến thắng”. Trước kia, tự coi là “hèn” nên không được trọng
dụng bằng “cục phân” [sic] bởi đám lãnh tụ CSVN, lũ lượt ăn phải
đũa Mao. [4] Ngày nay kẻ sĩ dù “đổi đời” vẫn mất giá đến độ “phi
thường”; bất cứ lúc nào cũng có thể bị ghép đủ thứ tội, từ phản
động, phản đảng, tới phản quốc. Nhà cầm quyền Hà Nội thừa thắng
xông lên đem công an và xã hội đen thẳng tay hành hạ, phá phách,
đổ phân người vào nơi trú ngụ các “đồng chí” ly khai như Hoàng
Minh Chính, Nguyễn Khoa Điềm; nơi trú ngụ các các nhà dân chủ,
các nhà tu hành “phản động” vì không chịu đổi đời thành
“cha–quốc–doanh”, thành “sư–quốc–doanh”. Gần đây, họ cũng “xử lý”
như vậy đối với thành phần bất đồng chính kiến, như gia đình nhà
văn Huỳnh Ngọc Tuấn, Huỳnh Thục Vy.
2. Đích Thực Ngày 30 Tháng Tư năm 1975
Là “Ngày–Quốc–Hận” Cho Toàn Dân Việt; Còn CSVN Là Kẻ “Thua Cuộc”:
Thật vậy, ngày 30 Tháng Tư năm 1975
không xứng đáng được coi là một thành thích vẻ vang cho CSVN để
họ tự xét là “Bên Thắng Cuộc”. Trái lại, ngày đó chỉ đáng nhớ là
ngày chiếm đoạt Sài Gòn của “Bên Thắng Trận”, nhờ vào súng đạn và
quân nhu Trung Cộng cho vay với lãi cắt cổ, trong khi bên thua
trận là VNCH lại bị đồng minh Hoa Kỳ trong chiến lược “be bờ”
[5]
bỏ rơi cái một vì quyền lợi quốc gia họ, lúc đó đổi hướng đầu cơ
vào thị trường sản xuất rẻ, “made in China”.
Nay sau 40 năm nhì nhằng lỗ hơn lời,
Hoa Kỳ đã thấy “hố to” và đương tìm đường tháo lui. Trước sau vẫn
là một: quyền lợi quốc gia Hoa Kỳ trên hết. Đó là mệnh lệnh bất
di bất dịch của con buôn và người kinh doanh. Chỉ khác một điều,
Hoa Kỳ là thương gia khá chân chính, vì còn biết sợ luật pháp và
biết kết sinh với luân lý chân chính [corporate integrity] trong
khi Tàu Cộng [khác với Tàu Singapore, Tàu Hồng Kông] lại là thứ
“gian thương made in China” thứ tả–pín–lù, thi đua văng mạng,
chết sống mặc bay.
Vậy, thành ngữ “Thắng Cuộc” của CSVN
ngày Sài Gòn thất thủ không những ngạo mạn, tự mãn, mà còn vang
vọng một hậu ý man khai, lừa đảo, và tự lừa đảo, theo đúng truyền
thống hoả mù cộng sản quốc tế.
Có lẽ nhà báo Huy Đức cũng thấy rõ như
vậy, nên dù có khai sinh cuốn sách song tập trong năm 2012 & 2013
với cái tên tiền chế là Bên Thắng Cuộc,
[6] ông đã vội vàng cảnh
cáo ngay trong lời giới thiệu sách, như để tránh một sự lầm lẫn
lịch sử đáng tiếc:
“Cuốn sách bắt đầu từ ngày 30/4/1975,
ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều
người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm
giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc. Hãy để cho các
nhà kinh tế chính trị học và các nhà xã hội học nghiên cứu kỹ hơn
hiện tượng lịch sử này. Cuốn sách của tôi đơn giản chỉ bắt đầu kể
những gì đã xảy ra ở Sài Gòn, ở Việt Nam sau ngày 30–4: cải tạo;
đánh tư sản; đổi tiền... Cuốn sách của tôi cũng nói về hai cuộc
chiến tranh cuối thập niên 1970, một với Khmer Đỏ và một với
người Trung Quốc. Cuốn sách của tôi cũng nói về làn sóng vượt
biên sau năm 1975, nói về sự ‘đồng khởi’ của nông dân, của các
tiểu chủ, tiểu thương để giành lấy cái quyền được tự lo lấy cơm
ăn áo mặc.”
Còn nhà văn cộng sản ly khai Dương Thu Hương, nổi tiếng với những
tác phẩm như Thiên Ðường Mù, Bên Kia Bờ Ảo Vọng, Khải Hoàn Môn,
thì trước đây đã phân minh rõ ráng:
“Lần thứ nhất khi đội quân chiến thắng
vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cả mọi người trong đội quân
chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc... Vào Nam tôi mới
hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt
con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta
có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ... nếu người ta
muốn. Ðó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi
nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Ðó là sự hàm hồ và lầm lẫn
của lịch sử. Ðó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân
tộc Việt Nam phạm phải.”
[7]
Thật ra CSVN đã “thua cuộc” khi bước
vào Sài Gòn, vì kể từ lúc đó, họ không còn cơ hội lừa dân mãi;
không còn lý do đòi hỏi ở dân sự hy sinh trường kỳ như trước. Họ
đã tự lột mặt nạ để trở thành những tên hung thần man rợ, ác với
dân, hèn với giặc khi bó tay và cúi đầu đành mất ranh giới, mất
biển, mất rừng, mất đảo cho Tàu Cộng để trả nợ quân sự chu kỳ, và
nhất là để giữ lấy “Đảng–Ta”.
CSVN đã “thua cuộc” vì bất lực quản trị
đất nước khi luẩn quẩn ôm ấp phe đảng chia năm xẻ bảy, rình rập
thanh toán lẫn nhau; khi thao túng tham nhũng quốc doanh, chia
chác gia đình trị tới độ tắc nghẹn. Trong suốt 47 năm tự hào
“thống nhất & độc lập” giả tạo, CSVN đã công khai tự duy bất tài
khai mở sáng tạo, với những kế hoạch không tưởng, man khai, bán
đứng thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa; in giấy bạc giả, thu
lấy “dollars”; với đống văn bằng hàng mã [dùng để đốt hương hoả]
và những bộ óc teo mòn, bịt bùng, rỗng tuếch. CSVN còn bất lực
ngay trong cuộc sống hằng ngày gìn giữ văn hoá đạo người; bất lực
duy trì luân lý, phẩm giá, hạnh phúc và danh dự dân tộc, khi nhà
cầm quyền Hà Nội và bè lũ cán cùn chỉ đủ kế “xoá đói giảm nghèo”
bằng cách bán lao động, bán con thành dâu nước ngoài; xuất cảng
đồ “đểu” hay xuất cảnh cán bộ chuyên viên ăn cắp vặt, để cả Đông
Nam Á phải treo bảng “Cấm Người Việt” lai vãng.
Như thế ngày 30 Tháng Tư năm 1975 Không
Phải Là Ngày Vui Lịch Sử Việt Nam, Mà Đích Thực Là
“Ngày–Quốc–Hận” Cho Toàn Dân Việt vậy.
II. Những Hiệu Ứng Tiếp Nối Của “Ngày
30 Tháng Tư”
Sau ngày Quốc Hận 30 Tháng Tư, cả nước Việt Nam đã trở thành một
nhà tù lớn với rất nhiều nhà tù nhỏ, kể cả những nhà tù cá nhân
thi hành tại chỗ, dưới mắt “Đảng–Ta” hạch sách, làm tiền và hành
tội. Dưới mãnh lực toàn trị của gần 4 triệu cán bộ và lãnh chúa
CSVN, người dân có ba cách phản ứng:
tỵ nạn nước ngoài với hy vọng khôi phục
danh dự và quyền làm người;
tỵ nạn trong nước với thế cam phận, vô
cảm;
tranh đấu
trong nước với hy vọng bật lửa đại nghĩa.
1. Liên hệ trực tiếp với thời điểm kết
thúc tiền đồn trận tuyến ý thức hệ, từng đợt từng đợt người Việt
đã “bỏ phiếu chống cộng” bằng chân, bằng thuyền, trong cảnh phiêu
lưu tỵ nạn chưa từng thấy trước đây: cho tới nay, gần 4 triệu
người Việt đã bỏ nước thoát cộng, bỏ lại tất cả để thoát hiểm.
“Bàn Tay Hy Vọng/Hand of Hope” [đúc
bằng ciment cốt sắt/béton armé, cao 9 ft, móng sâu 9 ft] do LS
Lưu Nguyễn Đạt [Hoạ sĩ, điêu khắc gia, nguyên Tổng Thư Ký hội Hoạ
Sĩ Trẻ VN/Sài Gòn trước 1975] tạo dựng và tặng Trại TQLC Camp
Pendleton, San Clemente, California vào đúng Ngày Độc Lập July 4,
1975. Tiêu biểu cho “Hy Vọng” đứng dậy & khởi phát của [hậu duệ]
Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Hoa Kỳ và trên Thế Giới Tự Do.
Đối với người viết là tác giả điêu khắc
“Bàn Tay Hy Vọng/Hand of Hope”
[8] đúc bê–tông cốt sắt thực hiện
và tặng trại Thủy Quân Lục Chiến Camp Pendleton, San Clemente,
California vào đúng Ngày Độc Lập July 4, 1975, thì cuộc ra đi của
người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản có rất nhiều ý nghĩa chính:
Tỏ rõ lập trường của những người Việt
tự trọng, khao khát tự do và tôn trọng giá trị nhân phẩm, nên
không thể sống chung với con người cộng sản phi nhân, phi nghĩa.
Nuôi dưỡng “hy vọng” sắt đá khôi phục
danh dự và quyền làm người. Đó cũng là cách tạo dựng lại một
không gian an toàn, vượt tiến cho hậu duệ, như biểu tượng “Bàn
Tay Hy Vọng” dựng trên xứ người với những đứa trẻ tụ hợp “đứng
thẳng” và sẵn sàng “bay ra khỏi bàn tay” cưu mang. Chỉ bằng đường
lối thẳng thắn, vươn cao và khởi tiến, người Việt Tỵ Nạn mới chắp
nối cho họ, cho con em họ cái thế đứng vững vàng làm người tử tế,
mạch lạc để trở thành những công dân tiến bộ xứng đáng với cuộc
sống mới mà người tỵ nạn đã chọn với giá rất cao, đôi khi cần
phải hy sinh tột đỉnh.
Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản nhập cảnh
với diện quốc tế công pháp “tỵ nạn chính trị”, khác hẳn với diện
“di dân kinh tế”. Căn cước người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản thuộc quy
chế chính trị, nên khi họ nhập quốc tịch Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Tiệp
Khắc, Nhật, v.v. họ có quốc tịch nơi cư ngụ và chỉ còn là “sắc
dân/công dân gốc Việt”. Vậy đối với những “công dân gốc Việt”,
ngoài trường hợp có song tịch với Việt Nam, không thể coi họ là
“Việt Kiều”, vì họ đã bỏ quốc tịch Việt, trên phương diện luật di
trú và quốc tế công pháp. Quốc tịch mới và “gốc Việt” phải được
thi hành và tôn trọng một cách đứng đắn, phân minh, phù hợp với
pháp luật và lẽ phải.
Quốc tịch mới là những “Bàn Tay Hy
Vọng” đặt tại xứ người. Là những “Ngày Hành Trình Đến Tự Do” nơi
bến hứa [La Terre Promise – The Promised Land]. Người Việt Tỵ Nạn
thoát khỏi địa ngục cộng sản, phần lớn là để bảo toàn tương lai
cho hậu duệ họ. Nhưng các hiện tượng sáng sủa, hy vọng và vui
mừng đó phải “tới sau” mùa tang tóc quốc thể. Phải tới sau “Ngày
Quốc Hận” và cũng không thể xoá bỏ “Dấu Ấn” lịch sử đó. Những
hiện tượng “Hy Vọng” và “Tự Do” có thể tưởng niệm hay ăn mừng bất
cứ ngày, tháng, năm nào “KHÁC”, chứ không thể lấn át, thay thế
Ngày Quốc Hận “30 Tháng Tư” được.
Thật vậy, nếu tung tăng cờ quạt, kèn
trống, xăm banh tiệc tùng “Ngày Hành Trình Đến Tự Do” vào đúng
“Ngày Quốc Hận 30 Tháng Tư”, chẳng khác nào cố tình cử hành hôn
lễ chạy–tang cho vài người có hạnh phúc tới bến, trong khi chưa
chôn xong ông bà, bố mẹ còn mục nát trên mảnh đất tổ tiên. Tưởng
nghĩ con người tử tế, chân chính cũng nên tôn trọng thứ tự ưu
tiên gia đạo, không nên “mua vui” đúng ngày “tang lễ” thờ người,
nhất là nếu cuộc vui chạy tang, chỉ với “mục đích thiển cận” thu
lượm được thứ tự do vô trách nhiệm — vị kỷ, độc diễn, phóng túng;
coi thường luật pháp, công lý; coi rẻ nhân phẩm, nhân quyền mọi
người [ngoài cái tôi], thì quả thật cuộc “hành trình đó” chỉ đưa
tới bãi tự do tự s[x]ướng, tự hủy. Vì tự do phải có điều kiện
chính đáng, trung thực, trọng pháp, trọng nhân, tương ứng và
tương xứng. Thứ tự do phá phách, nhục mạ, vu khống là những hành
vi, những tuyên ngôn không được luật pháp và hiến pháp bảo vệ
[unprotected speech/unprotected freedom];
[9] và cũng không được
đạo người bái phục.
2. Ngoài trừ 4 triệu cán bộ cộng sản,
tất cả người Việt còn kẹt lại trong nước không hề là “cộng sản”;
trái lại, họ cũng chỉ là những người “tỵ nạn cộng sản” trong
nước, lâu năm bị hành hạ, uốn nắn, bịt mồm, bịt tai, chọc mắt,
nhồi sọ, nên đa số cam phận, đến độ vô cảm, vui buồn lẫn lộn. Với
cái đà ù lì này, đất nước Việt có thể còn tự ru ngủ vài thế hệ
lặng nín nữa. Nếu giới trẻ đôi lúc thức dậy, chẳng qua cũng chỉ
để hấp thụ những thói hư tật xấu, những hào quang ngoại nhập, ăn
chơi phè phỡn, ồn ào; hay lại kéo bè kết đảng thi đua chui luồn
lối tắt, học lỏm, mánh mung. Nghề chính trong nước là xây vội,
tháo vội, bán vội; môi giới ảo và hùa theo ức đoán, tin đồn nhảm;
vá víu tín ngưỡng với mê hoặc bùa ngải và tướng số. Đôi khi mồ
mả, nơi tôn thờ cúng bái cũng thao túng trang hoàng vương giả như
để thi thố phồn thịnh giả tạo hay dùng mánh khoé làm hoa mắt thế
gian.
Cái
chênh lệch giữa người giầu và kẻ nghèo thật khủng khiếp, khó mà
nối ghép, hoà nhập. Bên cạnh hơn 80 triệu dân nghèo mạt kiếp làm
bạn với rác rưới, phóng uế, ô nhiễm thì nhô lên những khu tân lập
biệt thự khang trang, dinh cơ lộng lẫy mà chỉ kẻ đại gia ăn trùm
và các ngài cán bộ tham nhũng bự mới được bước chân tới để chia
phần, đổi chác, rửa tiền. Thành phần tư bản đỏ Tàu và Việt còn
chuyển động hạ cánh an toàn khắp nơi trên thế giới tự do. Tại Hoa
Kỳ và Gia Nã Đại, nhất là tại các thị trấn cao sang giáp Biển
Thái Bình Dương [nam California & Vancouver] với những địa ốc,
dinh thự trên 2 hay 3 triệu Mỹ Kim đều được cán bộ cộng sản và
giới đại gia liến kết mua đứt và trả “cash”/tiền mặt để cho con
em và nhân tình họ trú ngụ, đợi ngày “đoàn tụ” gia đình, sẵn sàng
có thông hành cả xanh, cả đỏ. Điển hình, con gái Thủ Tướng Nguyễn
Tấn Dũng trước là dâu “quốc gia”, nay là công dân Mỹ song tịch
chính hiệu.
Dù
có Luật di trú Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Pháp, v.v. và biết bao quy
luật quốc gia và quốc tế cấm rửa tiền [Financial Crimes
Enforcement Network; Countering Financial of Terrorism; Money
Laundering Act; USA Patriot Act; Financial Action Task Force,
Office of Foreign Assets Control, etc] vẫn có rất nhiều kẽ hở hay
biệt lệ để con ông cháu cha mafia và tư bản Đỏ lọt vào “địa đàng
trần gian” Tân Thế Giới, mà chúng nhai nhải chê bai với cả triệu
cái lưỡi không xương đảng phiệt.
3. Giữa đám đông vô cảm, vô định và
thường xuyên đối mặt với cả một hệ thống cầm quyền độc tài mật
vụ, cảnh sát trị là những phần tử bất đồng chính kiến, miệt mài
tranh đấu lẻ loi cho chính nghĩa dân chủ tự do, cho nhân phẩm,
nhân quyền. Với khoảng 527 cá nhân và hiệp hội trong nước, họ bắt
đầu công khai tỏ bày bất đồng chính kiến với chế độ CSVN, nhất là
về mặt bảo vệ nhân quyền, bảo vệ tự do tôn giáo. Họ là những
bloggers trong nước, những nhà báo độc lập, những tổ chức xã hội
dân sự non nớt, mà điều lệ tổ chức và phương tiện thu thập vốn
liếng và uy tín xã hôi [social capital] vẫn còn vấp váp sơ khai.
Họ cũng là những nhà tu chân chính, thu thập nhân từ nhân ái,
mong bảo vệ tín ngưỡng họ luôn luôn bị tước đoạt, triệt hạ, sách
nhiễu. Nhưng ít ra họ là những nguồn hy vọng trong vô vọng; là
những tia lửa khai phóng đại nghĩa, đại cuộc khi lay chuyển được
lòng dân, thu hút được lương tâm và lương tri nhân loại, trên thế
giới tự do và trong không gian người Việt tự do từng được cưu
mang. Có gì quá đáng khi những người may mắn tới trước giúp người
tới sau, trong cuộc hành trình luân phiên tìm thấy tự do chân
chính, sự thật và công lý.
Phải nghiêm chỉnh thấy rằng, ngày hôm
nay, việc tranh đấu của những nhà bất đồng chính kiến đương đầu
với thế lực CSVN là hiện trạng thách đố, là hy sinh tù đày và đổ
máu trước tiên của người trong nước. Định mệnh và trách nhiệm
khai phóng thoát cộng hay dựng nước theo hướng dân chủ tự do cũng
nằm trong tay người trong nước. Vuông tròn, trong sáng, cao siêu
hay “tương đối” khả chấp, khả thi cũng theo tầm tay và sở trường
của chính họ. Nước Việt Nam ngày nay và sau này là của người Việt
sinh sống, thờ phụng, tái tạo tương lai theo khuôn khổ, nhu cầu
và triển vọng của người trong nước.
Họ chỉ cần phối kiểm với những ý niệm
tốt, những tri thức khả chấp, khả dụng đối với họ. Họ sẽ ngưỡng
mộ, học hỏi từ những nhân sinh quan phù hợp, những mẫu người chân
chính làm gương soi. Nhưng đời sống, môi sinh, thân thể và giá
trị con người họ là do họ quyết định. Họ không bắt buộc phải nghe
lệnh chỉ giáo hay cóp nhặt y chang từ bất cứ ai ngoài cuộc. Họ là
người cuối cùng xây dựng và bảo trì vận mệnh đúng mức của chính
họ, khi họ trở thành những quản trị viên đích thực, sáng suốt,
công minh của đất nước mà họ tranh đấu, vun xới cho tới giờ. Tất
cả chung quanh chỉ là những mối liên hệ yểm trợ, giúp đỡ, hợp
tác, kết sinh. Nhưng tác nhân chính yếu, có trách nhiệm và quyền
thế cột trụ vẫn chỉ là người sống còn trong nước. Thắng cuộc đại
nghĩa hay thất bại nội tại cũng do chính họ đảm nhận và chịu
đựng. Ngay bây giờ hay một vài thế hệ nữa.
III. Sứ Mạng Chân Chính Của Người Việt
Tử Tế
1. Thế
nào là Người Việt Tử Tế?
Tử Tế có vài nghĩa chính: [a] có những
gì phải có để được coi trọng; [b] hành động tinh–mật, rành rõi,
cẩn mẫn, kỹ càng [Đào Duy Anh, Hán–Việt Từ–Điển]; [c] có lòng tốt
trong cách đối xử đứng đắn, nhân đạo với nhau.
Vậy, ngay hai chữ “tử tế” tự nó có thể
quy tụ những thành tố kết lực để định nghĩa Người Việt Tử Tế
[NVTT]:
Tự
trọng, Tự Quyết, Tự Chủ về tư tưởng, chính trị, xã hội, kinh tế;
Ưu đãi Dân Chủ Tự Do Chân Chính;
Trọng Pháp, Trọng Nhân, Trọng Sinh một
cách mạch lạc, chân chính;
Êm thuận, hài hoà, sáng suốt, khiêm
tốn, quân bình, không thái quá.
Chúng ta cần khẳng định ngay, Người
Việt Tử Tế không thể là người cộng sản, vì căn bản của người cộng
sản đi ngược lại với tất cả các kết tố của NVTT. Hơn nữa cũng
không thể chờ mong người cộng sản “biến hoá” thành NVTT, ngoại
trừ trường hợp họ thực sự, thực tâm thoái đảng và bỏ hẳn lối sống
và tư duy cộng sản.
Nhưng đồng thời, không phải bất cứ ai
cứ “chống cộng” đương nhiên là NVTT. Giả thử người chống CSVN lại
[a] ngoi theo chủ nghĩa phát–xít, độc tài quân phiệt hay [b] hùa
theo đường lối khủng bố của bá đạo Cực–Hồi [ISIS/Islamic State of
Iraq and Syria], hay [c] vẫn quen mui áp dụng thủ đoạn tố khổ,
chụp mũ, vu khống của “địch” CSVN, thì rõ rệt, chống cộng như thế
cũng chả hơn gì, vì vẫn đắm đuối trong vòng luẩn quẩn của tội ác
triệt hạ đời sống và phẩm giá con người.
Trước đây, người Việt Quốc Gia đã có
công mở đường tới ý niệm dân chủ tự do, trọng pháp, trọng nhân.
Nhưng trong một giai đoạn quá ngắn và nhiều trở ngại binh đao bất
ổn, người Quốc Gia qua hai nền Cộng Hoà đã không kịp vẹn toàn sứ
mạng giao phó. Danh hiệu và chức năng “Quốc Gia” chỉ là hình ảnh
ngón tay chỉ dẫn tới “Dân Chủ Tự Do Chân Chính Nhân Bản”, nếu
ngón tay đó thực sự là một “mẫu mực” thẳng thắn, nghiêm chỉnh,
nhân từ, chính đáng, đích thực dẫn đường tới “con người tử tế,
chân chính”.
Nên ngón tay chưa phải là cái “đích tìm kiếm” hay ngưng lại tại
đó. Bản Chất Người Tử Tế Chân Chính của ý niệm “Quốc Gia/không
Cộng Sản” mới là cứu cánh của cuộc hành trình tìm lẽ sống, lẽ
phải.
Vậy,
người Việt Quốc Gia Tỵ Nạn Cộng Sản tại thế giới tự do tân tiến
đã thực hiện được những gì, sau 47 năm sinh sống thoải mái với
đầy đủ phương tiện an cư lập nghiệp, an sinh xã hội, với đầy đủ
thời gian [gấp 2 lần nền Cộng Hoà 1 và 2] để hội nhập nền dân chủ
chân chính trọng pháp, trọng nhân?
Người viết vẫn tin rằng, sau 47 năm hấp
thụ nền nếp dân chủ tự do nhân bản nơi tá túc; sau 47 năm học hỏi
kiến thức cởi mở, đa nguyên, đa dạng; sau 47 năm kinh nghiệm làm
người Việt tự do, tử tế, tự tin, biết rõ quyền hành và trách
nhiệm của mình, đa số công dân Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Hoa
Kỳ và trên toàn thế giới đều trở thành cởi mở, thông minh và can
trường hơn so với quá khứ đen tối trước đây.
Nhưng trong giai đoạn “chuyển tiếp” khá
dài này, vẫn còn sót một thiểu số người Quốc Gia cực đoan, độc
diễn với những thành tích không mấy rõ rệt, dẫm chân tại chỗ, tự
mãn, không cần mở mang trí tuệ, không cần bổ túc nhân cách; cùng
không cần trau dồi kiến thức về mặt pháp lý và công lý nhân
quyền, nên dễ trở thành độc đoán, độc tài, vô hình trung đã đi
ngược lại với sứ mạng và đường lối Dân Chủ Tự Do Nhân Bản Chân
Chính mà Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản thực sự muốn tìm kiếm và hoàn
tất.
2. Người
Việt Tử Tế Là Mẫu Số Chung
Trong 47 năm qua trên mặt công luận,
qua báo sách, truyền thông trên mạng, người Việt chúng ta đã bỏ
quá nhiều công sức “Chống Cộng”. Đó là điều cần làm để bác bỏ,
khai trừ một căn bệnh văn hoá ý thức hệ điên cuồng, ác liệt, phá
hoại nhân phẩm và đời sống con người hơn 75 năm qua tại Việt Nam.
Nhưng nỗ lực kêu đau, gào thét, mắng chửi này chưa đủ, vì khiếm
khuyết đường lối “Vượt Cộng” và “Chữa Cộng”.
Nếu chỉ chẩn bệnh và hô hào thật to đó
là bệnh “Cộng Sản” mà không tìm cách giúp con bệnh “thoát bệnh”,
giúp đương sự khoẻ mạnh lại thì vô hình trung người “chống cộng
suông” chưa phải là một “lương y” hoàn tất trách nhiệm cứu người
bị CSVN ám hại. Một lương y, một y sĩ giỏi phải cấp tốc cho đơn
thuốc điều trị bệnh và chỉ dẫn những biện pháp cần thiết triệt
bệnh và ngừa bệnh.
Nếu chúng ta muốn xóa đói giảm nghèo
ngay trong gia đình chúng ta, thì:
Hãy bớt thì giờ kêu gào, than thân
trách phận hẩm hiu, đói nghèo; mà lập tức học hỏi; tìm hiểu thế
nào là sung túc, là an khang, thịnh vượng; là hãnh diện gia đình,
là hạnh phúc con người biết sống ra sống, biết ăn, biết mặc; và
từ đó tìm cách giải đáp nhu cầu, chu toàn cấp bách giải pháp sinh
sống căn bản/tạo nghiệp/đầu tư nhân sự/phát triển toàn diện/trao
đổi/tích lũy cho tương lai. v.v.
Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại hải
ngoại, những vị cựu tù nhân chính trị/tù nhân lương tâm, những
thành phần tranh đấu, bất đồng chính kiến trong nước đều có thể
đảm nhận nghiệp vụ “lương y”, [a] một mặt xác định rõ thế nào là
căn bệnh “cộng sản”, nhưng lập tức [b] phải điều nghiên, thử
thách, phổ biến thuốc men và phương pháp trị bệnh, ngừa “bệnh
cộng sản”.
Người Việt Tử Tế tại Hải ngoại và trong nước là hiện sinh của
giới “lương y” chữa bệnh cộng sản, khi đối xử với mình và tha
nhân, khi quản trị việc công cũng như tư nghiệp với những nhận
định và tiêu chuẩn như sau:
Tự trọng, Tự Quyết, Tự Chủ về tư tưởng,
chính trị, xã hội, kinh tế;
Ưu đãi Dân Chủ Tự Do Chân Chính;
Trọng Pháp, Trọng Nhân, Trọng Sinh một
cách mạch lạc, chân chính;
Êm thuận, hài hoà, sáng suốt, khiêm
tốn, quân bình, không thái quá.
Chỉ những Công Dân Người Việt Tử Tế,
những đồng bào, đồng hương “Chúng Ta” khi nghiêm nghị, cẩn mẫn,
biết rõ quyền thế và trách nhiệm của mình; biết rõ gốc gác & sứ
mạng nhân từ của chính mình; biết rõ cách sinh sống thuận hoà,
khiêm tốn, quân bình mới thực sự đảm nhận cuộc sống đầy đủ ý
nghĩa ngày hôm nay; mới thực sự đóng góp phúc lợi cho tương lai
dân tộc, cho con cháu chúng ta.
Chúng ta hãy đặt trọng tâm vào giai
đoạn Làm Người Tốt. Làm Người Tử Tế. Đó là một thứ
“Đạo–Việt–Tân–Ước” hay cập nhật thành một Cách–Sống nhân bản tự
tin, nhân chủ và dân chủ; thành trạm tới của Người Việt Tử Tế,
cái bến tạm dung, nhưng toàn mỹ, an lành, khả chấp và khả thi.
Đó sẽ là Không Gian Người Việt Tử Tế,
mở và bao dung, không quá khích, không miệt thị, không kỳ thị.
Tất cả Người Việt chúng ta không cần làm thánh, làm siêu nhân;
nhất là không cần làm “hung thần”, hung tướng, mà chỉ cần hoàn
tất đúng và đủ vị thế của những con người tử tế, chân chính, mạch
lạc; từ bi và hùng dũng. Thế đã là đủ.
Vậy chúng ta hãy níu kéo lại chúng ta
theo hướng đi đó, từng bước ngắn, gọn, rõ rệt, chân thật, công
minh. Không dối lòng. Không dối mình. Không dối người. Không dối
đời.
Và trước
tiên không thể tự bôi nhọ minh, bôi nhọ tha nhân, bôi nhọ cuộc
đời còn lại hay sắp tới.
Chúng ta đều trách nhiệm như nhau, hay
ít ra sẽ phải “đối mặt” với ngần ấy hậu quả, ngần ấy vận mệnh,
ngay trong cuộc sống tập thể hay quan niệm sống từng người, dù
chúng ta nhập cuộc hay không nhập cuộc cũng vậy. Điển hình, chúng
ta đã một lần mất nước. Biết thế nào là mất tất cả, dù muốn, dù
không.
Nhưng
xin đừng mất nốt dân tộc chúng ta.
Vậy, khôn cũng chết, dại cũng chết,
biết thì sống! Ít ra khi nhắm mắt sẽ không tiếc nuối đã bỏ lỡ cơ
hội làm Người Việt Tử Tế.
Trân Trọng.
Cập nhật December 31, 2019–2021
Lưu Nguyễn Đạt, PhD, LLB/JD, LLM
Michigan State University
GHI CHÚ:
[1] Lưu Nguyễn Đạt, “Hoà Hợp Hoà Giải Dân
Tộc” Lúc Này Vẫn Còn Là Trò Bịp Bợm.
[2]
Nói ngon, nói ngọt, và nói dối như «vẹm» [Việt–Minh].
[3] Gulag tên
gọi tắt của Tổng cục Lao cải Liên Xô (Tiếng Nga: Главное
управление исправительно-трудовых лагерей и колоний) của NKVD (Ủy
ban Nhân dân Nội chính).
[4]
Thực ra Chủ tịch Mao Trạch Đông ở bên Tàu mới là người đầu tiện
gọi trí thức là “cục cứt”. Hồ Chí Minh và đồng bọn lây tục ngữ
theo.
[5] Lưu
Nguyễn Đạt, Chủ Nghĩa Be–Bờ & Chiến Tuyến Việt Nam: Từ Chiến Lược
Không “Đánh Thực”, “Không–Cốt–Thắng” Tới Ngày QUỐC HẬN.
[6]
Bên Thắng Cuộc là cuốn sách của nhà báo Huy Đức, gồm hai tập: Tập
1: Giải Phóng và Tập 2: Quyền Bính, được chào bán lần lượt vào 12
tháng 2 năm 2012 và 13 tháng 1 năm 2013 trên Amazon.com, Inc.
[7] Dương Thu
Hương: “30 tháng Tư 75, nền văn minh đã thua chế độ man rợ”.
Tháng Tư năm 2000, nhà văn Dương Thu Hương đã trả lời cuộc phỏng
vấn do Đinh Quang Anh Thái thực hiện và phát thanh trên làn sóng
của đài Little Saigon Radio ở California.
[8] Lưu Nguyễn
Đạt, “Bàn Tay Hy Vọng/Hand of Hope” [đúc bằng ciment cốt
sắt/béton armé, cao 9 ft, móng sâu 9 ft] do LS Lưu Nguyễn Đạt
[Hoạ sĩ, điêu khắc gia, nguyên Tổng Thư Ký hội Hoạ Sĩ Trẻ VN/Sài
Gòn/trước 1975] tạo dựng và tặng Trại TQLC Camp Pendleton, San
Clemente, California vào đúng Ngày Độc Lập July 4, 1975. Tiêu
biểu cho “Hy Vọng” đứng dậy & khởi phát của [hậu duệ] Người Việt
Tỵ Nạn Cộng Sản tại Hoa Kỳ và Thế Giới Tự Do.
[9] Lưu Nguyễn
Đạt, Tự Do Báo Chí: Thế Lực và Trách Nhiệm của Đệ Tứ Quyền.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
|
Hình nền: Đêm Thánh với muôn muôn vàn vì tinh tú... Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Trung Tin Ly chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, November 27, 2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang