Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Ngược dòng Thời gian
Chủ đề:
Hồi ký Chiến trường
Tác giả:
Cố Thượng nghị sĩ John McCain
Người dịch:
Đinh Yên Thảo
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời giới thiệu: Xuất thân trong một dòng họ ba
đời binh nghiệp danh tiếng khi có ông nội và cha là những Đô Đốc
Hải Quân Hoa Kỳ, Thượng Nghị Sĩ John McCain là một trong các
chính khách đương thời có những kinh nghiệm cá nhân sâu đậm với
cuộc chiến tranh Việt Nam.
Trong một phi vụ oanh tạc Hà
Nội vào ngày 26 Tháng 10 năm 1967, phi cơ của Thiếu tá Không quân
lực lượng Hải quân Hoa Kỳ John McCain, 31 tuổi, bị bắn hạ ngay
trên bầu trời Hà Nội. Bị bắt sống, bị tra tấn và cầm tù trong hơn
5 năm trời, TNS McCain được trao trả tù binh vào Tháng 3 năm 1973
và đã viết về những năm tháng tù tội tại Hỏa Lò Hà Nội ngay sau
khi được trả tự do. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên tờ US
News & World Report vào Tháng 5 năm 1973 và được đưa lên trang
mạng này vào năm 2008. Trong bức tranh Tháng Tư, chuyên mục xin
chuyển dịch và giới thiệu đến độc giả một hồi ký giá trị và xác
tín của TNS John McCain về những ngày ngục tù này. Bản dịch do
chuyên mục đặt tựa và sẽ được đăng làm nhiều kỳ nhân dịp tưởng
niệm 30 Tháng Tư năm nay.
June 28, 2014
Đinh Yên Thảo
Đó
là ngày 26 Tháng 10 năm 1967. Tôi đang bay ngay trên bầu trời trung
tâm Hà Nội đan chéo đầy hỏa tiễn trong phi vụ thứ 23 của mình, thì
bị một hỏa tiễn Nga kích thước cỡ cột điện thoại bắn tung cánh phải
chiếc Skyhawk ném bom tôi bay. Phi cơ bổ nhào từ cao độ khoảng 4,500 feet (1,371.60m hay 1.37km) xuống đất, bị đảo ngược lại, gần
như chúi thẳng đầu xuống đất. Tôi kéo cần bung dù thoát hiểm. Lực
phóng làm tôi bị bất tỉnh vì tốc độ gió đâu khoảng 500 knot (926
km/giờ). Lúc đó tôi không nhận thức được, nhưng chân phải ngay quanh
đầu gối và ba nơi trên cánh tay phải cùng cánh tay trái của tôi đã
bị gãy.
Tôi tỉnh
lại ngay trước khi cánh dù của tôi rơi xuống một hồ nước ngay một
góc của Hà Nội, một trong những hồ họ gọi là Hồ Tây. Mũ phi công và
mặt nạ dưỡng khí của tôi đã bị thổi bay đâu mất. Tôi chạm mặt nước
và bị chìm xuống đáy. Tôi nghĩ rằng hồ sâu khoảng 15 feet, cũng có
thể 20. Tôi chòi chân phía dưới để nổi lên mặt nước. Lúc đó tôi
không cảm thấy bất kỳ đau đớn nào. Tôi hít một hơi không khí và bắt
đầu chìm xuống lại. Tất nhiên là vậy vì tôi đang mang đồ bay và các
thiết bị trên người nặng ít nhất cũng 50lbs. Tôi chìm xuống và cố
gắng chòi lên mặt nước lần nữa. Tôi không thể hiểu tại sao tôi không
thể sử dụng chân phải hay tay của mình. Tôi choáng váng, trồi lên
lần nữa và lại bị chìm xuống.
Lần này thì tôi không thể trồi lên lại mặt
nước. Mang chiếc áo phao cứu sinh trên người, tôi cúi xuống dùng
miệng kéo dây và cuối cùng cũng nổi lên lại mặt nước.
Vài cán binh Bắc Việt đã bơi ra kéo tôi
vào bờ và ngay lập tức họ bắt đầu lột đồ tôi ra, theo như thủ tục
chung của họ. Tất nhiên vì đây là ngay trung tâm thành phố nên có
đông người tụ tập, và tất cả bọn họ đã hò reo, gào hét, chửi rủa,
phun nước miếng và đá tôi túi bụi. Khi họ đã cởi gần hết quần áo của
tôi ra, tôi mới bắt đầu thấy đau nhói nơi đầu gối phải. Tôi gượng
dậy và nhìn xuống nó. Bàn chân phải nằm xéo lên đầu gối trái của
tôi, gần như vuông góc. Tôi thốt lên, “Chúa ơi! Chân tôi”. Dường như
điều này làm họ điên tiết dù tôi không biết lý do tại sao. Một kẻ
trong số họ dộng báng súng trường xuống vai tôi một cú khá nặng. Một
kẻ khác đâm lưỡi lê vào chân tôi. Đám đông này thực sự đang nổi
cuồng.
Ngay lúc
đó, một thanh niên xuất hiện và hét nạt đám đông dạt ra. Một người
phụ nữ khác đỡ tôi dậy và kề lên miệng tôi tách trà, trong lúc có
mấy tay chụp hình bấm vài pô hình. Điều này làm đám đông dịu lại một
chút. Thế rồi họ đưa tôi lên cáng, khiêng vào một chiếc xe tải và
chở thẳng đến nhà tù chính của Hà Nội. Tôi được đưa vào một xà-lim
và đặt xuống sàn nhà. Tôi vẫn còn nằm trên cáng, chỉ mặc đồ lót và
có khoác cho một tấm chăn lên người.
Trong ba hay bốn ngày sau, tôi tỉnh lại
vài lần giữa cơn mê man bất tỉnh. Dù vậy tôi cũng bị đưa ra khảo
cung nhiều lần – điều mà chúng tôi gọi là một cuộc “kiểm tra vấn
đáp”. Đó là những lúc tôi bị đánh với đủ gán ghép về tội phạm chiến
tranh. Bắt đầu bị đánh ngay ngày đầu tiên. Tôi không thèm khai bất
cứ điều gì ngoại trừ họ tên, cấp bậc, số quân và ngày tháng năm
sinh. Họ đánh tôi dập vùi, đánh tôi bất tỉnh. Họ liên tục hăm dọa:
“Mày sẽ không nhận được bất kỳ chữa trị
thuốc men gì cho đến khi mày mở miệng”.
Tôi không tin lắm. Tôi nghĩ rằng nếu ráng
cầm cự, thế nào rồi họ cũng đưa tôi đến bệnh viện. Tôi được tên lính
canh cho ăn một tí thức ăn và uống chút nước. Nước thì tôi còn nuốt
được, nhưng đồ ăn vẫn tiếp tục bị ói ra. Lúc đó, bọn họ chỉ muốn
khảo tin tức quân sự chứ không phải tin tức chính trị. Nhưng mỗi khi
họ hỏi tôi một cái gì đó, thì tôi cũng chỉ khai tên họ, cấp bậc, số
quân và ngày tháng năm sinh chừng đó. Tôi nghĩ đến đâu ngày thứ tư
gì đó thì có hai tên bước vào, thay vì chỉ một. Một tên kéo tấm chăn
để chỉ cho tên kia vết thương của tôi. Tôi nhìn xuống đầu gối. Kích
thước, hình dạng và màu sắc của trái banh sao thì nó cũng y vậy. Tôi
còn nhớ khi tôi còn là một sĩ quan huấn luyện bay thì một đồng ngũ
của tôi cũng đã bị đẩy ra khỏi máy bay của anh và bị gãy đùi. Chân
bị tụ máu và rồi anh bị chết, một điều khá bất ngờ đối với chúng tôi
– khi có người chết vì bị gãy chân. Tôi nhận ra rằng tôi cũng đang
bị y hệt như vậy.
Khi tôi nhìn thấy vậy, tôi nói với người
lính canh, “OK, cho tôi gặp cấp trên các anh”. Chỉ dăm phút, một sĩ
quan tới, đó là người mà chúng ta sẽ còn biết rõ về sau, tạm gọi là
“Con Rệp”. Hắn ta là một kẻ tra tấn tâm thần, một trong những quái
vật tồi tệ nhất mà chúng tôi phải đối phó. Tôi nói:
“OK, tôi sẽ cung cấp cho anh tin tức quân
sự nếu anh đưa tôi đến bệnh viện”.
Hắn rời phòng và trở lại với một bác sĩ,
một gã mà chúng ta gọi là “Zorba”, một tên hoàn toàn không có khả
năng. Hắn cúi xuống bắt mạch. Hắn không nói được tiếng Anh, nhưng
lắc đầu và lúng búng gì đó với “Con Rệp”.
Tôi hỏi: “Các anh có đưa tôi đến bệnh viện
không?”
“Con Rệp”
trả lời, “Trễ rồi”.
Tôi nói, “Nếu anh đưa tôi đến bệnh viện,
tôi sẽ hồi phục”.
“Zorba” bắt mạch tôi lần nữa, và lập đi
lập lại, “Đã quá trễ”.
Họ đứng dậy và bỏ đi, để tôi nằm lại bất
tỉnh. Chỉ một lúc sau, “Con Rệp” ập vào phòng hét toáng lên:
“Cha mày là một đô đốc gộc. Bây giờ bọn
tao sẽ đưa mày đến bệnh viện”.
Tôi kể lại chuyện này để nói lên điều này:
Khó mà có tù nhân cụt tay chân nào còn sống sót trở về vì bọn Bắc
Việt sẽ chẳng mất thì giờ chữa trị cho những ai bị trọng thương. Chỉ
riêng việc chuyển từ kiểu đời sống tại Mỹ sang chốn lao tù bẩn thỉu,
bụi bặm và nhiễm trùng, cũng đã khó cho ai còn sống sót. Trong thực
tế, nội việc chữa trị tôi trong bệnh viện cũng đã xém làm tôi mất
mạng.
Tôi thức
dậy một vài lần trong ba bốn ngày sau. Huyết thanh và máu đang được
chuyền cho tôi. Tôi trở nên khá tỉnh táo. Căn phòng mà tôi nằm không
đến nỗi nhỏ lắm, khoảng đâu 15×15 feet, nhưng dơ dáy bẩn thỉu và bị
trũng, mỗi khi trời mưa thì nước ngập sàn cũng từ nửa đến một inch.
Tôi chẳng được tắm rửa lấy một lần trong bệnh viện. Tôi cũng gần như
không hề thấy bóng dáng một bác sĩ hoặc một y tá nào, ngoại trừ bác
sĩ có ghé liếc sơ tôi vài lần. Họ nói tiếng Pháp chớ không phải
tiếng Anh.
Người
canh tôi là thằng bé 16 tuổi, chắc vừa lên khỏi ruộng lúa. Trò tiêu
khiển ưa thích của thằng bé là ngồi cạnh giường tôi và đọc một cuốn
truyện có vẽ hình một ông già cầm khẩu súng trường trong tay, đang
ngồi trên thân máy bay một chiếc F-105 bị bắn hạ. Thằng bé chỉ trỏ
gì đó vào mình, rồi tát và đánh tôi. Nó làm điều đó một cách đầy
khoái trá. Nó đút tôi ăn vì cả hai cánh tay của tôi đã bị gãy. Nó
bưng vào chén mì gói có chút xương sụn, rồi đút tôi. Các xương sụn
rất khó nhai. Tôi ngậm đầy miệng đâu ba bốn muỗng gì đó rồi nuốt
trộng. Tôi chẳng ăn thêm được nữa, thế là thằng bé bưng ăn hết. Mỗi
ngày hai lần tôi ăn khoảng ba hoặc bốn muỗng thức ăn như vậy.
Tôi nằm đó đâu khoảng 10 ngày, thì một
buổi sáng có một tên “gook” – kiểu chúng ta gọi bọn Bắc Việt – đến.
Gã này nói tiếng Anh rất giỏi. Hắn hỏi thăm tôi rồi bảo:
“Chúng tôi có một người Pháp đến thăm Hà
Nội và muốn mang tin tức về cho gia đình của anh”.
Đóng chút ngây ngô vào lúc đó – vì cần
phải khôn ngoan hơn với những loại người này – tôi hình dung chuyện
này cũng chẳng thiệt thòi gì, nếu anh chàng này đến gặp tôi và quay
về thông báo cho gia đình tôi rằng tôi vẫn còn sống sót. Khi đó tôi
chưa biết được rằng tên của tôi đã được công bố trong chiến dịch
tuyên truyền rầm rộ của Bắc Việt và bọn họ rất hí hửng vì đã bắt
được tôi. Họ nói với một số bạn của tôi khi tôi bị bắt rằng “Chúng
tôi đang nắm thái tử trong tay”, làm tôi cũng mắc cười.
Họ bảo tay người Pháp sẽ tới thăm tôi tối
đó. Khoảng trưa, tôi được đặt lên chiếc xe lăn và đưa vào phòng mổ
để băng bột tay phải cho tôi. Họ rất vất vả để nối xương lại với
nhau, bởi vì cánh tay tôi đã bị gãy ba nơi, có hai khúc bị trôi dật
dờ. Tôi phải chứng kiến cảnh một gã vật lộn để sắp lại xương tay cho
mình trong khoảng một giờ rưỡi đồng hồ mà không có thuốc tê. Sự đau
đớn tột độ làm tôi xỉu đi nhiều lần. Cuối cùng hắn ta đành bỏ cuộc
và gắn cái ngực băng bột vào tôi. Điều này làm tôi kiệt sức và đó là
lý do tại sao sau này, khi một số phim truyền hình được quay, nhiều
người xem thấy tôi như thể đang bị say thuốc vậy.
Khi mọi chuyện đã xong, họ đưa tôi vào một
căn phòng lớn với một chiếc giường ra
[drape]
trắng tươm tất. Tôi nghĩ, “Boy, mọi thứ coi bộ thực sự khá hơn”. Tay
lính canh nói với tôi:
“Bây giờ mày sẽ ở trong căn phòng mới
này”.
Khoảng một
giờ thì một gã đàn ông được gọi là “Mèo” đến. Về sau tôi mới biết
rằng hắn ta là người đã phụ trách tất cả các trại tù binh tại Hà Nội
cho đến cuối năm1969. Hắn khá lanh lợi, một loại trí thức đang nắm
quyền Bắc Việt. Hắn nằm trong Cục Chính trị của Đảng Lao động Việt
Nam. Điều đầu tiên hắn làm là đưa tôi nhận diện thẻ quân của Đại tá
John Flynn – tức tướng John Flynn bây giờ – viên chỉ huy cao cấp của
chúng tôi. Ông cũng bị bắn hạ trong cùng một ngày với tôi. “Mèo” nói
qua một thông dịch viên, hắn không nói tiếng Anh lúc đó. “Người của
truyền hình Pháp đang đến”.
Tôi nói:
“Tôi không nghĩ rằng tôi muốn được quay
phim”.
Hắn xẵng
giọng:
“Anh cần
hai cuộc giải phẫu, và nếu anh không nói chuyện với anh ta thì chúng
tôi sẽ lấy lớp băng bột ở ngực anh ra và anh sẽ không được giải phẫu
gì thêm nữa”.
Hắn
tiếp:
“Anh phải
nói rằng anh biết ơn nhân dân Việt Nam và xin lỗi về những tội ác
của mình”.
Tôi
nói với hắn ta là tôi sẽ không làm điều đó.
Cuối cùng, một người Pháp tên là Chalais
bước vào, một tay cộng sản, như tôi biết ra sau đó, cùng với hai
phóng viên ảnh khác. Ông ta hỏi tôi về sự đối xử và tôi nói với ông
là thỏa đáng. “Mèo” và “Chihuahua”, một tên thẩm vấn khác, nhắc sau
lưng tôi để nói theo rằng, tôi rất biết ơn cho việc chữa trị khoan
hồng và nhân đạo của họ. Tôi từ chối, và khi chúng ép tôi, Chalais
nói:
“Tôi nghĩ
rằng những gì ông nói với tôi cũng đủ rồi”
Sau đó Chalais hỏi tôi có nhắn tin gì về
cho gia đình. Tôi bảo với ông là hãy nhắn vợ và những người khác
trong gia đình là tôi đang hồi phục và rất yêu thương họ. Một lần
nữa, từ đàng sau, “Mèo” khăng khăng bắt tôi nói thêm đại loại là hy
vọng rằng chiến tranh sẽ sớm kết thúc để tôi có thể được về nhà.
Chalais cứng rắn cắt ngang lời hắn ta, bảo
rằng ông đã hài lòng với câu trả lời của tôi. Ông đã giúp tôi thoát
khỏi một tình huống đầy khó khăn. Chalais ở ngay Paris. Vợ tôi sau
đó đã bay sang đó gặp ông ta và ông đã cho cô ấy một bản sao đoạn
phim, về sau được chiếu trên đài truyền hình CBS tại Mỹ. Ngay khi
ông vừa đi khỏi, bọn chúng lập tức đưa tôi lên xe đẩy và tống về lại
căn phòng bẩn thỉu trước đó.
Sau đó, đã có nhiều người đã đến nói
chuyện với tôi. Không phải ai trong họ cũng đến để thẩm vấn. Có lần
một nhà văn già có chòm râu dài như Hồ Chí Minh và nổi tiếng của Bắc
Việt đến phòng của tôi, muốn trò chuyện về Ernest Hemingway. (Chú
thich: Đó là Nhà Văn Nguyễn Tuân, người đã đưa cuộc nói chuyện này
vào tập bút ký “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” theo chỉ thị đảng để ca ngợi
chính sách “nhân đạo” (!?) của đảng với tù binh chiến tranh).
Tôi nói với ông
ta rằng Ernest Hemingway chống Cộng bằng vũ lực. Nó cho ông ta một
điều gì đó để suy nghĩ. Những người khác đến để tìm hiểu về đời sống
ở Mỹ. Họ hình dung rằng cha tôi cấp bậc quân sự cao như vậy, tất tôi
phải được nhiều đặc quyền và trong vòng quyền lực. Họ không có khái
niệm gì hết về cách vận hành dân chủ của chúng ta.
Một trong những người đàn ông đến gặp tôi
là tướng Võ Nguyên Giáp, được gọi là người hùng của Điện Biên Phủ mà
tôi nhận biết qua ảnh sau này. Ông đến xem tôi ra sao, mà không nói
gì. Ông là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng và nằm trong Trung Ương Đảng cộng
sản Bắc Việt.
Khoảng hai tuần sau, tôi đã được đưa vào giải phẫu chân có quay
phim. Họ chẳng hề chữa trị gì cánh tay trái bị gãy của tôi. Nó tự
lành. Họ bảo chân tôi cần hai cuộc giải phẫu, nhưng vì tôi đã có một
“thái độ xấu” nên họ sẽ không cho làm cuộc thứ hai. Tôi cũng chẳng
biết họ đã làm cái quỷ gì trên chân tôi. Nhưng bây giờ quay về Mỹ,
một bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình sẽ mổ và xem xét lại. Chưa gì ông
đã báo với tôi rằng họ đã rạch sai đường mổ và cắt hết gân chằng ở
một bên.
Tôi ở
trong bệnh viện khoảng đâu sáu tuần, sau đó được đưa đến một trại
giam ở Hà Nội tạm gọi là “Đồn Điền”. Nó là vào cuối Tháng 12 năm
1967. Tôi được đưa vào chung một xà-lim với hai người khác là George
Day và Norris Overly, cả hai cùng là Thiếu tá Không quân.
Tôi nằm trên cáng, chân còn cứng đơ và bộ
ngực băng bột mà tôi đã mang được khoảng hai tháng. Từ trọng lượng
bình thường 155 lbs, tôi tụt xuống còn khoảng 100 lbs. Sau này,
Thiếu tá Day kể họ không nghĩ tôi sống thêm quá một tuần. Tôi cố
gượng ngồi dậy được.
Mỗi ngày tôi ngủ mê man khoảng 18 giờ, 20
giờ. Họ đã phải chăm sóc mọi thứ cho tôi. Họ được phép xách một xô
nước để thỉnh thoảng rửa ráy cho tôi. Họ đút tôi ăn và chăm sóc tận
tụy, và tôi hồi phục rất nhanh.
Chúng tôi chuyển đến một căn phòng khác
ngay sau lễ Giáng Sinh.
Vào đầu Tháng Hai năm 1968, Thiếu tá
Overly được đưa ra khỏi phòng của chúng tôi và được trả tự do cùng
với David Matheny và John Black. Họ là ba người tù binh đầu tiên
được Bắc Việt trao trả. Tôi hiểu họ đã được khuyến dụ là không nên
nói gì về việc đối xử tù nhân, để không gây nguy hiểm cho những
người của chúng ta vẫn còn đang bị giam cầm.
Chỉ còn lại Day và tôi một mình với nhau.
Ông còn bó bột tay phải vì bị bắn sau lần ông đã bị bắt tận phía
Nam, định vượt trốn và bị bắt lại lần nữa. Ngay sau khi tôi đã có
thể đi được, vào khoảng Tháng 3 năm 1968, thì Thiếu tá Day bị chuyển
đi.
Tôi bị biệt
giam từ thời điểm 1968 đó trong hơn hai năm trời. Tôi không được
phép gặp mặt, nói chuyện hay giao tiếp với bất kỳ tù nhân đồng ngũ
nào. Phòng giam của tôi tạm vừa phải –khoảng 10×10–, có cửa ra vào
chắc chắn mà không có cửa sổ. Hệ thống thông gió là hai lỗ nhỏ ở
trên trần nhà, khoảng 6×4 inch. Mái nhà bằng thiếc nên phòng nóng
như thiêu. Phòng mờ mờ đêm cũng như ngày, nhưng họ luôn bật một bóng
đèn nhỏ để có thể quan sát tôi. Tôi bị nhốt trong đó suốt hai năm.
Theo cái kiểu bị biệt giam này thì điều
quan trọng nhất để tồn tại là liên lạc được với một ai đó, đôi khi
nó chỉ là cái vẫy tay hoặc một cái nháy mắt, gõ vào tường, hoặc có
ai đưa ngón tay ra hiệu cũng làm mọi chuyện khác đi. Nó cũng rất là
quan trọng để giữ cho đầu óc mình làm việc và tất cả chúng tôi đều
làm việc này. Một số người thích toán học nên họ nhẩm các phép toán
phức tạp trong đầu vì chúng tôi chưa bao giờ được phép có giấy bút.
Vài người khác thì xây nhà trong đầu, xây từ tầng hầm lên trên. Tôi
thì thiên về triết học. Tôi từng đọc rất nhiều sách về lịch sử nên
đã dành hết ngày này đến ngày khác để ôn lại trong đầu những cuốn
sách lịch sử này, suy diễn nơi nào nước này hay nước khác đã sai
đường, hay Mỹ nên làm gì trong lĩnh vực đối ngoại. Tôi cũng suy niệm
rất nhiều về ý nghĩa của đời sống. Cũng dễ dàng rơi vào sự tưởng
tượng. Tôi đã từng viết sách và kịch trong tâm trí mình, nhưng tôi
nghi ngờ rằng trong số này chẳng có cuốn nào hơn được mức tiểu
thuyết rẻ tiền nhất. Người ta đã hỏi tôi làm cách nào mà chúng tôi
có thể nhớ được những chi tiết như mật mã, con số, tên họ cùng mọi
thứ khác. Thực tế là, khi anh không có bất cứ điều gì khác để suy
nghĩ, không bị chia trí thì nó thật dễ dàng. Kể từ khi tôi đã quay
lại đây thì lại rất khó cho tôi để nhớ cả những điều đơn giản, ví dụ
như tên của một người mà tôi vừa mới gặp. Trong thời gian bị biệt
giam, tôi nhớ tên của tất cả 335 tù nhân chiến tranh ở Bắc Việt. Tôi
vẫn còn nhớ chúng. Điều bạn phải chống chọi với nó là nỗi lo lắng.
Nội tình trạng thể chất mình cũng dễ gây căng thẳng. Một lần tôi bị
trĩ và đầu óc tôi bị chết dính vào nó khoảng ba ngày. Cuối cùng, tôi
nhủ, “Coi, McCain, mày có từng biết thằng nào chết vì bệnh trĩ
chưa?”. Vì vậy tôi bỏ mặc không nghĩ ngợi nữa và sau vài tháng thì
nó tự khỏi.
Câu
chuyện của Ernie Brace minh họa cho việc liên lạc là quan trọng với
chúng tôi thế nào.
Lúc tôi đang bị nhốt tại “Đồn Điền” vào
tháng 10 năm 1968, có một căn phòng phía sau phòng tôi. Tôi nghe vài
tiếng động bên đó vì vậy tôi bắt đầu gõ nhẹ vào tường. Tín hiệu mà
chúng tôi gọi là “cạo râu và cắt tóc” để anh chàng khác sẽ gõ lại
hai tiếng. Trong hai tuần, tôi không nghe động tĩnh, nhưng cuối cùng
thì có hai tiếng gõ. Tôi bắt đầu gõ theo bảng chữ cái – một cái là
“a”, hai cái là ” b ”và cứ vậy. Rồi tôi bảo: “Áp tai vào tường”.
Cuối cùng anh ta đến và tôi áp cái ly vào tường, nói cho anh ta nghe
được. Tôi chỉ cho anh mã gõ và các thông tin khác. Anh nói tên mình
là Ernie Brace. Ngay lúc đó thì có tên lính canh lai vãng, tôi nói
với Ernie:
“Thôi,
ngày mai tôi gọi lại cho anh”.
Cũng mất vài ngày anh ta mới quay lại bức
tường. Anh chỉ nói được “Tôi là Ernie Brace” rồi bắt đầu khóc nức
nở. Sau khoảng hai ngày thì anh dằn được cảm xúc của mình, và trong
vòng một tuần anh chàng này đã biết cách gõ, giao tiếp, nhắn tin và
làm rất tốt về sau.
Ernie là một phi công dân sự bị bắn rơi ở
Lào. Anh bị cùm chân trong một cái lồng tre trong rừng, cổ bị xích
lại trong ba năm rưỡi, hầu như chẳng sử dụng đến đôi chân. Anh trốn
thoát ba lần và sau lần thứ ba bị bắt lại, anh bị chôn đứng xuống
đất, chỉ chừa lại cái đầu.
Trong những ngày đó, vẫn vào năm 1968,
theo lẽ là chúng tôi được phép tắm cách ngày. Nhưng cái trại này
thiếu nước nên đôi khi hai ba tuần, cả tháng cũng không được tắm.
Tôi có một tên “chuột cống” canh ngục, lúc nào cũng đưa tôi ra sau
chót. Bồn tắm kiểu cái chuồng ngựa đổ bê-tông. Sau khi tất cả mọi
người tắm, thường là không còn nước dư nhưng tôi cũng bị tống vào
đứng không năm phút “tiêu chuẩn tắm” rồi bị đưa về lại phòng.
Chuyện vệ sinh thì tôi được phát cho cái
xô có nắp đậy không vừa miệng. Ngày nào cũng phải đổ nhưng có người
khác xách giùm vì tôi còn đi chưa nổi. Từ lúc Day và Overly rời tôi,
Day rời vào tháng 2 còn Overly thì tháng 3 năm 1968, việc đối xử căn
bản là có đỡ. Khi tôi bị bắt gặp đang gõ tín hiệu liên lạc với người
phòng khác hay đại loại vậy thì chỉ bị tặc lưỡi:
“Tắc, tắc! Không được thế, không được
thế”.
Thật vậy,
tôi nghĩ cũng không đến nỗi nào.
Ngày 15 tháng 6 năm 1968, một đêm tôi bị
đưa lên phòng thẩm vấn. “Mèo” và một gã đàn ông khác mà chúng tôi
gọi là “Thỏ” đang ở đó. “Thỏ” nói tiếng Anh rất giỏi. “Mèo” là chỉ
huy của tất cả các trại tù tại thời điểm đó. Với tôi, hắn làm như
không nói được tiếng Anh, mặc dù rõ ràng theo tôi thì hắn biết, vì
trong các cuộc trò chuyện, hắn đặt câu hỏi hoặc nói chuyện trước khi
“Thỏ” dịch những gì tôi nói. Như bạn biết, người phương Đông hay nói
vòng vo một chút. Đêm đầu tiên, “Mèo” nói chuyện với tôi khoảng hai
tiếng. Tôi không biết ý hắn ra sao nhưng đại loại hắn nói với tôi là
hắn từng quản các trại tù binh Pháp trong những năm 1950 và đã tha
cho một vài người, và rằng gần đây hắn gặp lại thì họ đã cám ơn về
lòng tốt của hắn. Hắn bảo Overly đã về nhà “với danh dự”.
Tôi thực sự không biết phải nghĩ gì, bởi
vì tôi đã từng có những cuộc thẩm vấn khác mà tôi chẳng khai báo.
Lần này thì họ không tra tấn tôi. Họ chỉ nói rằng tôi sẽ không bao
giờ được về nhà và sẽ bị xét xử như một tội phạm chiến tranh. Đó là
đề tài thường xuyên của họ trong nhiều tháng. Đột nhiên “Mèo” hỏi
tôi:
– Anh có
muốn về nhà không?
Tôi sững người và tôi nói với bạn rất
thẳng thắn rằng, tôi đã trả lời rằng tôi phải suy nghĩ về nó.Tôi trở
về phòng và nghĩ ngợi khá lâu. Tôi đâu liên lạc được các sĩ quan cấp
trên để có thể nhận được lời khuyên. Tôi lo liệu tôi có còn sống hay
không bởi vì tôi đang ở trong tình trạng khá xấu. Tôi vừa bị kiết lỵ
khoảng một năm rưỡi nay, bị sụt cân lần nữa. Nhưng tôi hiểu quân
cách sĩ quan rằng “không chấp nhận ân huệ hoặc ân xá” và “sẽ không
chấp nhận ưu đãi đặc biệt nào”, vì đối với ai đó được về nhà trước
đó là một đặc ân đặc biệt. Không thể phá quân cách này. Ba đêm sau
tôi được đưa trở lại. Hắn hỏi lại:
“Anh có muốn về nhà không?”.
Tôi nói: “Không”.
Hắn ta muốn biết lý do, và tôi trả lời lý
do. Tôi nói rằng:
– Alvarez (người Mỹ đầu tiên bị bắt) cần
được thả đầu tiên, sau đó là các binh lính.
“Mèo” nói với tôi rằng Tổng thống Lyndon
Johnson đã ra lệnh cho tôi về nhà. Hắn đưa cho tôi một lá thư từ vợ
tôi, trong đó cô đã viết: “Em ước chi anh là một trong ba người đã
trở về nhà”. Tất nhiên, cô không cách nào hiểu được những phức tạp
phía sau.
“Mèo”
cho biết rằng các bác sĩ đã nói với hắn rằng tôi không thể sống nổi
trừ khi tôi được chữa trị tại Mỹ. Chúng tôi cứ vờn nhau điều này và
tôi vẫn [một]
mực nói “Không”. Ba đêm tiếp sau đó cũng cứ như vậy. Trong sáng lễ
Độc Lập 4 tháng 7 năm 1968, cùng một ngày cha tôi được thăng quyền
Tổng Tư Lệnh Thái Bình Dương các lực lượng Hoa Kỳ, tôi được dẫn vào
một căn phòng thẩm tra khác. “Thỏ” và “Mèo” đã ngồi ở đó. Tôi bước
vào và ngồi xuống. “Thỏ” nói:
– Cấp trên chúng tôi muốn biết câu trả lời
cuối cùng của anh.
– Câu trả lời cuối cùng của tôi cũng vậy.
Đó là “Không”.
–
Câu trả lời cuối cùng của anh phải không?
– Đó là câu trả lời cuối cùng của tôi.
“Mèo” đang ngồi với một đống giấy tờ trước
mặt và một cây viết trong tay, hắn bẻ đôi cây viết, mực văng tung
tóe. Hắn đứng lên, đá sầm cái ghế phía sau và nói:
“Bây giờ, McCain, chuyện sẽ rất xấu cho
anh đó. Về lại phòng”.
Giai đoạn Bắc Việt liên tục đối xử tàn
nhẫn với tù binh Mỹ kéo dài đến khoảng Tháng Mười năm 69. Họ muốn
tôi gặp các nhóm phản chiến đến Hà Nội, trong đó có rất nhiều người
nước ngoài như Cuba, Nga. Tôi nghĩ lúc đó chưa có nhiều người Mỹ
“phản chiến” sớm vậy, dù các năm sau đó thì nhiều hơn. Tôi từ chối
gặp bất kỳ nhóm nào. Với họ thì giá trị tuyên truyền sẽ rất lớn khi
cha tôi là Tổng tư lệnh Thái Bình Dương.
Nhóm David Dellinger đến. Nhóm Tom Hayden
đến. Ba nhóm tù nhân được thả, trên thực tế, dưới sự bảo trợ của các
“nhóm hòa bình” này. Những người đầu tiên được thả về với một trong
nhóm anh em Berrigan. Nhóm tiếp theo là toàn bộ một phi hành đoàn,
có James Johnson, một trong những bộ ba Fort Hood (Nhóm 3 Binh Nhất
Mỹ phản đối việc bị đưa sang Việt Nam) về cùng vợ của chủ biên tạp
chí “Ramparts” và Rennie Davis. Nói chung, tôi nghĩ có tám hoặc chín
người về kiểu đó. Sau đó là một nhóm thứ ba. Bắc Việt muốn tôi gặp
tất cả các nhóm này, nhưng tôi đã có thể né được. Nhiều khi không
thể làm họ mất mặt, vì vậy bạn phải cố gắng để đu đưa với nó. Bạn
biết là “mặt mũi” là chuyện lớn với loại người này, và nếu bạn để họ
có thể giữ thể diện thì được dễ dàng hơn rất nhiều. Ví dụ họ đánh
tôi tàn nhẫn và bắt tôi phải gặp một phái đoàn, tôi trả lời:
“Được, tôi muốn gặp một nhóm vậy, nhưng
tôi sẽ không nói bất cứ điều gì chống lại đất nước mình và tôi cũng
không nói bất cứ điều gì về việc đối xử với tôi, nhưng nếu được hỏi,
tôi sẽ kể sự thật về các điều kiện tôi đang bị giam giữ”.
Họ bảo:
“Anh đồng ý gặp một phái đoàn nên chúng
tôi sẽ cho anh gặp”.
Nhưng như mọi người thấy, họ chưa bao giờ
cho tôi gặp. Một lần, họ muốn tôi viết vài hàng cho các tù nhân
chiến hữu của tôi nhân dịp Giáng Sinh. Tôi viết thế này:
“Gởi đến các tù nhân chiến hữu mà tôi
không được phép gặp mặt hay nói chuyện, tôi cầu mong gia đình các
chiến hữu được tốt lành và hạnh phúc, và tôi hy vọng rằng các chiến
hữu được phép viết và nhận thư gia đình theo Công ước Geneva năm
1949 mà những người đang giam cầm các bạn không cho phép. Xin Thiên
Chúa ban phước lành đến các chiến hữu”.
Họ nhận thư nhưng tất nhiên là không bao
giờ công bố nó. Nói cách khác, đôi khi viết cái gì đó ca ngợi chính
phủ mình hoặc chống lại họ thì tốt hơn chuyện cứ nói “Tôi sẽ không
viết bất cứ điều gì” – vì đó cũng có thể là cách câu giờ khi các
điều viết ra này phải được thông lên đủ loại cấp trên của chúng.
Bây giờ để tôi kể với bạn câu chuyện của
Đại úy Dick Stratton. Anh bị bắn rơi vào Tháng Năm 1967, lúc vài
nhóm phản chiến Mỹ đã nhao nhao la làng rằng Hoa Kỳ ném bom Hà Nội
dù chúng tôi chưa làm vào thời điểm đó. Dick bị bắn rơi phía ngoài
Hà Nội, nhưng họ muốn có một lời thú tội nhân lúc một ký giả Mỹ đang
có mặt. Đó là vào mùa Xuân và mùa Hè năm 67 – chắc mọi người còn nhớ
những câu chuyện rất giật gân về những thiệt hại do bom Mỹ?
“Thỏ” và những tên khác thẩm vấn Dick
Stratton rất tàn bạo. Tay Dick đầy các vết hằn dây thừng đã bị nhiễm
trùng. Chúng thực sự bóp dẹp anh để có được một lời thú nhận rằng,
anh đã ném bom Hà Nội như một bằng chứng sống. Chúng rút móng tay và
dí tàn thuốc lá vào người anh. Dick bị dồn đến mức không thể nói
“không”. Nhưng khi chúng đưa anh đến buổi họp báo, anh làm một hành
động cúi chào – anh cúi chào 90 độ theo hướng này, anh cúi chào 90
độ theo hướng khác, đủ bốn góc. Với đám “gooks” thì không phải điều
gì quá lạ lẫm vì chúng quen với việc cúi chào vậy. Nhưng bất kỳ
người Mỹ nào nhìn thấy hình ảnh của một người Mỹ gập mình đến thắt
lưng để cúi chào vậy cũng biết rằng có điều gì đó không ổn, có điều
gì đó đã xảy ra với anh ta. Đó là lý do tại sao Dick làm những gì
anh đã làm. Sau đó chúng tiếp tục tạo áp lực để anh ta nói rằng anh
ta không bị tra tấn. Chúng tra tấn anh để buộc phải nói rằng anh
không bị tra tấn. Dick vừa ra tuyên bố mạnh mẽ tại cuộc họp báo một
vài tuần trước ở đây rằng anh muốn thấy Bắc Việt bị buộc tội là tội
phạm chiến tranh. Anh ấy là một người cao quý. Anh và tôi đã ở chung
trại “Đồn Điền” với nhau trong một thời gian dài và anh rất can
cường trong đó. Anh là một sĩ quan Hải quân xuất sắc, một người Mỹ
cống hiến hết mình và có đức tin sâu sắc. Tôi nghĩ đến Dick Stratton
rất nhiều. Anh rất, rất là xui bị nhận những đối xử tàn tệ nhất mà
đám“gook” có thể nặn ra.
Chúng tôi đã trải qua một mùa Xuân và Hè
1969 đặc biệt xấu vì có một cuộc vượt ngục tại một trong những trại
tù. Hai người của ta là Ed Atterberry và John Dramesi lên kế hoạch
chuẩn bị rất tốt nhưng đã bị bắt lại. Atterberry bị đánh đến chết
sau cuộc vượt ngục bất thành này. Chẳng nghi ngờ gì về điều này khi
Dramesi thấy Atterberry bị đưa vào một căn phòng và nghe tiếng đánh
đập rồi bị biệt tăm từ đó. Còn Dramesi, nếu anh không phải là một
người lỳ đòn thì cũng có thể đã bị đánh chết. Anh có thể là một
trong những người gai góc nhất mà tôi từng gặp. Anh là dân từ Nam
Philly, từng là một võ sĩ quyền Anh chuyên nghiệp và là một đô vật
khi còn trong đại học. Các đòn thù lây sang tất cả các trại khác. Họ
bắt đầu tra khảo chúng tôi về các kế hoạch vượt ngục. Thức ăn trở
nên tồi tệ. Việc kiểm tra phòng trở nên rất nghiêm ngặt. Anh không
thể có bất cứ điều gì trong phòng mình, không có gì. Họ không cho cả
thuốc i-ốt xức ghẻ như trước vì Dramesi và Atterberry đã bôi i-ốt
cho sậm da như người Việt Nam trước khi vượt ngục.
Mùa hè năm đó, từ Tháng Năm đến khoảng
Tháng Chín thì cứ ngày hai lần, tuần sáu ngày, tất cả chúng tôi được
cho ăn chỉ là canh bí đỏ và bánh mì tại trại mình. Đó là một chế độ
ăn uống rất kham khổ, đầu tiên là ngán tận cổ thứ canh bí đỏ đó, kế
đến là nó không có bất kỳ giá trị dinh dưỡng thực sự nào. Điều duy
nhất để có thể giữ cho năng lượng trong người là bánh mì, một cục
bột nhão nhoét. Ngày Chủ Nhật, chúng tôi được cho ăn món chè đậu,
đậu nấu với đường. Rất nhiều người chúng tôi ốm tong teo và hốc hác.
Tôi xui xẻo bị bắt gặp đang liên lạc bạn
tù bốn lần trong Tháng Năm năm 1969. Tôi bị tống vào một phòng trừng
phạt đối diện với xà-lim của tôi nhiều lần. Cũng Tháng Năm 1969 đó,
họ muốn tôi viết, như tôi còn nhớ, một lá thư cho các phi công Mỹ
đang bay trên Bắc Việt để yêu cầu họ đừng làm điều đó nữa. Tôi đã bị
buộc phải đứng liên tục – đôi khi chúng phạt mình đứng yên hay ngồi
trên một chiếc ghế suốt một thời gian dài. Tôi bị bắt đứng vậy cũng
mấy ngày, chỉ được nghỉ vài tiếng khi một lính canh – một người thực
sự là con người duy nhất mà tôi từng gặp ở trong đó – cho tôi nằm
xuống cho một vài giờ khi anh gác trong một đêm khuya. Một trong
những thủ thuật chúng tôi đối phó để chúng chẳng hủy được mình là
nếu cảm thấy đứng mệt quá thì tự ngồi xuống, để chúng buộc đứng lên
lại. Vì vậy, tôi ngồi xuống và bị một tên lính canh bé choắt đặc
biệt đáng căm ghét xông vào, nhảy giậm lên xuống đầu gối tôi. Vì
chuyện này mà tôi đã phải mang nạng trở lại cả một năm rưỡi sau đó.
Đó là một mùa Hè dài đăng đẳng và khó khăn
nhưng đến Tháng Mười năm 1969, đột nhiên có những thay đổi lớn trong
trại. Sự tra tấn ngừng lại. Một ngày kia, gã “Công tử” đến phòng của
tôi và thông báo tôi sẽ có được một người bạn tù ở chung phòng. Thức
ăn đỡ hơn và phần ăn cũng nhiều hơn, còn đám lính canh ra vẻ thân
thiện. Tôi cho rằng tất cả điều này trực tiếp nhờ vào các nỗ lực vận
động của chính phủ và người dân ở Hoa Kỳ vào năm 1969. Em trai tôi
là Joe rất tích cực trong Liên Đoàn Quốc gia những gia đình các tù
nhân chiến tranh và mất tích người Mỹ tại Đông Nam Á.Tổ chức này bao
trùm tất cả các nhóm gia đình tù binh chiến tranh POW. Joe đã giải
thích cho tôi biết lý do tại sao thái độ Bắc Việt Nam đối với tù
binh Mỹ lại thay đổi vậy.
Vào khoảng những năm 1965, 1966 trước đó,
khi việc ném bom miền Bắc tăng dần, Hà Nội trình diễn màn tuyên
truyền đầu tiên của mình bằng cách điệu các phi công Mỹ bị đánh đập
diễn hành qua các đường phố. Đáng ngạc nhiên với họ là phản ứng của
truyền thông thế giới nói chung là tiêu cực. Kế đó Bắc Việt đã cố
gắng chiến thuật buộc Thiếu tá Dick Stratton xuất hiện và xin lỗi vì
những tội ác chiến tranh. Nhưng rõ ràng là ông đã bị ngược đãi và
buộc phải làm điều này chỉ dưới sự cưỡng ép. Điều đó chỉ phản tác
dụng. Họ làm tiếp việc trả tự do hai nhóm ba tù binh vào Tháng Hai
và Tháng Mười năm 1968. Những tù binh này bị bắt dưới sáu tháng,
chưa bị giảm cân đáng kể và nhìn còn khỏe mạnh.
Cho đến khi Nixon lên nắm chính phủ đầu
năm 1969 thì trước đó chính phủ ở nhà còn giữ thái độ: “Không nói về
tình trạng tù binh chiến tranh vì e rằng sẽ làm nguy hại tù binh Mỹ
đang bị giam”. Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird, đầu năm 1969, đã
có các cuộc đàm phán hòa bình với Bắc Việt và Việt Cộng tại Paris
(đàm phán đã bắt đầu dưới thời Tổng thống Johnson vào cuối năm
1968). Laird đem hình ảnh của những tù binh bị đánh đập tàn nhẫn mà
các hãng tin nước ngoài chụp được, chẳng hạn như Frishman, Stratton,
Hegdahl – tất cả đều bị xuống ký trầm trọng. Ông nói với Bắc Việt:
“Công ước Geneva nói rằng các ông phải thả tất cả các tù binh bị
bệnh và bị thương. Những người này đang bị bệnh và bị thương, tại
sao họ không được trả tự do?”. Tháng Tám năm 1969, Hà Nội thả
Frishman. Anh không còn khuỷu tay, chỉ được gắn cánh tay cao su khập
khiễng và sụt mất 65 lbs.
Hegdahl ra tù và sụt 75lbs. Wes Rumbull
cũng được thả, phải bó bột vì gãy sống lưng. Frishman được phép tổ
chức một cuộc họp báo và kể ra các chi tiết sự tra tấn và ngược đãi.
Tin tức này xuất hiện trên toàn thế giới, và từ đó, bắt đầu từ mùa
Thu năm 1969, việc đối xử tù binh đỡ hơn. Chúng tôi nghĩ tác động
trực tiếp là đến từ thực tế Frishman là một nhân chứng sống thực về
sự ngược đãi tù binh Mỹ của Bắc Việt.
Tôi tự hào về các hoạt động tranh đấu cho
tù nhân chiến tranh của em trai tôi là Joe và Carol – vợ tôi, bên
nhà. Sự khao khát của những người vợ có chồng tù tội theo thời gian
thường là “Lạy Chúa, bất kể sao cũng được, con chỉ muốn chồng con
được về”. Với Carol thì câu trả lời của cô ấy là, “Chỉ cần có được
chồng tôi trở về không đủ đối với tôi và không đủ với John, mà tôi
muốn anh ấy đứng thẳng người trở về”. Tôi được nhận khá ít thư từ
Carol. Chỉ có ba thư trong bốn tháng đầu tiên tôi bị bắn hạ. Đám
“gook” cho tôi nhận chỉ một lá thư trong bốn năm tù cuối. Gói quà
đầu tiên được nhận vào Tháng Năm 1969, sau đó họ cho mỗi năm một
lần. Lý do tôi nhận rất ít thư từ Carol vì cô khăng khăng chỉ sử
dụng các tổ chức hoạt động theo Công ước Geneva về việc đối xử với
tù nhân chiến tranh, mà từ chối gửi thư thông qua Ủy ban liên lạc
với các gia đình tù nhân do các nhóm phản chiến điều hành. Điều này
mang lại cho tôi vài điều cần nói chi tiết hơn.
Như mọi người biết, trở lại thời điểm
1954, Bắc Việt đã ở thế tay trên trong việc lật đổ chính phủ Pháp
tại Paris vì các cử tri Pháp đã chẳng còn quan tâm đến cuộc chiến
Việt Nam mà chính phủ của họ đã dự phần. Đó là cách Bắc Việt chiến
thắng vào năm 1954, thắng ngay tại Pháp chớ không phải tại Việt Nam.
Pháp đồng ý rút khỏi Đông Dương mà không đặt vấn đề gì khác khi ký
thỏa thuận và kết quả là họ chỉ nhận lại một phần ba số tù binh
chiến tranh của mình. Tôi tin rằng Hà Nội cũng hy vọng sẽ giành
chiến thắng trong trường hợp chúng ta bằng cách làm suy giảm tinh
thần dân Mỹ như vậy. Họ phải dẫn đưa dư luận thế giới về phía họ.
Tôi nhớ vào năm 1968 hoặc 69, trong bài phát biểu của Phạm Văn Đồng
với Quốc Hội VN, chúng ta bị banh tai với diễn văn có tiêu đề “Cả
thế giới ủng hộ chúng ta” chớ không phải kiểu “Chúng ta đã đánh bại
quân Mỹ xâm lược” hoặc bất cứ điều tương tự vậy.
Năm 1969, sau khi ba tù nhân được trả tự
do về đến Mỹ và kể lại sự tàn bạo trong các trại tù binh chiến tranh
thì Tổng Thống Nixon đã bật đèn xanh cho công bố điều này. Nó tác
động mạnh đến việc đối xử với chúng tôi. Cảm tạ Chúa cho điều này,
bởi nếu không phải vậy thì rất nhiều người trong chúng tôi sẽ chẳng
bao giờ còn cơ hội sống sót trở về. Một ví dụ nhỏ về cách thay đổi
như sau: trên cửa xà-lim tôi là các chấn song sắt, thường bị che bởi
một tấm ván để tôi khỏi nhìn ra ngoài và để chặn sự thông gió. Một
đêm, vào khoảng cuối Tháng Chín năm 1969, “Đầu Lệch” – tên trưởng
trại tù đích thân đến và lấy nó ra để tôi bắt đầu có chút thoáng
gió. Tôi chẳng tin vào mắt mình. Từ đó, mỗi đêm họ hé ô cửa trên để
tôi có được chút thông gió. Chúng tôi bắt đầu được tắm thường xuyên
hơn. Thiệt hết sức là ngạc nhiên. Vào Tháng 12 năm 1969, tôi được
chuyển từ “Ngũ Giác Đài” sang “LasVegas”, là một khu vực nhỏ tại Hỏa
Lò do người Pháp xây năm1945. Người Mỹ thì gọi nó là “Hà Nội
Hilton”. “Khách Sạn Tan Tác” cũng là ở đó – đó là nơi đầu tiên mà ai
cũng bị đưa đến thẩm vấn mở màn và sau đó bị đưa đến các trại khác.
Toàn bộ nhà tù này có diện tích khoảng hai block đường. Tại “Las
Vegas”, tôi bị đưa vào một nhà nhỏ gọi là “Gold Nugget” có ba phòng
giam. Chúng tôi đặt tên cho các ngôi nhà theo tên các khách sạn tại
Las Vegas như “Thunderbird”, “Stardust”, “Riviera”, “Gold Nugget” và
“Desert Inn”. Bị chuyển đến “GoldNugget” và ngay lập tức tôi có thể
tạo sự liên lạc với những tù nhân quanh trại, vì khu vực tắm ở ngay
cửa sổ phòng tôi nên tôi có thể nhìn qua kẽ trên cửa phòng tắm và
liên lạc với nhau. Tôi bị biệt giam ở đó cho đến Tháng Ba năm 1970.
Họ ép tôi gặp các đoàn phản chiến Mỹ đã
bắt đầu tăng dần nhưng không bị bất kỳ sự tra tấn nào để ép buộc.
Vào Tháng Giêng năm 1970, tôi được đưa đến “Mèo” để thẩm vấn. Hắn
nói với tôi rằng, hắn muốn tôi gặp một khách nước ngoài.Tôi lặp lại
điều đã luôn nói với hắn trước đó rằng, tôi sẽ gặp họ nhưng tôi sẽ
không nói bất cứ điều gì chống lại đất nước mình và nếu được hỏi về
việc đối xử, tôi sẽ kể với họ về sự khắc nghiệt của nó. Rất ngạc
nhiên cho tôi, hắn nói: “Tốt, anh không cần phải nói bất cứ điều
gì”. Tôi nói với hắn tôi sẽ suy nghĩ về đề nghị này. Tôi trở về
phòng và tìm cố vấn từ một sĩ quan cấp trên trong khu vực tù của
mình và ông khuyên tôi cứ đi gặp. Vì thế tôi đã gặp một tay nói rằng
hắn đến từ Tây Ban Nha, nhưng sau này tôi nghe được là đến từ Cuba.
Hắn chẳng hỏi tôi bất kỳ câu hỏi nào về các vấn đề gây tranh cãi
hoặc chuyện đối xử hay suy nghĩ của tôi về cuộc chiến.
Tôi nói với hắn là tôi chẳng hối hận gì về
những gì tôi đã làm và nếu có xảy ra lần nữa, tôi cũng sẽ làm lại y
vậy. Điều đó dường như làm hắn nổi giận vì hắn là một cảm tình viên
của Bắc Việt. Giữa lúc đó, một phóng viên bước vào chụp vài tấm
hình.Tôi đã nói với “Mèo” trước đó là tôi không muốn có bất cứ sự
công bố hình ảnh nào của tôi, vì vậy khi tôi về phòng sau cuộc phỏng
vấn kéo dài khoảng 15, 20 phút gì đó, tôi nói với hắn là tôi sẽ
không gặp khách nào khác vì hắn đã không giữ lời hứa. Sau đó Đại úy
Jeremiah Denton, người đang điều hành khu tù chúng tôi lúc đó đưa ra
đường lối là chúng tôi không nên gặp bất kỳ đoàn nào khác. Tới Tháng
Ba, tôi có được một bạn tù chung phòng là Đại tá Không quân John
Finley. Ông và tôi sống chung được khoảng hai tháng. Một tháng sau
khi ông nhập phòng, “Mèo” đến gặp tôi và bắt phải gặp một phái đoàn
khác. Tôi từ chối nên bị phạt ngồi ghế ngoài trời trong ba ngày đêm
liên tục. Sự ép buộc lên chúng tôi liên tục để phải gặp các phái
đoàn phản chiến. Đầu tháng Sáu tôi bị tách khỏi Đại tá Finley và bị
đưa vào một xà-lim gọi là “Calcutta”, cách xa các tù nhân gần nhất
cũng khoảng 50 mét. Nó rộng chỉ 6×2 feet, không có lỗ thông gió và
rất, rất là nóng. Suốt mùa hè tôi bị lả nhiệt vài ba lần và bị bệnh
kiết lỵ. Sức khỏe tồi tệ hẳn, tôi không được tắm rửa và khẩu phần bị
cắt giảm xuống còn một nửa, thỉnh thoảng lại bị bỏ đói một ngày hay
hơn. Suốt thời gian này tôi bị đưa đi thẩm vấn và bị ép phải gặp
những người phản chiến nhưng tôi từ chối.
Tháng Chín tôi bị chuyển đến khu gọi là
“Riviera” nằm tách biệt sau trại. Tôi ở đó cho đến khi tháng Mười
Hai năm 1970. Ở đó tôi có thể liên lạc với bạn tù khá tốt vì có một
cánh cửa có lỗ thông gió quay ra ngoài. Tôi đứng lên cái xô rồi dùng
bàn chải đánh răng để quơ tín hiệu cho các tù nhân khác và họ sẽ quơ
lại cho tôi. Tháng Mười Hai tôi bị chuyển đến “Thunderbird”, một
trong những ngôi nhà lớn với khoảng 15 phòng giam. Việc liên lạc với
bạn tù rất tốt ở đây khi chúng tôi gõ tín hiệu lên vách giữa các
phòng giam với nhau. Tôi học được rất nhiều về âm học trong thời
gian này, vì nếu bạn biết gõ đúng chỗ trên vách thì có thể nghe được
người khác ở cách xa bốn năm phòng. Cuối tháng 12 năm 1970, tôi đoán
là khoảng ngày 20, tôi được cho ra ngoài vào ban ngày với bốn người
khác. Vào đêm Giáng Sinh, chúng tôi được đưa ra khỏi phòng mình và
chuyển đến “Trại Thống nhất”, một phần khác của Hỏa Lò. Khoảng 45
người, chủ yếu bị đưa từ “Vegas” bị nhốt chung vào một phòng lớn. Có
bảy phòng lớn như vậy và mỗi phòng giam 45 hoặc 50 tù nhân. Chúng
tôi có tổng cộng 335 tù nhân tại thời điểm đó. Có bốn hoặc năm người
không trong tình trạng tốt nên bị nhốt riêng. Các Đại tá Flynn,
Wynn, Bean và Caddis cũng bị nhốt riêng biệt, không được chuyển vào
với chúng tôi lúc đó.
Tên giám thị của chúng tôi lại là “Con
Rệp” mà chúng tôi rất căm ghét. Hắn hành hạ chúng tôi đủ điều, không
cho chúng tôi tụ tập hơn ba người cùng lúc. Chúng sợ chúng tôi sẽ
thiết lập sự truyền bá chính trị cho nhau. Chúng không cho chúng tôi
được làm Thánh lễ. Tháng Ba năm 1971, các sĩ quan cấp trên quyết
định rằng chúng tôi sẽ tổ chức một Thánh lễ. Đó là điều quan trọng
với chúng tôi và cũng là điều đúng để tranh đấu. Chúng tôi tiến hành
và tổ chức lễ. Những người chủ Thánh lễ ngay lập tức bị đưa ra khỏi
phòng. Chúng tôi bắt đầu hát vang những bài Thánh ca và Quốc ca. Đám
“gook” nghĩ đó là một cuộc nổi loạn nên mang dây thừng và dùng judo
vật trói chúng tôi. Sau khoảng một hoặc hai tuần họ bắt đầu đưa các
sĩ quan cấp trên ra khỏi phòng chúng tôi đến nơi khác. Cuối tháng Ba
chúng lại đưa thêm ba hay bốn người mỗi một trong bảy phòng ra, tổng
cộng là 36 người. Chúng tôi bị đưa đến một trại chúng tôi gọi là
“Skid Row”, một trại trừng phạt từ tháng Ba đến tháng Tám, được trở
về khoảng bốn tuần khi có ngập lụt quanh Hà Nội, rồi sau đó chúng
tôi lại bị đưa ra đó lại cho đến tháng Mười.
Ở đó chúng không đối xử tệ lắm với chúng
tôi. Đám lính canh được phép đánh chúng tôi chỉ khi chúng tôi ngang
ngạnh nhưng không được phép tra tấn chúng tôi để có được các tuyên
bố mang tính tuyên truyền. Các xà-lim đều rất nhỏ, khoảng 6×4 feet
và chúng tôi bị biệt giam lần nữa. Đó là điều khó chịu nhất vì cứ
làm mình nghĩ đến tất cả bạn bè đã từng bị giam chung một phòng lớn
với nhau. Nhưng so với những năm 69 và trước đó thì chẳng đáng gì.
Lợi thế lớn nhất khi bị giam chung phòng lớn là chỉ cần vài ba người
trong nhóm phải đối phó với đám “gook” còn khi bị biệt giam thì lúc
nào cũng phải tự mình đối phó với chúng, mà lúc nào chẳng có chuyện
lục đục với chúng. Lẽ ra mình được phép có 15 phút để tắm nhưng mới
năm phút thì tên “gook” đã bắt về lại phòng, vì vậy phải cãi với hắn
và thế là bị hắn nhốt lại, không cho tắm một tuần. Nhưng khi ở trong
một phòng lớn với những người khác, chẳng thèm dòm ngó đến chúng sẽ
làm mình dễ chịu hơn rất nhiều.
Suốt giai đoạn này, bọn “gook” tấn công
chúng tôi bằng các phát biểu phản chiến từ một số nhân vật cao cấp
ngay [tại]
Washington, D.C. Đây là cách tuyên truyền hữu hiệu nhất để tấn công
chúng tôi khi dùng chính phát biểu, tuyên bố của vài người nói chung
là được trọng vọng tại Hoa Kỳ. Chúng dùng nhiều lời lẽ củaThượng
Nghị Sĩ Fulbright, rồi TNS Brooke.
Chúng lặp đi lặp lại lời của TNS Ted
Kennedy, cũng như Averell Harriman. Chúng cũng thích Clark Clifford,
ngay sau khi ông trở thành Bộ Trưởng Quốc Phòng thời Tổng Thống
Johnson.
Đến khi
Ramsey Clark vào cuộc thì họ xem đó là bước tuyệt vời cho mục tiêu
của họ (Chú thích: Ramsey Clark, cựu Bộ Trưởng Tư Pháp thời TT
Johnson, người phản đối mạnh mẽ chiến tranh Việt Nam và năm 1972 đã
sang Hà Nội để phản đối việc ném bom Hà Nội). Khi công luận ồn ào
sau vụ công bố Hồ Sơ Ngũ Giác Đài (Chú thich: Pentagon Papers là tài
liệu nghiên cứu mật của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ về sự can dự chính trị
và quân sự của Hoa Kỳ vào Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau Đệ
Nhị Thế Chiến cho đến năm 1967, đã bị một nhân vật phản chiến trong
nhóm nghiên cứu tiết lộ cho báo New York Times vào năm 1971) thì đây
là một bước đệm lớn lao cho Hà Nội để tận dụng nó như một bằng chứng
về những “âm mưu đen tối của đế quốc” mà họ vẫn thường rêu rao trong
nhiều năm.
Tháng
11 năm 1971, Bắc Việt chuyển chúng tôi từ trại trừng phạt “Skid Row”
về lại trại giam chung “Thống Nhất” trong phạm vi Hỏa Lò. Từ đó về
sau thì hầu như chúng tôi bị nhốt chung với những người khác, kể cả
những người được đưa vào sau, cũng khoảng 40 tù binh. Tháng 5 năm
1972, khi Mỹ bắt đầu oanh tạc mạnh sau khi Tổng Thống Nixon ra lệnh
ném bom Bắc Việt và thả mìn các cảng, họ chuyển hầu như tất cả các
sĩ quan cấp nhỏ lên trại “Dogpatch” – Trại Chó Vá – gần biên giới
Trung Cộng, chừa lại các sĩ quan cao cấp và nhóm chúng tôi. Tôi nghĩ
rằng họ sợ Hà Nội sẽ bị đánh bom và nếu nhốt chung tất cả chúng tôi
cùng một trại thì chỉ một quả bom rơi trúng cũng có thể xóa sổ tất
cả. Vào thời điểm này, đám “gook” rất cọc cằn, hung dữ. Chúng từng
kéo một tù binh ra khỏi phòng chúng tôi và đánh anh ta một trận bán
sống bán chết vì anh đã làm lá cờ Mỹ trên lưng áo một tù binh khác.
Anh là một thanh niên tốt, có tên là Mike Christian. Chúng thoi anh
túi bụi ngay ngoài cửa phòng giam chúng tôi, sau đó cứ kéo lê vài
feet lại đánh anh tàn nhẫn hết cả vòng quanh sân trại. Anh bị bể một
bên màng nhĩ và gãy xương sườn. Nó là một bài học dằn mặt tất cả
chúng tôi.
Cuối
cùng đến cái ngày mà tôi sẽ không bao giờ quên được là ngày 18 tháng
12 năm 1972.
Khắp
nơi rền tiếng bom theo lệnh ném bom dịp Giáng Sinh của Tổng Thống
Nixon. Hà Nội bị đánh bom tức thời. Từ khung cửa sổ phòng giam nhìn
ra trời, đó là cảnh tượng ngoạn mục nhất tôi đã từng chứng kiến và
tất nhiên, nhìn rõ những ánh chớp trong đêm. Bom thả rất gần làm
rung chuyển cả tòa nhà. Hỏa tiễn SAM đất-đối-không
[địa-không]
đan chéo bầu trời giữa tiếng còi hụ báo động inh tai quả thực là một
cảnh tượng dữ dội. Khi một chiếc B-52 trúng đạn, ở độ cao hơn 30,000
feet, nó nổ sáng rực cả bầu trời, rồi ánh đỏ như ban ngày khá lâu vì
rơi xuống từ trên không rất cao. Vào thời điểm đó chúng tôi biết là
chúng tôi sẽ không bao giờ được trả tự do trừ khi chính phủ có hành
động gì đó rất quyết liệt. Chúng tôi bị giam ba năm rưỡi trời mà
không có vụ ném bom nào xảy ra nên nhận thức khá rõ cách duy nhất để
chúng tôi được thả là chính phủ phải mạnh tay với Hà Nội. Vì vậy
chúng tôi rất vui mừng, hò reo cổ vũ.
Đám “gook” thì không thích điều đó chút
nào, nhưng chúng tôi cóc để ý. Với chúng tôi thì rõ ràng là đàm phán
sẽ không giải quyết được vấn đề. Lý do duy nhất tại sao Bắc Việt bắt
đầu chịu đàm phán vào tháng 10 năm 1972 bởi vì họ cũng có thể đọc
được các thăm dò và biết rằng Nixon sẽ chiến thắng áp đảo trong việc
tái tranh cử nên họ muốn đàm phán Hiệp định đình chiến trước bầu cử.
Tôi ngưỡng mộ sự dũng lược của Tổng Thống Nixon. Có thể có chỉ trích
ông trong vài điều, như vụ Watergate chẳng hạn. Nhưng ông phải đưa
ra những quyết định không được ủng hộ lắm mà tôi có thể tưởng tượng
như thả mìn, phong tỏa, ném bom. Tôi biết làm điều đó rất là khó
khăn cho ông nhưng đó là điều để kết thúc chiến tranh. Tôi nghĩ lý
do ông hiểu điều này vì ông có kinh nghiệm đối phó với cộng sản.
Ông biết sử dụng chiến thuật cây gậy và củ
cà rốt. Chuyến công du của ông tới Trung Cộng và khi ký Hiệp ước
Giới hạn Vũ khí Chiến lược với Nga được dựa trên thực tế là chúng ta
mạnh hơn cộng sản nên họ mới đàm phán. Họ chỉ hiểu khi dùng vũ lực.
Và đó là lý do tại sao bây giờ tôi vẫn còn khó hiểu là trong khi mọi
người đều biết rằng việc ném bom cuối cùng đã dẫn đến thỏa thuận
ngừng bắn, thì tại sao mọi người vẫn chỉ trích chính sách đối ngoại
của ông? Sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968, Bắc Việt lên mặt hẳn.
Họ biết Tổng Thống Johnson sẽ ngừng thả bom trước cuộc bầu cử 1968.
Tháng Năm 1968, hai tướng Bắc Việt thẩm vấn tôi trong hai lần riêng
biệt thì cả hai đều nói hầu như giống nhau từng chữ rằng:
“Sau khi chúng tôi giải phóng miền Nam thì
sẽ sang giải phóng Campuchia. Sau Campuchia sẽ đến Lào và sau Lào,
chúng tôi sẽ giải phóng sang Thái Lan, Malaysia, Miến Điện. Chúng
tôi sẽ giải phóng hết cả khu vực Đông Nam Á”.
Họ làm tôi chẳng còn nghi ngờ gì nữa về âm
mưu của họ không chỉ riêng với Nam Việt Nam. Một số người cười cợt
bác bỏ “lý thuyết domino” nhưng Bắc Việt tin vào nó, chưa bao giờ
chối bỏ nó. Hồ Chí Minh đã phát biểu nhiều, rất nhiều lần rằng:
“Chúng ta tự hào ở tuyến đầu trong cuộc
đấu tranh vũ trang giữa phe Xã hội Chủ nghĩa và bọn đế quốc Mỹ xâm
lược”.
Nó hiện
hình không còn là cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giành độc lập
cho miền Nam Việt Nam mà mang đúng nghĩa những gì ông ta đã nói. Đó
là tất cả những gì chủ nghĩa cộng sản nhắm tới: một cuộc đấu tranh
vũ trang để lật đổ các nước Tư bản Chủ nghĩa. Tôi đọc nhiều sách
lịch sử của họ. Họ đưa chúng tôi khá các loại sách tuyên truyền. Tại
thời điểm sau Tết Mậu Thân này, Bắc Việt nghĩ rằng họ đã thắng cuộc
chiến. Họ nghĩ họ làm tướng Westmoreland mất chức. Họ tin rằng họ
làm đắm cơ hội để Johnson tái đắc cử. Và họ nghĩ rằng đa số người
dân Mỹ đứng về phía họ. Đó là lý do tại sao họ oang oang tham vọng
của mình quá sớm vì đánh giá sai bản lĩnh của Tổng Thống Nixon.
Quay trở lại vụ đánh bom tháng 12 thì
thoạt đầu, Bắc Việt có lẽ có rất nhiều hỏa tiễn SAM trong tay nhưng
ngày càng thấy bắn ít dần, có nghĩa họ đã xài gần hết. Ngoài ra,
trong vài ngày đầu tiên thì B-52 thả bom chủ yếu ngay quanh Hà Nội,
sau đó trải ra xa thành phố thì theo tôi nghĩ, ta đã phá hủy được
tất cả các mục tiêu quân sự trong Hà Nội. Tôi không biết số lượng
phi hành đoàn B-52 bị bắn rơi bởi vì họ chỉ đưa các phi công bị
thương vào trại của chúng tôi. Thái độ của các phi công chúng ta rất
tốt. Tôi hỏi một phi công trẻ khóa West Point 70 rằng:
“Anh nghĩ sao khi nhận lệnh ném bom Hà
Nội?”.
Anh trả
lời, “Tinh thần chúng tôi tăng vọt”.
Tôi cũng nghe có một phi công B-52 khước
từ nhiệm vụ trong vụ đánh bom Giáng Sinh. Bạn luôn gặp chuyện kiểu
đó, gặp những người khi khó khăn thì họ bị lương tâm cắn rứt. Tôi
muốn nói điều này với bất cứ ai trong quân đội rằng, nếu anh không
biết quốc gia mình đang làm cái gì thì nên tìm hiểu chúng và nếu
thấy mình không thích điều quốc gia mình đang làm thì hãy đứng ngoài
trước khi mọi chuyện được quyết định.
Một khi trở thành một tù binh chiến tranh,
anh không có quyền bất đồng chính kiến, bởi vì những gì anh làm sẽ
tổn hại đến quốc gia của mình. Anh không còn nói với tư cách cá
nhân, mà nói như một quân nhân của quân đội Hoa Kỳ và mang trách
nhiệm trung thành với Tổng Tư Lệnh chứ không phải với lương tâm của
mình. Vài bạn tù của tôi đã không làm vậy nhưng chỉ là một thiểu số
rất nhỏ. Tôi tự hỏi họ có nên bị truy tố không và thấy chẳng dễ dàng
để trả lời chút nào. Nó có thể phá hủy hình ảnh đẹp của phần lớn
chúng tôi mang về từ địa ngục đó. Hãy nhớ rằng, một số kẻ thay lòng
đổi dạ sau chiến tranh Triều Tiên đã làm phần lớn dân Mỹ nghĩ rằng
hầu hết các tù binh trong cuộc chiến này cũng là những kẻ phản bội.
Nếu họ có bị xét xử thì không phải vì lập trường chống chiến tranh
của họ, mà vì họ đã hợp tác với Bắc Việt đến mức độ gây nguy hại cho
các tù binh khác. Và có điều này cần xem xét: Hoa Kỳ sẽ có những
cuộc chiến tranh khác để chiến đấu cho đến khi cộng sản từ bỏ chủ
thuyết bạo lực lật đổ chúng ta, những người này phải chịu sự lên án
để sẽ không gây tiền lệ cho thái độ làm tổn hại quốc gia trong những
cuộc chiến tương lai.
Vào cuối Tháng Giêng năm 1973, chúng tôi
biết việc kết thúc chiến tranh đã đến gần. Tôi bị chuyển đến “Đồn
Điền” và được cho ở chung theo nhóm được phân loại theo thời gian bị
bắn hạ. Họ đã chuẩn bị sẵn sàng để trả tù binh theo nhóm. Đó là ngày
20 Tháng Giêng. Kể từ đó, mọi chuyện trở nên dễ chịu, họ chẳng sách
nhiễu chúng tôi nữa. Nhưng theo kiểu của họ thì chúng tôi vẫn bị ăn
uống kham khổ trong khoảng hai tuần, chỉ đêm trước khi được trao trả
mới được ăn một bữa no nê ngon lành. Có một điều rất thú vị là sau
khi tôi trở về, Henry Kissinger có kể với tôi rằng khi ông ở Hà Nội
để ký thỏa thuận cuối cùng, Bắc Việt có đề nghị cho phép ông ta có
thể mang một người cùng theo về Washington và đó là tôi. Tất nhiên
là ông từ chối và tôi đã cảm ơn ông về điều đó rất nhiều, vì tôi
không muốn là biệt lệ. Hầu hết mọi người đều cá cược rằng tôi là
người cuối cùng được thả, nhưng bạn không bao giờ có thể hiểu được
bọn “gook”.
Không
có nghi lễ đặc biệt gì khi chúng tôi rời trại. Ủy ban Kiểm soát Quốc
tế đến và chúng tôi được phép nhìn quanh trại lần cuối. Có rất nhiều
phóng viên ảnh, nhưng chẳng có gì trịnh trọng. Chúng tôi lên xe buýt
và được đưa ra sân bay Gia Lâm. Người bạn cũ của tôi là “Thỏ” đã ở
đó. Hắn đứng phía trước và bảo chúng tôi:
“Khi nghe tôi đọc tên, các anh lên máy bay
và về nhà”.
Đó là
ngày 15 tháng 3. Cho đến tận lúc đó, tôi cũng không cho phép bản
thân mình có nhiều hơn một cảm giác hy vọng đầy thận trọng. Chúng
tôi đã mừng hụt rất nhiều lần trước đó đến độ tôi quyết định rằng
mình sẽ không được phấn khích cho đến khi nào bắt tay được với một
người Mỹ mang quân phục. Điều đó đã xảy ra tại Gia Lâm và tôi biết
nó đã kết thúc thật sự. Tôi chẳng thể nào diễn tả được cảm xúc của
mình khi đi về [trên]
chiếc phi cơ Không Quân Hoa Kỳ.
Bây giờ khi về nhà, tôi thấy có rất nhiều
cuộc tranh cãi về quốc gia chúng ta. Tôi không đồng ý lắm. Tôi nghĩ
nước Mỹ ngày nay là một quốc gia tốt đẹp hơn so với khi tôi rời nó
sáu năm trước. Bắc Việt cung cấp cho chúng tôi rất ít tin tức, ngoại
trừ các tin xấu về Hoa Kỳ.
Chúng tôi không biết cuộc đổ bộ thành công
lên mặt trăng đầu tiên năm 1969 cho đến khi nó được đề cập trong bài
phát biểu của George McGovern rằng, “Nixon có thể đưa con người lên
mặt trăng nhưng ông không thể kết thúc chiến tranh Việt Nam.”
Họ dội lên chúng tôi những tin tức về cái
chết của Martin Luther King và các cuộc bạo loạn sau đó. Thông tin
như vậy cứ liên tục nhả ra khỏi loa. Tôi nghĩ Hoa Kỳ bây giờ là một
quốc gia tốt đẹp hơn vì chúng tôi đã trải qua một quá trình thanh
lọc, tái thẩm định chính mình.
Tôi thấy một tinh thần tri ân về đời sống
của chúng ta nhiều hơn, thấy tinh thần ái quốc cao hơn và nhìn thấy
Quốc kỳ tung bay khắp mọi nơi. Tôi nghe thấy những giá trị mới đang
được nhấn mạnh, như mối quan tâm về môi trường chẳng hạn.
Tôi nhận được rất nhiều thư từ các bạn trẻ
và nhiều người đã gửi tặng tôi những chiếc vòng đeo tay POW có tên
tôi mà họ đã mang. Một số không biết gì nhiều về cuộc chiến, nhưng
họ có lòng ái quốc mạnh mẽ, các giá trị của họ đều tốt đẹp và tôi
nghĩ rằng chúng ta sẽ nhìn thấy họ sẽ lớn lên thành những người Mỹ
tốt hơn nhiều người trong chúng ta.
Những tình cảm tuôn tràn này làm những
người tù binh chiến tranh chúng tôi choáng ngợp và có chút ngượng
ngùng bởi vì trên căn bản, chúng tôi cảm thấy rằng chúng tôi chỉ là
người lính Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Không Quân bình thường.
Bất cứ ai khác ở vị trí của chúng tôi cũng làm vậy. Dự tính tương
lai của tôi là vẫn tiếp tục phục vụ trong Hải Quân nếu tôi còn có
thể bay được. Điều đó phụ thuộc vào sự thành công của các phẫu thuật
chỉnh hình cho cánh tay và chân tôi.
Nếu tôi phải rời Hải Quân, tôi hy vọng sẽ
phục vụ cho Chính phủ trong khả năng của mình, tốt nhất trong ban
đối ngoại của Bộ Ngoại Giao. Tôi đã có rất nhiều thời gian để suy
nghĩ trong tù và nghiệm ra rằng, một trong những điều quan trọng
nhất trong cuộc đời mỗi người là, bên cạnh gia đình, hãy đóng góp gì
đó cho đất nước của mình. (The End)
John McCain
Đinh Yên Thảo chuyển
dịch
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Vũ Văn Chương chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, July 1, 2014
Cập
nhật hóa ngày Chúa Nhật, August 26, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang