Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Đời lưu vong
Tác giả:
Điệp Mỹ Linh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Qua
khung kính cửa sổ phi cơ, Hạnh thấy những ánh đèn li ti lùi lại
trong bóng
đêm. Khoảng không gian giữa những chấm sáng li ti đó và
chiếc Boeing đồ sộ này có lẽ xa lắm; nhưng Hạnh tưởng như nàng thấy
rõ những con đường mòn len lỏi trong rừng thông, từng làn sóng òa vỡ
lao xao trên ghềnh đá và những bệ xi–măng vỡ vụn của một phi trường
bỏ hoang. Phi trường đó mang tên Orote Point. Cái tên lạ, vô nghĩa
như khoảng thời gian dài vô vị trong căn lều vải, trên những chiếc
ghế bố nhà binh.
Những tháng ngày nhàm chán trong căn lều vải Hạnh chỉ biết lắng hồn
vào kỷ niệm, ấp yêu dĩ vãng để quên đi hiện tại và không nghĩ đến
ngày mai. Những lần đếm bước dưới gốc thông già, Hạnh nhớ những đồi
thông xanh ngút ngàn trên Đà Lạt khi nàng còn bé, học trường
Domainde Marrie; và con đường mòn quanh co trên ngọn đồi thoai thoải
sau chùa Hải Đức, Nha Trang. Những chiều lặng lẽ bên bờ cát, nghe
gió thì thầm, nhìn sóng tung tăng, Hạnh nhớ khung trời cũ, nơi có
giải cát vàng, màu nước biếc và mối tình thơ dại. Kỷ niệm cứ chờn
vờn quanh đây, chợt đến, chợt đi như thời tiết bất thường của đảo
Guam hoang dại.
Dù đảo Guam và Orote Point không phải là nơi đáng yêu, nhưng đã là
nơi Hạnh cảm biết thế nào là tủi nhục khi sắp hàng lãnh từng dĩa cơm
nhão; thế nào là thương nhớ khi nhìn về phương trời xa, tưởng như
thấy được ánh mắt đăm chiêu của Mẹ, mái tóc bạc phơ của Cha; thế nào
là bần hàn khi con thèm lon nước ngọt mà Hạnh không có tiền mua! Bây
giờ, chuyến bay này sẽ đưa Hạnh về California, nơi đó tương lai hứa
hẹn nhiều khó khăn, lắm bất trắc!
Những ngày ở Camp Pendleton, California,
cũng chẳng khác gì ở Orote Point. Mùa Hè thật nóng bức, oi nồng.
Ngày dài như không dứt. Đêm về lạnh buốt, sương giăng mờ lối. Những
ray rứt, lo âu, tiếc nhớ lúc nào cũng dày vò, gậm nhấm tâm hồn khiến
cơ thể của Hạnh tàn tạ, héo hon!
Đang cùng các con sắp hàng nhận lãnh cơm
trưa, Hạnh thấy Phi – chồng của Hạnh – từ văn phòng của Trại đi đến,
bảo:
–Em! Về lấy
giấy tờ lên văn phòng làm thủ tục xuất trại. Một thiếu tá Thủy Quân
Lục Chiến, tên Smith, bảo trợ. Để các con sắp hàng đi ăn trước; mình
về ăn sau.
Hạnh
lặng lẽ theo Phi trên con đường đất đỏ gồ ghề. Đến nơi, bà Betty bảo
Phi điện thoại viễn liên – chính phủ Mỹ trả tiền – với gia đình
Smith để bàn tính ngày giờ xuất trại. Hạnh cảm thấy vui vì các con
sẽ nhập học kịp niên khóa. Hạnh muốn “trực diện với tương lai xem nó
ra làm sao” chứ chôn chân trong trại để mặc cảm lưu đày hành hạ,
Hạnh cảm thấy khổ sở vô cùng!
Vừa cảm thấy thơ thới, Hạnh chợt khó chịu
vì nghe những tiếng “yes, sir” của Phi khi Phi điện đàm với Smith.
Niềm đắng cay từ đâu ùa đến khiến Hạnh muốn khóc. Không muốn khóc
sao được khi mà, mới ngày nào, cố vấn Taylor than phiền:
–Nhiệm vụ của tôi là cố vấn cho đơn vị
này. Nhưng không bao giờ anh hỏi ý kiến tôi; không bao giờ anh cho
tôi đi hành quân với anh; như vậy thì nhiệm vụ của tôi là gì?
Phi cười giòn:
–Anh không là cố vấn cho ai cả. Chúng tôi
– người lính Việt Nam Cộng Hòa – hành quân để chống lại sự xâm nhập
có chủ mưu của cộng sản Bắc Việt. Nhiệm vụ của anh là gọi máy bay
tản thương khi đơn vị của tôi đụng độ, có thương vong.
Đôi mắt xanh biếc của Taylor nhìn sững Phi
trong khi tiếng cười cao ngạo của Phi vang vọng. Vậy mà bây giờ một
tiếng “yes sir”, hai tiếng “yes sir”! Hạnh nén tiếng thở dài, nhìn
mong ra cánh đồng cỏ úa.
Không biết cuộc đời thực tế ngoài kia có
tươi đẹp như lời thư khoe khoang của các bạn đã xuất trại trước đây
hay không, nhưng chắc chắn một điều là Hạnh sẽ sống đúng nghĩa của
một người bình thường, gạt bỏ được mặc cảm vô dụng, vô vọng như hiện
nay.
Hạnh nhìn
quanh trại lần cuối rồi vội bước lên xe buýt với cõi lòng buồn/vui
lẫn lộn. Thôi, vĩnh biệt nhé, vùng thung lũng buồn!
Từ khoảng không gian xa lắm của chiếc
Boeing Hạnh thấy ruộng vườn xanh tươi. Bỗng nhiên Hạnh cảm thấy lòng
chĩu nặng u hoài; vì Hạnh chợt nhớ những chuyến trực thăng – mà Hạnh
đã tháp tùng trong các cuộc hành quân hỗn hợp, để viết bài tường
thuật – từ Gò Dầu Hạ về Bến Lức. Quê mình sao nghèo quá! Vườn cao su
xác xơ trụi lá, đồng lúa hoang tàn và những đồn lẻ tẻ dọc bờ sông
còn hằn nhiều dấu pháo kích của Cộng quân. Kia là đồn Trà Cú, hậu cứ
của Giang Đoàn 53 Tuần Thám, dưới sự chỉ huy của Hải Quân Thiếu tá
Nguyễn Thìn; người còn được biết đến dưới danh xưng nhạc sĩ Trường
Sa.
Những lần ghé
đồn Trà Cú – trong khi Phi họp hành quân với Thiếu tá Thìn – Hạnh
thích ngồi một mình trong nắng ấm, nơi bãi đáp trực thăng, để nghe
cỏ rì rào trong tiếng gió lao xao. Nhìn từng chiếc Khinh Tốc Đỉnh
(PBR) rời bến với thủy thủ giày “sô” áo trận, tự dưng Hạnh tưởng như
nghe được giai điệu dịu dàng, thiết tha của tình khúc Rồi Mai Tôi
Đưa Em của Trường Sa. Hạnh “ngân nga” nho nhỏ những câu nàng chợt
nhớ:
“...
Còn đây không gian xưa quen gót
lầy...
Ngồi nghe yêu thương xa tầm tay
Giữa tiếng ru trầm vào cơn mê này...”
(1)
Có sống trong
bối cảnh này Trường Sa mới để lòng mình lắng xuống, đọng lại thành
những cung bậc làm nhức nhối lòng người. Hạnh hồi tưởng lại ánh mắt
xa xăm của Trường Sa khi Trường Sa từ giã Phi tại Guam để theo
thương thuyền Việt Nam Thương Tín trở về Việt Nam! Trường Sa, một
nghệ sĩ với tâm hồn ướt lệ, người hùng Tuần Thám với sức chiến đấu
dũng cảm và tình yêu Quê Hương thiết tha!
Bây giờ tất cả đã xa thật xa trong không
gian ngăn cách, đã qua rồi trong thời gian biền biệt trôi. Nhưng,
với Hạnh, những tháng ngày êm mơ trên Quê Hương là những kỷ niệm
ngọc ngà, không bao giờ nhạt phai.
Chiếc Boeing đã rời xa những áng mây rực
rỡ của một chiều Hè trong vùng Cali. tươi mát, đưa gia đình Hạnh về
vùng sa mạc nóng bức Arizona. Phi cơ lượn nhiều vòng trên thành phố,
đủ thời gian cho Hạnh ghi nhận cảm xúc đầu tiên: “Yuma, một thành
phố lạc lõng như tâm hồn tôi lúc bây giờ! 6g25 chiều 20/07/1975”.
Những ngày đầu tiên không làm sao tả xiết
những bỡ ngỡ, ngại ngùng. Nhưng sự bỡ ngỡ ngại ngùng này không thể
nào so sánh với cảm tưởng lạc loài vào sáng Chủ Nhật đầu tiên gia
đình Hạnh theo gia đình Smith đi nhà thờ! Các con của Hạnh ngơ ngác
như lạc vào rừng hoang! Phi ra vẻ trịnh trọng để che giấu cử chỉ bối
rối. Tiếng Organ ngân dài những bài thánh ca khiến tâm hồn Hạnh lâng
lâng như siêu thoát. Khi Linh Mục bắt đầu giảng kinh, Hạnh nhìn lên
tượng Chúa với lòng thành khẩn: “Lạy Chúa! Xin Ngài tha tội cho con.
Con đã vì sự sống, vì thọ ơn mà đến đây; nhưng trong lòng con lúc
nào hình ảnh Đức Quán Thế Âm cũng ngời sáng!” Không hiểu tại sao ý
nghĩ này lại làm cho Hạnh tủi thân. Hạnh âm thầm quẹt nước mắt!
Đã nhiều lần – khi mọi người, ngoại trừ
Hạnh, vui đùa bên hồ bơi – bà Smith nghe tiếng piano từ phòng gia
đình vang lên tình khúc Come Back To Sorrento; do đó bà Smith biết
Hạnh chơi đàn. Vì vậy, khi thấy thái độ u buồn của Hạnh, Bà Smith
mời Hạnh vào ca đoàn.
Hôm sau, nhật báo và đài truyền hình địa
phương đến phỏng vấn Phi và Hạnh. Hạnh và Phi phải dồn nén tình cảm
để trả lời rất khéo léo nhiều câu hỏi rất “hóc búa” của những phóng
viên chuyên nghiệp. Để trả lời câu cuối của cuộc phỏng vấn, Phi cho
biết chàng ước mong được làm thợ máy sửa xe hơi; vì Phi nghe ông
Smith bảo thu thập hằng năm của thợ máy xe hơi rất cao.
Ngay chiều đó, Phi nhận được điện thoại
của hãng xe Datsun – tiền thân của Nissan. Họ mướn Phi ngay. Họ cho
Phi biết Phi có thể khởi sự làm việc ngay vào ngày hôm sau và họ sẽ
thuê đài truyền hình quay phim để quảng cáo.
Phi nhờ ông Smith đưa đến thư viện, mượn
cuốn tự điển Pháp–Anh. Suốt đêm đó Phi thức trắng để học những danh
từ về máy xe hơi.
Chiều hôm sau, cả nhà quay quần bên TV.
Khi thấy trên màn ảnh hiện ra câu: “Hãng xe Datsun của chúng tôi vừa
thuê được một thợ máy lành nghề từ Việt Nam”, cả nhà cười rộ lên!
Ông “thợ máy Việt Nam” ra tay: Cầm wrench không đúng vị thế, vặn ốc
không nổi! Sau một lúc “hì hục”, ốc hơi lỏng và dầu xe “tưới” lên
mặt, lên áo quần của “ông thợ máy Việt Nam lành nghề!” Cả nhà ôm
bụng cười vang. Hạnh không thể cười mà Hạnh cũng không thể nín cười!
Hạnh lẻn ra sân cỏ. Nỗi u buồn, niềm cay đắng, sự xót xa cứ mơ hồ,
bàng bạc, giăng mắc trong lòng, Hạnh chỉ biết ngồi im nơi sân cỏ!
Bóng tối đến tự lúc nào Hạnh cũng không
hay. Phi dựng xe đạp vào tường, hỏi:
–Hạnh! Em làm gì đó?
Hạnh cúi mặt, không trả lời. Phi đến, ngồi
cạnh, cầm tay Hạnh:
–Sao buồn quá vậy? Nhớ nhà, phải không?
Hạnh lần tay nàng vào tay Phi như tìm
nguồn an ủi. Bỗng Hạnh nhìn vào mắt Phi, giọng thảng thốt:
–Tay anh “phồng” hết! Nhìn xem, những mụn
nước no tròn. Sao anh nói láo với họ làm chi cho khổ thân?
Phi ngồi bệt trên cỏ, cười cười:
–Em nên biết, ở xứ này, một người thợ giỏi
làm nhiều tiền hơn một “thầy” không có bằng đại học. Mình đã mất tất
cả. Mình phải gầy dựng lại cuộc đời cho tương lai các con. Thằng Bob
– manager của dealer và cũng là một cựu sĩ quan Hoa Kỳ từng tham
chiến tại Việt Nam – biết anh nói láo rồi! Nhưng nó thích anh. Bob
hứa cho anh học nghề có trả lương. Hồi chiều Bob đã đưa anh ghi danh
vào AWC (Arizona Western College) học về Electrical Engineering. Anh
cũng đã ghi tên em rồi. Em sẽ chọn phân khoa sau. Bob lại cho anh
mượn tiền mua dụng cụ thợ máy; mỗi tháng mình trả góp $50.00. Mai em
và anh đến AWC thi nhập học.
Nghe giọng Phi đầy tự tin và vui thích,
Hạnh cảm thấy yên lòng.
Hạnh và Phi đã chuẩn bị cho buổi thi nhập
học; nhưng khi số bài thi được phát ra và mỗi người ngồi riêng một
phòng thì Hạnh cảm thấy số vốn Anh ngữ của nàng tan loãng thật
nhanh! Nhìn tập bài thi dày cộm, cố ôn lại những gì đã học từ hai
năm tú tài ban Anh văn và những năm miệt mài ở Hội Việt Mỹ, Hạnh cảm
nhận được điều mỉa mai: Số Anh ngữ của nàng chỉ “lõm bõm” như những
hải đảo lạc loài trong đại dương mênh mông!
Sau khi Phi lãnh tuần lương đầu tiên, Hạnh
hoàn lại tiền ăn cho gia đình Smith rồi thuê nhà dọn ra ở riêng.
Căn nhà không lớn, chỉ ba phòng ngủ, phòng
khách và nhà bếp; nhưng vì không có bất cứ đồ vật gì trong nhà cho
nên ngôi nhà trở nên thênh thang, lạnh lẽo. Những người láng giềng
tóc màu đem đến tặng gia đình Hạnh các thứ cần thiết như nồi, chảo,
chén dĩa, khăn trải giường. Cứ sau mỗi cử chỉ nhân ái họ lại nhắc
gia đình Hạnh Chủ Nhật đi nhà thờ!
Đứng chung với ca đoàn của nhà thờ, trên
bục gỗ, Hạnh vừa nhìn “notes” nhạc trên bản thánh ca vừa hát vừa
liếc xuống những người đang ngồi bên dưới và thấy Phi đang ngủ gật
trong nhà thờ! Hạnh như muốn khóc. Phi đã làm hơn sức của một người
bình thường. Ban ngày Phi làm thợ máy; ban đêm đi học tại AWC. Thứ
Bảy Phi cưa cây hoặc làm sân vườn cho hàng xóm.
Công việc của Hạnh có vẻ nhàn hạ. Sáng,
7:00 đạp xe đến hãng, làm cho đến 4:00 giờ chiều; về nhà dạy Anh văn
cho các con, lo bữa cơm chiều rồi đạp xe đến AWC học đến 11:00 đêm.
Niên học chấm dứt Hạnh cũng không cảm thấy
như mùa Hè hiện diện; vì Yuma chỉ có cát, đá và cây xương rồng chứ
không có hoa phượng! Dưới ánh nắng như thiêu đốt và trong từng cơn
gió lùa sức nóng hừng hực từ những vùng cát mênh mông, Phi và Hạnh
mỗi người vẫn nhẫn nại đạp xe trên những con đường thiếu bóng cây.
Nhà thờ lại cho biết, chủ nhân hai chiếc xe đạp tỏ ý muốn lấy lại.
Nhận thấy không thể nào đủ sức và thời gian để đi bộ, Phi không còn
cách nào hơn là trình bày mọi điều với Bob. Bob cười xòa, vỗ vai
Phi:
–Anh làm
việc tốt. Tôi sẽ bán và cosign để anh có thể mua một chiếc xe. Mai
đưa gia đình anh đến, chọn xe nào anh và gia thích rồi cho tôi biết.
Từ đó Hạnh và Phi mới hiểu: Người không
mang nợ thì khó xin mua chịu; kẻ mang nợ nhiều lại dễ vay tiền!
Mỗi chiều, cho xe chạy chầm chậm trên xa
lộ, nhìn những áng mây trong khung trời lộng gió, Hạnh cảm thấy nhớ
nhà da diết! Hạnh nhớ và thương cả những điều không tốt đẹp của Quê
nhà, rồi bất giác “ngân nga” nho nhỏ:
“Trên
đường về nhớ đầy,
Chiều chậm đưa chân ngày,
Tiếng buồn vang trong mây...
... Có phải
sầu vạn cổ, chất trong hồn chiều nay...
Tiếng buồn vang trong mây...”
(2)
Bao mùa Hạ đã
qua đi, vẫn không tiếng ve sầu, không màu phượng đỏ. Nhưng mùa Hè
này, Hạnh và Phi cảm thấy lòng rộn ràng mừng vui vì cả hai đang xúng
xính trong áo rộng và mũ đen. Khi tên được xướng lên, Hạnh từ từ
bước lên bục gỗ trong buổi lễ ra trường. Phi và các con vỗ tay không
ngớt. Đến phiên Phi bước lên bục gỗ Hạnh không thể giấu được dòng
nước mắt vui mừng!
Cuộc vui nào rồi cũng qua đi để trả Hạnh
trở về với những bươn chải, vất vả và ưu tư của cuộc sống. Chỉ sau
một thời gian ngắn, Phi được công ty điện lực thuê và Hạnh là chuyên
viên kế toán cho ngân hàng.
Gia đình Hạnh dời vào một ngôi nhà khang
trang thuộc một khu vực trung lưu. Hạnh tưởng rằng với việc làm tốt
và cuộc sống của một chàng “cổ trắng” Phi sẽ vui vẻ; Hạnh không ngờ
lại thường bắt gặp Phi thơ thẩn nơi sân sau, ánh mắt đăm chiêu, vầng
trán nhíu lại như đang suy nghĩ điều chi rất quan trọng.
Một hôm, đi làm về, Phi vào nhà bằng ngã
sau. Hạnh chỉ lên đầu tủ lạnh:
–Có thư anh Dinh gửi cho anh.
Phi không giấu được ngạc nhiên lẫn vui
mừng:
–Nó ra tù
rồi à?
–Em đã mở
thư đâu. Anh mở xem.
Phi mím môi thật chặt khi đọc bản sao
“Giấy Ra Trại” Dinh gửi kèm.
Ngoài những sáo ngữ rỗng tuếch, Phi nhíu
mày nhìn mấy dòng: “... Thi hành án
văn, quyết định tha số... ngày... năm 1984. Can tội: Trung tá chỉ
huy trưởng. Bị bắt ngày... tháng 6 năm 1975”. Phi xếp
phong thư cho vào túi, đứng bất động. Chín năm đằng đẵng một đời
trai bị đọa đày trong cay đắng, tủi nhục! Phi ở đây, mỗi khi nhận
được thư nhà gửi qua Canada hoặc Âu Châu – rồi từ các nước đó bạn
của Phi và Hạnh mới chuyển thư đến Mỹ – Phi vẫn cảm thấy hận thù
dâng chất ngất vì tin Mẹ và các em của Phi đói khổ ở vùng kinh tế
mới, còn nhà của Mẹ thì “được” cán bộ quản lý!
Biết Phi là người có chí lớn, Hạnh tôn
trọng những suy tư của chồng. Sau khi nghe Phi thở dài, Hạnh bảo:
–Anh vào tắm nước nóng, nằm nghỉ cho bớt
giao động. Khi nào cơm xong, cu Út sẽ vào mời anh.
Tắm xong, Phi mở ngọn đèn nhỏ cạnh giường,
đọc lại thư của Dinh. Ánh sáng lờ mờ gợi lại trong hồn Phi vùng ánh
sáng yếu ớt, vàng vọt trên các chiến đỉnh và chiến hạm. Ánh đèn nhạt
nhòa không đủ sáng để xem bản đồ hành quân. Bản đồ hành quân với
những đường li ti ngoằn ngoèo như những động mạch và tĩnh mạch trên
cơ thể của Quê Mẹ tang thương! Ôi, Quê Hương! Chúng tôi đã chiến đấu
đơn độc, trong những điều kiện nghèo nàn, thiếu hụt cho nên không
biết bao nhiêu bạn hữu và đồng đội của tôi phải gục ngã! Máu của bạn
tôi, của đồng đội và máu của tôi như những lượng phù sa bồi đắp miền
Nam nước Việt. Bao nhiêu bạn hữu và đồng đội của tôi vẫn còn bị đày
đọa trong chốn lao tù, tôi phải làm gì? Tôi không thể an tâm sống
yên lành, hạnh phúc. Khi thấy quân phục trắng, tôi nhớ Ngụy Văn Thà
và trận thư hùng với Trung Cộng tại Hoàng Sa! Khi thấy màu áo hoa
rừng, tôi khóc Phan Văn Sanh, tiếc Trần Văn Thiết! Thấy màu áo
ka–ki, tôi thương Hoàng Xung! Thấy quân phục Không Quân tôi lại nhớ
Nguyễn Cư, v.v. Xin cho tôi được minh mẫn, đủ nghị lực để chọn hướng
đi cho đoạn đường còn lại của tôi...
“Ba!” tiếng gọi nho nhỏ của Út cắt đứt
dòng ý tưởng của Phi. Nhìn ra cửa, thấy Út đang lấp ló, có vẻ e dè
vì tưởng Phi đang ngủ. Phi hỏi:
–Gì, con?
Út vừa bước nhè nhẹ vừa hỏi nhỏ như ngại
người khác nghe:
–Ba muốn nghe chuyện này không, Ba?
–Chuyện gì, con?
Út sà vào lòng Phi:
–Chuyện của con.
–Nghe chứ, con. Nói đi, Út!
Út nhìn Phi với nét mặt quan trọng:
–Con mới tìm ra một thằng... Việt cộng!
Ngạc nhiên, nhìn Út một chốc rồi Phi cười
lớn:
–Làm sao con
biết Việt cộng là ai mà con nói?
Không muốn tuổi thơ của con sớm vướng hận
thù, Phi tiếp:
–Thôi, nói chuyện khác đi, con.
–Ba này! Tại Việt cộng mà mình phải chạy
trốn, qua đây, để tụi Mỹ kỳ thị. Con biết chớ bộ!
–Mỹ không kỳ thị đâu, con. Nếu Mỹ kỳ thị
thì làm thế nào Ba Má và các con được đi học cùng trường với người
Mỹ? Ba Má được làm việc chung với người Mỹ và mua nhà cùng khu vực
với người Mỹ?
–Không kỳ thị sao tụi nó gọi con là Chino?
–Có thể họ tưởng con là người Tàu,
Chinese.
–Má nói
tụi Tàu xâm lấn nước mình hoài, đô hộ nước mình cả ngàn năm; rồi
cũng tụi Tàu giúp Việt cộng đánh chiếm, đuổi mình khỏi Việt Nam. Con
ghét tụi Tàu! Ai gọi con Tàu thì người đó kỳ thị.
Phi sững sờ, không ngờ Út lớn hơn chàng
nghĩ. Phi chuyển câu chuyện:
–Thôi, con kể Ba nghe chuyện thằng Việt
cộng đi, Út.
–Hồi
hè mới bắt đầu, cô giáo dẫn một thằng con nít Á Đông vô lớp con. Nó
không biết tiếng Anh. Nó ngồi cạnh con. Nó nói nó là người Việt Nam.
Nó nói nhà nó nghèo lắm, vì mới từ đảo qua, Ba Má nó cũng không biết
tiếng Anh. Con thấy nó rất tội nghiệp, mỗi ngày đem thức ăn trưa,
con làm thêm để đem theo cho nó. Con giúp nó làm bài. Nó nói nó
thích con. Con hỏi nó: “Mày ở Việt Nam mà Bắc hay Nam?” Nó nói nó ở
cái tỉnh ở giữa cho nên nó không biết Bắc hay Nam. Vì muốn biết nó
có phải “phe mình” hay không, con hỏi nó: “Cờ của mày màu gì?” Nó
nói con ngu, Việt Nam có một lá cờ chớ mấy. Con bảo nó: “Mày vẽ lá
cờ của mày ra là tao biết liền.” Sau khi nó vẽ, con xin cô giáo cho
con ngồi chỗ khác. Con không cho nó ăn trưa nữa. Con “nghỉ” nó ra
rồi!
Câu chuyện
Út kể khiến Phi cảm thấy buồn thêm. Phi vò tóc con:
–Con thương lá cờ của mình; vậy con có
thương nước mình không?
–Dạ, thương chớ!
–Nếu con thương nước mình thì con cố chăm
học để sau này về giúp nước, nghe, con.
–Làm sao về được, Ba? Việt cộng còn ở đó
mà!
Suy nghĩ giây
lâu, Phi thở dài, không hiểu có nên cho con biết ý định của chàng
hay không! Một chốc sau, Phi hỏi dò:
–Nếu có người đuổi Việt cộng đi, con nghĩ
sau này con có về giúp nước mình hay không?
–Dạ, về chớ! Mà ai đuổi Việt cộng đi hả,
Ba?
Phi xoay
người Út, nhìn vào mắt Út:
–Nếu Ba trở về Việt Nam đánh đuổi Việt
cộng đi để mai sau con trở về giúp nước mình, con chịu không, Út?
Út nhìn Phi không nháy mắt rồi bất ngờ Út
vùi đầu vào ngực Phi, nín lặng! Phi cảm thấy se thắt trong lòng! Phi
hôn lên tóc con và cảm nhận được niềm xúc động dâng ngập bờ mi!
Tiếng Hạnh vọng lên từ nhà bếp:
–Út! Mời Ba ra ăn cơm, con.
Phi ngồi giậy, đỡ Út đứng lên:
–Đi ăn cơm, con!
Út vẫn lặng thinh, mắt nhìn xuống, mặt Út
trông buồn lắm! Phi ôm con thật chặt, bảo:
–Út! Con hứa với Ba rằng con sẽ không nói
lại với bất cứ người nào – kể cả với Má – về những gì Ba đã nói với
con, nha, Út. Con cũng không nên buồn; vì con buồn là Ba buồn. Con
thương Ba, nghe lời Ba dạy, nha, Út.
Út gật đầu, bậm môi, quẹt nước mắt. Phi
chưa kịp đứng lên, Út đã ôm lấy cổ Phi thật chặt như sợ Phi sẽ vuột
đi!...
*********
Suốt
buổi ăn trưa trông Phi buồn lắm! Phi ít nói hơn mọi khi; nếu phải
nói, giọng Phi đặc, nghèn nghẹn như cố nén từng khối u ẩn vào
lòng! Phi cố tránh ánh nhìn của Hạnh. Hạnh cảm biết có điều gì
rất khác thường; nhưng dự tính chiều về sẽ có nhiều thì giờ để vợ
chồng nói chuyện thêm.
Đưa Hạnh ra bãi đậu xe, như mọi khi,
Phi mở cửa xe cho nàng. Trước khi Hạnh cho xe nổ máy, Phi nhìn
Hạnh thật lâu, giọng âu yếm:
–Em trở lại đi làm đi. Anh không sao
đâu.
–Sao anh
trông có vẻ bất thường?
Không đáp lời Hạnh, Phi quay lưng, bước
nhanh về phía xe của chàng, nói vọng sang:
–Anh không sao. Bye, Hạnh!
Hạnh lui xe. Chạy từ từ trên bãi đậu,
nhìn vào kính chiếu hậu, Hạnh thấy Phi vẫn ngồi im trong xe, dõi
mắt theo nàng.
Chiều, đang sửa soạn bữa cơm tối cho
gia đình, nghe tiếng chuông cửa, Hạnh bảo Út ra xem, nếu người
quen thì mở cửa, người lạ thì không. Út chạy vào:
–Má, Má! Có ông Mỹ nào đó... “muốn” Má.
Hạnh vội tắt bếp, bước ra phòng khách,
quên “chỉnh” Út về tiếng Việt “ba rọi”. Qua khung kính nhỏ, Hạnh
ngạc nhiên khi thấy ông Sếp của Phi, vẫn còn mặc “đồ lớn” và thắt
cà–vạt. Hạnh mở cửa, tươi cười:
–Hi, Jack! Ông mạnh giỏi chứ?
Vừa bước vào phòng khách Jack vừa đáp:
–Cảm ơn. Tôi vẫn khỏe. Hạnh và các cháu
vẫn khỏe chứ?
Hạnh bắt tay Jack và đáp:
–Cảm ơn ông. Chúng tôi đều khỏe; còn
Helen và Mark thì sao, thưa ông?
–Ô, cũng bình yên.
Hạnh chìa tay về phía xa–lông:
–Mời ông ngồi. Tôi nghĩ Phi đang trên
đường về; không lâu đâu.
Jack ngập ngừng:
–Cảm ơn Hạnh. Tôi... tôi muốn nói
chuyện với Hạnh.
Hạnh ngồi vào xa–lông, giọng ngạc
nhiên:
–Vậy à?
Vâng, mời ông ngồi.
Vừa ngồi vào xa–lông đối diện, Jack vừa
nhìn quanh, có vẻ lúng túng. Bất chợt thấy khung ảnh của Phi treo
trên tường, Jack vội bước đến. Hạnh bước theo. Giọng Jack tò mò:
–Phi mặc quân phục trông khác quá! Ảnh
này chụp bao lâu rồi?
–Ảnh đó chụp năm 1972, sau khi Phi bị
thương tại Chương Thiện.
–Phi bị thương nặng không?
–Nặng chứ! Nhưng đó không phải là lần
đầu tiên và cũng chẳng phải lần sau cùng Phi bị thương...
Hạnh bỏ lửng câu nói vì thấy thái độ
của Jack hơi khác thường, rồi tiếp:
–Jack! Ông cần gặp tôi có điều gì quan
trọng lắm, phải không? Trông ông có vẻ bồn chồn/sốt ruột.
–Vâng, tôi có chuyện rất quan trọng
muốn nói với Hạnh.
–Mời ông ngồi. Tôi nghĩ, ông nên chờ
Phi về rồi hãy nói; bởi vì, dù chuyện gì ông nói với tôi thì tôi
cũng phải nói lại với chồng tôi cả. Có lẽ kẹt xe cho nên Phi về
trễ hơn mọi ngày. Nhưng tin tôi đi, Phi sẽ về bất cứ giây phút
nào.
Với thái
độ hơi vụng về vì xúc động, Jack vịn vai, từ từ đưa Hạnh đến
xa–lông:
–Làm
ơn ngồi xuống, Hạnh!
Hạnh ngồi vào ghế, nhìn Jack đăm đăm và
linh cảm được điều gì đó rất mơ hồ. Jack nhìn Hạnh:
–Hạnh, nghe đây! Hạnh phải bình tĩnh và
can đảm để nhận một tin rất quan trọng. Phi không về nữa!
Trong khi Hạnh giật mình, nghĩ rằng Phi
bị tai nạn và đã chết thì Jack run tay lấy từ túi áo một phong
thư. Trao bì thư cho Hạnh xong, Jack ngồi vào xa–lông đối diện,
tiếp:
–Hãy can
đảm, Hạnh! Phi đã chọn đúng đường của một thanh niên thời đại.
Hạnh và các cháu nên chấp nhận để Phi yên lòng dấn thân cho lý
tưởng.
Hạnh
nghe u u bên tai như đang lên cơn sốt hoặc chính nàng không hiểu
tiếng Anh! Hạnh đón lấy phong thư với trạng thái chối bỏ, như
không tin lời Jack. Khi xé bì thư, thấy nét chữ của Phi, tay Hạnh
run không thể cưỡng được! Hạnh cố chú tâm nhìn những dòng chữ của
Phi nhưng Hạnh không thể kiểm soát cử chỉ và ý nghĩ của nàng:
Hạnh
em,
Chưa bao
giờ anh xúc động như hôm nay, khi viết những dòng chữ này! Anh
muốn viết nhiều và rất nhiều nhưng sao anh viết không được!
Em đã vò võ nuôi con suốt bao nhiêu năm
dài để anh lê bước trên những dòng sông nhuộm máu, chống Bắc quân
xâm lược; mấy năm trên xứ người cơ cực em lại chung vai gánh vác
để gia đình và các con có được ngày nay xán lạn. Bây giờ, một lần
nữa anh lại xa em! Đời anh đã gắn liền với binh nghiệp hơn 17
năm. Nay anh không thể an nhàn hưởng thụ mà quên đi những người
bạn đã nằm xuống và những đồng đội đang khóc hận chốn lao tù!
Đoạn đường trai trẻ anh chưa hoàn thành được sứ mệnh đối với Tổ
Quốc; đoạn đường còn lại anh nguyện sẽ lấy xác thân này – cùng
với bạn hữu – giành lại Quê Hương mà cộng sản Việt Nam đã cưỡng
đoạt.
Ngày
trước anh đưa em đi trong vội vàng, sợ hãi; nhưng anh sẽ đón em
về trong môi cười rạng rỡ và ánh mắt tin yêu.
Cầu nguyện cho Quê Hương, cho các bạn
và cho anh, em nhé!
Anh,
Phi
Từ từ gấp lá thư lại, Hạnh nhíu mày,
thở mạnh rồi dựa vào thành ghế. Im lặng! Một lúc sau, Hạnh ngẩng
lên, nhìn chăm chăm vào khung ảnh của Phi. Và, thật bất ngờ, Hạnh
tưởng như thấy được Phi bước lên chiếc PBR có nhiều ăng–ten cao;
rồi từng chiếc, từng chiếc PBR rời bến, tiến về vùng lửa đạn.
Trong khi hình ảnh đoàn PBR trở nên nhỏ
dần, nhỏ dần thì tiếng hát xưa ngân lên văng vẳng trong bóng
chiều và trong lòng nàng:
“...
Còn đây không gian xưa quen gót lầy...
Ngồi nghe yêu thương xa tầm tay.
Giữa
tiếng ru trầm vào cơn mê này...”
(3)
ĐIỆP MỸ LINH
https://www.diepmylinh.com
*
– Truyện này được sáng tác vào đầu thập niên 80 – cảm tác từ
chuyện thật của một sĩ quan QLVNCH.
1
và 3
– Rồi Mai Tôi Đưa Em của Trường Sa
2
– Chiều, thơ của Hồ Dzếnh nhạc của Dương Thiệu Tước
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Những Tác phẩm của Tác giả đăng trong website này
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Điệp Mỹ Linh chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu,
May 1, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang