Bắc đẩu tinh

 

Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Thời sự Hải ngoại
Chủ đề: Chống ngoại xâm
Tác giả: Nguyễn Văn Thái, Ph.D.

GIẢI THOÁT KHỎI ÁCH NÔ LỆ CỦA GIẶC TÀU
Bản Việt ngữ
or
American English version

 

Bấm vào đây để in ra giấy (Print)

 

Người Việt quốc gia tại hải ngoại đã từng tranh đấu cho nhân quyền ở Việt Nam suốt 43 năm nay bằng cách tỏ thái độ phản đối chính thể độc đảng, độc tài CSVN đàn áp và bóc lột nhân dân Việt Nam trong nước qua các phương sách như (1) kháng thư, (2) các cuộc biểu tình, và (3) những cuộc vận động các nước tự do và các cơ quan quốc tế tạo áp lực lên chính quyền Việt Nam độc tài, toàn trị phải tôn trọng các quyền tự do căn bản của con người. Ở trong nước, nhiều nhà đấu tranh dân chủ và các tổ chức dân sự cũng đứng lên đòi hỏi những quyền làm người mà chính ông Hồ Chí Minh cũng đã đưa vào bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 2 tháng 9 năm 1945. Tuy nhiên, đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay không tôn trọng bản tuyên ngôn này; trái lại đã bỏ tù các nhà tranh đấu dân chủ từ 5 đến 15, 20 năm với những lý do vu vơ phản hiến pháp, cộng thêm nhiều năm quản chế tại gia. Thật là vô lý và tàn ác!

Đàn áp và bóc lột nhân dân và không tôn trọng bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 2 tháng 9, 1945 là những trọng tội. Nhưng tội nặng nhất của đảng cộng sản Việt Nam là, để củng cố địa vị và quyền lực, đã bán nước Việt Nam thân yêu cho Tàu cộng.

Đảng cộng sản Việt Nam đã cống hiến cho Tàu cộng trên 800 cây số vuông ở biên giới phía bắc và thác Bản Giốc, cho Tàu thuê trên 300 ngàn hec-ta rừng đầu nguồn trong 50 năm gây tác hại cho những lưu vực hạ nguồn, để cho Trung cộng xây dựng đường cao tốc nối liền Hà Nội với biên giới Việt-Trung tại Lào Cai, tạo phương tiện nhanh chóng và thuận lợi cho Tàu cộng xua quân vào các tỉnh miền Bắc; để cho Cao Bằng, Móng Cáy, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Kontum, Bình Định, Bình Dương, Lâm Đồng, Trà Vinh cho người Tàu thuê nhiều vùng đất tốt trong thời hạn 99 năm mà người Việt không có quyền bén mảng đến những khu vực này; để cho người Tàu xây dựng những thành phố Tàu lớn ở Bắc Ninh, Hạ Long, Hải Phòng, Bình Dương; nhượng Tây Nguyên, yết hầu quân sự của đất nước, cho dự án Bô-Xít tác hại môi sinh với trên 20 ngàn công nhân mà người ta tin chỉ là quân đội Trung cộng trá hình, và ngay cả nhân viên an ninh Việt Nam cũng không được phép vào khu vực này; cho Trung cộng, qua trung gian Đài Loan, thiết lập trung tâm công nghệ luyện thép Formosa tại Vũng Áng, Hà Tĩnh, gây ô nhiễm bờ biển suốt 4 tỉnh miền Trung, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên làm chết hàng trăm tấn cá gây thất nghiệp cho cả triệu ngư dân tại 4 tỉnh này; hợp tác với Công ty lưới điện Trung quốc (CSG) và Công ty Điện lực Quốc Tế Trung quốc (CPIH) xây dựng nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân, tỉnh Bình Thuận, gần biển, bất chấp ô nhiễm do xả thải phế liệu gây ra; cho phép hằng trăm ngàn người Tàu vào Việt Nam du lịch không cần chiếu khán, những người này có thể ở lại định cư tại Việt Nam mà không ai biết vì không bị kiểm soát. Dần dà, chẳng bao lâu nữa, người Tàu không cần phải dùng biện pháp quân sự, Việt Nam cũng sẽ biến thành một tỉnh của Trung cộng như Tây Tạng và Tứ Xuyên mà thôi. Thêm vào chiến dịch “tằm ăn dâu này”, Đảng cộng sản Việt Nam, để có được sự hỗ trợ của Bắc Kinh cho địa vị của mình, còn ký với Trung cộng một mật ước tại Thành Đô (Chengdu) năm 1990, đã bị tướng cộng sản Hà Thanh Châu tiết lộ vào tháng 4 năm 2013 bằng cách trao cho Foreign Policy Magazine những tài liệu mật của Bộ Quốc Phòng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, sau khi ông này đã xin được quyền tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Tài liệu cho biết Việt Nam sẽ bị biến thành một tỉnh của Trung cộng theo mô hình Tây Tạng qua ba chu kỳ, mỗi chu kỳ là 20 năm:

Chu kỳ I: 2000-2020: Việt Nam trở thành một tỉnh tự trị

Chu kỳ II: 2020-2040: Việt Nam trở một tỉnh lệ thuộc Tàu

Chu kỳ III: 2040-2060: Việt Nam đổi tên thành Âu Lạc (tên lấy từ hai nhóm thổ dân xưa sống giữa hai xứ) và sẽ chịu sự quản trị trực tiếp của thống đốc Quảng Tây.

Ngược lại với hành động bán nước hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, các vua chúa thời xưa – suốt dọc dài lịch sử dân tộc Việt trên 2000 năm ròng rã — tuy có người quỳ lụy Tàu, nhưng tuyệt đối không có bất cứ một vị nào chịu nhượng dù chỉ một tấc đất cho đại Hán.

 

 

Sau đây là Lời của danh tướng Lý Thường Kiệt(1077):

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư


Dịch nghĩa

Núi sông nước Nam thì vua Nam ở,
Cương giới đã ghi rành rành ở trong sách trời.
Cớ sao lũ giặc bạo ngược kia dám tới xâm phạm?
Chúng bay hãy chờ xem, thế nào cũng chuốc lấy bại vong.


Vua Trần Nhân Tông(1258-1309) thì để lại di chúc
[1] như sau:

Các Người chớ quên!
Nghe lời Ta dạy
Chính nước lớn
Làm những điều bạy bạ
TRÁI ĐẠO LÀM NGƯỜI
Bất nghĩa bất nhân
Ỷ nước lớn
Tự cho mình cái quyền ăn nói!
Nói một đường làm một nẻo! Vô luân!
Chớ xem thường chuyện nhỏ ngoài biên ải.
Chuyện vụn vặt thành lớn chuyện: NGOẠI XÂM!
Họa Trung Hoa!
Tự lâu đời truyền kiếp!
Kiếm cớ này bày chuyện nọ! TÀ MA!
Không tôn trọng biên cương theo quy ước
Tranh chấp hoài!
Không thôn tính được ta
Chúng gặm nhấm Sơn Hà và Hải Đảo
Chớ xem thường chuyện vụn vặt Chí Nguy!
Gặm nhấm dần
Giang Sơn ta nhỏ lại
Tổ ĐẠI BÀNG thành cái tổ chim di
Các việc trên khiến Ta đây nghĩ tới
Canh cánh bên lòng “ĐẠI SỰ QUỐC GIA”!
Chúng kiếm cớ xua quân qua ĐẠI VỊÊT
Biến nước ta thành quận huyện Trung Hoa!

VẬY NÊN!
CÁC NGƯỜI PHẢI NHỚ LỜI TA DẶN
KHôNG ĐỂ MẤT MộT TẤC ĐẤT CỦA TIỀN NHÂN ĐỂ LẠI
HÃY ĐỀ PHÒNG QUÂN ĐẠI HÁN TRUNG HOA!
LỜI NHẮN NHỦ
CŨNG LÀ LỜI DI CHÚC
CHO MUÔN ĐỜI CON CHÁU NƯỚC NAM TA.

 

 

Vua Lê Thánh Tông (1442-1497) cũng đã có thái độ dứt khoát: “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại tự tiện vứt bỏ?... Nếu người nào dám đem một tấc đất của vua Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di”. (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)

Trước tình trạng mất đất, mất biển, người Tàu tràn lan khắp đất nước như hiện nay, cộng thêm với mật ước Thành Đô, viễn tượng của nước Việt Nam thân yêu của nhân dân Việt Nam trong năm 2020 là một tỉnh thành của Trung cộng, có thể — trong giai đoạn đầu — do các quan thái thú Việt Nam, rút ra từ Bộ Chính Trị, quản trị. Nhưng dĩ nhiên là mọi chính sách di dân, khổ sai lao động, khai thác tài nguyên thiên nhiên đều do người Tàu sai khiến để phục vụ quyền lợi của họ. Nhân dân Việt Nam sẽ chỉ là những tên nô lệ.

Chỉ 16 người lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam trong Bộ Chính Trị cùng với các tổng bộ trưởng của chế độ — chỉ vì quyền lợi, chức vị, và tiền bạc – mà đành tâm để cho 95 triệu người dân Việt phải làm nô lệ cho giặc Tàu. Người Việt quốc gia trong cũng như ngoài nước, nghĩa là người Việt yêu nước không cộng sản; cũng như người Việt cộng sản, ai ai cũng đồng tâm chống lại sự thâm nhập và xâm lấn của Trung cộng luôn luôn muốn thôn tính nước Việt ta. Thực ra, hiện nay ở Việt Nam không còn chủ thuyết cộng sản; chủ thuyết cộng sản chỉ là một chiêu bài để Đảng cộng sản khống chế, bóc lột nhân dân bởi vì tất cả những gì lãnh đạo cộng sản Việt Nam đang thực hiện đều hoàn toàn đi ngược lại với chủ thuyết cộng sản, một chủ thuyết sai lầm và lỗi thời. Chỉ còn lại là một nhóm nhỏ, một số ít, trên chóp bu khăng khăng bám chặt vào quyền lực để đàn áp hoặc bạc đãi đại đa số nhân dân thấp cổ bé miệng, để bóc lột, tham nhũng, và đồi trụy. Trong số đại đa số này là những thành phần các sĩ quan trẻ trong quân đội nhân dân từ cấp tá trở xuống, binh sĩ, công chức, giáo sư, giáo viên các cấp, các thành phần trí thức, báo chí, công nhân lao động, nông dân, các thương gia nhỏ, và những thành phần nhân dân khác. Trong số các thành phần lãnh đạo cao cấp, có lẽ cũng có một số người yêu nước muốn chống lại sự áp bức, xâm lấn của Trung cộng, nhưng số người này không chống lại nổi áp lực của số đông hơn được Tàu cộng nâng đỡ qua sự trợ lực của tình báo Hoa Nam. Những người này chờ đợi cơ hội thuận tiện để hành động vì đại nghĩa. Trái lại trong số đại đa số thì — ngoại trừ một số rất ít vì mù quáng, vì bị lường gạt — chứ gần như toàn thể nhân dân bao gồm những thành phần các sĩ quan trẻ từ cấp tá trở xuống, binh sĩ, công chức, giáo sư, giáo viên các cấp, các thành phần trí thức, báo chí, công nhân lao động, nông dân, các thương gia nhỏ, và những thành phần nhân dân khác đều thấy rõ và uất ức trước viễn tượng xâm lăng của đại Hán.

Như vậy làm thế nào để thoát ách nô lệ Trung cộng sắp xảy ra?

Chỉ có hai giải pháp:

Giải pháp I: Một quốc gia độc lập có lãnh đạo được toàn dân tự do bầu lên — dưới sự kiểm soát của quốc tế — cho ba ngành phân lập, hành pháp, lập pháp, và tư pháp. Một chính phủ do đảng cử, dân bầu không thể đại diện cho dân cũng như Đảng cộng sản chỉ là tự phong, không có giá trị pháp lý trên chính trường quốc tế. Một khi đã có một quốc gia Việt Nam độc lập do dân tự do bầu lên thì Việt Nam không còn lệ thuộc vào Trung cộng nữa mà hoàn toàn tự do chọn lựa các quan hệ song phương và bình đẳng với tất cả mọi quốc gia trên thế giới, có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý (1 hl=1852km), nghĩa là Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong vùng đặc quyền khai thác kinh tế của Việt Nam. Và các hải đảo Hoàng Sa, Trường Sa có lãnh hải 12 hải lý. Vì là một quốc gia độc lập, dân chủ, và tự do nên lập trường này sẽ được sự hỗ trợ pháp lý và có thể là quốc phòng nữa của các quốc gia tự do, nhất là các quốc gia tự do có quyền lợi giao thương trên Biển Đông, trong đó quyền lợi đầu tư của Hoa Kỳ chiếm đến 23% tổng số (1.2 ngàn tỷ trên 5.3 ngàn tỷ).

Toàn dân đã sẵn sàng: hoặc là Đảng cộng sản tự nguyện thay đổi lập trường nô lệ, ích kỷ, phản trắc, để thành tâm xây dựng một chế độ dân chủ độc lập. Những người ngay chính, trong sạch, yêu nước thuộc chế độ hiện tại vẫn có cơ hội ứng cử vào các chức vụ lãnh đạo đất nước. Nếu lãnh đạo cộng sản không chịu cứu nước bằng phương thức này thì các thành phần cấp tiến như các sĩ quan trẻ, quân nhân, công chức, giáo chức, các thành phần trí thức, cùng với các tổ chức xã hội dân sự sẽ đứng ra tổ chức đấu tranh bất bạo động lật đổ bạo quyền để đi đến việc thành lập một chính thể dân chủ tự trị và tự do, phục vụ quyền lợi của toàn dân. Còn thân phận của những nhà độc tài ngoan cố thì thế nào rồi cũng sẽ bị kết liễu như Nicolae Ceaưescu của Ru-ma-ni mà thôi, lưu xú cho lịch sử dân tộc.

Giải pháp II: Trở lại Hiệp Định Paris ngày 27 tháng 1, 1973. Hiệp Định này do 4 thành phần ký: Ngoại Trưởng William P. Rogers (Hoa Kỳ), Ngoại Trưởng Trần Văn Lắm (Việt Nam Cộng Hòa), Ngoại Trưởng Nguyễn Duy Trinh (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa), và Ngoại Trưởng Nguyễn Thị Bình (Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam).

Theo Chương V, Điều 15 của Hiệp Định thì:

Sự thống nhất của Việt Nam phải được thực hiện từng bước một bằng phương tiện hòa bình dựa trên căn bản thảo luận và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam, mà không có sự ép buộc hay sáp nhập của từ phía nào, và không có sự can dự của nước ngoài. Thời gian thống nhất sẽ do Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam thỏa thuận.

Trong lúc chờ đợi thống nhất:

a. Đường phân ranh quân sự giữa hai vùng ở vĩ tuyến 17 chỉ là tạm thời và không phải là một ranh giới chính trị hay lãnh thổ, như đã được nói đến ở đoạn văn 6 trong Tuyên Bố Cuối Cùng của Hội Nghị Genève 1954.

b. Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam phải tôn trọng Vùng Phi Quân Sự ở hai bên đường Phân Ranh Quân Sự Tạm Thời.

Điều 19:

Các bên đồng ý triệu tập một Hội Nghị Quốc Tế trong vòng 30 ngày kể từ ngày ký Hiệp Định này để xác nhận những thỏa hiệp đã ký kết; để bảo đảm sự kết thúc cuộc chiến, sự bảo tồn hòa bình ở Việt Nam, sự tôn trọng những quyền quốc gia nền tảng của nhân dân Việt Nam, và quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam; và để đóng góp và bảo đảm hòa bình ở Đông Dương.

Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, thay mặt cho các bên tham dự Hội Nghị Paris về Việt Nam sẽ đề nghị những thành phần sau đây tham dự Hội Nghị Quốc Tế này: Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Cộng Hòa Pháp, Cộng Hòa Xã Hội Liên Bang Sô Viết, Anh Quốc, bốn quốc gia trong Ủy Hội Quốc Tế về Kiểm Soát và Thanh Tra [Gia Nã Đại, Hung Gia Lợi, Ba Lan, và Cộng Hòa Indonesia], và Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, cùng với những bên tham dự Hội Nghị Paris về Việt Nam
[2] [Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam].

Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam nhóm họp vào ngày 26 tháng 2, 1973. Các ngoại trưởng từ Gia Nã Đại, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Pháp, Hung Gia Lợi, Indonesia, Ba Lan, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam, Liên Bang Sô Viết, Anh, và Hoa Kỳ đã dự Hội Nghị. Vào ngày 2 tháng 3 các đại biểu đều trịnh trọng tuyên hứa tôn trọng “những ước vọng và các quyền quốc gia nền tảng của nhân dân Việt Nam,” “tuyệt đối tôn trọng và thực thi một cách nghiêm túc” những thỏa hiệp của tháng Giêng, theo dõi và hỗ trợ những nỗ lực của Ủy Hội Quốc Tế về Kiểm Soát và Thanh Tra (ICCS), và thực hiện những tham khảo cần thiết để duy trì hòa bình.

Mặc dù đã tuyên hứa tôn trọng các điều khoản của Hiệp Định Paris 1973 như thế, nhưng Miền Bắc đã xâm chiếm miền Nam bằng vũ lực, vi phạm Hiệp Định Paris 1973. Kissinger và Lê Đức Thọ được trao giải Nobel Hòa Bình ngày 16 tháng 10, 1973. Việc Lê Đức Thọ từ chối nhận giải chứng tỏ ý đồ xâm chiếm Miền Nam của Miền Bắc Việt Nam đã được chuẩn bị ngay sẵn từ đầu.

Trong bốn bên tham dự Hội Nghị này thì hiện nay chỉ còn Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, trên thực tế, chỉ là cánh tay nối dài của chế độ cộng sản Miền Bắc, nên đã bị giải thể ngay sau khi Miền Nam bị Miền Bắc chiếm đóng. Miền Nam thua cuộc, nhưng những giới chức của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và nhân dân Việt Nam yêu tự do vẫn là những nhân chứng cho sự vi phạm Hiệp định của đảng cộng sản miền Bắc và vẫn có thể vận động thế giới yêu cầu Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thực thi các điều khoản của Hiệp Ước.

Về phần Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam hẳn phải thấy rằng, trước đe doạ của Trung cộng, giải pháp này giải toả được áp lực của Trung cộng bằng cách trả lại Miền Nam cho một chính phủ tự do, do dân bầu để chính phủ tương lai này có thể độc lập với sức ép của Trung cộng và đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và quyền các hải đảo có lãnh hải 12 hải lý theo luật biển quốc tế. Lãnh đạo cộng sản vẫn có Miền Bắc để quản lý theo mô thức chính trị mà họ hằng đeo đuổi và Miền Nam có quyền tự quyết theo mô thức độc lập, dân chủ. Vấn đề thống nhất đất nước vẫn có thể thực hiện được qua các thảo luận hòa bình. Nếu lãnh đạo cộng sản Việt Nam không thấy hay không chấp nhận con đường cứu nước này thì dòng thác lịch sử sẽ thúc đẩy các sĩ quan trẻ, quân đội nhân dân, giới trí thức, các tổ chức xã hội dân sự tạo áp lực để họ phải chấp nhận.

Về phần Hoa Kỳ, trước đây lãnh đạo Hoa Kỳ chỉ muốn quên đi Việt Nam vì chiến tranh Việt Nam đã khơi dậy lại một quá khứ mà người Mỹ không mấy hãnh diện. Tuy nhiên, từ khi Trung cộng bành trướng ảnh hưởng và sức mạnh quân sự và kinh tế xuống vùng Đông Nam Á thì Hoa Kỳ cũng đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa để trước tiên là trao đổi giao thương và thứ đến cũng là để ngăn chặn sự bành trướng này của Trung cộng. Do đó, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa có thể hợp tác với Hoa Kỳ để đi đến Giải Pháp I hoặc Giải Pháp II.

Hoa Kỳ hẳn phải sẵn sàng hợp tác vì những lý do sau đây:

Thứ nhất: Quyền lợi tối quan trọng của Hoa Kỳ là con đường giao thương bằng đường biển từ Ấn Dộ Dương tới Thái Bình Dương qua eo biển Malacca và Biển Đông. Tổng trị giá giao thương này được đánh giá khoảng 5.3 ngàn tỷ đô-la mỗi năm là số lượng đầu tư thương mãi quốc tế của Hoa Kỳ, Trung cộng, Nhật, Đức, Anh, Pháp, Ấn độ, Ý, Brazil, và Gia Nã Đại; trong số đó, Hoa Kỳ chiếm khoảng 1.2 ngàn tỷ đô. Ngoài ra, Biển Đông còn có trữ lượng dầu khoảng từ 7 đến 11 tỷ thùng dầu. Theo phỏng tính lạc quan của Trung cộng thì Biển Đông rồi sẽ có thể cung ứng lên đến 130 tỷ thùng dầu, đứng thứ nhì về sản xuất dầu, chỉ sau Saudi Arabia. Biển Đông còn tiềm năng tích trữ khoảng 900 ngàn tỷ cubic feet khí đốt [1 cubic foot = 28316.8 cubic cm].

Thứ hai: Năm 2014 Hoa Kỳ và Phi Luật Tân đã ký kết Hiệp ước 10 năm về quốc phòng chung, cho phép Hoa Kỳ hoạt động quân sự từ 8 căn cứ tại quốc gia này và Hoa Kỳ có trách nhiệm bảo vệ an ninh quốc phòng cho Phi Luật Tân.

Thứ ba: Sự bành trướng về quân sự và thương mãi của Trung cộng càng ngày càng chiếm ưu thế trên thế giới, từ Biển Đông, Thái Bình Dương và toàn cõi Đông Nam Á, đến châu Phi, và ngay cả Nam Mỹ, cạnh tranh thách thức Hoa Kỳ.

Thứ tư: Mặc dù Hoa Kỳ không dự đoán những hành động quấy phá của Trung cộng ở Biển Đông liên hệ đến thủy lộ giao thương quốc tế, nhưng cũng không chấp nhận việc Trung cộng có cơ hội có những hành động gây hấn, như là chặn đường giao thương. Nhưng mới đây, ngày 23 tháng 4, 2018, Báo World và Observer thông báo là Đô Đốc David S. Davidson - tổng tư lệnh Thủy, Lục, và Không lực của Mỹ tại Thái Bình Dương – đã tường trình trước Quốc Hội Hoa Kỳ trong tuần vừa qua là “Chúng ta đã mất Biển Đông”. Trung cộng đã biến 7 bãi đá ngầm tại Trường Sa thành 7 căn cứ quân sự lớn mạnh đủ để kiểm soát hằng ngàn dặm về phía Nam. Ông cũng cho biết là chỉ có một cuộc đối đầu vũ trang mới chặn được Bắc Kinh đóng các thủy lộ quốc tế tại Biển đông. Ông nói với các chính trị gia [các nhà lập pháp] rằng đây là lý do [Hoa Kỳ] khẩn thiết phải nắm lại lợi thế kỹ thuật mà quân đội Hoa Kỳ đã từng chiếm giữ suốt 5 thập kỷ sau Đại Chiến II (He says only an armed conflict could now stop Beijing from closing the South China Sea’s international sea lanes. He told politicians this was why it was vital to recapture the technological advantage US forces held for five decades after World War II)
[3].

Nhưng lý luận cho thấy là trước khi Hoa Kỳ quyết định đi đến xung khắc vũ trang với Trung cộng, dĩ nhiên là nếu có giải pháp hòa bình nào đem lại quyền lợi cho Hoa Kỳ tại Biển Đông thì xác suất lãnh đạo Mỹ hợp tác sẽ là rất lớn. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa có thể, vì quyền lợi của đất nước quan trọng hơn quyền lợi cá nhân, có thể hợp tác với Hoa Kỳ để thực thi Giải Pháp I hoặc Giải Pháp II.

Đồng thời, để bảo đảm quyền lợi tối thượng của đất nước Việt Nam thân yêu, người Việt quốc gia tại hải ngoại và quốc nội sẽ ủng hộ và hỗ trợ bằng mọi phương tiện để đi đến Giải Pháp I. Tuy nhiên, để đi đến Giải Pháp II, trong trường hợp không thực hiện được giải pháp I, những người Việt quốc gia sẽ vận động Hoa Kỳ thi hành Hiệp Định Paris ký ngày 27 tháng 1, 1973 và vận động các quốc gia tham dự Hội Nghị Quốc Tế ngày 26 tháng 2, 1973 tại Paris mà các thành phần tham dự, bao gồm cả Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đã tuyên hứa là sẽ tôn trọng “những ước vọng và các quyền quốc gia nền tảng của nhân dân Việt Nam,” “tuyệt đối tôn trọng và thực thi một cách nghiêm túc” những thỏa hiệp của tháng Giêng. Những quốc gia này, vì sứ mạng và trách nhiệm bảo vệ hòa bình và bảo đảm việc thực thi các điều khoản của Hiệp Định Paris 1973, sẽ tạo áp lực lên Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải tôn trọng và thi hành các điều khoản của Hiệp Định.

Để thực hiện công việc vận động này, người Việt quốc gia cần kết hợp lại thành một tổ chức, đại diện cho Việt Nam Cộng Hòa, bao gồm những thành viên có trách nhiệm trong Đệ I và Đệ II Cộng Hòa, những thành phần đại diện cho các đảng phái quốc gia, các tôn giáo, v.v. Tổ chức này đòi hỏi ba khả năng:

(1) Khả năng giao tế rộng và ngôn ngữ thích hợp để vận động các giới chức tại các quốc gia cần vận động,

(2) Khả năng tài chánh để gửi người đi vận động, nếu cần, và để trang trải những chi phí tổ chức, và

(3) Khả năng kiến thức về khoa học chính trị, luật pháp và các ngành chuyên môn khác.

Tổ chức sẽ có hai sứ mạng:

(1) Vận động cho việc thực thi các điều khoản của Hiệp Định Paris ký ngày 27 tháng 1, 1973; và

(2) Thiết lập mô hình tổ chức chính thể Miền Nam bao gồm những bước tiến từ (a) tổ chức bầu cử và ứng cử cho chính phủ lâm thời và quốc hội lập hiến, đến (b) mô thức đi đến chính phủ dân cử thực thụ cho Miền Nam.

Muốn hoàn thành tổ chức đại diện cho Việt Nam Cộng Hòa nhằm thực thi hai sứ mạng vừa nói trên, trước tiên cần có một nhóm nòng cốt tập họp lại để hoạch định kế sách nối kết những thành viên cho tổ chức chính thức. Kế hoạch nối kết cần dựa trên ba tiêu chuẩn khả năng mà tổ chức đòi hỏi như được đề cập ở phần trên.

Với những sơ xuất tất nhiên hẳn phải có vì sự hiểu biết hạn hẹp, tác giả bài này xin tạm đề nghị các thành phần sau đây xung phong thành lập nhóm nòng cốt:

1. Đại diện chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
2. Đại diện Cựu quân nhân
3. Đại diện Hội Cựu tù Nhân Lương Tâm
4. Đại diện cựu tù nhân chính trị
5. Đại diện Người Bảo Vệ Nhân Quyền
6. Đại diện Tập Hợp Quốc Dân Việt
7. Đại diện Khối Tự Do Dân Chủ 8406
8. Đại diện các chuyên gia
9. Đại diện cộng đồng người Việt quốc gia hải ngoại
10. Đại diện Phật giáo
11. Đại diện Tin Lành
12. Đại diện Công giáo
13. Đại Diện Cao Đài
14. Đại diện Hòa Hảo
15. Đại diện các đảng phái quốc gia
16. Đại diện Hội Luật Gia Việt Nam, California
17. Đại diện các tổ chức Xã hội dân sự
18. v.v.

Như đã nói trên, vì sự thiếu sót do kiến thức hạn hẹp, xin quý vị thức giả miễn thứ cho nếu đề nghị các thành phần trên đây có điều gì lầm lỗi. Danh sách này chỉ có giá trị gợi ý. Và dĩ nhiên nhóm nòng cốt sẽ vẫn phải được nới rộng hay thu hẹp tùy thuộc sự hiểu biết và đề nghị của các thành viên khởi sự nhóm nòng cốt, trước khi xúc tiến kế hoạch nối kết với các quý vị khác để thành lập TỔ CHỨC VẬN ĐỘNG THỰC THI HIỆP ĐỊNH HÒA BÌNH BA-LÊ 1973 VÀ THIẾT KẾ THỂ CHẾ DÂN CHỦ CHO MIỀN NAM VIỆT NAM. Điều quan trọng là cần có người khởi xướng đầu tiên. Trong số những thành phần đề nghị ở trên, hay từ những thành phần khác, thế nào cũng có vị ý thức được tình trạng khẩn trương, nguy khốn của đất nước và sẵn sàng xung phong ra kêu gọi các quý vị khác thành lập nhóm nòng cốt.

Một yếu tố hết sức quan trọng trong việc thành lập tổ chức là vấn đề phá hoại và chia rẽ. Vấn đề này xảy ra trong hầu hết các tổ chức của người Việt quốc gia tại hải ngoại. Phá hoại và chia rẽ có thể là do cộng sản thâm nhập, có thể là do tranh chấp, hoặc do “chụp mũ” không có bằng chứng. Các phương tiện truyền thông của người Việt tại hải ngoại cũng như của quốc tế đều thường xuyên nêu lên nhược điểm này tạo nên hoàn cảnh các tổ chức bị coi nhẹ hoặc bị khinh miệt, làm mất đi sự tin tưởng và hỗ trợ có thể có của các cơ quan, tổ chức quốc tế, cũng như của các quốc gia tự do. Dĩ nhiên là người Việt quốc gia không có phương tiện điều tra để đi đến kết luận phá hoại và chia rẽ là do cộng sản, hay tranh chấp, hoặc chụp mũ một cách mù quáng. Tuy nhiên, trong tiến trình lập kế hoạch tạo dựng tổ chức, nếu các thành viên luôn luôn dựa trên (1) khả năng cần có của tổ chức và (2) sứ mạng của tổ chức như đã được trình bày ở phần trên làm tiêu chuẩn cho mọi thảo luận và hành động, và trong trường hợp nếu có thành viên nào đi ngược lại những tiêu chuẩn này thì phải bị loại ra khỏi tổ chức với đa số phiếu (50%+1) của ít nhất là hai phần ba (2/3) thành viên hiện diện trên tổng số các thành viên. Dĩ nhiên là khả năng và sứ mạng của tổ chức cần phải được tất cả mọi thành viên (100%) của nhóm nòng cốt đả thông và thông qua trước.

Philadelphia, ngày 28 tháng 4 năm 2018
Tiểu Thạch Nguyễn Văn Thái, Ph.D.
Nguyên Giáo Sư Thỉnh giảng: University of Pennsylvania, St.Joseph’s University, Chestnut Hill College
Email: thaivannguyen41@yahoo.com

Tham khảo:

[1]. Theo Giòng Bách Việt

[2]. Chuyển ngữ Chương V, Điều 15 và 19 từ tài liệu của Wikisource, the Paris Peace Accords

[3]. World, “US Admiral warns: Only war can now stop Beijing controlling the South China Sea”, Apr.23, 1973....

 

 

 

 

LIBERATION FROM
THE CHINESE YOKE OF SLAVERY

Author: Dr. Nguyễn Văn Thái, Ph.D.
Nguyên Giáo Sư Thỉnh Giảng
-University of Pennsylvania; -St. Joseph’ s University; -Chestnut Hill Colege

 

Vietnamese overseas have been fighting for human rights in Vietnam -- that are flagrantly and continually violated by the Vietnamese Communist Party (VCP) -- for the last 43 years under various forms such as (1) letters of protest, (2) demonstrations, and (3) mobilizations of free countries and international organizations to apply pressure upon the Vietnamese totalitarian communist regime to respect the basic fundamental rights of human beings. Inside Vietnam fighters for freedom and democracy and organizations of civil society have also been standing up for the basic human rights that Ho Chi Minh had incorporated in his September 2, 1945 Declaration of Independence. However, not only does the VCP not respect and comply with Ho Chi Minh’s Declaration of Independence, but also contradicts and violates it by incarcerating those human rights fighters, for vague or unknown reasons, for 5 to 20 years with several more years of house arrest, impinging upon the very communist nation’s constitution itself.

Oppression and economic exploitation of the people by the VCP and not respecting and complying with the terms of the September 2, 1945 Declaration of Independence are indeed no peccadilloes, not in the least. But the most abominable and severe villainy committed by the VCP -- in order to buy guarantee for its political position and power –isto sell Vietnam to communist China.

The VCP has offered up more than 800 square kilometers of the north border land and the BảnGiốc waterfall to communist China; rent out to Chinese investors for 50 years over 300 hectares of upper watershed forests, of which the deforestation willultimately destroy estuarial lower land; let China build the railroad connecting Hanoi to the Vietnamese-Chinese border at Lao Cai, which would facilitate the inpouring of Chinese soldiers to the northern provinces of Vietnam; allowed Cao Bằng, Mong Cáy, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Kontum, Bình Định, Bình Dương, Lâm Đồng, Trà Vinh provinces to rent out nicely located lots of land to Chinese investors for 99 years while Vietnamese citizens are denied access to those lots; permitted Chinese to build large China towns in Bắc Ninh, Hạ Long, Hải Phòng, and Bình Dương; yielded Central Highland, the country’s military Achilles’ heel, to the ChineseBauxite enterprise, hazardous to the environment, and occupied by over 20 thousand workers that people believe to be disguised Chinese soldiers and even Vietnamese security agents aren’t allowed to enter the area; let China, via Taiwan as itsintermediary, establish Formosa, a steel manufacturing installation, at Vũng Áng, Hà Tĩnh Province, which has heavily polluted the seashores of the four northernmost central provinces of Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Bình and Thừa Thiên, resulting in hundreds of tons of dead fish and the displacement of millions of fishermen, whose livelihood depends on the seashores for hundreds of years from generation to generation; allowed hundreds of thousands of Chinese to enter Vietnam as tourists without a visa and it may very well be expected that these people could stay over and settle down in Vietnam for good because they are not followed up and monitored. In the long run, no sooner than one realizes, the Chinese wouldn’t need an armed conflict to conquer Vietnam, which would eventually become a province of China anyway, just like Tibet and Xinjiang. In addition to these territorial “gradual and silent encroachments” by the Chinese, the CVP – in order to secure its political power and position – signed a secret agreement with China in Chengdu, Sichuan, in 1990, permitting Vietnam to become a province of China. This secret agreement was revealed by General Hà Thanh Châu, who offered up secret documents from the communist Vietnamese Ministry of Defense to Foreign Policy Magazine in 2013 in exchange for political asylum in the United States
[1]. These documents exposed a scheme of turning Vietnam into a province of China in 3 cycles of 20 years each:

Cycle I. - 2000-2020:Vietnam shall be an autonomous province of China
Cycle II. - 2020-2040: Vietnam shall be a Chinese province
Cycle III.- 2040-2060: The name Vietnam shall be changed to ÂuLạc to designate the two ethnic minorities who used to inhabit the areas between the two countries

In stark contradiction with the CVP’s current treasonous behavior, of all the former Vietnamese kings, throughout more than 2, 000 years of history, although some did kowtow in front of the Chinese, not even a single one ever yielded one inch of Vietnamese land to China.

Hereinafter are Lý Thường Kiệt’s words (1077):

Mountains and Rivers of the Southern Nation are for the Southern Emperor to inhabit
National borders have been distinctly imprinted in the Heavenly Books
How dare ye, hoodlums, come here and encroach on our land
Ye wait and see, and shall endure painful defeat


King Trần Nhân Tông (1258-1309) left behind the following testament
[2]:

Ye shall not forget!
Hark to my instructions:
It is a big country
That acts maliciously,
COMTRARILY TO MORALITY
INHUMANLY and KNAVISHLY.
Self-confident that it is a big country,
It gives itself the right to say whatever it sees fit!
It says one thing and does another! Unethical!
Don’t disregard little incidents at the border!
Little things will become big things: FOREIGN INVASION!
The China calamity!
It perpetuates itself through generations!
Ridiculous reasons for incursions and invasion are concocted! EVIL-MINDEDNESS!
Not respecting boundaries in accordance with conventions,
Always looking for conflicts,
Not being able to invade our nation,
It gnaws at our mountains and rivers and islands little by little!
Don’t underestimate trivial incidents, They’re dangerous!
The gnawing little by little
Will ultimately reduce the size of our nation
From the size of an Eagle nest to that of a sparrow.
Those above incidents cause me
to worry day and night about “SERIOUS NATIONAL ISSUES”!
They are always seeking reasons for invading ĐẠI VIỆT
And turning our country into a Chinese province!

Therefore,
Don’t ye ever lose even one inch of the land left for us by our predecessors.
Always watch out for the Hans from China!

These reminders
Also serve as my Testament
For generations of posterity of our Southern Land.


King Lê Thánh Tông (1442-1497) also maintained an unyieldingly definite attitude towards safeguarding ancestral territories: “How could it be possible for one to throw away a yard of our mountains, an inch our rivers?... If it should happen that anyone who offers up an inch of King Thái Tổ’s territories as a bribe to our enemy [the Chinese], that person and families must be executed.” (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư [Complete History of Đại Việt Compendium]).

Only 16 people from the CVP’s politburo and scores of ministers and vice-ministers from various government ministries – simply to secure their power and privileges – have deigned to allow 95 million Vietnamese people to be slaves to our communist Chinese enemies. Vietnamese non-communist patriots overseas as well as those in Vietnam along with Vietnamese communist patriots, all would unanimously stand against communist Chinese infiltrations into and encroachments on Vietnamese land and sea territories with the ultimate scheme of invading entire Vietnam. As a matter of fact, there does currently exist no communist theory being applied in Vietnam;communismremains only as a pretext for the CVP-- a mafia-likedespoticpolice state -- to control, oppress, and economically exploit the people. Every single thingthe CVP is carrying out currentlyruns in direct contradiction to what would be prescribed by the communist theory, a false and dated theory that has been dropped like a bad habit all over the world. There does exist, however, only a small group of people, a tiny minority, on the top echelon of the CVP, who tenaciously hang on to power in order to oppress or maltreat the majority of the people, communist or not, whose voices are being repressed for the purpose of economic exploitation, corruption, and debauchery. Among this majority are elements including military officers of the rank of colonel and below, soldiers, civil servants, teachers at all levels, intellectuals, press correspondents, factory workers, peasants, small businessmen, and other common citizens. Of the small minority, there probably aresome people who love the country and are against Chinese invasion; however, these people cannot resist the larger number of traitors who are being staunchly supported by the Chinese secret services. They are waiting for the opportune time to act on behalf of the good cause. On the other hand, of the majority of the people – except for a few who are misinformed and cheated – almost all people including military officers of the rank of colonel and below, second-class soldiers, civil servants, teachers at all levels, other intellectuals, press correspondents, factory workers, farmers, peasants, small business people, and other common citizens, all see the danger of communist Chinese invasion clearly and all are ready to fight for the country.

So, how can we liberate ourselves from the slavery yoke of the communist Chinese?

There are two solutions:

Solution I: A free and independent nation with leadership freely elected by the people – under international supervision – for the three separate and independent branches of government, the Executive, the Legislative, and the Judiciary. A government with leadership selected by the CPV, then elected by the people cannot represent the people. The same must apply for the CPV, which is heretofore self-selected and elected and cannot acquire legality as a government in the international community. Once a free and independent nation of Vietnam has been legally established with leadership freely elected by the people, Vietnam is no longer subservient to China, but is completely free to choose any bilateral or multilateral relations -- on an equal basis – with all countries in the world, with her right to the 200 nautical miles of Exclusive Economic Zone (EEZ) and the 12 nautical miles of territorial sea around the Paracel and Spratley Islands, which legally belong to the Vietnamese EEZ. As a free, democratic and independent nation, Vietnam’s position with regard to the EEZ rights of 200 nautical miles and territorial sea rights of 12 nautical miles must be legally respected and supported, and its national integrity and security, defended by free nations, especially by the free nations that have commercial interests in the South China Sea [Eastern Sea], among which is the United States, whose international commercial interests share around 23% of the world investment value (i.e., $1.2 trillionover $5.3 trillion).

The entire Vietnamese people are ready: The CVP may elect to replace its selfish, treacherous position of slavery to China with a sincere commitment to establishing a free, democratic and independent nation. Those leaders who are clean, righteous, patriotic and truly willing to serve the people still have the chance to run for leadership positions. If leaders of the CVP are unwilling to save the country with this solution, then the progressive elements of the country such as the military officers, soldiers, teachers, other intellectuals, press correspondents, small business people, factory workers, farmers, peasants, and other common citizens, along with organizations of civil society will rise up and plan for non-violent struggles that will overthrow the recalcitrant regime in order to establish a free, democratic, and independent nation, whose ultimate goal is to truly serve the people. Meanwhile, the fate of those despotic and intransigent leaders will likely end up like that of Nicolae Ceaușescu of Romania, with their names smeared on the pages of future Vietnam history books.

Solution II: Implementing the January 27, 1973 Paris Peace Accords. The Agreements were signed by four parties: Ambassador William P. Rogers (US), Ambassador Trần Văn Lắm (RVN), Ambassador Nguyễn Duy Trinh (DSRVN), and Ambassador Nguyễn Thị Bình (PRG).

According to Chapter V,
Article 15

The reunification of Viet-Nam shall be carried out step by step through peaceful means on the basis of discussions and agreements between North and South Viet-Nam, without coercion or annexation by either party, and without foreign interference. The time for reunification will be agreed upon by North and South Viet-Nam

Pending reunification:

(a) The military demarcation line between the two zones at the 17th parallel is only provisional and not a political or territorial boundary, as provided for in paragraph 6 of the Final Declaration of the 1954 Geneva Conference.

(b) North and South Viet-Nam shall respect the Demilitarized Zone on either side of the Provisional Military Demarcation Line.

Article 19

The parties agree on the convening of an International Conference within thirty days of the signing of this Agreement to acknowledge the signed agreements; to guarantee the ending of the war, the maintenance of peace in Viet-Nam, the respect of the Vietnamese people’s fundamental national rights, and the South Vietnamese people’s right to self-determination; and to contribute to and guarantee peace in Indochina.

The United States and the Democratic Republic of Viet-Nam, on behalf of the parties participating in the Paris Conference on Viet-Nam will propose to the following parties that they participate in this International Conference: the People’s Republic of China, the Republic of France, the Union of Soviet Socialist Republics, the United Kingdom, the four countries of the International Commission of Control and Supervision, and the Secretary General of the United Nations, together with the parties participating in the Paris Conference on Viet-Nam”
[3].

“The International Conference on Vietnam convened in Paris on February 26, 1973. Foreign Ministers from Canada, the Democratic Republic of Vietnam, France, Hung[a]ry, Indonesia, Poland, the People’s Republic of China, the Provisional Revolutionary Government, the Republic of Vietnam, the Soviet Union, United Kingdom, and the United States attended the meeting....”
[4]

“On March 2, the representatives formally pledged to respect the “aspirations and fundamental national rights of the Vietnamese people, “ and “strictly respect and scrupulously implement” the January accords, monitor and support ICCS efforts, and undertake consultations necessary to uphold the peace.”
[5]

Having solemnly pledged to “strictly respect and scrupulously implement” the January agreements of the 1973 Paris Peace Accords, the Democratic Socialist Republic of Vietnam nevertheless invaded South Vietnam by force, flagrantly violating the Accords. US Secretary of State Henry Kissinger and Lê Đức Thọ of North Vietnam were awarded the Nobel Peace Prize on October 16, 1973, and Lê Đức Thọ refused to accept it. This is ample evidence that North Vietnam had planned the invasion of South Vietnam way ahead of time.

Of the four parties attending the Conference, only the United States and the Democratic [Socialist] Republic of Vietnam remain. The National Liberation Front (NLF), since it’s, as a matter of fact, only an extension of the Communist North, was immediately dissolved as soon as the Communist North occupied the Free South. The South was defeated and the Republic of Vietnam, as a consequence, ceased to exists. However, the officials who used to work for the Republic of Vietnam Government and all the freedom loving people of Vietnam are still available, ready and willing to testify to the flagrant violation of the Paris Peace Accords of 1973 by the Socialist Republic of Vietnam and to mobilize international organizations and communities, and the free countries of the world to apply pressure on the United States and the Socialist Republic of Vietnam to comply with and implement the agreements of the 1973 Paris Peace Accords.

On the part of the Socialist Republic of Vietnam, leadership of the CVP would have to sensibly realize that, in the presence of the China threat, this solution will diffuse the pressure of the Chinese by way of returning the South to an independent government, freely elected by the people in order for this future government to be free of the Chinese domination and to claim its Exclusive Economic Zone of 200 nautical miles encompassing the Paracel and Spratley Islands with their 12 nautical miles of territorial sea in accordance with the Third United Nations Conference on the Law of the Sea (UNCLOS III). Leaders of the CVP would still be able to govern North Vietnam with the political model of Marxist-Leninist type of governance that they have been pursuing for 73 years while South Vietnam can depend on self-determination with regard to its choice of an independent, free, and democratic model of governance. Reunification can still be “be carried out step by step through peaceful means on the basis of discussions and agreements between North and South Viet-Nam, without coercion or annexation by either party, and without foreign interference. The time for reunification will be agreed upon by North and South Viet-Nam.” If it should happen that leaders of the CVP don’t see or are unwilling to accept this solution to save our country, a natural cascade of imminent events dictated by historicity will push young military officers, soldiers of the People’s Army, teachers, other intellectuals, civil servants, small business people, factory workers, farmers, peasants, and other common citizens, organizations of civil society into exerting pressure on the leaders of the CVP so forcefully they will have to comply.

On the part of the United States, people would have previously distanced themselves as much as they could from the topic of involvement in the Vietnam conflict because it brought back shameful as well as painful recollections, of which they were not very proud. But when China started to expand its military and economic power towards South-East Asia, The United States had established normal relations with the Socialist Republic of Vietnam in order firstly, to exchange trade and secondly, to indirectly block the China expansion. Therefore, the Socialist Republic of Vietnam may wish to cooperate with the United States to opt for either Solution I or Solution II.

The United States should inherently be ready and willing to cooperate for the following reasons:

Firstly, the core interest of the United States in South-East Asia is the commercial sea lines of communication (SLOC) from Oceania and the Indian Ocean to the Pacific Ocean via the Strait of Malacca through the South China Sea [Eastern Sea], which is believed to be responsible for goods transits worth $5.3 trillion of international trade value from the United States, China, Japan, Germany, United Kingdom, France, India, Italy, and Canada; with $1.2 trillion shared by the United States.

Additionally, “... A conservative 1993/1994 US Geological Survey (USGS) report estimated the sum total of discovered reserves and undiscovered resources in the offshore basins of the South China Sea at 28 billion barrels – yet, this estimate, for its part, seems particularly low. Furthermore, the 1993/1994 USGS estimate states that natural gas is actually more abundant in the area than oil. According to the USGS, about 60 percent-70 percent of the area’s hydrocarbon resources are gas while the sum total of discovered reserves and undiscovered resources in the offshore basins of the South China Sea [Eastern Sea] is estimated at 266 trillion cubic feet (tcf)”
[6], [1 cubic foot = 28316.8 cubic cm].

Secondly, The United States and the Republic of the Philippines signed “the Enhanced Defense Cooperation Agreement (EDCA) in 2014, a ten-year deal that allows a strengthened U.S. military presence in the Philippines... “ and “Obama administration officials have publicly described the U.S. commitment to the Philippines as “ironclad.”
[7] Furthermore, “The Enhanced Defense Cooperation Agreement (EDCA) is a framework to enable U.S. forces to access Philippine bases and facilities, as well as pre-position materiel for warfighting and humanitarian assistance and disaster relief (HADR) missions [8].

Thirdly, China’s military and economic expansion from the Eastern Sea, to all South-East Asia, the Pacific Ocean, Africa, even South America in competition with the United States appears to be prevailing.

Fourthly, even though the United States may anticipate disturbances by China with regard to the international sea lines of communication, it would not, however, accept the fact that China has the opportunity to exhibit aggressive behaviors such as blocking maritime trade lanes. Recently, on April 22, 2018, World reported that in the previous week’s congressional hearing, Admiral David S. Davidson, chief of US Fleet Forces Command, said, “The island fortresses are built. The airfields are ready. The harbours are open... All China needs do now is move in the warships and combat jets... Beijing has built up enough military infrastructure in the South China Sea to completely control the disputed waterway... Once occupied, China will be able to extend its influence thousands of miles to the south and project power deep into Oceania... The PLA will be able to use these bases to challenge US presence in the region, and any forces deployed to the islands would easily overwhelm the military forces of any other South China Sea-claimants... In short, China is now capable of controlling the South China Sea [Eastern Sea] in all scenarios short of war with the United States... Admiral Davidson has been nominated to take over the United States’ Pacific Command, responsible for coordinating army, navy and air force actions in that region. He says only an armed conflict could now stop Beijing from closing the South China Sea’s international sea lanes... He told politicians this was why it was vital to recapture the technological advantage US forces held for five decades after World War II.”
[9]

However, logic would tell us that before deciding to engage itself in an armed conflict with China, the United States would welcome any peaceful means that could bring about results that satisfy its interests in the Eastern Sea. And the probability for the United States to cooperate in such a solution would be very high. The Socialist Republic of Vietnam may wish to make the decision to place national security interest above self-interest and cooperate with the United States to proceed with the option of either Solution I or Solution II as mentioned above.

In the meanwhile, to guarantee the national sacrosanct rights of Vietnam, the non-communist patriots overseas and in Vietnam would do everything possible to support the realization of Solution I. However, in order to proceed with Solution II – in case the goals of Solution I for some reason are unattainable – the non-communist patriots shall mobilize the United States in the implementation of the January 27, 1973 Paris Peace Accords and the countries attending the February 26, 1973 International Conference in Paris, in which all participants including the Democratic [Socialist] Republic of Vietnam formally pledged to respect the “aspirations and fundamental national rights of the Vietnamese people, “ and “strictly respect and scrupulously implement” the January accords...” [5] These countries, due to their mission and responsibility to uphold peace and guarantee the implementation of the agreements of the 1973 Paris Peace Accords, shall exert pressure on the United States and the Socialist Republic of Vietnam to carry out the articles of the Accords.

In order to proceed with this mobilization task, the non-communist patriots must be unified under one organization representing the illegally deceased Republic of Vietnam, including those people who used to work for the first and second republic governments, and representatives from the nationalist political parties, different religious groups, etc.

The Organization should possess three capabilities: (1) Excellent communication skills in different languages needed for interacting with high officials of countries to be mobilized, (2) Strong knowledge of political science and law, and professional expertise in different fields of specialty, and (3) Financial resources to, if needed, send negotiators to different countries and to defray the costs of organization. And the Organization should be charged with two missions: (1) mobilizing international organizations and free countries for the implementation of the agreements of the January 27, 1973 Paris Peace Accords, and (2) Establishing a model for a free and independent government for South Vietnam with (a) preparation for the election of a provisional government and a constitutional convention leading to (b) the establishment of a permanent, freely elected government of South Vietnam with three separate and independent government branches, the Executive, Legislative, and Judiciary.

Setting up the Organization representing the formerRepublic of Vietnam would demand the work of a starting core group to formulate a recruitment plan for the Organization. The recruitment plan should be based on the criterion of the three capabilities and the missions required for the Organization as suggested above.

With obvious shortcomings due to limited knowledge, the author of this article provisionallyrecommends the following elements to volunteer for the setting up of the core group:

01. Representatives for the Republic of Vietnam
02. Representatives of the Vietnamese Veterans
03. Representatives of the Association of Prisoners of Conscience
04. Representatives of the Association of Former Political Prisoners
05. Representatives of People for the Protection of Human Rights
06. Representatives of The Vietnamese People Unified
07. Representatives of the Freedom and Democracy Bloc 8406
08. Representatives of the Association of Vietnamese Professionals
09. Representatives of the overseas Vietnamese communities
10. Representatives of the overseas Vietnamese Buddhist Church
11. Representatives of the overseas Vietnamese Catholic Church
12. Representatives of the overseas Vietnamese Protestant Church
13. Representatives of the Cao Đài Church
14. Representatives of the Hoà Hảo Church
15. Representatives of Vietnamese national political parties
16. Representatives of the Association of Vietnamese American Lawyers
17. Representatives of Vietnamese organizations of Civil Society
18. And so on and so forth...

As mentioned earlier, shortcomings due to limited knowledge in these provisional recommendations are likely to occur, the author is sincerely seeking forgiveness for any unintended consequences thereof. The recommended list only carries the value of suggestions. Obviously, the size and composition of the core group can be expanded or reduced in accordance with the judicial judgment of those who first start the group, before they proceed to formulate the recruitment plan for the Organization. The essential issue is there must be somebody available to start the project. Among the elements in the suggested list or from some other elements in the larger Vietnamese communities, there should be someone who is fully aware of the critically dangerous situation of our beloved country and would volunteer for the demanding task of setting up the core group.

The most extremely vital issue, however, with regard to the establishment of the Organization entails problems of sabotage and division. This issue is endemic to almost all overseas Vietnamese organizations. Sabotage and division may probably be caused by communist infiltrations, by envious rivalry, or by “maliciously labeling” someone communist without evidence. Reports by overseas Vietnamese communication media as well international media on this issue usually deprive Vietnamese organizations of confidence and support of international organizations and free countries in the world. Evidently, Vietnamese don’t have the appropriate means to vet those who join the Organization in order to figure out whether sabotage and division are engineered by communist infiltrators, by envious competitors, or by false “labelers”. Nevertheless, in order to solve the problem of sabotage and division, it is essential that the process of conducting the recruitment campaign for the Organization compel constituent members to unanimously agree to strictly adhere to the capabilities required and the missions demanded by the Organization as the criteria for recruitment and operation, then if it happens that any member should go against those criteria, he or she must be dismissed, based on the majority (50%+1) votes of at least 2/3 of the total number of members present. And obviously, the capabilities and missions of the Organization must have been discussed, deliberated, and ratified by 100% of the members of the core group.

Philadelphia, ngày 28 tháng 4 năm 2018
Tiểu Thạch Nguyễn Văn Thái, Ph.D.
Email:
thaivannguyen41@yahoo.com
________________________________
REFERENCES:

[1] Mật ước Thành Đô [The Chengdu Secret Agreements]: http://www.vnfa.com/an14s1/1402_062.html

[2] According to Giòng Bách Việt

[3] Wikisource, the Paris Peace Accords, Chapter V, Article 15 and Article 19.

[4] Department of State Bulletin, March 26, 1973, pages 337–339.

[5] The New York Times, March 3, 1973.

[6] https://oilprice.com/Energy/Energy-General/How-Oil-Drives-The-South-China-Sea-Conflict.html

[7] https://www.cfr.org/backgrounder/us-philippines-defense-alliance

[8] https://news.usni.org/2014/04/29/new-defense-agreement-philippines-u-s-basics

[9] World, “US Admiral warns: Only war can now stop Beijing controlling the South China Sea”, Apr.22, 1973.https://www.nzherald.co.nz/world/news/article.cfm?c_id=2&objectid=12037384

 

Print this article in American-English (PDF)

 


Bấm vào đây để in ra giấy (Print)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.

 

Nguồn: Internet eMail by LT chuyển

 

Đăng ngày Thứ Tư, May 2, 2018
Cập nhật ngày Thứ Hai, May 7, 2018 - Thêm phần Anh ngữ
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH

 

GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang