Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Phỏng
vấn Nhà văn ĐIỆP MỸ LINH
Chủ đề:
Lính VNCH
Tác giả:
Phạm Phú Nam
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Dân Sinh Media Network
– Trong chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi kính mời quý
thính giả theo dõi cuộc đàm thoại giữa ông Phạm Phú Nam – Giám
Đốc Dân Sinh Media Network – và nhà văn Điệp Mỹ Linh.
Bà Điệp Mỹ Linh là tác giả cuốn tài liệu
Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975. Đây là một tài liệu quý giá viết về
quân chủng Hải Quân.
Trong thời kỳ chiến tranh, bà Điệp Mỹ Linh
thường tháp tùng các đơn vị chiến đấu Hải Quân, dưới sự chỉ huy của
Hải Quân Trung tá Hồ Quang Minh – phu quân của Bà – trong những cuộc
hành quân hỗn hợp trên sông rạch thuộc vùng IV Sông Ngòi. Bà đã
chứng kiến nhiều cuộc giao tranh ác liệt giữa các đại đơn vị Việt
Cộng và Hải Quân V.N.C.H. trên những dòng sông chằng chịt thuộc vùng
U Minh hung hiểm.
Vào thời điểm 30 tháng Tư – 1975, bà Điệp
Mỹ Linh may mắn đã cùng gia đình thoát khỏi Việt Nam trên Dương Vận
Hạm Thị Nại, HQ502. HQ502 cùng với Hạm Đội Hải Quân V.N.C.H. đã thực
hiện sứ mệnh cuối cùng của Hải Quân là đưa hơn 30 ngàn đồng bào và
quân bạn đến bến bờ Tự Do.
Là một phụ nữ có chồng là Lính, bà Điệp Mỹ
Linh đã sống đoạn đường gian khổ trong các trại gia binh. Bà can đảm
theo chồng hành quân. Bà còn là một nhân chứng đặc biệt trong chuyến
hải hành cuối cùng của Hải Quân V.N.C.H. Bà chứng kiến những cuộc
tiếp cứu trên sông, trên biển và sự hy sinh tận tụy của Thủy Thủ
Đoàn. Những gì Bà đã trải qua, đã mục kích, tác động rất mạnh vào
tâm cảm và tư duy của Bà cùng với sự ngưỡng phục của Bà dành cho
quân chủng Hải Quân là nguyên nhân đã thúc đẩy Bà thu thập tài liệu
để thực hiện cuốn tài liệu Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975.
Hôm nay Dân Sinh xin hân hạnh giới thiệu
và kính mời quý thính giả cùng nghe cuộc đối thoại giữa ông Phạm Phú
Nam và bà Điệp Mỹ Linh.
Tôi là Phạm Phú Nam, xin kính chào quý
thính giả khắp nơi. Hôm nay chúng tôi được tiếp chị Điệp Mỹ Linh, là
một tác giả nổi tiếng của Hải Quân về những tác phẩm viết về Hải
Quân.
Xin chào
chị Điệp Mỹ Linh.
Điệp Mỹ Linh xin trân trọng kính chào quý
thính giả và kính chào anh Phạm Phú Nam.
Thưa chị, bây giờ là 39 năm tỵ nạn, còn
vài tháng nữa là 40 năm. Bốn mươi năm nhìn lại, xin chị cho biết, 40
năm trước, vào thời điểm 30 tháng Tư, chị rời Việt Nam trong trường
hợp nào?
Thưa
anh, tôi cùng gia đình rời Việt Nam khoảng 12 giờ đêm 29 tháng Tư
1975, bằng ngã Sở Hàng Hà. Từ chiều 29 tháng Tư, ông nhà tôi liên
lạc với nhiều đơn vị nhưng không được đơn vị nào trả lời. Gia đình
tôi cùng một số bạn hữu vào Sở Hàng Hà. Ông nhà tôi nhờ một giang
đỉnh đưa sang Dương Vận Hạm Thị Nại, HQ502 – lúc đó HQ502 đang cặp
cầu trước Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
Giang đỉnh cập bên hông HQ502, mé ngoài
sông. Thành tàu rất cao, nước chảy xiết, không có cầu bắt lên HQ502
cho nên phụ nữ và trẻ em gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng, nhờ những
người có mặt trước trên HQ502 giúp đỡ tận tình cho nên chúng tôi
nhập hạm một cách an toàn.
Sau khi lên được HQ502, tôi thấy chiến hạm
đầy người, không còn một chỗ trống.
Khoảng 12 giờ rưỡi hay 1 giờ sáng 01 tháng
05/75, HQ 502 rời bến, giang hành về hướng Nhà Bè. Gần đến Nhà Bè
tôi thấy lửa rực trời vì kho xăng Nhà Bè bị trúng đạn pháo kích của
Việt Cộng.
Trên
đường ra biển, HQ502 vớt thêm không biết bao nhiêu đồng bào và quân
bạn từ ghe nhỏ và chiến đỉnh. Trong số quân nhân được HQ502 vớt, tôi
được biết có khoảng 60 Người Nhái – thuộc Liên Đoàn Người Nhái – Hải
Quân Trung tá Trịnh Hòa Hiệp, chỉ huy trưởng Liên Đoàn Người Nhái và
Hải Quân Đại tá Trịnh Quang Xuân, Tư Lệnh Vùng III Sông Ngòi, từ một
PBR (River Patrol Boat – Giang Tốc Đỉnh).
Sáng 01 tháng 05 – 1975, HQ502 ra đến
biển.
Xin cảm ơn
chị. Tôi muốn hỏi chị, vào những ngày cuối tháng Tư chị có cảm nhận
hoặc cảm thấy tình hình chính trị của đất nước diễn biến như thế nào
không?
Thưa anh,
tôi chỉ xin nói những gì tôi thấy, tôi biết, trong phạm vi Hải Quân
mà thôi.
Thời
điểm đó tinh thần tôi rất rối loạn. Theo báo chí, TV và đài BBC thì
quân của V.N.C.H. cứ bị đẩy lùi dần về phía Nam – vì thiếu vũ khí,
thiếu đạn dược và cũng vì kẹt đồng bào chạy theo cho nên Lính
V.N.C.H. không thể chống trả những đợt tấn công của Việt Cộng! Khi
ông nhà tôi cho biết chiến hạm Hải Quân đã di tản đồng bào và quân
bạn khỏi Vùng II Duyên Hải thì tôi hoàn toàn không còn tự chủ được;
vì em tôi, đại úy Pháo Binh bị kẹt tại Phù Cát và đại gia đình của
tôi bị kẹt tại Cam Ranh, chỉ một mình tôi ở Sài Gòn!
Tôi nhờ ông nhà tôi xem có chiến hạm nào
ra Trung, xin cho tôi quá giang để về đón đại gia đình của tôi. May
mắn là Dương Vận Hạm Nha Trang, HQ505, Hạm Trưởng là Hải Quân Trung
tá Nguyễn Văn Nhượng, đang nhận đạn tại Thành Tuy Hạ để tiếp tế cho
mặt trận Phan Rang. Tôi quyết định xin theo HQ505 đến Phan Rang rồi
sẽ tìm phương tiện về Cam Ranh.
Khi HQ505 đến hải phận Phan Rang thì Phó
Đề Đốc Hoàng Cơ Minh – đang chỉ huy các đơn vị Hải Quân Vùng II
Duyên Hải, từ Tuần Dương Hạm Trần Nhật Duật, HQ3, tại vịnh Phan Rang
– không cho HQ505 ủi bãi. Lúc đó tôi mới biết Việt Cộng đã chiếm
Phan Rang và tôi thấy hai xe tăng T54 ngay bãi biển, chỉa mũi súng
ra HQ3 và HQ505! Tôi thấy ghe thuyền ồ ạt chèo ra HQ505; trên ghe
toàn lính, đủ mọi quân binh chủng! Tôi khóc cho gia đình tôi. Tôi
khóc cho những oan khiên đang phủ chụp xuống Quê Hương tôi. Và tôi
khóc cho thân phận những người lính đang cố giăng cao chiếc áo trận
để thủy thủ đoàn dễ nhận diện!
Hạm Trưởng Nhượng sắp bước lên đài chỉ
huy. Tôi gọi: “Anh Nhượng!” Nhượng dừng bước, nhìn tôi. Tôi tiếp:
“Anh không vớt mấy ông lính trên ghe sao?” Hạm Trưởng Nhượng im lặng
một thoáng như cố nén xúc động rồi đáp: “Tôi được lệnh không vớt ai
cả. Một tàu đạn đầy!”
HQ505 bẻ một vòng cua ngặt để rời vùng
biển Phan Rang.
Trên hải hành xuôi Nam, HQ505 được tin Dương Vận Hạm Vũng Tàu, HQ503
– vừa hoàn tất công tác vớt nhóm quân nhân Nhảy Dù trong vịnh Cà Ná,
theo lệnh của Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, từ trực thăng – bị Việt
Cộng lấy pháo binh của V.N.C.H. bắn trúng đài chỉ huy, gây tử thương
cho bốn năm người. Sau đó, HQ505 được tin Trung tướng Nguyễn Vĩnh
Nghi – Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn III – bị Việt Cộng bắt tại hầm
chống pháo kích, sau khi Ông bay trở lại mặt trận Phan Rang!
HQ505 đến Phan Thiết vào buổi chiều. Tối
đó tôi thấy đạn xẹt xanh đỏ cả vòm trời rồi rơi xuống Phan Thiết.
Phan Thiết bị Việt Cộng pháo kích liên tục và dai dẳng! HQ505 nhận
được tín hiệu kêu cứu của Tỉnh Trưởng Phan Thiết, nhưng đành chịu!
Vào thời điểm đó, phu quân của chị là một
sĩ quan cao cấp, chị có nghĩ rằng miền Nam sẽ mất vào tay cộng sản
hay không?
Thưa
anh, ngay như khi ông Vũ Văn Mẫu đuổi Mỹ ra khỏi Việt Nam trong vòng
24 tiếng đồng hồ, tôi cũng không nghĩ rằng miền Nam sẽ mất vào tay
cộng sản. Lý do là Hải Quân V.N.C.H. không có dự trù gì cả. Đô Đốc
Chung Tấn Cang có ý định đưa Hạm Đội ra Phú Quốc hoặc về Vùng IV
Sông Ngòi, chỉnh đốn hàng ngũ để chuẩn bị cho cuộc chiến lâu dài
hoặc là nhờ Liên Hiệp Quốc can thiệp; vì Việt Cộng đã ký Hiệp Định
Genève, năm 1954, nhưng Việt Cộng đã vi phạm. Nếu Liên Hiệp Quốc
không can thiệp thì Hạm Đội sẽ về Vùng IV; vì thời điểm đó tình hình
Vùng IV rất yên tĩnh.
Sau này tôi được dịp phỏng vấn Trung tướng
Vĩnh Lộc – Tổng Tham Mưu Trưởng cuối cùng của V.N.C.H. – thì Tướng
Vĩnh Lộc xác nhận rằng chính Tướng Vĩnh Lộc điện thoại trực tiếp cho
Tướng Nguyễn Khoa Nam – Tư Lệnh Vùng IV Chiến Thuật. Tướng Lộc cho
Tướng Nam biết rằng: Nếu không giữ được Sài Gòn, Chính Phủ sẽ di tản
xuống Vùng IV và giao trách nhiệm chỉ huy chiến trường cho Tướng
Nguyễn Khoa Nam. Tướng Nam đáp: “Vâng. Đàn anh đã giao phó thì đàn
em xin nhận lệnh.” Điều này xác nhận rằng Hải Quân V.N.C.H. không hề
có bất cứ một dự tính nào để Hạm Đội rời khỏi hải phận Việt Nam.
Nhưng cuối cùng, ông Richard L. Armitage –
nguyên là cố vấn của Hải Quân – khuyên Hạm Đội nên tập trung tại Côn
Sơn để xem tình hình chính trị diễn tiến như thế nào rồi mới hoạch
định những bước kế tiếp.
Lúc đó Hạm Đội mới được chỉ thị tập trung
tại Côn Sơn.
Chị
vui lòng thuật lại những biến động quanh hoặc trên HQ502 mà chị đã
ra đi. Hải trình của HQ502 như thế nào? Có bị trở ngại gì không? Bao
nhiêu người trên HQ502?
HQ502 rời Sài Gòn, theo sông Soài Rạp. Sau
khi chúng tôi rời trại tỵ nạn Camp Pendleton, báo Mỹ phỏng vấn, ông
nhà tôi cho biết HQ502 đã chuyên chở khoảng trên năm ngàn đồng bào
và quân bạn.
Khi
HQ502 ra đến biển, chúng tôi được tin Việt Cộng bắn vào thương
thuyền Việt Nam Thương Tín, gây tử thương cho nhiều người; trong số
nạn nhân có nhà văn Chu Tử.
HQ502 chỉ còn một máy, đang “ì ạch” tiến,
bỗng một L19 bay đến, lượn quanh chiến hạm. Mọi người trên tàu đều
nằm rạp xuống, vì sợ Việt Cộng lấy phi cơ của V.N.C.H. bay theo để
tấn công chiến hạm. Đến vòng thứ ba, L19 sà thấp xuống, cách mũi
HQ502 khoảng 50 thước và anh phi công phụ nhảy ra. Nhiều phao nổi
được vất xuống biển.
Trong khi mọi người chưa biết phương cách
nào để cứu anh phi công phụ thì Người Nhái Nguyễn Văn Kiệt chụp con
dao cá nhân, mang vội đôi chân nhái, tròng vào người một áo phao và
mang theo một áo phao cho nạn nhân rồi nhảy xuống biển.
Sau khi vớt được phi công phụ, Người Nhái
Kiệt cố bơi theo tàu; nhưng vì sức nước bị bánh lái tàu đẩy mạnh ra
sau khiến anh Kiệt rất vất vả và khó khăn trong việc cấp cứu.
Trong khi anh Kiệt đang tận lực chống chọi
với sức đẩy của nước thì trên không trung chiếc L19 đảo lại một vòng
nữa và anh phi công nhảy ra. Thân người của anh phi công vừa chạm
mặt nước liền bị “tưng” lên rồi chìm trong khi chiếc L19 không người
lái cũng đâm vào lòng biển.
Anh phi công phụ – đang trong vòng tay cứu
vớt của anh Kiệt – hét to: “Anh thả tôi ra, tới cứu giùm bạn tôi.”
Anh Kiệt đáp: “Tôi chưa biết tôi có thể cứu anh được hay không; vì
chúng ta đang bị sóng đẩy lùi ra sau thì làm thế nào tôi có thể cứu
bạn anh?”
HQ502
quay lại, vớt cả anh Kiệt và anh phi công phụ trong tiếng reo hò
vang dội của mọi người trên tàu.
Sau đó tình trạng của anh phi công và anh
phi công phụ như thế nào?
Anh phi công chìm luôn. Thời điểm đó gia
đình tôi tạm trú tại khoảng không gian nhỏ, giữa đài chỉ huy và sàn
tàu – Hải Quân Việt Nam gọi là “sân thượng”; Hải Quân Hoa Kỳ gọi là
spardeck (1). Ngay khuya hôm đó tôi thấy một bóng trắng, gần nơi gia
đình tôi tạm trú, phóng mạnh, vượt qua khoảng không gian của sàn tàu
và rơi vào lòng biển! Nhiều người và tôi cùng la lên “Có người tự
tử!” nhưng tàu vẫn tiến, không ai có thể làm gì được! Về sau nhiều
người kiểm chứng và cho biết người tự tử là anh phi công phụ của
chiếc L19!
Điều
đó đúng hay không, thưa chị?
Thưa anh, cả 5 ngàn người trên tàu không
ai có thể xác quyết được đúng anh phi công phụ hay không. Nhưng điều
quan trọng là không hề thấy hoặc nghe anh phi công phụ lên tiếng.
Mấy mươi năm qua cũng chẳng nghe anh phi công phụ lên tiếng.
Thưa chị, anh phi công phụ đã được cứu,
tại sao anh ấy lại tự tử?
Tôi nghĩ truyền thống cao đẹp của Người
Lính V.N.C.H. là Huynh Đệ Chi Binh; lúc nào cũng lo lắng, giúp đỡ
nhau. Có thể lúc đầu anh phi công cho anh phi công phụ lên máy bay
là có ý giúp bạn. Về sau, anh phi công phụ lại được Người Nhái Kiệt
cứu giúp một lần nữa – trên biển – trong khi ân nhân của anh thì
không. Có thể trong thời gian hoảng loạn đó anh phi công phụ nghĩ
đến Cha Mẹ vợ con bị kẹt lại; chỉ còn vị ân nhân mà vị ân nhân đó
cũng không sống được, vậy thì mình sống để làm gì! Đây là tôi suy ra
từ tâm trạng của tôi; bởi vì niềm đau khổ đó rất to lớn, rất sâu xa,
không dễ gì vượt qua!
Xin chị cho biết nhận xét của chị về Người
Lính V.N.C.H – đặc biệt là thủy thủ đoàn – như thế nào trong chuyến
di tản đó.
Thưa
quý vị thính giả, thưa anh Nam, điều nhận xét của tôi không phải để
đề cao quân chủng Hải Quân. Sự thật thì Hải Quân là một trong những
quân binh chủng V.N.C.H. có truyền thống tốt đẹp, đạo đức và tinh
thần kỹ luật rất cao; nhờ vậy, những cuộc di tản từ Vùng I Chiến
Thuật cho đến suốt cuộc di tản vĩ đại đầu tháng 05/1975 không hề xảy
ra bất cứ một sự việc đáng tiếc nào.
Anh nhớ những cuộc di tản từ miền Trung
bằng xà–lan, ghe hoặc tàu dân sự vào Vũng Tàu hoặc Phú Quốc thê thảm
như thế nào không? Vì Việt Cộng đã lấy quân phục của Lính V.N.C.H.
mặc rồi cố ý gây những điều tàn ác để làm giảm uy tín của Người Lính
V.N.C.H. Những thảm trạng đó không hề xảy ra trên bất cứ chiến hạm
nào của Hải Quân; vì Hải Quân đã đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó
với mọi tình huống để giữ an ninh cho đồng bào và đồng đội. Vả lại,
tôi nghĩ, thời gian đó, mọi người đều rơi vào tâm trạng đau đớn, khổ
sở và hoang mang trước một thực thể không thể chấp nhận được cho nên
không ai còn tâm trí nghĩ đến những điều tàn ác để hại nhau.
Xin chị cho biết tâm trạng cũng như vấn đề
thức ăn, nước uống và vệ sinh cho cả năm ngàn người trên chiến hạm?
Thưa anh, mấy anh hỏa đầu vụ lo nấu cơm
liên tục – ngày cũng như đêm – mới đủ để cung cấp cho đồng bào và
quân bạn; nấu nước sôi cho em bé uống sữa. Mấy anh thủy thủ dùng gỗ
đóng nhà vệ sinh “dã chiến” dọc theo thành tàu để giải quyết vấn đề
vệ sinh. Nhưng tội nghiệp nhất là cảnh nhiều thủy thủ, sĩ quan và hạ
sĩ quan, vợ con bị kẹt lại, tối họ đứng riêng, khóc một mình. Nhưng
khi ngày đến, họ đều trở lại “vị trí hoặc nhiệm sở” để phục vụ đồng
bào và đồng đội.
Về tâm trạng, tôi nhận thấy trong mắt và trên nét mặt của mỗi người
đều mang nét u buồn, thất vọng. Khi nói chuyện với người Lính tôi
mới nhận ra rằng quân nhân là những người đau khổ nhất! Bao nhiêu
năm hết lòng chiến đấu cho Quê Hương; nếu họ được gục ngã ngoài
chiến trận thì họ gục ngã cho Quê Hương, vì Quê Hương, linh hồn của
họ có thể yên nghỉ trong niềm hãnh diện của người trai đã làm tròn
sứ mạng. Nhưng họ đã không được gục ngã để ngày nay phải thấy đồng
bào và đồng đội dắt díu nhau ra đi và Quê Hương rơi vào tay cộng
sản! Đó là những quân nhân đem theo được vợ con; còn những quân nhân
không thể đem Cha Mẹ vợ con theo thì niềm đau khổ của họ là vô tận!
Một sĩ quan cao cấp Hải Quân – cựu Hải
Quân Đại tá Đỗ Kiểm, nguyên Tham Mưu Phó Hành Quân Bộ Tư Lệnh Hải
Quân (2) – là một điển hình. Với cấp bậc và chức vụ như vậy, Đại tá
Kiểm đã đặt trách nhiệm trên hết. Đại tá Kiểm đã lo cho đoàn tàu, lo
cho mọi người, không có thì giờ về cư xá đưa vợ con của Ông đi.
Khi Hạm Đội đến Guam, được lệnh phải cởi
bỏ cấp bậc, nhiều ông khóc! Tôi nghĩ rằng đó là những giọt nước mắt
tủi nhục! Họ tủi nhục vì mấy mươi năm chiến đấu mà vẫn không giữ
được miền Nam! Tôi nghĩ, lý do mình không giữ được miền Nam không
phải trong tầm tay của người dân miền Nam hoặc do chính phủ miền Nam
hoặc do khả năng chiến đấu của Người Lính V.N.C.H. Sự thất thủ miền
Nam đến từ bàn hội nghị và cũng do sự lừa đảo của cộng sản Việt Nam.
Cộng sản Việt Nam xâm phạm hiệp định ngưng chiến năm 1973 không phải
bằng súng đạn mà bằng sự xảo trá, gian manh tại bờ sông Thạch Hãn.
Theo nhà văn quân đội Phan Nhật Nam ghi
lại thì, trong thời gian ngưng chiến, Việt Cộng bỏ súng, sang phòng
tuyến Thủy Quân Lục Chiến V.N.C.H., bảo: “Anh em cả. Ngưng chiến
dzồi, thích quá! Chúng tôi thèm thuốc hút, thèm ăn, các anh ủng hộ
tý.” Thủy Quân Lục Chiến tin người, lấy thuốc quân tiếp vụ và thức
ăn hộp đãi người anh em bên kia chiến tuyến. Ăn, hút xong, một tiếng
“sát” vang lên, nhóm Việt Cộng rút lưỡi lê đâm mấy ông Thủy Quân Lục
Chiến chết!
Tại
một địa điểm khác, cũng bên sông Thạch Hãn, sáu tên Việt Cộng sang
phòng tuyến của Thủy Quân Lục Chiến xin thức ăn và thuốc hút. Ăn,
hút xong, nhóm Việt Cộng mời mấy ông Thủy Quân Lục Chiến sang thăm
phòng tuyến của Việt Cộng. Mười hai Thủy Quân Lục Chiến theo sáu tên
Việt Cộng đó rồi không bao giờ mười hai Thủy Quân Lục Chiến trở về!
Rất nhiều người biết chị là tác giả của
nhiều tác phẩm viết về Hải Quân. Xin chị cho thính giả biết chị viết
những tác phẩm đó vào trường hợp nào?
Tôi thực hiện cuốn
Hải Quân V.N.C.H. Ra
Khơi, 1975 vì lòng yêu mến, ngưỡng phục của tôi dành cho quân chủng
Hải Quân. Suốt cuộc di tản năm 1975 tôi thấy Hải Quân đã thể hiện
truyền thống cao đẹp của Hải Quân. Ngoài cuốn tài liệu về Hải Quân,
tôi còn viết nhiều truyện ngắn về Hải Quân và Lính, thuộc đủ quân
binh chủng. Lý do tôi có thể viết về Hải Quân và Lính là do ngày
trước tôi thường tháp tùng các đơn vị chiến đấu Hải Quân – dưới sự
chỉ huy của Hải Quân Trung tá Hồ Quang Minh – lênh đênh trên sông
rạch thuộc Vùng IV Sông Ngòi.
Những lần Hải Quân đụng trận trên sông,
khung cảnh quanh tôi thật “đẹp”, thật hào hùng, như xi–nê. Hình ảnh
hùng tráng nhất là, ở những đoạn sông rộng, mấy chiếc forms (Truy
Kích Đỉnh) hoặc PBR vừa bắn trả vừa lướt nhanh trên mặt nước, trong
tầm đạn xối xả của Việt Cộng. Hình ảnh bi thảm nhất là những khi
đoàn chiến đỉnh phải chuyển quân trên những đoạn sông hẹp!
Trận đánh ác liệt nhất mà tôi được mục
kích xảy ra tại kinh Trèm Trẹm, thuộc tỉnh Kiên Giang, Rạch Giá.
Thời điểm đó ông Minh là Thiếu tá, chỉ huy Giang Đoàn 26 Xung Phong.
Vào một đêm tối trời, tôi thấy hỏa châu chập chùng hướng kinh Trèm
Trẹm – còn gọi là kinh Thứ – và từ máy truyền tin tôi nghe tiếng kêu
cứu từ đồn thứ 9. Thiếu tá Minh trực tiếp liên lạc với Đại tá Tỉnh
trưởng xin chỉ thị. Đại tá Tỉnh trưởng không chấp thuận cho đoàn
giang đỉnh đi tiếp cứu, vì Trèm Trẹm là một kinh đào tương đối hẹp,
Đại tá sợ trách nhiệm! Đến khuya, từ máy truyền tin, lời kêu cứu
khẩn thiết – hòa lẫn với tiếng đại pháo của Việt Cộng – từ đồn thứ 9
vẫn vang lên từ máy truyền tin. Thiếu tá Minh tự động đưa đoàn giang
đỉnh vào đồn thứ 9.
Đến nơi, dưới ánh hỏa châu, tôi thấy đồn
thứ 9 không còn gì và quanh đồn lố nhố Việt Cộng! Dưới sức tác xạ vũ
bão của đoàn chiến đỉnh, Việt Cộng “chém vè”.
Một trận chiến khác trên một kinh đào rất
hẹp, thuộc quận Gia Rai, Chương Thiện. Giang Đoàn 26 Xung Phong đụng
độ dữ dội với Việt Cộng.
Nhờ những chuyến hành quân đó, tôi thấy
Quê Hương mình đẹp vô cùng. Người dân quê nghèo nhưng tâm họ hiền
hòa và họ rất thương Lính. Họ thấy Lính là họ cảm thấy yên lòng như
được nơi nương tựa. Khi nào chiến trận bùng nổ thì người dân chạy về
phía Lính Cộng Hòa.
Sở dĩ Việt Cộng chiếm được nông thôn vì
Việt Cộng dùng chính sách khủng bố, trả thù. Nếu Việt Cộng chiến đấu
một cách can cường, ngay thẳng, không man rợ – như Người Lính
V.N.C.H. – thì không thể nào Việt Cộng chiếm được nông thôn. Bằng
vào thời gian phiêu bạt trên những chiến đỉnh và căn cứ theo chiều
dài lịch sử, kể từ ngày tôi đủ hiểu biết, thì chưa bao giờ có cảnh
đồng bào Việt Nam chạy về phía Việt Cộng cả. Năm 1954, bao nhiêu
đồng bào rời miền Bắc để di cư vào Nam? Năm 1972 ai khai sinh ra Đại
Lộ Kinh Hoàng? Cái dã man tàn ác của Việt Cộng là Việt Cộng pháo
kích ngay vào làn sóng người chạy loạn, đi tìm sự bảo vệ từ phía
Quốc Gia. Năm 1975, sau khi Việt Cộng “giải phóng (!)” miền Nam,
thống nhất đất nước, mà cả trên 30 ngàn người bỏ hết tất cả để ra
đi; dù họ không biết sẽ đi về đâu và đi để làm gì! Sau đó, biết bao
ngàn người phải liều chết trên biển để trốn khỏi một tập thể đầy ác
tính? Từ đó Anh ngữ mới phát sinh ra danh từ Boat People. Tôi tin
tưởng rằng Người Lính V.N.C.H. chiến đấu có lý tưởng, có chính
nghĩa.
Rất nhiều
người nhận định rằng tác phẩm
Hải Quân V.N.C.H. Ra khơi, 1975 giống
như một cuốn hải sử. Làm thế nào chị có thể tìm được nhiều tài liệu,
chi tiết như là sự tổ chức của Hải Quân, quân cụ và các chiến hạm,
v.v. mà chị đã viết ra?
Thưa anh, tôi gặp rất nhiều khó khăn khi
thực hiện cuốn tài liệu Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975. Thời gian
đó tôi còn đi làm, các con tôi đang học đại học và thời điểm đó chưa
có Internet. Vì vậy, tôi chỉ có thể tận dụng hai ngày cuối tuần để
liên lạc bằng điện thoại. Tiền điện thoại viễn liên khá cao. Có vị
không trả lời bằng điện thoại, tôi phải “bay” đến để phỏng vấn, xin
tài liệu, thu băng rồi về viết lại. Từ nhân vật này tôi tìm ra nhân
vật khác. Tỷ dụ Trung tá Nguyễn Văn Nhượng – Hạm Trưởng HQ505 – cho
tôi biết về cuộc rút quân tại Chu Lai thì cũng chính Hạm Trưởng
Nhượng cho tôi biết thời điểm HQ505 tiến vào Chu Lai thì có những
chiến hạm nào khác, Hạm Trưởng những chiến hạm đó là ai, v.v. Tôi
thuộc vào gia đình Hải Quân từ năm 1962 cho nên nhiều người biết
tôi. Họ biết tôi có những hoạt động âm thầm nhưng đáng tin. Đại Gia
Đình Hải Quân cũng nhận thấy rằng việc làm của tôi rất hữu ích, để
ghi lại những biến chuyển trọng đại của lịch sử Việt Nam cận đại qua
cuộc di tản vĩ đại do Hải Quân V.N.C.H. thực hiện. Nếu không ai ghi
lại thì cộng sản Việt Nam sẽ bóp méo lịch sử cho nên Đại Gia Đình
Hải Quân đã tận tình giúp tôi. Tôi tốn rất nhiều công sức, thời gian
– từ cuối thập niên 70 cho đến năm 1990 mới hoàn tất – và tiền bạc;
nhưng bù lại, tôi rất may mắn được sự giúp đỡ vô điều kiện của hầu
hết sĩ quan, hạ sĩ quan và thủy thủ, cũng như cựu Trung tướng Vĩnh
Lộc và ông Richard L Armitage.
Lúc nào tôi cũng quý mến và hãnh diện về
Người Lính và quân chủng Hải Quân V.N.C.H.
Dân Sinh xin cảm ơn chị rất nhiều; vì đây
là dịp nhìn lại quá khứ 40 năm lịch sử mà chị là một trong những
nhân chứng và cũng là tác giả ghi lại những biến cố và sự kiện quan
trọng của lịch sử. Bốn mươi năm nhìn lại, chị có ý nghĩ gì muốn chia
xẻ với thính giả không?
Thưa anh, ý nghĩ của tôi rất buồn. Bốn
mươi năm qua mà Cộng Đồng Người Việt tỵ nạn không những không đồng
nhất mà còn bị chia 5 xẻ 7 cho nên vấn đề đối đầu với cộng sản Việt
Nam rất khó khăn. Cái khó khăn mà tôi nhận thấy và đã đưa vào truyện
ngắn là: Thế hệ anh và tôi biết V.N.C.H. như thế nào; thế hệ của các
con của anh và con của tôi có thể hiểu chút ít. Nhưng đến thế hệ
cháu của anh và cháu của tôi – thế hệ di dân thứ III – thì thế hệ
thứ III này không biết V.N.C.H. là gì cả!
Cộng sản Việt Nam đưa rất nhiều sinh viên
sang đây du học. Vấn đề bạn trai bạn gái giữa sinh viên du học và
thế hệ di dân thứ III làm sao có thể tránh được? Thế hệ di dân thứ
III được sinh ra và lớn lên trong một xã hội an bình, lương thiện,
đạo đức, có văn hóa cao, hoàn toàn khác biệt với môi trường của
những sinh viên sang đây du học và những người vợ người chồng được
người Việt tỵ nạn về Việt Nam cưới đem sang đây. Những sinh viên du
học hoặc vợ chồng “xuất cảng” từ Việt Nam – vì lớn lên trong một xã
hội Việt Nam không có đạo đức, thiếu văn hóa – đã đem theo bản chất
lừa lọc, dối trá, tham lam, ăn cắp, tàn ác. Những người “xuất cảng”
từ Việt Nam sang đây không thực hiện những hành động tàn ác vì họ sợ
pháp luật; nhưng những lời nói độc hại, những lời nói thô tục, những
lời nguyền rủa của họ làm xáo trộn nếp sống văn minh và hiền hòa
trong cộng đồng Việt Nam tại ngoại quốc.
Tuy nhiên, tôi cũng cảm thấy an ủi vì Mỹ
bỏ cấm vận cho Việt Nam rất nhiều. Trong tương lai, nếu Mỹ đưa cố
vấn về Việt Nam để huấn luyện cho quân đội Việt Nam, tôi hy vọng Mỹ
sẽ chọn những sĩ quan Hoa Kỳ gốc Việt – tức là hậu duệ của
Q.L.V.N.C.H.
Nếu
niềm hy vọng của tôi thành sự thật thì tôi mong sao những vị cố vấn
Mỹ gốc Việt đó hiểu rõ bản chất lừa đảo, gian manh, xảo trá của cộng
sản Việt Nam. Bản chất của người cộng sản Việt Nam là họ không có
lòng thương người. Cha Mẹ, vợ chồng, con cái mà họ còn đem đấu tố
cho đến chết – trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất – thì làm thế nào
họ thương ai!
Xin
cảm ơn chị Điệp Mỹ Linh đã dành cho chương trình phát thanh hôm nay
cuộc phỏng vấn này. Chúc chị sức khỏe để viết về Nười Lính V.N.C.H.
Xin cảm ơn quý thính giả. Xin cảm ơn anh
Phạm Phú Nam đã giúp cơ hội để Điệp Mỹ Linh được thố lộ những trăn
trở và khắc khoải của mình.
Phạm Phú Nam
(1)
Theo sự giải thích của Cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại.
(2)
Ông Phạm Phú Nam đã nhắc Điệp Mỹ Linh về chức vụ của HQ/ĐT Đỗ
Kiểm
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Những Tác phẩm của Tác giả đăng trong website này
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: phong cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Điệp Mỹ Linh chuyển
Đăng ngày Thứ Năm,
June 18, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang