Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
Chiến tranh
Tác giả:
Điệp Mỹ Linh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
*
Đoàn
chiến đỉnh thuộc Giang Đoàn 26 Xung Phong rời sông Hậu Giang, rẽ vào
kinh Cái Sắn, đi về hướng Rạch Giá. Từ Rạch Giá, đoàn chiến đỉnh lầm
lũi tiến trên sông Cái Lớn, mở đầu cuộc hành quân dài hạn tại
U–Minh.
Sau khi
rẽ từ sông Cái Lớn vào Kinh Ngang, đoàn chiến đỉnh phát hiện chướng
ngại vật chận ngang sông, phía trên gắn hình đầu lâu và hai xương
chéo nhau. Hai chiếc LCVP (Tiểu–Vận–Đỉnh) vượt lên, thực hiện công
tác gỡ mìn.
Trong
khi đoàn chiến đỉnh thả trôi, chờ LCVP gỡ mìn, tôi thấy một chiếc
tắc ráng từ trong khóm dừa nước chui ra, chạy thẳng đến chiếc
Command. Trên chiếc ghe bé xíu ấy, một cô gái cầm chèo. Trong lòng
ghe một người đàn bà nằm im, bên trên phủ vài nhánh dừa nước. Nơi
mũi ghe, một người con trai ngồi xếp bằng, trên đầu mang nhiều lớp
băng mà máu đã đặc quánh, trở nên nâu sậm. Chiếc đầu khổ nạn của
người con trai gục lên vai người đàn ông đứng tuổi. Hai tay ôm lấy
vai nạn nhân, đôi mắt của người đàn ông hun hút nhìn về rặng dừa
nước phía xa như thầm hỏi: Tại sao gia đình tao hết lòng ủng hộ “tụi
mày” những khi “tụi mày” về làng thu thuế, xin gạo, xin cá khô, xin
nước mắm, v.v. mà “tụi mày” lại pháo kích vào làng để gia đình tao
phải ra nông nỗi này!
Nhìn đôi mắt của người đàn ông tôi thấy
được những đớn đau òa vỡ, cuồn cuộn theo từng đường gân máu nhỏ li
ti.
Nét đớn đau
trong đôi mắt lạc thần của người đàn ông trên chiếc tắc ráng gợi nơi
lòng tôi ánh mắt u uất của Ba tôi vào thời kỳ gia đình tôi theo Ba
tôi đi kháng chiến chống Tây, nương náu dưới mái tranh, bên bờ sông
Triêm Đức.
Mỗi
sáng, Má tôi quảy gánh bún vào công xưởng, bán cho cán bộ và nhân
viên. Ba tôi đi làm trong bộ đồ kaki xám, nón cối, dép râu. Em tôi –
Bảo–Ngọc – và tôi chơi cạnh hầm tròn, dưới gốc cây khế, với bốn đứa
con gái của bác Ca.
Bác Ca và Ba tôi thân nhau lắm, thường gọi
nhau là “đồng chí”. Bốn đứa con gái của bác Ca tên – theo thứ tự từ
lớn xuống – là Khó, Khăn, Khắc, Phục. Mỗi khi nhà bác Ca có khách,
Bác thường nhờ Má tôi làm bánh flan. Vì là trong thời kỳ “tiêu thổ
kháng chiến” cho nên nhà nào cũng nghèo, không đủ chén dĩa, Má tôi
phải làm nguyên cái flan trong một dĩa lớn rồi dùng dao xẻ ra từng
phần, tùy theo số lượng khách. Đến khi ăn, mỗi người dùng một muỗng
cà–phê, ăn phần của mình nhưng chung trong cái dĩa lớn. Lần nào cũng
vậy, khi mỗi người vừa đưa muỗng xúc phần flan của người đó thì bác
Ca lẹ miệng, phun một bãi nước bọt trên cái flan, ai nấy đều gớm,
không ăn. Bác Ca cười ha hả, ăn một mình. Ba tôi nói ai cũng giận
lắm, nhưng không dám nói gì, vì bác Ca làm đến chức Liên Khu Phó
Liên Khu V lận!
Mỗi chiều, Ba tôi thường ngồi nơi võng, thổi Harmonica. Tối đến, Ba
tôi bảo tôi đóng cửa trước lại để không ai có thể biết được bác Ca
và mấy cán bộ cao cấp qua nhà tôi để Ba tôi dạy Pháp văn. Khi mấy
Bác đến, Má tôi, tôi và Bảo–Ngọc phải ra ngoài sân chơi.
Bảo–Ngọc gần hai tuổi mà chưa thể “đứng
chựng”; vì Má tôi ăn uống quá kham khổ, không có sữa nuôi em.
Sáng nào, trước khi đi làm, Ba tôi cũng
dặn tôi:
–Con
phải luôn luôn ngồi cạnh em, hễ nghe tiếng kẻng báo động là ôm em
nhảy ngay xuống hầm tròn.
–Dạ.
Một buổi trưa, trong khi Bảo–Ngọc ngủ trên
võng và tôi đang hăng say “ăn thua đủ” với Khó, Khăn, Khắc, Phục về
mấy hột mãng cầu đen bóng thì kẻng báo động vang lên. Khó, Khăn,
Khắc, Phục và tôi đều nhảy ngay xuống hầm, quên bẵng Bảo–Ngọc! Chỉ
độ vài tích tắc sau, hai chiếc máy bay sơn cờ Pháp ào tới, chúc mũi
xuống, nghiêng cánh, thả từng loạt bom xuống công xưởng. Một trái
bom rơi gần xóm nhà của chúng tôi, tạo sức ép khiến tôi và đám bạn
đều khó thở và bùng tai.
Sau khi hai chiếc máy bay khuất xa, tôi và
đám bạn leo lên và thấy, phía công xưởng, lửa cháy ngất trời! Tôi
không biết số phận của Ba tôi như thế nào! Nhưng quanh tôi nhiều
người đang khóc than vì nhiều người bị thương hoặc chết. Bất ngờ tôi
nghe nhỏ Khó hét lên:
–Con Bảo–Ngọc! Trời ơi!
Lúc này tôi mới nhớ đến em tôi! Tôi chạy
đến chiếc võng trước hiên nhà và thấy vài người đang xúm vào
Bảo–Ngọc. Chưa kịp phản ứng gì cả, tôi thấy Má tôi vất đôi gióng và
đòn gánh xuống, chạy đến Bảo–Ngọc. Thấy Má tôi, mấy người đang xúm
quanh Bảo–Ngọc từ từ đứng lên, tỏ ý muốn “nhường chỗ” cho Má tôi.
Má tôi đứng bất động, nhìn Bảo–Ngọc nằm
nghiêng đầu trên võng, bên dưới, một vũng máu còn tươi! Trong thế
đứng câm lặng như loài cây khô hết sức sống đó, môi của Má tôi mếu
xệ, run run. Tôi nghĩ Má tôi muốn gọi tên Bảo–Ngọc – đứa con ra đời
trong khổ nạn; đứa con èo uột vì vú Mẹ khô sữa; đứa con lìa đời
trong giấc ngủ trẻ thơ – nhưng Má tôi không thể phát âm thành lời!
Tôi không hiểu tại sao Má tôi không kêu
gào, khóc than hoặc quằn quại đớn đau như mấy người hàng xóm; cũng
như tôi không hiểu tại sao Bảo–Ngọc không được chôn gần nhà mà phải
theo chiếc ghe nhỏ, qua bên kia sông Triêm Đức.
Trên chiếc ghe nhỏ, Ba tôi ngồi nơi mũi
ghe, lưng xoay về phía bên kia sông. Trên hai bắp vế của Ba tôi là
xác của Bảo–Ngọc. Cái xác nhỏ xíu tội nghiệp đó được cuộn vào manh
chiếu rách – mà thường ngày tôi trải dưới gốc khế cho em bò quanh –
rồi cột lại bằng ba đoạn giây dừa. Hai tay Ba tôi mân mê mối giây
dừa và mắt Ba tôi chăm chăm nhìn lên gốc cây khế, nơi Ba tôi đã cẩn
thận đào cho chị em tôi một hầm tròn để trốn máy bay! Đôi mắt của Ba
tôi lặng lờ như hai khối thủy tinh. Nhưng tôi như thấy được những
vụn vỡ trong hồn Ba tôi đang theo những mạch máu căng lên, đỏ rực
đôi mắt!
Đôi mắt
của Ba tôi như soi vào hồn tôi để tôi thấy rõ hậu quả về sự ham chơi
của tôi. Nhưng với thời gian, ánh mắt của Ba tôi dịu bớt niềm đau –
nhất là sau khi Má tôi sinh cu Chinh.
Nhờ sự ra đời của cu Chinh và cũng nhờ
những đổi thay của không gian, thời gian cùng những biến chuyển của
cuộc sống, sự dằn vặt trong lòng tôi tạm nguôi ngoai. Giữa lúc tôi
tưởng như tôi đã quên được ánh mắt đớn đau của Ba tôi vào buổi chiều
xưa, trên sông Triêm Đức, thì tôi lại bắt gặp ánh mắt đầy uất hờn
như muốn làm vỡ tung đôi võng mô khô lệ của bác nông phu nơi vùng
Chương Thiện!
Ánh
mắt uất hờn của bác nông phu trở nên van nài, khẩn thiết khi anh
thủy thủ chĩa súng, không cho chiếc tắc ráng đến gần chiếc Command.
Vài phút sau, một chiếc fom được phái đến, cặp sát vào chiếc tắc
ráng. Một anh thủy thủ bước qua chiếc tắc ráng xem xét tình hình.
Nhận thấy không có dấu hiệu khả nghi, chiếc tắc ráng được phép cặp
sát chiếc Command và anh y tá đã tận tình cứu giúp nạn nhân.
Sau nhiều ngày hành quân ở Kinh Ngang,
đoàn chiến đỉnh trở lại kinh Trèm Trẹm, còn gọi là kinh Thứ, thuộc
quận Kiên An. Rải rác dọc theo kinh Trèm Trẹm là mấy đồn Nghĩa Quân.
Đoàn chiến đỉnh thường ủi bãi trước đồn thứ 9. Trưởng đồn là Thiếu
úy Sao, tốt nghiệp trường Sĩ Quan Thủ Đức.
Khi cặp fom ra Tắc Cậu công tác, Thiếu úy
Sao xin quá giang để ghé đồn thứ 6 thăm người bạn thân – Thiếu úy Y
– cùng khóa Thủ Đức. Thiếu úy Y xin đổi về đồn thứ 6 chỉ vì muốn
được làm việc gần Thiếu úy Sao.
Sau vài ngày bình yên, đoàn chiến đỉnh
được lệnh trở ra sông Cái Lớn, ủi bãi ngay trước một đồn Nghĩa Quân.
Mỗi khi thấy tàu Hải Quân ủi bãi trước đồn, lòng người Nghĩa Quân
dấy lên chút tình cảm hân hoan, yên dạ: Sẽ được giấc ngủ yên lành
trong đêm; vì không sợ Việt cộng tấn công. Để tỏ bày niềm hân hoan
đối với đơn vị bạn, mấy anh Nghĩa Quân đem ra vài xị đế. Vài chú
chuột đồng được nướng vàng trên khóm than hồng, làm mồi cho những
tràng cười vui.
Blust – cố vấn “chịu chơi” của Giang Đoàn 26 – vừa cười vừa nhăn mũi
hít mùi thơm của chuột nướng. Sau khi ăn thử, Blust thích quá, không
tiếc lời khen món ăn đồng quê này. Với món ăn lạ và vài ly rượu cay,
Blust không còn tự chủ được, bắt đầu hát Hallelujah. Tiếng hát nhừa
nhựa, nghèn nghẹn, vang xa từ mũi chiếc Command tan loãng trong
không gian mênh mông của dòng sông và rừng dừa nước. Hát mãi, hát
hoài cũng không ai hưởng ứng hay khích lệ, Blust cảm thấy cô đơn vô
cùng rồi nỗi nhớ nhà dâng cao, dâng cao mãi khiến Blust khóc vùi như
trẻ thơ!
Khóc
thỏa thuê một lúc, Blust trở vào lòng chiếc Command vừa khi Thiếu tá
Quang – Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 26 – đang giận dữ, gào lên trong
ống liên hợp:
–Mày nói với Đại Bàng của mày, không cho tao vào bây giờ thì ai cứu
tụi nó? Chờ đến sáng thì không còn ‘mống’ nào sống sót đâu. Mời Đại
Bàng của mày lên máy, nhanh đi!
Không hiểu tiếng Việt, nhưng thấy thái độ
của Thiếu tá Quang, Blust hiểu phần nào những gì đang xảy ra. Trong
khi Blust ngượng ngùng, cứ loay hoay cạnh Thiếu tá Quang và lập đi
lập lại: “I’m sosrry, sir!” thì Thiếu tá Quang ra lệnh cho đoàn
giang đỉnh sẵn sàng tiến vào tiếp cứu đồn Thứ 6.
Chỉ vài phút sau Thiếu tá Quang ra “phản
lệnh”. Quay nhìn Blust, Thiếu tá Quang giải thích: Đồn thứ 6 bị vây,
bị tấn công nặng nề, kêu cứu; nhưng Đại tá Tỉnh trưởng sợ trách
nhiệm, không cho đoàn chiến đỉnh vào cứu!
Sáng hôm sau, đoàn chiến đỉnh nhận được
lệnh hải hành đến quận Gò Quau, thuộc tỉnh Kiên Hưng. Quận trưởng là
Trung tá Phép.
Sau khi thi hành nhiều chuyến hải hành trên Kinh Ngang để chuyển
quân, quân trang và quân cụ, đoàn chiến đỉnh được lệnh trở lại kinh
Trèm Trẹm.
Ngang
đồn thứ 6, vết tích lửa đạn vẫn còn đó nhưng lá cờ vàng vẫn ngạo
nghễ tung bay; người Nghĩa Quân vẫn nghêu ngao câu vọng cổ trên tháp
canh. Tất cả dường như không mang nét thê lương, đau đớn nào cả! Tất
cả chấp nhận sự điêu linh một cách bình thản đến tội nghiệp!
Đến đồn thứ 9, tôi gặp lại Thiếu úy Sao.
Sao chào tôi với nụ cười buồn. Tôi ngạc nhiên khi thấy hai chữ
“Y–Sao” màu đen được viết đậm trên túi áo của Sao. Thấy ánh mắt khó
hiểu của tôi, Sao nhìn vội xuống hai chữ Y–Sao rồi nhìn ra xa. Trong
mắt Sao tôi tưởng như thấy được những hận thù vỡ ra tung tóe như
những vệt máu hồng của Y kéo dài từ khẩu đại liên đến cửa hầm chống
pháo kích! Nhìn Sao và nghe câu chuyện thương tâm của Y, tôi chợt
nghĩ đến Chinh. Không biết giờ này Chinh đang phiêu bạt ở chiến
trường nào!
Đêm
đến, tiếng ca vọng cổ trên tháp canh kèm theo tiếng gõ nhịp nhặt
khoan của hai thanh tre nghe não nề, nhức buốt! Bỗng... Ầm! Ầm!
Tiếng nổ làm rung chuyển vùng không gian nho nhỏ quanh tôi, trên
chiếc Combat. Từng khối nước tung cao ngất trời trong khi chiếc
Command từ từ chìm xuống. Hai chiếc fom và hai chiếc LCVP được phái
đến, vất phao xuống nước để cứu vớt đồng đội. Trong tiếng đại pháo
rền trời – từ chiến đỉnh phản pháo – và dưới ánh hỏa châu do các
chiến đỉnh bắn lên, tôi không thấy được dấu hiệu của bất cứ một quân
nhân nào trên mặt nước cả! Dòng phù sa thêm màu mỡ nhờ máu, thịt và
xương của những thủy thủ vừa xong lớp Đệ Nhị!
Sau những tang thương rách nát trong hồn,
tôi theo đoàn chiến đỉnh trở lại Kinh Ngang. Trong khi mọi người,
mọi nòng súng đều chĩa về khúc quanh như đợi chờ, như thách thức
thì... đoàn chiến đỉnh đi qua êm xuôi. Tôi chưa kịp mừng thì nghe
một tiếng nổ kinh hồn rồi từng khối nước khổng lồ tung lên. Chiếc
LCM8 bị mìn! Sau khi cứu vớt và nhặt xác của đoàn viên, mọi người
đều lúng túng; vì không biết những bộ phận cơ thể “rời” này thuộc về
nạn nhân nào để “ráp” vào cho đúng! Thôi, chia đều trong mỗi bao
ny–lông để người thân bớt đau lòng!
Trong mấy bao ny–lông đựng xác người có
phần cơ thể không toàn vẹn của Chuẩn úy Mẫn. Mẫn mới biết miền Tây
Nam Việt sau chuyến xe đò từ Sài Gòn qua Bắc Vàm Cống về Long Xuyên
để trình diện Giang Đoàn 26, sau khi Mẫn mãn khóa Sĩ Quan Trừ Bị Thủ
Đức!
Mẹ của Mẫn
đứng chết lặng nơi cửa, sau khi một sĩ quan đến báo tin. Ánh mắt của
Bà cũng thất thần, mất hết sức sống, như ánh mắt của Má tôi dạo nào
bên bờ sông Triêm Đức!
Chuyến hải hành từ Kinh Ngang về Chương
Thiện chiếc Combat lại bị mìn. Nhìn hai chiếc LCM “kè” hai bên để
đưa chiếc Combat về hậu cứ, tôi gục đầu vào lòng bàn tay, khóc!
Sau khi chỉnh trang, đoàn chiến đỉnh theo
sông Hậu, rẽ vào Long Phú, xuôi theo Bãi Sầu, xuống Bạc Liêu, về
quận Gia Rai. Nhìn những con kinh đào nhỏ hẹp, chỉ đủ rộng cho chiến
đỉnh hải hành hàng một – chứ không đủ rộng để chiến đỉnh có thể xoay
ngang, trở đầu – lòng tôi cứ ái ngại thầm!
Sáng hôm sau, đoàn chiến đỉnh chuyển quân
từ Gia Rai đi Cà Mau. Thiếu tá Quang cẩn thận dặn tất cả Bộ Binh
ngồi trong lòng tàu, không để lộ dấu hiệu là mình đang chuyển quân.
Thế mà khi đoàn chiến đỉnh vừa qua khỏi xã Hộ Phòng thì từng loạt,
từng loạt B40 nã xối xả vào những mục tiêu không có đường xoay trở!
Trong khi chờ trực thăng tản thương, thủy
thủ Hiển ra dấu cho tôi cúi xuống gần anh. Hiển thều thào:
–Đừng cho “dợ” em biết em bị thương, nó
lo, tội nghiệp. Để ít bữa, em dìa!
Nhìn máu và nước sóng sánh trên chiếc
băng–ca và người Hiển run rẩy, tôi chỉ biết khóc, gật đầu, trong khi
tay tôi cứ đẩy cái kéo, cố cắt bộ quân phục đẫm máu của Hiển. Cắt
xong, tôi hỏi mấy anh lính Bộ Binh đang đứng gần tôi:
–Anh nào có thừa chiếc áo nhà binh, cho
tôi xin để đắp cho anh Hải Quân này.
Một anh cởi áo của anh, trao cho tôi, còn
anh mặc áo thun. Tôi lấy tất cả giấy tờ và cái ví của Hiễn, cho vào
túi áo của anh lính Bộ Binh rồi phủ chiếc áo lên người Hiển. Tôi nhờ
một người đứng gần phụ tôi, nghiêng băng–ca cho máu và nước thoát ra
rồi tôi từ từ rút từng mảnh vải đã bị cắt để Hiển đỡ bị lạnh. Trước
khi tôi quay sang giúp một thương binh khác, Hiển lại ra dấu cho tôi
cúi xuống gần Hiển một lần nữa. Nước mắt ràn rụa, tôi xúc động quá
cho nên chỉ nghe tiếng được tiếng mất:
–Trong bóp em còn mấy ngàn, chị đưa giùm
cho... “dợ” em để nó mua sữa cho con. “Dợ” em đẻ con trai, hôm
qua... Chỉ Huy Trưởng nói mai cho em đi phép đặc ân...
Nói ngang đó, gương mặt của Hiển trông
tươi tỉnh; nhưng rồi Hiển cong người sang một bên như muốn ho. Một
dòng máu đỏ chảy mềm mại từ môi Hiển, rồi mắt Hiển khép lại – vĩnh
viễn!
Sau những
cảnh đau lòng, đoàn chiến đỉnh hải hành về Kiên Lương. Trong khi đám
trẻ con đứng cạnh bờ sông, nhìn mấy anh thủy thủ như nhìn những dị
nhân vừa từ một hành tinh khác đến thì nhiều cụ già tươi cười nhận
dầu ăn, cơm sấy, cá hộp từ mấy anh thủy thủ. Một cụ ông vỗ vỗ lên
tay Triều, hỏi:
–Làm sao được đi lính như mấy chú, hả chú?
–Dạ, dễ mà. Lên Sài Gòn ghi tên là đi
liền.
–Sài Gòn ở
đâu dậy?
–Nói
giởn thôi chớ bộ Cụ tính đăng lính Hải Quân thiệt sao?
–Hỏng phải! Thằng cháu ngoại của ‘wa’, nó
đóng ở đồn kia cà. Nó muốn đi.
–Thôi, đi Nghĩa Quân gần nhà sướng hơn;
Hải Quân xa nhà hoài, buồn lắm!
–Bị nó ở trong đồn mà thằng em của nó cứ
bắc loa kêu nó bỏ súng “dìa dới nhơn dân” hoài hà!
–Sao kỳ vậy, Cụ?
–Thì thằng em của nó theo ‘bộ đội giải
phóng’. Dậy mới có “chiện” chứ.
Chẳng biết nói gì, Triều đưa mắt nhìn tôi.
Tôi cúi mặt, cảm thấy buồn tái tê, đi dần về cặp fom.
Giã từ đoàn chiến đỉnh của Giang Đoàn 26
Xung Phong, tôi trở lại U–Minh với một Giang Đoàn Tuần Thám.
Đến sông Cái Lớn, đoàn PBR (Giang Tốc
Đỉnh) vẫn phăng phăng lướt trên nước, bỏ lại phía sau từng chuỗi bọt
tắng xóa, hình chữ V. Đến gần Chương Thiện, trời tối hẳn, đoàn PBR
neo giữa sông. Nhìn ánh trăng long lanh trên mặt sông và nghe văng
vẳng từ radio một tình khúc tiền chiến, tôi chợt nhớ đến hai câu thơ
của Ba tôi, bút hiệu Điệp–Linh:
Mắt trinh nữ lệ mờ bên sông cũ.
Đợi cung đàn nghệ sĩ vắng bao Thu!
Hôm sau, tôi theo một giang đoàn Tuần Thám
khác, đi sâu vào U–Minh. Vì chưa bao giờ đến đoạn sông này, tôi tò
mò, vui thích nhìn quanh những vườn khóm thênh thang.
Đoàn PBR đang lướt qua một khúc quanh rất
ngặt. Tôi nghe tiếng B40 nổ liên tục phía trước. Chiếc PBR chỉ huy
trúng B40. Trung tá Minh – Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 5 Tuần Thám – bị
thương. Đoàn PBR bắn trả dữ dội. Nhiều người chạy lom khom trong
vườn khóm. Đoàn PBR ủi thẳng vào bờ để Bộ Binh đổ bộ. Khi Bộ Binh
trở lại chiến đỉnh, tôi thấy họ mang theo nhiều chiến lợi phẩm như
súng trường Nga và B40, B41...
Phiêu lãng trên những dòng sông nhuộm máu
suốt thời gian dài, lòng tôi mang nặng niềm đau của những thanh niên
cùng thời đại với tôi; và, dường như tôi quên đi nỗi đau xưa, bên
dòng sông Triêm Đức.
Tôi trở lại dòng sông Triêm Đức vào những
ngày sôi sục nhất của cuộc chiến để thuyết phục Ba tôi dời vào Sài
Gòn. Ba tôi bảo đất đai, nhà cửa và mộ của Bảo–Ngọc còn đó, đi sao
đành! Tôi đề nghị Chinh và hai em trai sinh đôi cùng vào Sài Gòn với
tôi. Chinh dứt khóat:
–Ba Má già rồi, tụi em không thể bỏ Ba Má
được.
Ba tôi tiếp
lời Chinh:
–Tại
sao con có vẻ sợ? Họ cũng là người Việt Nam như mình mà. Còn Chinh
chỉ là đại úy, có gì đâu mà lo. Hơn nữa, họ về họ cũng phải dùng sĩ
quan của mình chứ sĩ quan của họ đốt đặc, “xài” gì được!
Nói ngang đó, Ba tôi chợt vỗ hai tay vào
nhau kêu “bốp” rồi tiếp, giọng rất vui:
–Nè, con nhớ bác Ca không? Nghe nói bác
làm lớn lắm. Bác Ca với Ba bề gì cũng còn cái tình cách mạng chống
Tây. Và hồi đó, tuy nghèo, nhưng Ba dạy Pháp văn cho bác Ca, Ba
không nhận thù lao.
Giọng tôi nghẹn lại như muốn khóc:
–Chức Phó Quận Hành Chánh rồi Trưởng Ty
Nội An của Ba, Ba giấu được bác Ca hay không?
–Bác biết thì biết. Mình “ăn cây nào, rào
cây đó”, ai nỡ trách mình. Con đừng lo. Có bác Ca là mọi việc đều
xong.
Tôi đành
quay về Sài Gòn với chút tin tưởng vào bác Ca và hy vọng bác Ca vẫn
còn sống.
Khi
những sôi động trong cuộc chiến và trong lòng tôi lên đến vào đỉnh
cao nhất, tôi được tin bác Ca giữ một chức vụ rất quan trọng trong
đảng cộng sản Việt Nam.
Một người bạn của tôi có ông Bố theo “Giải
Phóng” từ khi ông ấy còn du học bên Pháp. Sau tháng Tư năm 1975,
người bạn này tổ chức tiệc để ông Bố mời những người bạn của ông.
Bạn tôi nhờ tôi giúp trang hoàng để bữa tiệc thêm phần trang trọng.
Chính trong bữa tiệc trang trọng này, tôi
được gặp một cụ già tên Ca. Sau vài câu làm quen, cụ Ca hỏi tôi
người miền nào mà nói tiếng lơ lớ nửa Nam nửa Huế. Tôi đáp:
–Dạ, quê cháu là Đà Lạt, nhưng Má cháu gốc
Huế, Ba cháu người Nha Trang.
Dường như “lý lịch” của tôi gợi trong ký
ức của Cụ điều gì đó, cụ Ca hỏi:
–Ngày xưa Bố của cô làm gì?
Tính tôi “thẳng như ruột ngựa”, có sao nói
vậy:
–Thưa Cụ, Ba
cháu ngày xưa đi kháng chiến chống Tây. Ba cháu giỏi nhạc và Pháp
văn lắm!
–Ba cô
tên gì? Hồi kháng chiến sống ở đâu?
–Dạ, Ba cháu tên Kinh. Hồi kháng chiến gia
đình cháu sống cạnh sông Triêm Đức.
–Thế cô là con bé Linh, phải không?
–Dạ, vâng. Sao Cụ biết?
–Biết chứ. Ba cô còn ở bên sông Triêm Đức
không?
–Dạ, còn.
Xin lỗi Cụ, cháu nhớ hồi xưa Ba cháu có người bạn rất thân, tên Ca.
Thưa, có phải Cụ là bác Ca không ạ?
–Ừ, tôi là bác Ca đây!
Tự dưng tôi cảm thấy mất bình tĩnh! Thật
lòng, tôi muốn nhân cơ hội này, xin bác Ca giúp đỡ hoặc che chở cho
Ba tôi và các em trai của tôi; vì lệnh kêu gọi sĩ quan và công chức
“Ngụy” đi “đăng ký” cứ “ra rả” trên đài phát thanh. Nhưng đồng thời
tôi cũng cảm thấy khó chịu khi trực diện với một nhân vật quan trọng
trong guồng máy đầy ác tính mà tôi rất căm hận.
Bác Ca nhíu mày như vận dụng trí nhớ rồi
hỏi:
–Thằng gì em
của bé Ngọc đó, nó làm gì?
–Dạ, em cháu tên Chinh, đại úy.
Một cách từ tốn bác Ca lấy thức ăn cho vào
chén của tôi, mời:
–Cô dùng chút tiết canh đi, bổ lắm đấy!
Tôi lí nhí cảm ơn, nhìn bác Ca, thầm nghĩ:
Thức ăn miền Nam đầy đủ, ê hề, Bác đâu cần phun nước bọt vào dĩa để
giành ăn, như ngày Bác còn là Liên Khu Phó Liên Khu V! Bác Ca lại
hỏi:
–Thế hiện
tại Ba Má cô có mấy người con?
–Dạ, bốn. Cháu, Chinh, Nam và Trực.
–Nam và Trực làm gì?
–Dạ, sinh viên sĩ quan.
Bác Ca không hỏi tiếp mà lại nhỏ nhẹ mời
tôi lần nữa. Tôi nâng đũa, trộn phần tiết canh trong chén. Nhìn phần
tiết canh tươm ra nơi lòng chén và phần tiết canh sánh lại quanh mấy
miếng lòng vịt, tôi chợt liên tưởng đến những phần máu thịt của
những Người Lính Việt Nam Cộng Hòa mà tôi đã thấy tận mắt trên những
dòng sông nhuộm máu thuộc Vùng IV Sông Ngòi! Tự dưng tôi nhận ra sự
căm phẫn đang dâng cao trong lòng. Tôi tự biết, tôi không thể làm
thân với bác Ca để nhờ Bác giúp cho Ba và các em tôi.
******
Sau khi nghe tôi trình bày sự việc, Ba tôi
đích thân vào Sài Gòn tìm gặp bác Ca. Không hiểu kết quả của lần gặp
gỡ giữa hai người bạn già như thế nào, nhưng Chinh, Nam và Trực bị
cộng sản Việt Nam bắt – vì cả ba người đều tham gia tổ chức Phục
Quốc do cựu Hải Quân Thiếu tá Đặng Hữu Thân thành lập – trước khi Ba
tôi từ Sài Gòn trở về. Và, sau đó, Ba tôi cũng phải trình diện để đi
cải tạo.
Trong
căn nhà thăm nuôi, Ba tôi ngồi im, mắt đỏ rực nhìn xuống dòng sông
Triêm Đức khi tôi nhắc đến các em tôi. Ba tôi hỏi:
–Con đã đi thăm các em chưa?
–Dạ, chưa.
Ba tôi dúi vào tay tôi ba mảnh giấy vo
tròn, nói rất nhỏ:
–Khi nào con đi thăm, nhớ đưa cho các em.
Tôi chưa kịp “dạ” thì tên quản giáo nhảy
tới, hùng hổ như con thú vồ được mồi:
–Chuyển tài “niệu” gì đấy? Đưa xem.
Tôi xám mặt, run tay. Ba tôi rất trầm
tĩnh:
–Đưa cho
anh quản giáo xem đi, con!
Tôi mở bàn tay. Ba cuộn giấy nhỏ xíu lăn
trên bàn, tên quản giáo chụp lấy. Trong khi tên quản giáo vuốt cho
thẳng để đọc, tôi liếc nhanh vào mảnh giấy và thấy: “Con!
Ba tủi hổ và hối hận về cái bác ‘Caca’
[1]
đó lắm!”
ĐIỆP–MỸ–LINH
https://www.diepmylinh.com
* Ảnh của Thềm
Sơn Hà trên Internet.
[1]
Nghĩa của danh từ này không được đẹp.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: phong cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Điệp Mỹ Linh chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy,
October 10, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang