Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Hồi ký Chiến trường
Chủ đề: Người Lính QLVNCH
Tác giả: Nguyễn Bửu Thoại
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Đến
Kinh Cai Tổng Cang, một con kinh cắt ngang Rạch Bà Đầm-Thát Lát,
Tiểu Đoàn chia làm hai cánh. Cánh A: Tiểu Đoàn trừ (-), trách nhiệm
bờ Nam. Cánh B: Đại Đội I, bờ Bắc. Hai cánh quân song song lục soát
về hướng quận lỵ Thuận Nhơn, một quận lỵ đang bị áp lực rất nặng của
Cộng quân khiến trục giao thông đường thủy từ quận lỵ ra Cần Thơ gần
như bị cắt đứt hoàn toàn từ ba hôm trước. Xuất phát lúc 7:00 giờ
sáng từ gần Kinh Ranh Hạt và Kinh số 7, với khoảng cách trên dưới
năm cây số, Tiểu Đoàn di chuyển nhanh và không gây tiếng động.
Đúng 11:00 giờ sáng, Đại Đội 1 của tôi
vượt qua con rạch Bà Đầm-Thát Lát, một con rạch mỗi lần đọc đến tên
tôi lại liên tưởng đến Thiếu tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu Đoàn Trưởng
Tiểu đoàn 42 BĐQ đã hy sinh tại đây gần hai năm về trước. Bình bát,
một loại cây thuộc họ mãng cầu, “lựu lê, bình bát, mãng cầu”, có
trái bằng nắm tay khi chín vàng rực, thơm lừng nhưng ăn chẳng ra gì
cả. Tuy cùng họ nhưng mãng cầu mọc trên bờ, còn bình bát mọc dưới
nước. Bình bát thuộc họ trầm thủy, nên rễ đâm thành cây con, cây con
nhô lên thành cây lớn... cứ thế bình bát nhảy bạt ngàn dày đặc hơn
cả rừng nhiệt đới bên.... Mã Lai. Một địa hình kỳ lạ, tôi chưa thấy
qua.
Cho Đại Đội
dừng quân và bố trí, tôi đứng quan sát chung quanh... Nhất thời, tôi
chưa hình dung được cách dàn quân như thế nào nếu ngay bây giờ địch
khai hỏa? Đất gần như hoang địa, có thể trước đây có người ở, nhưng
bỏ phế đã lâu, những bờ và mương đã “lạn” hết! Bình bát mọc thành
rừng, không gò cao, không trũng sâu, nhưng địa thế cũng không bằng
phẳng và nhất là không thể đào hố cá nhân được vì dưới chân chẳng hề
có đất mà chỉ có rễ và cây bình bát nằm ngổn ngang sắp lớp! Suy nghĩ
một lúc tôi tìm ra... chân lý: mình vô kế khả thi thì thằng địch
cũng thế, chẳng lẽ ở đây nó biến thành chuột biết đào hang?
Quyết định thật nhanh, tôi mời ba ông
Trung Đội Trưởng đến và phân công: Thiếu úy Đại, Trung Đội Trưởng
Trung Đội 1 kiêm Đại Đội Phó, bên trái, Chuẩn úy Liêm, Trung Đội
Trưởng Trung Đội 3, bên phải, hai trung đội bắt tay nhau, đội hình
hàng ngang. Liêm phải rải em út sát bờ sông, phải nhớ kiểm soát được
bờ sông và đừng quên bên kia bờ Nam là Tiểu Đoàn, là bạn! Chuẩn úy
Cần, Trung Đội Trưởng Trung Đội 2 làm cái râu cạnh sườn trái. Lưu ý
nếu chạm địch, Cần giữ cạnh sườn, hướng tác xạ bên trái. Ba anh em
bắt tay thật chặt chẽ, di chuyển chậm, giữ khoảng cách hợp lý, quan
sát phải thấy nhau. Tôi lặp lại cho anh em là phải thấy nhau vì với
địa hình này cách xa hơn hai thước là không ai thấy ai nữa. Do đó
khi chạm địch, đội hình hàng ngang không còn, có khi anh em phía sau
bắn bừa lên đồng đội mình ở phía trước, ở bên hông.
Ba ông sĩ quan Trung Đội Trưởng nhận lệnh
và bắt đầu dàn quân tiến lên phía trước. Tôi quay qua Thượng sĩ
Bình, Thường Vụ Đại Đội, TSI Hiển Trung Đội Trưởng Trung Đội 4, dặn
hai ông trách nhiệm mặt sau lưng không được lơ đãng vì địch có thể
bọc hậu sát bên, mình vẫn không phát giác.
Đúng như dự đoán của tôi, địa hình thật
quái dị: dưới chân đất không cứng hẳn, có đoạn phập phồng vì nước
ngập lên khỏi lớp rễ khá cao. Có đoạn đất lại khô cứng trải dài.
Những đoạn đường như vậy bình bát rất rậm, che khuất cả mặt trời
buổi trưa, giống như hoàng hôn ở vùng rừng núi. Tầm nhìn hết sức hạn
chế. Đại Đội đến chậm vì phải quan sát và giữ khoảng cách. Cây cối
chằng chịt, ngoằn ngoèo rất khó đi; sơ ý vướng rễ cây là té sấp. Do
đó anh em đi đầu luôn luôn phải hú hí nhau cho khỏi lạc.
Bên kia bờ sông cũng có bình bát nhưng
thưa thớt hơn nhiều. Tiểu Đoàn di chuyển dễ dàng và nhanh. Ông Tiểu
Đoàn Trưởng cũng biết chúng tôi không sao đi kịp được nên Tiểu đoàn
tiến lên một khoảng rồi dừng lại chờ, rồi lại tiến...!
Hai giờ chiều, sau ba giờ di chuyển, đối
chiếu lại với bản đồ, tôi biết chúng tôi vượt điểm xuất phát không
hơn bốn cây số, quân, chúng tôi chưa khám phá được gì quan trọng
ngoài mấy cái chòi nhỏ bỏ hoang.
Bắt đầu nản, tôi vừa có ý xin Tiểu Đoàn
cho đơn vị dừng quân để anh em ăn cơm vắt. Chưa kịp gọi Tiểu Đoàn
thì Binh I An, âm thoại viên mang máy nội bộ, bước lại đưa ống liên
hợp cho tôi:
–
Ông Trường Thành 3 xin gặp Mười Một.
Tôi bấm ống liên hợp:
– Trường Thành 3 có gì nói đi!
Tiếng Chuẩn úy Liêm gấp gáp:
– Trình Mười Một! Trình Mười Một! Cỏ cái
trạm xá của VC chứa nhiều thương binh... Mười Một cho biết... cho
biết... biện pháp.
Chuẩn úy Liêm là một sĩ quan trẻ độc thân,
mấy tuần qua chứng tỏ anh cũng cố làm quen với chiến trường, rất gan
dạ và dễ thương, có điều gặp chuyện gì cấp bách là Liêm hay... cà
lăm!
Tôi cắt
ngang:
– Anh đã
kiểm soát được trạm xá chưa?
– Dạ rồi, Mười Một!
– Bố trí em út cẩn thận. Tôi sẽ tới anh
ngay
Gọi luôn các
trung đội còn lại, tôi chỉ thị:
– Trường Thành 1 và 2 nghe rõ chưa? Các
anh dừng lại bố trí tại chỗ chờ lệnh. Riêng Trường Thành 1 lưu ý yểm
trợ thằng 3.
–
Trường Thành 1 nghe rõ 5.
– Trường Thành 2 nghe rõ 5.
Tôi vỗ vai Lữ, âm thoại viên mang máy liên
lạc Tiểu Đoàn, bảo:
– Anh thông báo cho Tiểu Đoàn biết; Đạt
Đội phải dừng quân vì khám phá trên. Yêu cầu Tiểu Đoàn sẵn sàng yểm
trợ.
2
Chưa đầy một phút sau tôi đã tới... trạm
xá. Chuẩn úy Liêm đón ở góc ngoài trạm và lưu ý tôi một số lựu đạn
nội hóa chất chung quanh.
Quan sát một vòng, tôi lấy làm lạ khi thấy
các chiến sĩ Trung Đội 3 đứng dang ra khá xa vách trạm và ai nấy đều
đưa tay bịt mũi. Mấy ông lính mình bữa nay lại làm duyên làm dáng gì
nữa đây? Tôi bước nhanh tới và thật là khủng khiếp!!! Một mùi hôi
thối nồng nặc bao trùm cả trạm xá! Mùi của tử thi? Nhưng, có lẽ cũng
không giống như vậy vì mùi xác chết sình tụi tôi cũng “thưởng thức”
khá quen mũi hôm Tết Mậu Thân khi phải nằm nhiều ngày cạnh xác chết
VC trong mấy con hẻm của thành phố mà không làm sao có thì giờ tống
khứ đi chỗ khác hoặc tìm ra đất để chôn. Phải dùng đến mền, mùng,
chiếu, ni-lông, hay bất cứ thứ gì để đắp, đậy tạm cho đỡ khổ cái lỗ
mũi rồi tiếp tục... chiến đấu. Nhưng cái này thì không phải! Tôi
nhìn Chuẩn ủy Liêm. Liêm hiểu ý tôi, nhăn mũi lắc đầu:
– Không có tử thi nào cả. Mười Một nhìn
vào trạm xá sẽ hiểu!
Tôi bước tới trạm và nhìn vào...
Tôi không tin rằng đây là một cái trạm xá!
Trạm xá, dù là dã chiến đi nữa, ít ra cũng
phải có cái tiện nghi tối thiểu của nó, nghĩa là phải có giường kê
lên cao, có tấm trải giường, (hay chiếu, cói), có mền để đắp, có
mùng tránh muỗi, nhất là ở giữa rừng. Đàng này! Tôi không sao tưởng
tượng và hình dung được!
Đây phải gọi là cái chòi thì đúng hơn, có
khi còn thua cả cái chòi giữ vịt của nông dân miệt Cần Thơ, Sóc
Trăng.
Trạm hình
chữ nhật dài khoảng 8 mét, ngang 4 mét.
Trong trạm trống trơn, không một chiếc
giường, một bộ ván nào cả. Nền nhà không ngập nước nhưng ẩm ướt vì
mới dứt mùa mưa dầm, ánh nắng lại không soi rọi tới, đất chưa kịp
khô... Mái trạm lợp bằng lá dừa nước, vách cũng lá dừa nước, bốn bề
từ ngực trở lên để trống. Toàn khu nền nhà được rải một lớp rơm khá
dầy. Đó là tất cả những “tiện nghi” của một trạm xá VC! Phía góc
trong của căn trạm có bốn thương binh Việt Cộng đang nằm. Bốn anh
giương mắt nhìn tôi, ánh mắt vừa tò mò vừa lo sợ. Cả bốn còn tỉnh,
mặc dù thương tích có vẻ rất trầm trọng.
Tôi bước qua khung cửa để vào chỗ các anh
đang nằm. Mùi hôi thối đúng là phát ra từ đây! Cả bốn anh mình mẩy
đều bê bết máu tươi và khô, nước vàng, mủ nung núc. Vương vãi khắp
nơi là những loại quần áo cũ, khăn rằn quấn cổ, bị xé ra làm băng,
làm vải thấm thay cho compress, trộn lẫn tất cả các thứ xú uế kể
trên, được ném khắp nền nhà. Vì cơ thể bốn anh liên tục phóng thích
những chất kinh khủng đó suốt ngày nên quyến rũ hằng đàn, hằng đống
ruồi, nhặng vo ve. Mùi hôi thối của những chất này còn khủng khiếp
hơn cả thây ma. Ghê tởm hơn nữa, dưới nền nhà, những con giòi trắng
bò lển nghển.
Tôi
thật tình không thể tin rằng bốn anh tính của “Bác” có thể sinh tồn
nhiều ngày trong điều kiện như vậy được.
3
Đang suy nghĩ, bỗng chiếc loa nhỏ gắn sau
các máy PRC-25 phát ra. Tiếng gọi của ông Tiểu Đoàn Trưởng. Có lẽ
ông muốn biết tình hình vì báo cáo ban nãy:
– Trường thành! Đây số Sáu gọi.
Tôi nhặt ống liên hợp gắn sau lưng Lữ và
đáp ngay:
– Mười
Một tôi nghe số Sáu!
– Anh đến chỗ trạm xá chưa và thấy thế
nào?
– Đã đến hơn
ba phút. Đang quan sát tìm hiểu, chưa tìm thấy gì cụ thể. Sẽ báo cho
số Sáu sau.
– Cố
khai thác nó xem: thằng nào, tên gì, đang đóng quân ở khu vực này?
Bóp cổ nó tìm củi đuốc
(1) coi có được gì
không? Nửa tháng nay, không có chấm mút gì ráo!
Nói xong ông buông một tràng cười. Tính
ông hay pha trò nhưng là con người rất nguyên tắc. Ông là một Tiểu
Đoàn Trưởng giỏi nhưng cũng có nhiều tật lạ đời như là: quy y Phật,
không bao giờ chửi thề, nhưng, khi giận, ông là vua nói tục! Có khi
đang tụng kinh lâm râm vậy mà nghe bắt sống được VC thì bảo lính đem
“cất” liền khỏi cần giải giao về Trung Đoàn hay Tiểu Khu cho mất
công. Lính như thiên lôi, có lệnh là làm. Ở đơn vị hành quân, trong
vùng địch, không dân cư, đối diện với những sinh tử bất chợt, luật
lệ ở đây là họng súng. Đó là một hệ quả tất nhiên của sự rình rập
ngày đêm giữa hai mãnh thú săn mồi. (Cái này dù có mười ông nhiếp
ảnh viên Eddie Adams, người chụp bức hình nổi tiếng Tướng Nguyễn
Ngọc Loan trong vụ xử bắn tên đặc công CS tại Sài Gòn trong Tết Mậu
Thân, cũng không có điều kiện để bấm máy). Mỗi lần đem “cất” như vậy
ông tâm sự với tôi: tụi nó là quỷ vương, giết cho sạch ma quỷ để
Phật xuất thế! (Ông chỉ thị cho sĩ quan truyền tin ghi trong Đặc
Lệnh Truyền Tin danh xưng của ông là số 6, Tiểu Đoàn Phó số 7, Đại
Đội Trưởng Đại Đội I số 11, Đại Đội Trưởng Đại Đội 2 là 22... Ông
còn nói thêm số 6 là Lục Tự Di Đà đó, ông biết không?)
Tôi không có ý kiến về cách tu hành và
pháp môn niệm Phật của ông, nhưng quả tình tôi với ông có những quan
điểm rất dị biệt về cách đối xử với tù, hàng, thương binh của
địch...
Dù mùi
hôi thối có thế nào tôi cũng phải đến tận chỗ nằm của bốn anh thương
binh.
Người nằm
sát chân tôi là một thanh niên trẻ, cũng chừng tuổi tôi, nghĩa là
trên dưới 25. Anh mặc một chiếc áo sơ mi.
Người thứ hai trên ba mươi tuổi, một chân
bị cưa khỏi đầu gối, chắc có lẽ vết cắt chưa lâu lắm nên máu và nước
vàng thấm ướt cả vải băng.
Người thứ ba tôi không tài nào đoán được
tuổi vì gương mặt bị cháy xém nhiều chỗ, khắp thân hình anh nhăn
nhúm và loang lỗ. Chỗ nào da đã tuột mất thì phơi bày máu mủ bầy
nhầy, nước vàng kinh khiếp. Chỗ nào còn da thì đổi màu đen và nhăn
nhúm lại. Khắp người không có mảnh vải nào để che đắp vì những vết
phỏng nhầy nhụa. Bộ phận sinh dục, xin lỗi, bị cháy teo không còn
hình thù. Anh cho tôi biết anh bị napalm hơn tuần lễ trước.
Người thứ tư có lẽ rất nguy kịch vì anh bị
trúng pháo binh nên phần ngực và bụng bị rách và bể nhiều chỗ. Anh
đắp trên bụng một cái mùng vải tám, màu vải nguyên thủy là màu trắng
ngà, bây giờ không biết gọi màu gì sau khi nó thấm, nhuộm đủ thứ nào
là máu, mủ nước vàng, đất, v.v. Hạ Sĩ I Thạch Chêm, Trưởng Toán Quân
Báo Đại Đội dùng đầu súng M16 hất cái mùng ra để kiểm tra bên dưới.
Tôi đã suýt kêu lên: Một đoạn ruột của anh lòi ra khỏi bụng và đã
ngã màu đen!
Lòng
tôi nặng nề chùn xuống. Là con người, là đồng loại, tôi ngỡ ngàng
thương cảm cho các anh! Không phải bây giờ tôi mới thương các anh mà
đã từ lâu rồi, từ Tết Mậu Thân kia, khi tôi chứng kiến những em bé
bộ đội miền Bắc 15, 16 tuổi, miệng mếu máo, mặt mày dáo dác như con
lạc mẹ, lạc cha, lúc đơn vị các em bị đánh tan tác; hoặc từng chùm
hai người gục chết với cây đại liên phòng không, chân còn bị xích
cứng với càng súng....! Nhưng chưa bao giờ lòng thương cảm của tôi
đối với các anh lại biến thành nỗi đau xót cùng tột như bây giờ.
Người lính miền Nam, đối diện với lực lượng xâm lăng miền Bắc, chỉ
để tự vệ và giữ gìn cuộc sống êm ấm cho đồng bào. Quân Lực VNCH
không dạy người chiến sĩ mang trong lòng sự thù hận nào. Không có
quốc gia văn minh, có truyền thống nhân bản nào lại dạy người lính
của họ bài học nhập môn là Lòng Thù Hận. Quân đội miền Nam, được đào
tạo để bảo vệ xứ sở, bảo vệ chủ quyền, chứ không bảo vệ chủ...
thuyết, nhất là loại chủ thuyết ngoại lai hão huyền.
Tôi thương các anh, tôi không chịu nổi
hình ảnh người thương binh, dù là thương binh ở hàng ngũ nào, bị đối
xử còn thua con vật. Nhưng tôi làm được gì? Quyền lực của tôi rất
giới hạn. Tôi sẽ giúp được các anh nếu các anh thật lòng và tạo điều
kiện để tôi thực hiện được sự giúp đỡ đó.
Nhìn gần hai chục quả lựu đạn, đa số là
nội hóa, nằm rải rác quanh trạm xá, tôi hỏi:
– Ai trang bị và xử dụng mấy quả lưu đạn
này?
Sáu đôi mắt
đổ dồn về người thương binh cụt chân, lớn tuổi. Tôi biết anh là
người lãnh đạo của nhóm, một thứ “bí thư chi bộ”. Tôi nhìn anh chờ
đợi. Anh liếc chung quanh: Lính Sư 21 bố trí dày đặc khắp trạm. Anh
sợ sệt nhìn tôi, giọng run run:
– Thưa, thưa... ông! Bốn anh em chúng tôi
ngồi còn không nổi, không ai xử dụng được vũ khí, có lẽ các anh bảo
vệ bỏ lại.
– Các
anh Bảo Vệ? Bao nhiêu anh và xử dụng vũ khí gì?
Thưa ông, tất cả có sáu anh với 5 khẩu
AK47. Tên thương binh cụt chân đáp. Hắn thêm luôn:
– Các anh ấy đã chạy chừng mười phút,
trước khi ông chỉ huy này đến, vừa nói hắn vừa chỉ Chuẩn úy Liêm....
Tôi nói thật với các anh, và cũng nói thật
với lương tâm của mình, rằng:
– Tôi muốn cứu các anh được sống bằng cách
xin chuyển các anh về Quân Y Viện của chúng tôi để được điều trị.
Nhưng để thực hiện được điều đó, các anh cũng phải thực tâm khai báo
tin tức về những đơn vị đang trú đóng quanh đây hoặc là ít ra, các
anh cũng phải chỉ cho chúng tôi vũ khí đạn dược đã chôn giấu.
Tên thương binh lớn tuổi có vẻ khổ sở, y
thề thốt bán mạng với tôi rằng y không biết được gì vì thương tích
quá nặng, mê man nhiều ngày. Hơn nữa, các anh giờ đây đã trở thành
gánh nặng cho đồng đội, đâu còn được giao công tác gì mà biết được
kế hoạch, đơn vị, và vũ khí?
Sau hơn 30 phút tiếp xúc và tra hỏi, tôi
đánh giá có lẽ y chẳng biết gì thật. Tôi chạnh lòng nên thật tâm
muốn cứu các anh nhưng không phải là không có điều kiện bởi vì quyền
quyết định không phải do tôi. Trong cuộc đổi chác, các anh không có
gì để trao nên cũng chẳng nhận được gì. Đó là sự trao đổi bình đẳng.
Tôi rất lấy làm tiếc...
Tôi vừa định bảo An ra lệnh cho các Trung
Đội tiếp tục lên đường thì chiếc loa nhỏ lại phát ra tiếng nói của
ông Tiểu Đoàn Trưởng:
– Trường thành, Trường thành! Số Sáu gọi!
An bấm máy:
– Dạ Trường thành nghe số Sáu!
– Cho ông thầy anh đầu máy.
Tôi nhặt ống liên hợp trên tay An:
– Mười Một tôi nghe số Sáu!
– Có khai thác được gì không, Tango?
– Chẳng có gì cả, số Sáu, ngoại trừ gần 20
trái bình bát nội hóa.
– Mở chốt, thảy vô cho nó xài! Sau câu nói
là một tràng cười. Ngừng mấy giây, ông dứt khoát:
– Thôi bỏ! Chiều lắm rồi! Cho em út tiếp
tục zulu (2).
Nhớ trước khi đi, đem “cất” hết bốn thằng đó nhé!
– Nhận rõ, số Sáu!
Chiếc loa nhỏ, âm thanh yếu, nhưng rõ
ràng. Trong bán kính 3, 4 mét, bất cứ ai cũng nghe không sót tiếng
nào. Đó là lệnh của cấp chỉ huy. Lệnh tại chiến trường: Lệnh Xử Bắn!
Loại mệnh lệnh này chỉ có thi hành chứ
không có bàn cãi.
4
Bọn thương binh Việt cộng nằm ngay dưới
chân tôi. Người mang máy lại luôn luôn di chuyển sát cạnh Đại Đội
Trưởng, nên từ chiếc loa đến cả bốn anh chỉ cách khoảng từ một mét
đến hơn hai mét. Nghĩa là họ nghe rõ ràng!
Động từ “cất” là một tiếng lóng của chúng
tôi, nhưng tiếng lóng này không khó hiểu, ai nghe cũng đoán được
nghĩa.
Hạ Sĩ I
Thạch Chêm gỡ súng M16 ra khỏi vai trong tư thế sẵn sàng. Anh là
Tiểu Đội Trưởng Quân Báo, một đơn vị thuộc loại trinh sát của Đại
Đội, có nhiệm vụ, nếu cần, sẽ thi hành những mission như vậy.
Trong khi ấy, cả bốn thương binh đều cố
ngồi dậy, nhưng chỉ có hai anh gãy chân là ráng ngồi được, hai anh
còn lại, dù cố gượng, nhưng quá đau đớn phải qụy trở lại. Bốn anh,
kẻ nằm người ngồi, giương bốn cặp mắt trắng dã, cặp mắt đứng tròng
không còn thần sắc nhìn tôi. Khóe miệng thì co giật liên hồi. Đó có
phải là phản xạ của cơ thể con người khi hay tin mình bị xử chết
chăng?
Mãi nhiều
năm sau này trong trại cải tạo, chứng kiến sự gào thét, nhục mạ,
hành hạ, hăm dọa, thủ tiêu của cán bộ quản giáo đối với người tù cải
tạo sa cơ, tôi thường liên tưởng đến những đôi mắt này, đôi mắt đỏ,
đôi mắt rưng rưng không còn thần sắc, và tôi hình dung lại thật rõ
ràng.... đôi mắt rã rời của bốn người... thua cuộc ngày xưa, nay đã
thuộc về... dĩ vãng!
Tôi nhìn từng anh từ đầu đến chân.
Tôi không có ý bỏ lên bàn cân để tính thử
trọng lượng cuộc sống của một con người.
Tôi cũng không hề có ý đánh giá hoặc so
sánh sinh mạng con người ở hai giới tuyến khác nhau, vì khi sinh ra
vạn vật muôn loàí, tạo hóa ban cho họ tất cả một giá trị bình đẳng
như nhau! Chỉ có cái chết vô nghĩa, sự hy sinh bị lợi dụng, chứ
không có cuộc sống nào là bỏ đi cả.
Tia nhìn của tôi dừng lại ở anh thương
binh lớn tuổi. Tôi bắt gặp anh cũng đang nhìn tôi. Tôi thấy hai hàng
nước mắt của anh chảy dài từ hố mắt trũng sâu. Tôi chớp mắt lại một
giây. Mắt tôi không cay nhưng lòng tôi chua xót! Chua xót cho một
kiếp con người! Chua xót cho những thân phận đầu thai lầm.... chủ
thuyết!
Dưới chân
tôi có vật gì nhúc nhích. Tôi nhìn xuống: một con cóc ruộng thật lớn
ở dưới lớp rơm, nhoi ra nhảy và ngồi trên mũi giày tôi. Cóc đang lè
lưỡi... cuốn mấy con giòi trắng bò lển nghển trên nền trại. Tôi rùng
mình hất nhẹ cho cóc nhảy đi. Cùng lúc, một hình ảnh vô cùng tội
nghiệp của giống vật lưỡng thể lưỡng cư, vừa sống được dưới nước
cũng sống được trên cạn này, gây xót xa trong lòng tôi. Đó là hình
ảnh mấy chú cóc, mấy chú ếch khi bị cắt cổ làm thịt, chúng luôn luôn
dùng hai chân chõi mạnh lưỡi dao để đẩy ra, chõi cho đến khi đầu bị
cắt lìa, hai chân vẫn còn chõi. Thật thảm thương!
Tôi đã có quyết định.
Tôi nói với... bốn cặp mắt thất thần đang
nhìn tôi:
– Các
anh đã nghe rõ rồi, tôi được lệnh phải bắn các anh trước khi di
chuyển. Nhưng, tôi không làm điều đó vì hai lý do sau đây: thứ nhất,
tôi không có thói quen đánh người bị trói, nên cũng không giết người
đã bị thương nặng, bị loại khỏi vòng chiến. Lương tâm và truyền
thống đạo đức không cho phép tôi thực hiện điều đó. Người chiến sĩ
chân chính không bắn đối phương khi đối phương đã xuôi tay không còn
vũ khí! Hơn nữa, hình ảnh thê lương của các anh gây ra một sự hụt
hẫng thảm hại trong suy tư của tôi. Tôi không thể tin rằng: là con
người với nhau, tầng lớp này lại có thể gạt gẫm và đọa đày tầng lớp
kia và tầng lớp kia lại mù quáng, điên dại, lao thân vào chỗ chết để
phục vụ cho một tham vọng, một chủ thuyết mơ hồ, xa vời và không
tưởng! Tôi không hề làm công tác Chiến Tranh Chính Trị trong lúc này
và cũng không có ý tranh luận với các anh về chủ thuyết, cái nào ưu
việt, cái nào tệ hại. Công tác đó thuộc bộ phận khác, không hiện
diện với đơn vị tác chiến. Tôi chỉ muốn bày tỏ với các anh một điều
hết sức giản di rằng: là người lính, khi sức lực còn khang kiện,
chúng ta cống hiến sức lực đó cho quốc gia, cho lý tưởng. Chẳng may
khi bị thương tật, chúng ta đòi hỏi phải được chăm sóc và điều trị
tới nơi tới chốn. Thứ hai, hoàn cảnh của các anh làm chúng tôi kinh
tởm, kinh tởm trước hết cho những người lãnh đạo các anh, và cũng
kinh tởm cho chính các anh nữa! Tôi đã từng chứng kiến nhiều gia
đình nuôi những loại gia cầm như: mèo, chó, trâu, bò... Khi khỏe
mạnh chúng giúp đỡ cho chủ, nhưng khi chúng bị bệnh hoạn hay thương
tật, người chủ cũng tận tụy săn sóc chữa chạy cho chúng như đã săn
sóc một thành viên thân thiết trong gia đình, có khi còn vất vả hơn
vì con vật vốn không biết... nói! Tôi thành thật xin lỗi bốn anh khi
phải đưa ra sự so sánh này, một sự so sánh tôi biết dù ít dù nhiều
cũng làm thương tổn đến sự tự ái của các anh, nhưng tôi mong có dịp
các anh sẽ suy nghĩ về lời tôi. Tôi không có bất cứ điều kiện nào
khi tha cho các anh, kể cả điều kiện dạy... đời các anh. Tôi phải
nói hết như thế để bốn anh hiểu và cũng để các chiến hữu của tôi
hiểu về quyết định của tôi.
Nói xong, tôi day qua Thạch Chêm, chỉ tay
ra góc vườn:
–
Anh bước ra góc kia và bắn hai băng M16 vào bụi bình bát đó! Còn Lư,
chú mày báo cho ông số Sáu biết là mình đã cất xong mấy tên VC và
chuẩn bị lên đường đây.
Sau khi chứng kiến Chêm trút hết hai băng
M16 vào bụi bình bát xử bắn giả, bốn tên thương binh VC mới tin rằng
tôi tha chúng thật. Tên lãnh đạo nói với tôi trong nỗi xúc động
nghẹn ngào:
–
Thưa ông, tôi biết ông là người chỉ huy cánh quân này. Tôi không
thấy ông đeo lon nên không hiểu cấp bậc của ông, nhưng chắc chắn ông
phải là sĩ quan, một tầng lớp mà chúng tôi vừa thù, vừa sợ. Tôi được
học tập rằng sĩ quan Quốc Gia gặp chúng tôi là tàn sát, trẻ không
tha, già không thương...! Đây là lần đầu tiên tôi gặp được một sĩ
quan bằng xương bằng thịt và thấy rằng ông đã không phải con người
ghê gớm như vậy. Ông không giống với hình ảnh những sĩ quan sắt máu
mà chúng tôi đã có trong ý tưởng lâu nay. Xin thay mặt cho ba anh
em, tôi chân thành đội ơn ông...
Đưa tay ngăn anh lại, tôi đáp:
– Tôi không dám nhận sự cảm ơn! Tôn chỉ
làm điều mà lương tâm và bổn phận hướng dẫn tôi phải làm. Khi tha
chết cho các anh, tôi đã vi phạm vào Huấn Lệnh Quân Sự của quân đội
tôi tại mặt trận. Có thể tôi sẽ bị kỷ luật, hoặc bị đưa ra Tòa Án
Binh không chừng, nhưng tôi vẫn làm vì tôi chưa đánh mất nhân tính
và vẫn tin ở chủ trương: “Đem đạo nghĩa để thắng hung tàn” của Quân
Đội tôi. Tôi đã suy nghĩ chín chắn, đã cân nhắc nặng nhẹ giữa đạo
đức và lương tâm con người với trách nhiệm mà quân đội giao phó và
tôi hoàn toàn chấp nhận mọi hậu quả do quyết định của mình. Tôi chỉ
mong rằng các anh có dịp hiểu biết rõ hơn về chúng tôi và quân đội
Quốc Gia, như anh vừa nói, để đối chiếu với những điều các anh đã
được học. Chỉ có vậy! Thôi nhé! Xin chào. Chúng tôi cần phải đi.
Tên cán bộ ráng nói thêm:
– Xin cho tôi một câu chót...
Tôi dừng lại nhìn anh:
– Anh nói đi!
Tên cán bộ câu hai tay để trước bụng, nói
nhỏ:
– Chúng tôi
xin thành tâm cầu mong mọi điều may mắn, bình an cho ông suốt cả
cuộc đời (!?!)
Có
lẽ đây là câu nói xúc động phát ra từ tấm lòng chân thật của anh.
Tôi gật nhẹ đầu cảm ơn và chào anh ta! Tôi
mỉm cười khi suy nghiệm về câu cầu chúc của anh ta. Tôi may mắn bình
an mỗi lần “tao ngộ” với phía các anh, thì các anh sẽ ra sao?
5
Đến đây, tôi nghĩ mọi chuyện đã xong, đã
mất rất nhiều thời giờ. Buổi chiều cũng sắp về, buổi chiều ở vùng
rừng rậm xuống rất nhanh và chỗ trú quân đêm, trong vùng đất xa lạ
này, phải được quan sát khi trời còn sáng. Tôi báo cáo lên Tiểu
Đoàn: công tác đã thi hành xong và xin tiếp tục di chuyển.
Chúng tôi theo lộ trình cũ. Đi chưa được
50 mét thì ông số Sáu lại gọi tôi: anh dừng lại cho em út bố trí giữ
an ninh. Hai “thằng” cố vấn đang lội sông qua bên anh đó. Nó muốn
ngắm nghía trạm xá của VC.
Tôi... chới với ngẩn người. Vậy là bể rồi!
Nhưng không còn cách nào khác! Cho các trung đội dừng quân xong, tôi
và BCH đứng ở bờ sông đợi hai ông... Cố. Khúc sông này của con rạch
Cai Tổng Cang lạ đời thật: sông rộng hơn 40 mét, nước trôi lững lờ,
vậy mà khúc cạn, khúc sâu như chính lòng dạ đổi thay khi vầy, khi
khác của con người. Khó đo, khó đoán, khó lường! Dò sông dò biển dễ
dò!
Nhìn mấy
người lính đang lội qua, mực nước chỉ tới vai, còn hai ông Mẽo thì
chỉ tới ngực. Phải chi nước ngập khỏi đầu như khúc trên kia thì đâu
có chi rắc rối!
Thiếu tá Calvin, Cố Vấn Trưởng, và Trung úy Hayes, Cố Vấn Phó, lên
bờ và bước lại phía tôi. Tôi đứng dậy bắt tay hai ông. (Gặp nhau
hằng ngày và ở vùng hành quân, chúng tôi ít khi chào kính). Tôi bảo
Thạch Chêm dẫn hai ông đi đến chỗ đó. Tôi vẫn ngồi yên ở bờ sông hút
thuốc. Tôi biết sẽ có... chuyện, nhưng tôi vẫn giữ quyết định vừa
rồi. Tôi thấy không cần giải thích gì thêm.
Các Cố Vấn Mỹ ở đơn vị tôi họ cũng rất
lịch sự và hiểu vị trí của mình. Từ ngày về đơn vị đến giờ, tôi chưa
từng thấy họ tham gia bàn thảo kế hoạch hành quân, điều động hay chỉ
huy ai cả. Họ chỉ được yêu cầu “cố vấn” chúng tôi xin trực thăng võ
trang, xin phi tuần, xin tản thương, xin hỏa châu, v.v. Nghĩa là chỉ
có xin dùm đủ thứ! Công tác đó họ làm kết quả nhanh gấp mấy lần
mình! Ít nhất thì ở đơn vị tác chiến cấp Tiểu Đoàn, Cố Vấn đã không
dám phát huy vai trò “chủ Mỹ” của mình một cách lộ liễu?
Sau khi quan sát, chụp hình mấy vị trí,
hai ông quay trở về. Khi đến chỗ tôi, Thiếu tá Calvin đưa ngón tay
cái lên trời và nói:
– Hi, Commander! You did a good job!
Tôi mỉm cười chào ông và nói vỏn vẹn hai
tiếng: Thank You. (Tôi không hiểu ý ông qua hai chữ “good job” là
good ở khía cạnh nào? Good khi khám phá ra trạm xá VC, hay good vì
bắn mấy loạt M16 mà bốn tên thương binh địch vẫn còn sống nhăn?)
Đằng kia, bốn ánh mắt tê dại nhìn về hướng
tôi.
Các anh tin
rằng lần này mới là chết thật! Ông “chủ” Mỹ đã đến, làm sao còn sống
được nữa? Sĩ quan Ngụy, được mấy cái đầu, mà dám cãi?
Mấy anh thật chẳng hiểu gì về Quân Đội
VNCH cả. Khi được tiếp xúc với chúng tôi, mắt các anh sẽ mở trừng
trừng, ngạc nhiên từng chập, mở cho đến độ rách cả khóe mắt!
Tôi biết bốn anh rất muốn nói chuyện với
tôi trong giờ phút thời gian như dừng lại này. Nhưng tôi không có gì
để nói thêm với các anh. Chuyện các anh tôi đã quyết định xong!
Tôi là “Tư Lệnh” của mặt trận bờ Bắc này,
là một tư lệnh nhỏ xíu thôi nhưng là người có quyền quyết định cao
nhất tại đây. Không ai có quyền quyết định thay cho tôi, khi tôi
chưa rời đơn vị.
Tôi ngồi chờ... bên kia sông. Tôi biết thế nào cũng sẽ có bão táp
tới. Tôi chờ nghe tiếng... “đức” của ông Tiểu Đoàn Trưởng.
Năm phút sau, “bão” tới:
– Tango! Nói cho tôi biết: anh hát cái bản
gì đây? Mấy thằng Tây về báo cáo rằng bốn thằng VC còn ngồi hút Quân
Tiếp Vụ bên ấy. Vậy là sao? anh chống lệnh tôi? Anh chỉ huy ở đây
hay tôi. Nói nghe?
Tôi làm thinh để cho ông xì bớt hơi.
Trong bốn Đại Đội Trưởng, tôi là người có
cấp bậc thấp nhất, Thiếu úy, nhưng tôi cũng là người tương đồng với
ông nhiều vấn đề, trong đó phải kể cả những vấn để gay go nguy hiểm
mà ai cũng chê, nhưng tôi nhận! Có gì đâu! Mình chẳng có chi bận
bịu! Tử sanh hữu mạng mà! Tôi chỉ lo các anh em tôi trong Đại Đội sẽ
phản đối những cái gật đầu hơi nhiều của tôi thay vì bắt thăm chia
đều. Thế nhưng chuyện đó chưa xảy ra vì họ tin tôi, thương tôi. Họ
cũng biết tôi rất thương họ và cũng không đến đỗi... ngu lắm!
Mấy mươi giây trôi qua, không nghe tôi trả
lời, ông số Sáu hỏi lớn:
– Tango đâu rồi! Anh có nghe tôi không?
Cầm ống liên hợp, thẳng thắn và chân tình
đáp:
– Tôi đang
nghe số Sáu. Trước hết, tôi rất tiếc phải nói câu xin lỗi, nhưng
thật tình tôi không hề có ý qua mặt hay chống lại lệnh của số Sáu!
Đây chỉ là vấn đề lương tâm và đạo đức con người, một con người có
lẽ không đủ nhẫn tâm để giết đồng loại đang bị thương tích trầm
trọng. Ngoài ra, tôi cũng không dám quên những bài học ở Quân
Truờng, quy định về cách đối xử với thương binh địch. Do đó, xin số
Sáu cho phép tôi giữ quyết định đã ban hành về số phận của bốn
thương binh địch. Tuy nhiên, nếu số Sáu cho rằng việc bắn bỏ họ là
điều không thể đảo ngược được, thì đó là thẩm quyền của số Sáu. Tôi
không chống đối. Đại Đội tôi xin chờ và xin số Sáu cho vài Trinh Sát
hay Quân Báo Tiểu Đoàn qua đây thực hiện công tác hành quyết. Tôi
muốn rằng cho đến chết người lính CS vẫn giữ hình ảnh người chiến sĩ
QLVNCH luôn luôn bảo tồn chữ tín.
Nói xong tôi giữ combinet để chờ ông.
Nhiều phút trôi qua, có lẽ ông đang suy tư
hoặc đang chỉ thị cho Trinh Sát, Quân Báo.
Tôi trả ống liên hợp lại cho Lữ. Lữ vừa
cài cái móc của ống liên hợp lên giây ba chạc thì tiếng ông Tiểu
Đoàn Trưởng chỉ thị cho âm thoại viên với giọng dịu nhẹ hơn:
– Thôi, Lê Lai, nói với Thầy anh: số Sáu
đồng ý cho Mười Một mua cái đức cho vợ con sau này. Nhưng mà...
bắn... thêm vài loạt đạn nữa, rồi zulu. Lưu ý: Vị trí đã bị lộ!
Lữ nhìn tôi, tôi nhìn Lữ. Hai thầy trò
trao đổi nụ cười nhẹ nhõm! Lữ le lưỡi:
– Có lẽ chỉ có ông Thầy là được số Sáu
chìu và nể như vậy mà thôi.
6
Tôi nhìn sang bên kia sông, hướng Tiểu
Đoàn. Chiều xuống thật nhanh. Những tia nắng yếu ớt cuối cùng còn
rơi rớt trên ngọn rặng bình bát bạt ngàn. Gió lay nhè nhẹ. Xa xa bên
kia bờ, chỗ rặng cây cao, đàn cò bay về nơi trú đêm, điểm trắng cả
chòm cây xanh như những bông hoa dại, âm thầm nở, âm thầm tàn trong
ngôi vườn bỏ hoang không người tới lui săn sóc.
Chúng tôi lại lên đường. Không như đàn cò
về lại chòm cây cao, chúng tôi không có chỗ trú nhất định cho mỗi
đêm... có thể là một vùng bình bát, có thể là một khu vườn hoang, có
thể là một đám rẫy, hay cũng có thể là một bãi... tha ma. Ba mươi
ngày trong tháng thì hơn hai phần ba số đêm đó chúng tôi ngủ hoang,
ngủ bạy như vậy cho người dân lành được ngon giấc trong chăn ấm, nệm
êm. Chúng tôi không có ý so sánh những hình ảnh đối ngược của hai
nếp sống để kể lể công lao, hay cay đắng ngậm ngùi, nhưng chúng tôi
mong rằng sự hy sinh của người chiến sĩ trong cuộc chiến vừa qua
không bị mỉa mai và quên lãng.
Phần Phụ Chú:
Sau biến cố đó, tôi không bị bất cứ một
biện pháp chế tài kỷ luật nào, nhưng một tuần lễ sau, khi tập trung
ra lằn chỉ đỏ, ông Tiểu Đoàn Phó xuống Đại Đội tôi chủ tọa lễ bàn
giao chức vụ Đại Đội Trưởng Đại Đội 1 cho một sĩ quan khác! Sự trừng
phạt, nếu đúng, chỉ có tính cách tượng trưng. Có điều cho đến nay,
sau đúng 32 năm, mỗi khi nhớ lại chuyện này, tôi vẫn không kết luận
dứt khoát được là trong hai quyết định của ông Tiểu Đoàn Trưởng và
của tôi: Ai đúng, ai sai – Đúng sai trong hai lãnh vực: giữa lương
tâm và truyền thống nhân ái của dân tộc với sự tha chết cho giặc,
“dưỡng hổ di họa”?
Cuộc chiến đã chấm dứt đúng 1/4 thế kỷ.
Sau nhiều năm bị đọa đày trong trại cải tao, sau hiểm nguy của gia
đình qua chuyến vượt biên bằng đường biển, sau những tháng năm bình
tĩnh nhìn lại cuộc chiến mà mình đã đổ máu xương để trang trải và đã
bị phản bội, bị bỏ rơi thê thảm..., nếu một mệnh lệnh như xưa được
ban hành, tôi vẫn lấy cái quyết định như đã từng quyết định trong
rặng bình bát! Đó là lương tâm, là phẩm giá của người lính Việt Nam
Cộng Hòa!
Tiểu
Đoạn này được viết rất bất ngờ, sau khi người viết đọc được bài “Đối
Thoại Với Nhà Văn Trong Hàng Ngũ Thắng Trận” của Trần Hoài Thư trên
trang Internet, viết “kỷ lục” chỉ trong hai ngày để phổ biến trên
truyền thông nhân buổi ra mắt tác phẩm “Về Hướng Mặt Trời Lặn” của
anh Trần Hoài Thư tại Houston. Không ngờ, sau khi BNS Dân Ta, BNS
Việt Báo ở Houston, rồi Nhật Báo Người Việt, Đặc San KBC ở Nam
California, Đặc San Võ Khoa Thủ Đức Washington, D.C., phổ biến rộng
rãi bài này, một vài cuộc hội thảo đã diễn ra quanh một vài chủ đề
mà người viết đã “đụng” tới trong tác phẩm!
Nay, nhân khi bài viết này được đặt đúng
vị trí thời gian trong tác phẩm để xuất bản, người viết muốn minh
xác: tác giả không có ý định dùng mẩu chuyện thật trên đây để phản
bác lại những điều hoang tưởng, xuyên tạc chiến sĩ QLVNCH của hai
nhà văn “lớn” CS là Dương Thu Hương và Bảo Ninh. Dương Thu Hương với
tác phẩm ồn ào một dạo “Tiểu Thuyết Vô Đề” đã mô tả người lính Thám
Báo QLVNCH như sau:
“... Tới vực cô hồn, gặp sáu cái xác
truồng, xác đàn bà, vú và cửa mình bị xẻo ném vung vãi khắp đám cỏ
xung quanh... Cũng có thể họ đi kiếm măng... rồi vấp bọn thám báo.
Chúng đã hiếp các cô tàn bạo trước khi giết..” (TTVĐ, trang 16)
Còn Bảo Ninh với tác phẩm “Nỗi Buồn Chiến
Tranh” cũng gán cho Thám Báo cái tội bắt ba cô gái trong mật khu rồi
hãm hiếp, sau đó giết họ, vất xuống sông:
“Ba nhỏ đó, trình quý anh, tụi này làm
thịt cúng hà bá rồi. Mấy nhỏ khóc quá trời” (NBCT, trang 52)
Tôi không hiểu sao các nhà văn Việt cộng
lại luôn gán ghép người lính miền Nam vào hành động “thích hãm hiếp”
và “lắt xẻo” mấy bộ phận của đàn bà?
Hai mươi lăm năm sau cuộc chiến, đã đến
lúc phải trả lại cái gì thật sự của lịch sử cho lịch sử. Tôi không
nói người lính miền Nam là một thứ Khổng Tử, nhưng tôi biết chắc
rằng không một quân nhân nào của chúng tôi đủ hứng thú để làm cái
trò dị hợm, kỳ cục (hãm hiếp dã man còn lắt xẻo) tại chiến trường
như Dương Thu Hương đã mô tả. Tôi mong đọc được những bài viết nói
lên sự thật của những người cầm bút, ở cả hai phía, không bị chi
phối bởi bất cứ mặc cảm, dù là tự tôn hay tự ti; bởi sự cám dỗ vật
chất hay bởi bất cứ thế lực nào.
Tôi mong bà Dương Thu Hương và ông Bảo
Ninh đọc được truyện này. Tôi lặp lại lần nữa là tôi không hề có ý
định viết chuyện để bênh vực người lính Miền Nam, hoặc để phản bác
lại hai tác phẩm của ông và bà vì một lý do rất đơn giản là: tôi
không hề là một nhà văn, nên cũng không có tham vọng tranh danh,
đoạt lợi bằng ngòi bút, theo lập luận đời thường: “đánh” một người
nổi danh để được nổi danh hơn!
Tôi chỉ là người lính chiến trong cuộc,
chứng kiến sự thật, kể lại sự thật, một sự thật nhỏ bé, trong vô vàn
sự thật to tát, từ cuộc-chiến-tự-vệ của Miền Nam, một cuộc chiến bị
bóp méo, bị xuyên tạc, bị sỉ vả vô tội vạ bởi những ngòi bút đứng
trong hàng ngũ của kẻ thắng trận!
Ông Đại Đội Trưởng và Tiểu Đoàn Trưởng
trong truyện này hiện nay đều định cư tại thành phố Houston sau
nhiều năm trong Trại Cải Tạo (viết hoa). Còn bốn anh thương binh
trong truyện có lẽ hiện vẫn còn sống, nếu không đủ cả bốn, cũng còn
hai, hay ba. Đây là một hình ảnh sâu sắc trong đời các anh nên, chắc
chắn, các anh phải nhớ. Nếu truyện này được phổ biến trong nước và
thật sự các anh là người có chút liêm sỉ, các anh sẽ không thể quay
lưng lại với sự thật của “một thời” quá khứ.
Nguyễn Bửu Thoại
(Trở Lại Mật Khu Sình Lầy)
(In lần thứ 2,
tháng 12-2000, trang 363)
Tác giả chú thích:
(1) Củi đuốc
= vũ khí
(2)
zulu = d = di chuyển
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by BatKhuat Nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ Hai, March 12, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang