Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Hồi
ký Chiến trường
Chủ đề:
Hải Quân VNCH
Tác giả:
Nguyễn Tấn Đơn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời Mở Đầu: Sau ngày Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử.
Đoàn tầu di tản của Hải Quân Việt Nam được Hoa Kỳ tiếp nhận, các
nước tự do trên thế giới cũng mở rộng vòng tay cho đồng bào ruột
thịt chúng ta định cư tị nạn. Tất cả chúng ta là nạn nhân của cộng
sản miền Bắc xâm chiếm miền Nam VN hiền hoà, tự do và hạnh phúc. Giờ
đây trên khắp thế giới đâu đâu cũng có bóng dáng người Việt Nam.
Chắc chắn con cháu chúng ta thuộc những thế hệ sau không khỏi không
thắc mắc, tại sao dân ta lại có mặt ở đây. Công việc của cha ông đời
trước bảo vệ đất nước ra sao, kế hoạch phòng thủ và tinh thần chiến
đấu như thế nào. Ai là bạn, ai là thù, nước nào giúp chúng ta, v.v.
Là người quân nhân gia nhập quân đội, dù trực tiếp hoặc gián tiếp
chúng ta nên góp phần làm chứng nhân lịch sử, để cho thế hệ sau có
dữ liệu phán xét việc làm của các bậc tiền bối. Trong tinh thần đó,
tôi xin góp phần làm viên gạch nhỏ bé của mình vào tòa nhà “Hải Sử
HQVN”. Một Quân Chủng có quá trình trên 20 năm bảo vệ tổ quốc. Đề
tài đó là cuộc hành quân tuần tiễu duyên phòng bảo vệ lãnh hải, được
tổ chức hỗn hợp Việt–Mỹ có tên “MARKET TIME OPERATION.” Tiền thân
của Hành Quân Lưu Động Biển: Lực Lượng Đặc Nhiệm Duyên Phòng 213 sau
này. Sự việc xảy ra cách nay đã trên 35 năm. Tôi chỉ trình bày phần
cơ bản, khi tình thế, hoàn cảnh cũng như nhu cầu, tổ chức và các Lực
Lượng thêm hay bớt là việc thường xảy ra khi hữu sự.
Nguyễn Tấn Đơn
I – Tổ chức và hoạt động của CTF–115
Ngày 08 tháng 03 năm 1965 Tổng thống Mỹ
JOHNSON đã cho quân lực Hoa Kỳ đổ bộ vào duyên hải Đà Nẵng, song
song việc trên thì các thành phần liên kết với bộ binh là không
quân và hải quân cũng đã đồng loạt tăng cường.
Riêng về hải quân thì đầu năm 1965,
TASK FORCES 115 được thành lập. Bộ Tư Lệnh của CTF–115 (Coastal
Task Force) đóng tại Cam Ranh. Cuộc hành quân tuần tiễu trên biển
của hải quân Mỹ và hải quân VN được phối hợp chung và đặt tên là:
MARKET TIME OPERATION. Từ đó hải quân VN đảm trách tuần tiễu cận
duyên (Inner Barrier). Hải quân Mỹ đảm trách tuần tiễu viễn duyên
(Outer Barrier).
Đứng trước những hoạt động phối hợp qui
mô, cấp bách và bất ngờ đó. Bộ Tư Lệnh Hải quân VN đã chỉ định
một số đông các sĩ quan hải quân: khóa 11, 12, và 13 đảm trách
công việc sĩ quan liên lạc (Liaison Officer) trên các chiến hạm
Mỹ, các khóa kế tiếp như khoá 14 trở đi, sau thời kỳ thực tập mãn
khoá trên Đệ 7 Hạm Đội xong cũng lần lượt được chỉ định thay thế
các khoá đàn anh. Khi đó HQ Đại úy Nguyễn Văn May trưởng phòng 3
BTL/HQ coi như là cha đẻ của thành phần sĩ quan liên lạc này.
Chiến hạm Mỹ tham gia vào các chiến trường miền nam là thuộc vào
Lực Lượng của đệ 7 Hạm Đội tăng phái cho CTF–115. Đệ 7 Hạm Đội
lúc đó có cả thảy 125 chiến hạm đủ loại, gồm 4 Hàng Không Mẫu Hạm
và thường trực có mặt 2 chiếc còn 2 chiếc luân phiên nghỉ bến và
tu bổ, trong số đó có chiếc CVAN 65 USS Enterprise là nguyên tử.
Một Pháo Hạm cỡ lớn là USS NEW JERSEY có nòng súng cỡ 16 Inch,
rất nhiều Đ, ĐG, DER, DLG, FRIGATE, MSO, MSC, PB, tàu ngầm, tàu
dân sự, tàu dầu, tàu tiếp tế, v.v. Trong số đó có một chiến hạm
đặc biệt duy nhất của Mỹ thuộc loại Degausing ship, đây là một
chiến hạm có hình dạng như loại PC (Patrol Craft) loại PC thì
trước đây HQVN đã được hải quân Pháp chuyển giao từ năm 1952 như
HQ02, HQ03, HQ04, HQ05, HQ06.
Đến năm 1965 vì các chiến hạm trên quá
cũ nên phế thải, chiến hạm Degausing ship này hoàn toàn không có
vũ khí, chỉ có súng cá nhân mà thôi. Lúc đó tôi và anh Lê Kim Lợi
khóa 11 SQHQ/NT cùng đi trên chiếc này. Sau vài hôm thì tôi được
chuyển qua Đ666 USS BLACK. Chiến hạm đầu tiên mà tôi nhận nhiệm
vụ làm SQLL là Đ446 USS RADFORD. Chiến hạm đến Vũng Tàu nhận tôi
nhập hạm, Hạm Trưởng là 1 vị Đại tá, ông ta rất thích câu cá giải
trí, 3 lần thả xuồng nhỏ chở tôi cùng đi câu cá ngoài khơi Phan
Thiết phiá nam đảo Cù Lao Thụ. Sau 6 tuần lễ, chiến hạm mãn công
tác, không vào bến mà chuyển giao tôi ngay giữa biển khơi cho 1
tầu khác bằng cách cho đi Highline. Lần đầu tiên đi Highline cũng
thấy thích thú.
Nói đến Highline thì trên Đệ 7 Hạm Đội,
ngoại trừ biển quá động mạnh mới sử dụng đến trực thăng. Thường
thì mọi trao đổi qua lại đều dùng Highline rất thông lệ. Đêm nào
trên tầu cũng có chiếu phim cho sĩ quan và đoàn viên giải trí.
Thông thường trên một chiến hạm Mỹ là có một SQHQVN làm liên lạc.
Nhiệm vụ của SQLL là khám xét các ghe khả nghi, liên lạc và thông
dịch. Thời gian của mỗi chuyến công tác là từ 6 đến 8 tuần lễ thì
có hẹn để thay thế. Khi được thay thế để nghỉ tại bờ, thì các
SQLL đảm trách trực phiên tại các Trung Tâm Kiểm Soát duyên hải
vùng (gọi là CSC: Coastal Surveillence Center). Tôi đảm trách
công việc SQLL hơn 1 năm thì đến giữa năm 1966 tôi nhận nhiệm vụ
khác. Song song với việc chiến hạm tuần tiễu trên biển, CTF–115
còn sử dụng luôn cả phi cơ không tuần loại P2V xuất phát từ căn
cứ không quân UTAPAO của Thái Lan để thám sát cách xa bờ vài trăm
hải lý. Bản thân tôi trong khi làm SQLL cũng có tham gia một
chuyến không tuần trên phi cơ C47 của Không Lực VNCH, quan sát
ven duyên hải từ Vũng Tàu ra Phú Quốc rồi vòng trở lại đường cũ
và đáp xuống Tân Sơn Nhứt.
Đầu năm 1969, sau khi Tổng thống Mỹ
RICHARD NIXON đắc cử, thì cuộc hành quân phối hợp bắt đầu chuyển
hướng. Chính sách mới của Tổng thống Mỹ thực thi đúng lời hứa khi
ra tranh cử là rút quân đội ra khỏi VN. Giao lại cuộc chiến cho
người VN đảm trách. Lúc đó toàn thể QLVNCH rất cần người để chuẩn
bị trám vào chỗ mà quân lực Mỹ sẽ rút đi.
Tư Lệnh HQVNCH lúc này là Đề Đốc Trần
Văn Chơn đã khẩn cấp ra chỉ thị thành lập các Lực Lượng mới:
* Lực Lượng Thủy–Bộ. Tức là: Lực Lượng
Đặc Nhịêm 211.
* Lực Lượng Tuần Thám:
Lực Lượng Đặc Nhiệm 212.
* Lực Lượng
Duyên phòng: Lực Lượng Đặc Nhiệm 213.
*
Lực Lượng Trung Ương: Lực Lượng Đặc Nhiệm 214.
Cuối năm 1969, sau khi rời chiến hạm
HQ613, tôi được chuyển về LLĐN–213 tại Cam Ranh. LLĐN–213 là một
đơn vị tân lập, dự tính đơn vị này sẽ thay thế chỗ của CTF–115
sau khi Mỹ rút lui. Tôi đáo nhậm đơn vị mới ngày 15/11/1969 trong
Căn Cứ MARKET TIME. Lúc này đơn vị toàn là người Mỹ, mới đầu chỉ
có vài sĩ quan và đoàn viên đến để tập sự phiên trực tại Trung
Tâm Hành Quân Cam Ranh của CTF–115. Tại đây người Mỹ cung cấp nơi
ăn, chỗ ở cho toàn bộ người VN nếu còn ở bên trong Căn Cứ hải
quân/CR thì hoàn toàn miễn phí. Tại đây tôi bắt đầu nghiên cứu và
làm quen với công việc và tổ chức của CTF–115. Ba tuần sau thì
nhân vật số 3 của LLĐN–213 là HQ Thiếu tá Bùi Trọng Kim (Khóa 9
SQHQ/NT) đến Cam Ranh, gia nhập vào đơn vị tân lập. Bốn tuần sau
thì nhân vật số 2 của LLĐN–213 là HQ Trung tá Nguyễn Bá Trang đến
đơn–vị. Một tuần lễ sau nhân vật số 1 của LLĐN–213 là HQ Đại tá
Nguyễn Hữu Chí ra đảm nhận chức vụ Tư Lệnh LLĐN–213. Như vậy vào
tháng 2 năm 1970 LLĐN–213 và CTF–115 hoạt động song hành, các đơn
vị bắt đầu chuyển giao nhiệm vụ.
Cũng cần nói riêng thêm về nhân vật số
2 là Trung tá Trang, sau này vào đầu năm 1975, khi tôi phục vụ
tại chiến hạm HQ404, có lần công tác tại Bình Thủy, tôi gặp lại
sếp cũ, lúc này là Đại tá Tư Lệnh Lực Lượng Thủy–Bộ 211. Sau
30/04/75 thì cũng gặp lại sếp cũ, cùng ở tù chung tại trại Suối
Máu Biên Hoà, cùng với các vị như: Đại tá Nguyễn Văn Tấn, Đại tá
Nguyễn Viết Tân, Đại tá Nguyễn Văn May, Đại tá Nguyễn Văn Kinh
(Tuần Giang), cựu Đại tá Đinh Công Chấn. Riêng về Đại tá Nguyễn
Văn Tấn (AN/HQ), sau khi các chiến hạm rút khỏi cảng Sài Gòn đêm
29/04/75. Sáng ngày 30/04/75, các sĩ quan còn lại cũng mặc quân
phục cấp bậc đầy đủ vào BTL/HQ xem coi có việc gì đã xảy ra, kể
cả sĩ quan các chiến hạm còn lại cũng tập trung tại CLB nổi (tuy
không bắt buộc). Sau đó Đại tá Tấn mời 1 sĩ quan Việt Cộng vào
nói chuyện, hắn nói dài, nói dai và nói dóc. Hắn khoe miền Bắc
văn minh hơn, có 2 lò luyện thép, còn miền Nam thấy vậy mà phồn
vinh giả tạo, chỉ biết ăn bám của nhân dân. Rồi đây ai cũng có
việc làm. Cuộc nói chuyện hơn một tiếng thì giải tán, mạnh ai về
nhà nấy thay thường phục, để rồi lần lượt gặp nhau trở lại tại
các nhà tù.
Tháng 5 năm 1976, chúng tôi lần lượt được chuyển ra miền Bắc bằng
tầu thủy từng đợt khác nhau. Từng đoàn xe MOLOTOVA bít bùng chở
chúng tôi từ trại Suối Máu: K1, K2, K3, K4, K5, đến bến tàu là 12
giờ khuya. Xe mở tấm che cho tù nhân bước xuống sắp hàng. Lúc đó
tôi mới nhận ra nơi đây là Tân Cảng, chiếc tàu chở chúng tôi tên
là Sông Hương. Cũng tại bến cảng này trước đây tôi cũng đã cập
bến lấy hàng mỗi khi công tác. Cũng tại bến cảng này ngày
04/03/75 tôi đã bàn giao HQ404 cho HQ Trung tá Nguyễn Đại Nhơn
(Khóa 10 SQHQ/NT). Từ đây có thể nhìn thấy những nóc nhà của Cư
Xá Cửu Long Thị Nghè. Trong cư xá đó gia đình tôi vẫn còn đang cư
ngụ. Tuy thông cáo nói là đi 30 ngày mà nay thời gian đã gần 1
năm rồi, bây giờ lại tiếp tục đưa ra Bắc, ngày về thật là mù mịt.
Từ ngày cộng sản chiến thắng đến nay, chúng đã áp đặt lên nước VN
một chính sách man rợ. Đây là câu nói của nhà văn Dương Thu Hương
mà tôi thấy rất xác thực. Sau năm 1975 có đi tù, tuy có cực nhọc
về thể xác nhưng cũng có lúc cười ra nước mắt vì sự ngu dốt, ngớ
ngẩn của bọn chỉ huy cộng sản. Bọn VC chỉ giỏi về chính trị học
thuộc lòng. Khi ai đã tham dự vài bài học chính trị do bọn cán bộ
lên lớp, sau đó mọi người đều phát biểu trở lại y như nhau. Trong
1 tổ chừng 10 người là 10 lần phát biểu thì sau đó ai cũng thuộc
lòng và ai cũng có thể phát ngôn như là đã từng làm cán bộ chính
trị. Tuy nhiên về trình độ văn hoá, kiến thức chung của văn minh
nhân loại thì họ rất kém nếu không nói là ngu dốt. Cho nên họ rất
dị ứng với giới trí thức. Vì chỉ có giới trí thức mới nhận ra
thiên đường mù của họ. Mới đây, nhân dịp 30/04/2000, Thượng Nghị
Sĩ Mỹ JOHN MC CAIN khi đến thăm VN đã phát biểu cảm tưởng: “Chiến
thắng được trao lầm tay”. Thật là đúng hết chỗ nói. Có đi tù ra
miền Bắc mới thấy bọn CS đã kéo lùi miền Bắc lại sau miền Nam vài
thập niên thua xa. Nay, sau 25 năm, chế độ man rợ đã kéo lùi toàn
bộ đất nước tụt hậu so với các nước Đông Nam Á. Những gì đã có
tại miền Nam, thì chế độ man rợ đã xóa bỏ tất cả sau ngày
30/04/75. Đến năm 1986 thì mới lượm lặt những cái trước đây đã bỏ
đi, nay chùi rửa và đánh bóng lại đem ra xài gọi là mở cửa, gọi
là đổi mới.
Trở lại hoạt động của Trung Tâm Hành Quân CTF–115. Khi LLĐN–213
đã có Tư Lệnh và Tư Lệnh Phó thì công việc hàng ngày đều kết hợp
với Mỹ. Phần việc của tôi là đảm trách thuyết trình tin tức
(Briefing). Một tuần làm việc 6 ngày trừ chúa nhật. Mỗi sáng lúc
9AM là giờ thuyết trình, trước giờ đó các sĩ quan của CTF–115 và
CTF–213 có mặt. Khi 2 vị Tư Lệnh vào thì cuộc thuyết trình bắt
đầu. Trước tiên Trưởng Phòng hành quân CTF–115 thuyết trình: Tình
trạng chiến hạm đệ 7 Hạm Đội tham dự tuần tiễu, các sự kiện xảy
ra trong ngày như yểm trợ hải pháo, các sự thiệt hại, kết quả
không tuần, các hoạt động sắp tới, tình trạng các WPB và PCF tại
các Hải Đội, cuối cùng là tin khí tượng. Kế đó sĩ quan VN của
CTF–213 thuyết trình về tình trạng chiến hạm VN tham dự, các biến
cố trong ngày xảy ra tại các Vùng Duyên Hải, các cuộc hành quân
đổ bộ và kết quả, thiệt hạị Sau cùng là các bài thuyết trình của
sĩ quan tình báo Mỹ và Việt, phía VN thì khi đó là Đại úy HQ CB
Nguyễn Đức Biền đảm trách. Đặc biệt khi có quan chức cao cấp thăm
viếng thì phải thuyết trình toàn bộ tổ chức và họat động của Lực
Lượng. Đầu năm 1970 Đề Đốc WARS Tư Lệnh Thái Bình Dương đến, thì
cuộc thuyết trình không tổ chức tại Trung Tâm Hành Quân mà tại
phòng họp lớn của Trung tá Chỉ huy trưởng Căn cứ. Trong thời gian
làm việc tại CTF–213 tôi có soạn thảo tập “Huấn Lệnh Hành quân”
cho LLĐN–213, dựa vào SOP (Standard Operation Procedure) của
CTF–115 và các văn thư căn bản của BTL/HQ.
Tháng 10 năm 1970 tôi được thuyên
chuyển về HĐ5/DP. Hải Đội 5 duyên phòng lúc bấy giờ có 36 chiếc
PCF, hậu cứ đặt tại Căn cứ Hải quân/Mỹ Tho, do HQ Trung tá Phạm
Gia Luật chỉ huy. HĐ5DP đã tăng phái 12 PCF cho V5DH tham dự hành
quân Trần Hưng Đạo 1, một chi đội gồm 12 PCF tăng phái cho hành
quân THĐ 18 tại biên giới Việt–Campuchia. Số PCF còn lại thì tu
bổ và sửa chữa tại Cát Lở.
II – Thống Thuộc Của CTF–115
CTF–115 nhận mệnh lệnh từ Tư Lệnh Hải
Quân Hoa Kỳ tại Việt Nam, lúc đó là Đô Đốc ZUMWALT. Thống thuộc
hành quân như sau:
A) CTG: Coastal Task Group (gọi là Liên
Đoàn Đặc Nhiệm). Có tất cả 5 Liên Đoàn Đặc Nhiệm (CTG):
CTG 115.1 do Cố vấn trưởng V1ZH
Đảm–nhiệm.
CTG 115.2 do Cố vấn trưởng
V2ZH Đảm–nhiệm.
CTG 115.3 do Cố vấn
trưởng V3ZH Đảm–nhiệm.
CTG 115.4 do Cố
vấn trưởng V4ZH Đảm–nhiệm.
CTG 115.5 do
Cố vấn trưởng V5ZH Đảm–nhiệm.
Lúc đầu thì CTF–115 ra lệnh hành quân
cho Cố vấn trưởng của mỗi Vùng Duyên Hải, dĩ nhiên giữa Cố Vấn và
Tư Lệnh Vùng chỉ là một. Vì những gì Cố Vấn cần là Tư Lệnh Vùng
đồng ý và ngược lại. Đó là sự phối hợp theo thống thuộc.
Tại mỗi CTG đều có 1 C.S.C (Coastal
Serveillence Center). Tất cả CSC của các vùng đều đặt tại Trung
Tâm Hành Quân Vùng.
B) CTU: Coastal Task Unit (gọi là Phân
Đoàn Đặc Nhiệm).
CTU 115.2.1. Đồn trú tại Qui Nhơn, Trực
thuộc: CTG 115.2
CTU 115.2.2. Đồn trú tại Cam Ranh, Trực
thuộc: CTG 115.2
C) CTE: Coastal Task Element (gọi là
Chi Đoàn Đặc Nhiệm). Chi Đoàn Đặc Nhiệm chỉ được thành lập khi có
nhu cầu hành quân.
D) Ngoài ra tại mỗi CTG đều có Hải Đội
Duyên Phòng để quản lý các WPB và PCF của Task Force 115. Cấp số
nhân viên của 1 WPB là 3 sĩ quan và 8 đoàn viên. PCF là 2 sĩ quan
và 3 đoàn viên.
III – Thành Phần Tham–Dự: Market Time
Operation.
1)
Đệ 7 Hạm Đội: Thường xuyên có 2 Hàng Không Mẫu Hạm, 1 chiếc hoạt
động vùng phía Bắc, 1 chiếc hoạt động vùng phiá Nam và vịnh
Thái–Lan. Dĩ nhiên khi có mặt của HKMH là sự có mặt của Bình
Phong đội hình gồm tầu ngầm, Đ, ĐG, DER, DE, MSO, .v.v.
Đệ 7 Hạm Đội đảm trách 8 vùng viễn
duyên (Outer Barrier) bằng các chiến hạm đủ loại như: Đ, ĐG, DLG,
DER, FRIGATE, MSO, MSC, v.v. Đầu năm 1970 thì chiến cuộc được nới
rộng qua biên giới CAMPUCHIA, hộ tống các đoàn tầu di chuyển trên
sông tiếp tế cho thủ đô Phnom Penh do hành quân Trần Hưng Đạo 18
đảm trách. Trong khi đó ngoài biển khơi thì CTF–115 mở thêm 1
vùng viễn duyên thứ 9, bao bọc ngoài cảng KOMPONGSOM.
2) Không Tuần: Loại phi cơ P2V xuất
phát từ phi trường UTAPAO thường xuyên tuần thám cách xa bờ vài
trăm hải lý. Hoạt động 24/24.
3) Các đài RADAR kiểm báo. Tầm hoạt
động hữu hiệu trên 50 hải lý:
ĐKB 101 tại núi La Ngữ (Huế).
ĐKB 102 ở Sơn Trà.
ĐKB 103 tại Cù Lao
RÉ.
ĐKB 104 ở Sa Huỳnh–Đức Phổ.
ĐKB 201 ở Poulo Gambir
ĐKB 202 ở Hòn
Tre.
ĐKB 203
ĐKB 204
ĐKB 301 ở núi Takơ Bình Tuy.
ĐKB 302 tại Núi Lớn.
ĐKB 303 tại Đảo Côn
Sơn.
ĐKB 304 tại chiến hạm neo ngoài
khơi Ba Động.
ĐKB 401 tại PouLo Obi.
ĐKB 402 tại Poulo Dama.
ĐKB 403 tại Hòn
Tre (Hà Tiên).
ĐKB 404 tại Đồi 162 (An
Thới–Phú Quốc).
4) Các chiến hạm thuộc BTL/Hạm Đội VN
tăng phái cho các Vùng DH.
5) Các Tuần Duyên Đĩnh WPB và Khinh Tốc
Đĩnh PCF thuộc các Hải Đội Duyên Phòng trực thuộc tăng phái:
–HĐ1/ZP đồn trú tại Đà Nẵng: 7WPB và 20
PCF.
–HĐ2/ZP đồn trú tại Qui Nhơn: 8 WPB
và 20 PCF.
Hải
Đội 2 Duyên Phòng được chia thành 2 Phân Đội: PĐ21/ZP tại hậu cứ
Qui Nhơn. PĐ22/ZP hậu cứ tại Cam Ranh. Riêng tại Cam Ranh còn có
thêm 4 PG (Patrol Gunboat), được CTF–115 sử dụng vào việc tuần
dương, tầu có vận tốc nhanh, trang bị hỏa lực mạnh hơn, có cả 2
giàn phóng TORPEDo.
–HĐ3/ZP đồn trú tại Cát Lở: 6 WPB và 20
PCF.
–HĐ4/ZP đồn trú tại An Thới: 4 WPB
và 20 PCF.
–HĐ5/ZP đồn trú tại Năm Căn:
36 PCF.
Hậu cứ
của HĐ5/ZP trong giai đoạn đầu mới thành lập thì di động tùy theo
nhu cầu tham dự hành quân.
6) Các Vùng Duyên Hải đảm trách tuần
tiễu cận duyên (Inner Barrier). Dọc theo duyên hải VNCH lúc đầu
được chia thành 51 vùng. Năm 1970 vì nhu cầu yểm trợ hành quân
THĐ 18 nên tăng thêm 3, thành ra 54 vùng cận duyên.
–V1/ZH: Tư Lệnh V1ZH kiêm nhiệm CTG
115.1. Đồn trú tại Đà Nẵng, ranh giới lãnh hải bắt đầu từ Vĩ
tuyến 17 xuống đến giáp ranh Quảng Ngãi và Sa Huỳnh. Được chia
thành 11 vùng cận duyên, cách bờ 12 hải lý. Lực lượng cơ bản gồm
có 6 Duyên Đoàn và 1 Thủy Xưởng, CCHQ/ĐN và các Giang Đoàn tăng
phái.
–Duyên
Đoàn 11: đồn trú tại Cửa Việt.
–Duyên
Đoàn 12: đồn trú tại Thuận An.
–Duyên
Đoàn 13: đồn trú tại Tư Hiền.
–Duyên
Đoàn 14: đồn trú tại Hội An.
–Duyên Đoàn
15: đồn trú tại Chu Lai.
–Duyên Đoàn 16:
đồn trú tại cửa Cổ Luỹ Quảng Ngãi.
–V2/ZH: Tư Lệnh V2ZH kiêm nhiệm CTG
115.2. Đồn trú tại trại Tây Kết (CCHQ/NhaTrang) đến năm 1972 thì
BTL/V2ZH di chuyển về Cam Ranh trong CCHQ/Cam Ranh. Ranh giới
lãnh hải bắt đầu từ Sa Huỳnh xuống đến mũi Kê Gà–Phan Thiết. Được
phân chia thành 13 vùng cận duyên, cách bờ 12 hải lý. Lực Lượng
cơ hữu gồm có 8 Duyên Đoàn và 2 Thủy Xưởng (1 tại Cam Ranh và 1
tại Qui Nhơn, trước năm 1972 Thủy Xưởng Nha Trang còn hoạt động).
Có 3 Căn cứ: CCHQ/QN, CCHQ/NT, CCHQ/CR.
–Duyên Đoàn 21: đồn trú tại Đề Gi.
–Duyên Đoàn 22: đồn trú tại Poulo Gambir.
–Duyên Đoàn 23: đồn trú tại Sông Cầu.
–Duyên Đoàn 24: đồn trú tại Tuy Hoà.
–Duyên Đoàn 25: đồn trú tại Hòn Khói.
–Duyên Đoàn 26: đồn trú tại Bình Ba.
–Duyên Đoàn 27: đồn trú tại Ninh Chữ–Phan Rang.
–Duyên Đoàn 28: đồn trú tại Phan Thiết.
V2/ZH đảm trách 13 vùng cận duyên.
–V3/ZH: Tư Lệnh V3ZH kiêm nhiệm CTG
115.3. Đồn trú tại Cát Lở. Ranh giới lãnh hải bắt đầu mũi Kê Gà
đến cửa Định An, được phân chia thành 11 vùng cận duyên bao gồm
Đặc Khu Côn Sơn. Lực Lượng cơ hữu gồm có 7 Duyên Đoàn, Thủy Xưởng
Vũng Tàu và Căn cứ hải quân Cát Lở.
–Duyên Đoàn 31: đồn trú tại cửa Hàm
Tân.
–Duyên Đoàn 32: đồn trú tại Bến
Đình–Vũng Tàu.
–Duyên Đoàn 33: đồn trú
tại Rạch Dừa.
–Duyên Đoàn 34 và 37: đồn
trú tại Tiệm Tôm–Bến Tre.
–Duyên Đoàn
35: đồn trú tại Hưng Mỹ–Trà Vinh.
–Duyên
Đoàn 36: đồn trú tại Long Phú.
–V4/ZH: Tư Lệnh V4ZH kiêm nhiệm CTG
115.4. Đồn trú tại An Thới–Phú Quốc. Ranh giới lãnh hải bắt đầu
từ cửa sông Ông Đốc đến biên giới Việt–Campuchia, được phân chia
thành 12 vùng cận duyên. Lực Lượng cơ hữu gồm có 6 Duyên Đoàn,
Thủy Xưởng và Căn cứ hải quân An Thới.
–Duyên Đoàn 42: đồn trú tại Hòn Nam Du,
sau này di chuyển về AnThới 1 Phân Đội, còn 1 Phân Đội đóng tại
Poulo Panjang.
–Duyên Đoàn 43: đồn trú tại Cửa Sông
Ông Đốc, sau di chuyển về đảo Hòn Tre–Rạch Giá.
–Duyên Đoàn 44: đồn trú tại Kiên
An–Rạch Giá.
–Duyên Đoàn 45: đồn trú tại Bắc Đảo–Phú Quốc, sau chuyển về Hà
Tiên.
–Duyên
Đoàn 46 và 47: đồn trú tại An Thới.
–V5/ZH: Tư Lệnh V5ZH kiêm nhiệm CTG
115.5. Đồn trú tại Năm Căn, ranh–giới lãnh hải bắt đầu từ cửa
Định An đến bờ nam cửa sông Ông Đốc. Được phân chia thành 7 vùng
cận duyên và 2 cửa sông Năm Căn (từ cửa Bồ Đề đến cửa Bảy Hạp),
sông Đồng Cùng và chi khu Năm Căn. Lực Lượng cơ hữu gồm có Duyên
Đoàn 41, Căn cứ hải quân Năm Căn và các đơn vị tăng phái:
– Giang Đoàn 43 Ngăn Chặn tăng phái.
– Giang Đoàn 53 Tuần Thám tăng phái.
–
Giang Đoàn 71 Thủy–Bộ tăng phái từ năm 1973.
– Duyên Đoàn 36 tăng phái tuần tiễu từ cửa Định An.
– Duyên Đoàn 41 đồn trú tại PouLo Obi.
Tổng số Duyên Đoàn của 5 Vùng Duyên Hải
là: 28 đơn vị chiến đấu vừa có khả năng tuần tiễu cận duyên, vừa
có khả năng hành quân đổ bộ. Lực Lượng của các đơn vị này gồm có
ghe Chủ Lực (Command junk), ghe Di Cư, ghe Buồm, đó là trong giai
đoạn từ năm 1961 đến năm 1967. Đầu năm 1968 trở đi, Hải Quân Công
Xưởng đã đóng xong các loại ghe Xi–măng, ghe YABUTA, tất cả trang
bị máy dầu cặn có công xuất lớn để thay thế số ghe cũ. Mỗi Duyên
Đoàn được trang bị theo cấp số: 3 ghe chủ lực, 20 ghe Yabuta.
Quân số mỗi đơn vị khoảng 100, trong đó có 5 sĩ quan, 20 hạ sĩ
quan.
Sơ đồ
Khi chuyển giao cho CTF–213 thì tổ chức
cũng như vậy và đổi thành:
CTF = LLĐN–213 (Lực Lượng Đặc Nhiệm)
CTG = LĐĐN (Liên Đoàn Đặc Nhiệm)
CTU = PĐĐN (Phân Đoàn Đặc Nhiệm)
CTE =
CĐĐN (Chi Đoàn Đặc Nhiệm)
IV – Chương
Trình ACTOV và ACTOVRAD
ACTOV (Accelerated Turnover To The
VietNamese) và ACTOVRAD cũng là nằm trong chương trình ACTOV và
chuyển giao thêm vô tuyến điện tử như Radar của các đài kiểm báo.
Hệ thống truyền tin như viễn–ấn–tự hữu tuyến, vô tuyến và phương
tiện liên lạc, v.v.
Khi BTL/LLĐN–213 được hình thành tại
Cam Ranh thì CTF–115 chuyển giao công việc lần lượt lại cho HQVN
đảm trách. Trong năm 1970 bắt đầu chuyển giao các WPB, PCF, đặc
biệt có 4 chiếc PG tại Cam Ranh thì Hoa Kỳ không giao. Các đài
Kiểm Báo, hệ thống truyền tin lần lượt được chuyển giao. Ngay tại
Trung Tâm Hành Quân Cam Ranh được trang bị một hệ thống liên lạc
Hotline, lúc bấy giờ xem như rất hữu hiệu cho các cuộc liên lạc
nhanh chóng, sĩ quan trực phiên muốn gọi đến các Trung Tâm Kiểm
Soát duyên hải kể cả Phú Quốc đều được đáp ứng ngay tức thờị đặc
biệt có 1 điện thoại loại tối mật được đặt trong tủ với 2 lớp
khoá mã số (dành riêng cho CTF–115 có thể liên lạc thẳng Ngũ Giác
Đài).
Về không
tuần thì Hoa Kỳ vẫn còn tiếp tục trợ giúp phi cơ P2V cho đến năm
1973 sau Hiệp Định Paris. Nhìn chung LLĐN–213 dựa vào cơ cấu của
CTF–115 để lại, riêng các vùng viễn duyên (outer barrier) thì các
chiến hạm của Hạm Đội VN thay thế cho Đệ 7 Hạm Đội. Do đó Hải
Quân Hoa Kỳ chuyển giao cho HQVN nhiều chiến hạm như sau:
–Năm 1970 chuyển giao:
–HQ13 (Hộ Tống Hạm Hà Hồi). Vi Hạm
trưởng sau cùng là HQ Thiếu tá Phạm Thành (Khoá 13 SQHQ/NT). Vào
những ngày cuối tháng 3 năm 1975, trong khi tham dự yểm trợ công
tác rút quân tai V1ZH, bất ngờ bị máy bay bắn lầm, gây thương
vong cho một số thủy thủ đoàn, chiến hạm cũng bị hư hại, chiến
hạm được lệnh rời vùng hành quân để trở
[về]
Sài Gòn sửa chữa.
Đêm 29/04/75 chiến hạm vẫn còn bất khiển dụng nên bị bỏ lại, sau
này VC tái sử dụng.
–HQ14 (Hộ Tống Hạm Vạn Kiếp). Vào giữa
tháng 3/75 chiến hạm bị một quả Rocket do phi cơ F5 bắn lầm,
trong lúc công tác tại V1ZH như HQ13, gây thương–vong cho một số
thủy thủ đoàn. Tuy nhiên tình trạng chiến hạm không bị hư hại
nặng.
–HQ472
và HQ473 (Loại tầu chở dầu).
–HQ504 (Dương Vận Hạm Qui Nhơn). HQ504
bị bỏ lại, VC huy động thủy thủ đoàn tái sử dụng ngay vào các
công tác chuyển vận. Vị Hạm trưởng sau cùng là HQ Trung tá Nguyễn
Như Phú (Khoá 13 SQHQ/NT). Lại trình diện đi tù và bị chuyển ra
Bắc.
–HQ505
(Dương Vận Hạm Nha Trang). Vị Hạm trưởng sau cùng là HQ Trung tá
Nguyễn Văn Nhượng (Khoá 9 SQHQ/NT).
–HQ800 (Cơ Xưởng Hạm Mỹ Tho). Được
chuyển giao vào tháng 10. Vị Hạm trưởng sau cùng HQ Trung tá
Dương Hồng Võ (Khoá 9 SQHQ/NT).
–Năm 1971: Chuyển giao:
–HQI (Khu trục Hạm Trần Hưng Đạo) Loại
DER. Được chuyển giao cho HQVN vào tháng 2. Tư Lệnh HQ đặt chiến
hạm này vào vị trí Soái Hạm. Vị Hạm trưởng sau cùng là HQ Trung
tá Nguyễn Địch Hùng (Khóa 3 Brest, trường sĩ quan hải quân bên
Pháp), tương đương khoá 6 SQHQ Nhatrang.
–HQ4 (Khu trục Hạm Trần Khánh Dư) Loại
DER. Được chuyển giao vào tháng 9. Đây là chiến hạm trực tiếp
tham dự trận Hải Chiến Hoàng Sa với hải quân Trung Cộng vào đầu
năm 1974. Vị Hạm trưởng sau cùng là HQ Trung tá Vũ Hữu San (Khóa
11 SQHQ/NT). Ngày rút khỏi cảng Sài Gòn thì chiến hạm còn đang
sửa chữa và bất khiển dụng nên bị bỏ lại. Sau này VC cho tái sử
dụng.
–HQ02
(Tuần Dương Hạm Trần Quang Khải) Loại WHEC. Được chuyển giao vào
tháng 1. Vị Hạm trưởng sau cùng là HQ Trung tá Đinh Mạnh Hùng
(Khoá 11 SQHQ/NT).
–HQ03 (Tuần Dương Hạm Trần Nhật Duật)
Loại WHEC. Được chuyển giao vào tháng 1. Vị Hạm Trưởng sau cùng
là HQ Trung tá Nguyễn Kim Triệu (Khoá 7 SQHQ/NT).
–HQ05 (Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng)
Loại WHEC. Được chuyển giao vào tháng 12. HQ05 cũng trực tiếp
tham–dự trận Hải chiến Hoàng Sa đầu năm 1974. Vị Hạm trưởng sau
cùng là HQ Trung tá Phạm Trọng Quỳnh (Khoá 11 SQHQ/NT).
–HQ06 (Tuần Dương Hạm Trần Quốc Toản)
Loại WHEC. Được chuyển giao vào tháng 12. Vị Hạm trưởng sau cùng
là HQ Trung tá Nguyễn Phước Đức (Khoá 9 SQHQ/NT).
–HQ801 (Cơ Xưởng Hạm Cần Thơ). Vị Hạm
trưởng sau cùng là HQ Thiếu tá Nguyễn Phú Bá (Khoá 11 SQHQ/NT).
Lại đi tù cùng số phận như chúng tôi.
–HQ802 (Cơ Xưởng Hạm Vĩnh Long).Vị Hạm
trưởng sau cùng là HQ Trung tá Vũ Quốc Công (Khoá 10 SQHQ/NT).
–Năm 1972 chuyển giao tiếp:
–HQ15 (Tuần Dương Hạm Phạm Ngũ Lão)
Loại WHEC. Được chuyển giao vào tháng 7. Ngày rời bến, chiến hạm
vẫn còn bất khiển dụng nên bỏ lại, sau này VC cho sửa chữa và tái
sử dụng. Vị Hạm trưởng sau cùng là HQ Trung tá Lê Văn Quý (Khoá
11 SQHQ/NT).
–HQ16 (Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt) Loại WHEC. Được chuyển giao
vào tháng 6. HQ16 cũng trực tiếp tham dự trận Hải chiến Hoàng Sa
đầu năm 1974, dưới sự chỉ huy của vị Hạm trưởng lúc bấy giờ là HQ
Trung tá Lê Văn Thự (khóa 10 SQHQ/NT). Vị Hạm trưởng sau cùng là
HQ Trung tá Trần Trọng Hải (khoá 11 SQHQ/NT). Sau 30/04/75 Trung
tá Hải ở lại trình diện đi tù và cũng bị chuyển ra Bắc.
–HQ17 (Tuần Dương Hạm Ngô Quyền) Loại
WHEC. Được chuyển giao vào tháng 6. Vị Hạm trưởng sau cùng là HQ
Trung tá Trương Hữu Quýnh (khoá 11 SQHQ /NT).
–HQ475 (Loại tầu chở dầu).
–HQ 490. Đây là loại chiến hạm chuyển
vận tiếp tế. Trên tàu có hầm lạnh rất lớn để lưu giữ thực phẩm.
Khi Hoa Kỳ chuyển giao chiến hạm này thì HQVN lúc đó dùng vào các
công tác chuyên chở, thường xuyên giao dịch giữa Bộ Tư Lệnh Hạm
Đội, Vũng Tàu, Đà Nẵng, Nha Trang, Năm Căn, Phú Quốc. Vị Hạm
trưởng đầu tiên là HQ Đại úy Trần Văn Thảo (khóa 15 SQHQ/NT).
Hiệp định Paris được ký ngày 27/01/73.
Cho nên Hải Quân Hoa Kỳ đã ráo riết chuyển giao quân dụng và
chiến cụ đến cuối năm 1972 là chấm dứt.
Nói tóm lại, LLĐN–213 thay thế CTF–115
để tham gia Hành Quân Lưu Động–Biển. Suốt chặng đường phục vụ cho
dân tộc. Đó là bảo vệ lãnh hải VNCH.
Sau
ngày 30/04/75, một Lực Lượng HQ hùng mạnh như vậy. Một tổ chức
tuần phòng lãnh hải chặt chẽ như vậy. Địch quân không thể xâm
nhập bằng đường biển. Ngoại trừ cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa đầu
năm 1974 với hải quân Trung Cộng, có sự tham dự của HQ10, HQ4,
HQ5, HQ16. Dưới sự chỉ huy của HQ Đại tá Hà Văn Ngạc. Phần này
được trình bày chi tiết ở tài liệu trận Hải Chiến Hoàng Sa. Cuối
cùng để rồi toàn bộ Quân Chủng bị bức tử. Trong khi chúng ta còn
có trong tay trên 80 chiến hạm đủ loại. Trên bốn chục ngàn quân
sĩ các cấp. Thế rồi ngày ra đi, đã để lại trên 50% sĩ quan mà đa
số là cấp úy, trên 70% hạ sĩ quan và đoàn viên. Một thảm cảnh quá
đau thương cho đất nước đã có sẵn một chế độ tự do, dân chủ và
tôn trọng nhân quyền. Một đất nước phồn vinh được sánh như hòn
ngọc Viễn Đông. Âu đó cũng là vận nước đã đến thời bế mạc, mà ai
trong chúng ta cũng phải ngậm ngùi để rồi chấp nhận thế cờ của
người thua cuộc. Nước Việt Nam Cộng Hòa đã chết. Xin cám ơn Hồn
Thiêng Sông Núi, xin cám ơn Thánh Tổ hải quân, cám ơn các bậc đàn
anh đã đào tạo tay nghề hải nghiệp cho đàn em. Nhờ đó có kinh
nghiệm và điều kiện trên bước đường vượt biển tìm tự do. Một quân
chủng trẻ trung, có truyền thống nền nếp, nể trọng các bậc đàn
anh, quý mến đàn em, rất tự hào về lớp trẻ hăng say và đạt nhiều
thành quả vẻ vang làm rạng danh cho dân tộc khắp mọi nơi trên
bước đường định cư tị nạn. Một cuộc di cư vĩ đại và gây nhiều
tang thương nhất trong lịch sử Việt Nam.
Ngày 05/03/75 tôi được thuyên chuyển về
BTL/HQ/P5 (Phòng Nghiên Cứu) thay thế cho anh HQ Thiếu tá Văn
Trung Quân (khoá 12 SQHQ/NT) thì lúc đó Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh là
Tư Lệnh hải quân. Ngày 12/03/75 HQ Trung tá Bùi Đức Trọng Trưởng
Phòng 5 đi Caracas Venezuela để họp luật biển kỳ 3, tôi được chỉ
định xử lý thường vụ. Khoảng chừng 2 tuần lễ sau Phó Đô Đốc Cang
về thay Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh. Tôi còn nhớ trong phiên họp tham
mưu cuối cùng ngày 22/04/75. Phó Đô Đốc Cang nói với các SQ có
mặt trong buổi họp là:
“cương quyết bảo
vệ đất nước, không đi đâu cả, không ai chịu chứa chấp mình”. Khi
đó tại BTL/HQ cũng đã có một vài vị trưởng phòng tự động rời bỏ
nhiệm sở cả tháng nay rồi.
* Vị Tư Lệnh hải quân cuối cùng là: Phó
Đô Đốc Chung Tấn Cang.
* Vị Tư Lệnh
LLĐN/213 cuối cùng là: Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí.
* Vị Tư Lệnh V1ZH kiêm LĐĐN 213.1: Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại.
* Vị Tư Lệnh V2ZH kiêm LĐĐN 213.2: Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh.
* Vị Tư Lệnh V3ZH kiêm LĐĐN 213.3: Phó Đề Đốc Vũ Đình Đào.
* Vị Tư Lệnh V4ZH kiêm LĐĐN 213.4: HQ Đại tá Nguyễn Văn Thiện.
* Vị Tư Lệnh V5ZH kiêm LĐĐN 213.5: HQ Đại tá Nguyễn Văn May.
V – Tiêu Diệt Tầu Địch Xâm Nhập.
1) Vụ Vũng Rô
[xem
bài Hành Quân phá hủy mật khu Vũng Rô].
Từ đầu năm 1965 chúng ta nghe nói vụ
Vũng Rô, một tàu VC từ miền Bắc xâm nhập vào Vũng Rô để chuyển vũ
khí cho mật khu. Lúc đó tôi không có dịp hiểu sự thật ra sao. Sau
này vào năm 1968 tôi có dịp tuần tiễu tại vùng Nha Trang, ghé lại
Vũng Rô thì thấy xác tầu bể nát vẫn còn nằm tại bãi. Thời gian
khi tàu địch xâm nhập vào Vũng–Rô, lúc bấy giờ cuộc hành quân
Market time chưa tổ chức đầy đủ. Chỉ có tầu của HQVN, vì tầu bè
ít nên phải bao thêm vùng rộng lớn, do đó tàu địch len lỏi vào
được Vũng Rô mà không bị phát hiện. Tình cờ có 1 phi cơ của
KQ/VNCH bay ngang vùng Vũng Rô với cao độ hơi thấp. Bọn VC bên
dưới đang vận chuyển vũ khí, tưởng lầm rằng bị bại lộ mục tiêu,
nên Lực Lượng phòng không của VC liền bắn theo phi cơ. Cũng rất
may là chúng phản ứng chậm nên loạt đạn bắn lên không trúng phi
cơ, khi đó đã vượt tầm [đạn]. Nhờ vậy phi cơ liền cấp báo cho các
Trung Tâm Hành Quân.
2) Cuộc truy diệt mục tiêu SL3: Vụ Hòn
Hèo
Khi Trung
Tâm Hành Quân MARKET TIME hoạt động. Một yếu tố hữu hiệu nhất
giúp cho việc khám phá tàu VC xâm nhập là phi cơ P2V. Phi cơ bay
cách xa bờ vài trăm hải lý, khi nhận thấy có chiếc tầu nào khả
nghi là lập tức báo cáo về CTF–115. Thường thường tàu VC xâm nhập
được ngụy trang là tàu đánh cá. Loại tàu này có chiều dài khoảng
25m, rộng 5m. Khi nhận được báo cáo nào như vậy thì Trung Tâm
Hành Quân Cam Ranh đặt cho nó một tên để theo dõi. Tên chung cho
loại này là SL (Suspect Trawler). Các SL được đánh số từ 1 trở
đi, số nào không thấy xuất hiện thì coi như chiếc đó có theo dõi
nhưng không vào bờ.
Đầu năm 1968, đó là dịp tết Mậu Thân.
Lúc này tôi đang phục vụ tại V2ZH Phòng Nhân Viên. Trung Tâm
Trưởng TTKS/DH/NT là HQ Đại úy Hồ Đắc Cung (Khóa 11 SQHQ/NT). Tuy
tôi làm ngành Quản Trị Nhân Viên, nhưng tôi cũng có nhận trực
phiên tại TTKS/DH/NT. Khi đó mục tiêu SL3 được CTF–115 thông báo
cho V2ZH theo dõi vì mấy ngày nay rất nghi ngờ. Sự thật thì mấy
ngày nay phi cơ P2V đã phát hiện từ lúc cách xa bờ 200 hải lý.
Khi SL3 vào cách bờ 50 hải lý thì phi cơ bàn giao cho Đài Kiểm
Báo Hòn Tre theo dõi. Khi trời bắt đầu tối thì SL3 trực chỉ vào
vịnh Nha Trang. Khi đó ngay tại biển Nha Trang đã có sẵn HQ12
(Hạm trưởng lúc bấy giờ là HQ Thiếu tá Dư Trí Hùng), đồng thời
Duyên Đoàn 25 cũng đã tăng phái 1 ghe chủ lực và 2 ghe YABUTA cho
V2ZH. Ngoài ra CTF–115 cũng tăng cường 2 PCF tuần tiễu án ngữ
trong vịnh Nha Trang. Coi như HQ12, 3 ghe, và 2 PCF sẵn sàng tác
chiến bên trong vịnh Nha Trang. Đến quá nửa đêm SL3 bắt đầu vào
cửa vịnh. Lợi dụng đêm tối SL3 chạy sát vào gần núi, lúc này HQ12
chỉ có thể chạy bên ngoài vì còn phải tránh các vùng đá ngầm. Các
ghe Duyên Đoàn cũng không theo kịp, chỉ còn lại 2 PCF của Mỹ rượt
theo SL3 và khai hoả. Nhờ vũ khí lợi hại nhất của PCF đó là súng
cối bắn thẳng vào tàu địch. Khiến tàu địch ủi thẳng vào bờ và tự
hủy. Tàu địch bị nổ tung tại mũi Hòn Hèo, phần mũi gác lên bờ đá,
phần lái chìm dưới nước. Tư Lệnh V2ZH lúc đó là HQ Trung tá Phạm
Mạnh Khuê tổ chức ngay cuộc hành quân. Cuộc hành quân do Duyên
Đoàn 25 chủ lực, dưới sự chỉ huy của HQ Trung úy Trương Công Hải
(Khóa 14 SQHQ/NT) đã tịch thu được rất nhiều vũ khí, đạn dược,
B40, B41, chất nổ, tài liệu. Trên tầu địch tất cả thủy thủ đoàn
bị tiêu diệt, địch để lại 3 xác chết.
3) Cuộc chận bắt SL4: Vụ BA TRI
Đây là 1 cuộc chận bắt tàu địch gay cấn
và hồi hộp nhất trong thời gian mà tôi phục vụ tại
TTHQ/CR/CTF–213. Vào đầu tháng 7 năm 1970, theo báo cáo của không
tuần P2V thì có 1 SL4 đang cách Côn Sơn về phía đông nam 300 hải
lý. Tàu này thuộc loại đánh cá như SL3 vừa nói ở phần trên. Đặc
biệt chiếc này không xuất phát từ miền Bắc mà là từ phía đông của
đảo Hải Nam Trung Cộng đi xuống phía nam. Suốt 1 tuần lễ trôi qua
thì ngày nào không tuần P2V cũng báo cáo, có khi cách 250 hải lý
và đang đi về hướng bắc, có khi cách 200 hải lý đang đi chậm về
hướng đông, đang thả lưới. Sự việc cứ như vậy chẳng có gì quan
tâm, ngày nào trên bản đồ cũng gắn hình ảnh nó xê dịch gần đó.
Ngày nào sáng vào làm việc “briefing” cũng thấy vậy. Qua tuần lễ
sau thì thấy nó nhích vào gần Côn Sơn hơn, bây giờ còn cách 150
hải lý. Lúc đó CTF–115 chỉ thị cho không tuần P2V tăng cường theo
dõi và đồng thời chỉ định cho 1 chiếc Đ 745 bám sát, đó là USS
BRUSH. Tuy nói theo dõi bám sát, nhưng phi cơ và USS BRUSH cách
tàu địch rất xa, chỉ giữ khoảng cách bằng radar, địch không thấy
ta mà ta vẫn thấy địch. Cứ thế SL4 mỗi ngày gần thêm một tí và
vẫn tiếp tục thả lưới, kéo lưới. Khi đến gần Côn Sơn dưới 100 hải
lý thì cả CTF–115 và CTF–213 bắt đầu chuẩn bị đối phó. Đến chiều
15/07/70 thì đài kiểm báo Côn Sơn cho biết SL4 đang cách 40 hải
lý về phía bắc. Mục tiêu đang đi về hướng tây–tây bắc
[với]
vận
tốc là 10 gút. Tính ra nếu SL4 đi hướng như vậy, vận tốc như vậy
thì sẽ vào vùng Ba Tri hay Ba Động khoảng 2 giờ khuya nay.
CTF–213 ra chỉ thị cho HĐ3ZP tăng phái ngay lập tức cho CTG 213.3
Vũng Tàu 2 PCF đến ngay địa điểm để chặn đầu. Đồng thời CTF–115
chỉ định cho 1 chiếc MSO đang có mặt tại Vũng Tàu theo dõi mục
tiêu. Trong khi đó thì USS BRUSH vẫn bám theo. Lưu ý một điều là
tất cả các chiến hạm và chiến đĩnh đều tắt tất cả đèn hải hành,
chỉ quan sát bằng mắt thường và bằng radar.
Tại TTHQ/CR thì cả 2 vị Tư Lệnh túc
trực tại chỗ, coi như chừng nào mà vụ SL4 này chưa ngã ngũ là
phải thức. Đêm đó tôi vẫn làm việc bên cạnh Tư Lệnh Chí. Trung
Tâm Kiểm soát duyên hải Vũng Tàu lúc đó là HQ Đại úy Nguyễn Hồng
Diệm (Khóa 13 SQHQ/NT) cũng túc trực và báo cáo về Cam Ranh mọi
diễn tiến liên tục. Khi SL4 cách vùng Ba Tri chừng 20 hải lý, vì
vùng này bắt đầu hơi cạn nên USS BRUSH không dám vào thêm, nhường
lại cho MSO tiếp tục bám sát. Tàu địch tăng vận tốc để hướng vào
Vùng Ba Tri, khi TTKS/DH/VT xác nhận 2 chiếc PCF đã thấy và đang
tiến gần đến mục tiêu, thì Tư Lệnh Chí ra lệnh bắn, tôi liền gọi
điện thoại HotLine cho TTKSDH/Vũng Tàu ra lệnh bắn. Đồng thời lúc
đó CTF–115 cũng ra lệnh cho các chiến hạm Mỹ. Sau khoảng 15 phút
chờ đợi hồi hộp, lúc đó là 1 giờ khuya, Tư Lệnh Chí nói hỏi xem
Vũng Tàu đã bắn chưa. Được Vũng Tàu trả lời là chưa. Nửa giờ sau
gọi trở lại lần nữa cũng trả lời là chưa bắn. Trong khi cả hai vị
Tư Lệnh đang lo âu, chỉ sợ rằng SL4 lợi dụng đêm tối để ủi bãi
vào mật khu Ba Tri. Đang khi chờ đợi trong hồi hộp, thì 15 phút
sau CTF–115 nhận được một công điện hỏa tốc chuyển bằng Vô Tuyến
Viễn [?n?] từ USS BRUSH về thẳng cho CTF–115. Được Đại tá
QUANSTROM cho biết như sau: Khi MSO đến gần SL4, tối trời nên bị
SL4 đụng xớt nhẹ vào phía sau hông tàu, liền khi đó MSO quay đầu
lại dùng phòng không 20ly bắn vào tàu địch. Tàu địch bị bắn bất
ngờ, biết là bị bại lộ nên tự hủy và chìm ngay ngoài khơi Ba Tri,
cũng cần nói rõ thêm là từ khi USS BRUSH được chỉ định đến CTG
115.3 để bám sát SL4. Thì khi đó USS BRUSH mang danh xưng của CTE
115.3.1.1. Trách nhiệm chỉ huy chiến thuật tại chỗ (OTC: Officer
Tactical Command) đối với các chiến hạm được CTF–115 tăng phái
cho vụ SL4 này. Trong khi đó thì 2 PCF của Hải Đội 3 Duyên Phòng
tìm không thấy tàu địch nên không thể khai hỏa. Ngày hôm sau một
cuộc hành quân trục vớt vũ khí do V3ZH tổ chức với sự tham dự của
Biệt Đội Người Nhái...
Cảm nghĩ người viết:
Là 1 cựu quân nhân của 1 chế độ mà tôi
đã từng phục vụ 14 năm. Tôi cũng là 1 cựu tù nhân của 1 chế độ
đối nghịch trong thời gian 8 năm. Trong phần ghi vào lịch sử được
nêu lên ở các đoạn trên không có dụng ý tuyên truyền mà ở thời
điểm này không còn thích hợp nữa. Chỉ có những ai đồng chung cảnh
ngộ như chúng tôi thì có thể cảm ứng dễ dàng. Mặc dù ở khác trại
nhau cũng có những điểm giống nhau vì cùng dưới 1 chế độ. Còn
những ai không cùng hoàn cảnh tù tội thì hãy nhìn xem tại sao
những người không dính dáng gì đến chế độ cũ, những thanh thiếu
niên ra đời sau 75 cũng liều chết bỏ nước ra đi. Những cựu viên
chức cao cấp như Trung tướng Trần Độ cũng phê phán chế độ. Các
giới trí thức, các nhà tu hành, các tôn giáo cũng bị trù dập bắt
bớ. Nhà văn nữ Dương Thu Hương vào tiếp thu miền nam đã bật khóc,
khi thấy miền nam quá tự do như về báo chí, có quá nhiều sách báo
các chế độ được bày bán tự do, tự do nghe đủ mọi đài phát thanh
trên thế giới, tự do phát biểu tư tưởng của mình; còn kẻ chiến
thắng là có bản chất của 1 chế độ man rợ. Lịch sử nhân loại trên
thế giới đã chứng minh bao nhiêu triều đại hung bạo nhất rồi cũng
có ngày tàn của nó mà vết tích vẫn còn lưu lại trên thế giới. Chỉ
có đạo đức và lẽ phải là trường tồn. Từ đầu thế kỷ 19 đến nay các
nhà khảo cổ vẫn còn khai quật các lăng mộ và nghiên cứu Kim Tự
Tháp. Một triều đại văn minh như vậy cách nay trên 6000 năm, ngày
nay chưa ai hiểu tại sao sụp đổ.
Như trên tôi đã có nói đồng chí chính
trị tiên đoán khi thế giới cộng sản tiến tới “Đại Đồng” thì “làm
theo năng lực hưởng theo nhu cầu”. Sau 25 năm câu nói đó đã có
kết quả nhãn tiền. Thế giới đại đồng thì năm 1989 khối cộng sản
tan rã. Bây giờ còn câu “làm theo năng lực” là: Đồng chí nào có
trình độ thấp thì làm việc thấp, muốn làm việc cao thì đảng cho
bằng cấp cao, nào là bằng cấp giả, bằng cấp có thi nhưng cho tiêu
chuẩn chấm đậu. Còn “hưởng theo nhu cầu” Đồng chí nào tin tuyệt
đối vào sự lãnh đạo của đảng, tin vào chính sách trước sau như
một thì, nếu muốn tiền đảng tạo điều kiện cho có tiền, muốn có
vàng đảng sẽ cho vàng, muốn có nhà để ở thì đảng cho nhà, muốn có
thêm nhà cao tầng thì đảng cũng tạo điều kiện theo nhu cầu, đồng
chí nào có nhu cầu gái thì thiếu gì quán bia ôm do đảng ta làm
chủ. Còn Xã Hội Chủ Nghiã tiến theo hình “xoắn trôn ốc đi lên”
cũng đã xuất hiện: Như đồng chí Ngô Xuân Lộc Phó Thủ tướng tham
nhũng ở chỗ này bị lộ, thì đảng ta xoáy trôn ốc lên chức vụ khác.
Cũng như một số quan chức ở cấp tỉnh tham nhũng bị dân khiếu nại
đảng ta cũng xoáy trôn ốc lên chức vụ cao hơn dễ dàng có sao đâu.
Nhưng các đồng chí nên nhớ đừng dính vào bạch phiến.
Một đất nước có quá nhiều khổ đau và
đói rách thuộc vào hàng nghèo nhất trên thế giới, lại bị thống
trị bởi một Đảng mà suốt chiều dài lịch sử thống nhất 2 miền đã
trên 25 năm qua, có quá nhiều lần sai lầm về chính sách kinh tế.
Ai trong chúng ta nếu trong người còn có dòng máu VN không khỏi
không đau khổ cho những người cùng một nòi giống còn phải chịu
dưới chế độ man rợ. Mới đây những Việt Kiều từ Đông Âu về thăm
quê hương cho biết lúc này tại VN đang nở rộ phong trào: “hy sinh
đời Bố để củng cố đời con”. Cho nên đời cha tha hồ tham nhũng
tích lũy của cải để dồn cho đời con hưởng, một khi cha đi tù và
chấp nhận hậu quả. Đó cũng là một hiện tượng xảy ra để mau đến
ngày sụp đổ của chế độ hiện tại.
Như trên tôi đã nói sau ngày 30/04/75,
nước Việt Nam Cộng Hòa đã chết. Chế độ CS muốn VNCH phải chết từ
thể xác đến linh hồn. Bọn chúng trù dập nhân dân miền nam, phân
biệt đối xử theo lý lịch cá nhân để vợ con chúng ta không thể nào
cất đầu lên được. Đó là về phần thể xác, phần hồn của VNCH chúng
mở chiến dịch toàn nước đốt sạch, phá sạch văn hoá phẩm, nhạc
miền nam mà họ gọi là nhạc vàng, bị kết tội nhạc đồi trụy, tịch
thu và tiêu hủy, v.v. Tuy nhiên khi đi tù ra ngoài Bắc, có dịp
tiếp xúc với đám binh sĩ và đám công an coi tù còn trẻ, thì họ
lại thích nghe nhạc vàng của chúng ta, họ rất say mê. Ban đêm
vắng người, trong khi canh gác họ lân la đến cửa sổ yêu cầu chúng
tôi hát cho họ nghe, kể cả lúc đang lao động ngoài rừng cũng vậy.
Khi được ra tù năm 1983 trong thời gian chờ đợi vượt biên, tôi đi
lang thang tại thành phố Sài Gòn thì thấy hầu hết các quán café
đều mở nhạc vàng, tuy không dám công khai. Nhưng họ dám làm vì
lòng người dân thích nghe, dân chúng chê nhạc VC, họ còn tranh
nhau mở nhạc thật hay để câu khách. Còn những bản nhạc, hay bài
ca mà chúng bảo chúng tôi ngày nào trong trại tù cũng ngồi vừa vỗ
tay vừa hát to thì ngoài xã hội ít nghe ai hát tới. Nếu có hát
thì cũng hát theo cách khác: chẳng hạn như: “Như có Bác Hồ trong
ngày vui đại thắng”...(dân lại hát: “như có Bác Hồ trong nhà
thương Chợ Quán”..). Hoặc là “Từ ngày giải phóng vô đây ta ăn độn
dài dài”, v.v. Từ đó tôi có một suy nghĩ là linh hồn của đất nước
VNCH hãy còn sống vất vưởng đâu đó.
Từ năm 1988, chính phủ Úc chính thức
cho quân đội Úc công nhận những cựu quân nhân VNCH được xem là
quân đội Đồng Minh được quyền hưởng hưu bổng theo quy chế cựu
quân nhân tức là nam thì 60 tuổi, còn nữ là 55. Trong khi ngoài
xã hội thì 65 tuổi mới hưu. Một điều mà ở cuối thập niên 70 hay
đầu thập niên 80 dù có muốn cũng không dám nghĩ tới, mặc dù hàng
năm cũng có tham gia diễn hành ngày ANZAC DA– Rồi thì xây dựng
đài tưởng niệm Việt–Úc tại công viên. Đồng thời vinh danh các cựu
chiến binh Úc đã từng tham chiến tại VN, điều mà trước đây sau
khi quân đội Úc rút khỏi VN cuối năm 1972 về trong âm thầm và bị
chỉ trích dữ dội. Như vậy chính nghiã của chúng ta đã bắt đầu nở
hoa. Rồi đến quân đội Tân–tây–lan cũng làm lễ vinh danh các cựu
chiến binh tham dự chiến trường miền nam VN. Tại thành phố PERTH
của tây Úc thì hội cựu quân nhân cũng đang chuẩn bị xây dựng
tượng đài kỷ niệm Úc–Việt. Rồi vừa mới đây Hội Đồng thị xã
WESTMINSTER đã chấp thuận cho Cộng Đồng Người Việt tại Hoa Kỳ xây
dựng tượng đài: “Vinh danh Người Lính Đã Chết Vì tự do”. Một kết
quả của việc làm mà chúng ta không thể nào dám nghĩ tới sự thành
công vào thập niên 80 hay 90. Chắc chắn Linh Hồn Việt Nam Cộng
Hoà bị bức tử ngày nào vẫn còn lưu lại niềm thương tiếc, cảm mến
của cả dân tộc 2 miền đất nước và của thế giới tự do, sẽ tái sinh
trở lại trong luật nhân quả: “—hiền gặp lành, ở phải gặp phải” để
đưa đất nước tiến lên trong chế độ tự do, dânchủ.
Các nơi thờ phượng bị trưng dụng cũng
lần lượt trả lại. Các tôn giáo bị ngăn cấm hoạt động như Phật
giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Tin Lành, Phật Giáo, Công Giáo, v.v. cũng
được nới tay đàn áp. Cái gì bị chế độ mới chôn sâu dưới lòng đất
trước đây, cũng bị dân chúng moi lên. Niềm tin tôn giáo ngày càng
dâng cao. Trong khi các tôn giáo Quốc Doanh thì bị dân cho là
công cụ của CS. Còn những gì mà chế độ mới muốn phơi bày cho thế
gới như lăng của Bác thì dân lại thờ ơ. Cho nên bọn cộng sản
khuyến dụ bằng cách ai đi xem lăng Bác sẽ được cấp phát 1 ổ bánh
mì 200 gram ngay tại cổng ra cuối cùng. Con cái của chúng ta hồi
nào bị chúng trù dập thì bây giờ chúng gọi là Việt Kiều yêu nước
để về tiếp tay cho chúng thêm chất xám. Dĩ nhiên lớp thế hệ trẻ
dù không có liên quan gì tới cuộc chiến như cha ông, không thù
hằn với chế độ mới, nhưng chúng cũng sáng suốt và khôn ngoan. Chỉ
cần nhìn vào một chế độ không có tự do, không có dân chủ là không
thích hợp với văn minh và tiến bộ của loài người.
Chúng ta đang chờ để viết lịch sử những
kẻ đã gây khổ đau cho dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Tấn Đơn
Nguồn:
https://dongsongcu.wordpress.com/2020/06/13/hanh-quan-luu-dong-bien-luc-luong-dac-nhiem-duyen-phong-213-2
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: hoàng hôn trên biển thái bình.. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Đoàn Hữu Định chuyển
Đăng ngày Thứ Hai,
July, 13, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang