Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Thời sự Hải ngoại
Chủ đề:
Chống ngoại xâm
Tác giả: Nguyễn Văn Thái, Ph.D.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Người Việt quốc gia tại hải
ngoại đã từng tranh đấu cho nhân quyền ở Việt Nam suốt 43 năm nay
bằng cách tỏ thái độ phản đối chính thể độc đảng, độc tài CSVN
đàn áp và bóc lột nhân dân Việt Nam trong nước qua các phương
sách như (1) kháng thư, (2) các cuộc biểu tình, và (3) những cuộc
vận động các nước tự do và các cơ quan quốc tế tạo áp lực lên
chính quyền Việt Nam độc tài, toàn trị phải tôn trọng các quyền
tự do căn bản của con người. Ở trong nước, nhiều nhà đấu tranh
dân chủ và các tổ chức dân sự cũng đứng lên đòi hỏi những quyền
làm người mà chính ông Hồ Chí Minh cũng đã đưa vào bản Tuyên Ngôn
Độc Lập ngày 2 tháng 9 năm 1945. Tuy nhiên, đảng Cộng sản Việt
Nam hiện nay không tôn trọng bản tuyên ngôn này; trái lại đã bỏ
tù các nhà tranh đấu dân chủ từ 5 đến 15, 20 năm với những lý do
vu vơ phản hiến pháp, cộng thêm nhiều năm quản chế tại gia. Thật
là vô lý và tàn ác!
Đàn áp và bóc lột nhân dân và không tôn
trọng bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 2 tháng 9, 1945 là những trọng
tội. Nhưng tội nặng nhất của đảng cộng sản Việt Nam là, để củng
cố địa vị và quyền lực, đã bán nước Việt Nam thân yêu cho Tàu
cộng.
Đảng
cộng sản Việt Nam đã cống hiến cho Tàu cộng trên 800 cây số vuông
ở biên giới phía bắc và thác Bản Giốc, cho Tàu thuê trên 300 ngàn
hec-ta rừng đầu nguồn trong 50 năm gây tác hại cho những lưu vực
hạ nguồn, để cho Trung cộng xây dựng đường cao tốc nối liền Hà
Nội với biên giới Việt-Trung tại Lào Cai, tạo phương tiện nhanh
chóng và thuận lợi cho Tàu cộng xua quân vào các tỉnh miền Bắc;
để cho Cao Bằng, Móng Cáy, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Kontum,
Bình Định, Bình Dương, Lâm Đồng, Trà Vinh cho người Tàu thuê
nhiều vùng đất tốt trong thời hạn 99 năm mà người Việt không có
quyền bén mảng đến những khu vực này; để cho người Tàu xây dựng
những thành phố Tàu lớn ở Bắc Ninh, Hạ Long, Hải Phòng, Bình
Dương; nhượng Tây Nguyên, yết hầu quân sự của đất nước, cho dự án
Bô-Xít tác hại môi sinh với trên 20 ngàn công nhân mà người ta
tin chỉ là quân đội Trung cộng trá hình, và ngay cả nhân viên an
ninh Việt Nam cũng không được phép vào khu vực này; cho Trung
cộng, qua trung gian Đài Loan, thiết lập trung tâm công nghệ
luyện thép Formosa tại Vũng Áng, Hà Tĩnh, gây ô nhiễm bờ biển
suốt 4 tỉnh miền Trung, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên làm chết hàng trăm tấn cá gây thất nghiệp cho cả triệu ngư
dân tại 4 tỉnh này; hợp tác với Công ty lưới điện Trung quốc
(CSG) và Công ty Điện lực Quốc Tế Trung quốc (CPIH) xây dựng nhà
máy Nhiệt điện Vĩnh Tân, tỉnh Bình Thuận, gần biển, bất chấp ô
nhiễm do xả thải phế liệu gây ra; cho phép hằng trăm ngàn người
Tàu vào Việt Nam du lịch không cần chiếu khán, những người này có
thể ở lại định cư tại Việt Nam mà không ai biết vì không bị kiểm
soát. Dần dà, chẳng bao lâu nữa, người Tàu không cần phải dùng
biện pháp quân sự, Việt Nam cũng sẽ biến thành một tỉnh của Trung
cộng như Tây Tạng và Tứ Xuyên mà thôi. Thêm vào chiến dịch “tằm
ăn dâu này”, Đảng cộng sản Việt Nam, để có được sự hỗ trợ của Bắc
Kinh cho địa vị của mình, còn ký với Trung cộng một mật ước tại
Thành Đô (Chengdu) năm 1990, đã bị tướng cộng sản Hà Thanh Châu
tiết lộ vào tháng 4 năm 2013 bằng cách trao cho Foreign Policy
Magazine những tài liệu mật của Bộ Quốc Phòng Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa, sau khi ông này đã xin được quyền tỵ nạn tại Hoa Kỳ.
Tài liệu cho biết Việt Nam sẽ bị biến thành một tỉnh của Trung
cộng theo mô hình Tây Tạng qua ba chu kỳ, mỗi chu kỳ là 20 năm:
Chu kỳ I: 2000-2020: Việt Nam
trở thành một tỉnh tự trị
Chu kỳ II: 2020-2040: Việt Nam
trở một tỉnh lệ thuộc Tàu
Chu kỳ III: 2040-2060: Việt Nam
đổi tên thành Âu Lạc (tên lấy từ hai nhóm thổ dân xưa sống giữa
hai xứ) và sẽ chịu sự quản trị trực tiếp của thống đốc Quảng Tây.
Ngược lại với hành động bán nước hiện
nay của Đảng cộng sản Việt Nam, các vua chúa thời xưa – suốt dọc
dài lịch sử dân tộc Việt trên 2000 năm ròng rã — tuy có người quỳ
lụy Tàu, nhưng tuyệt đối không có bất cứ một vị nào chịu nhượng
dù chỉ một tấc đất cho đại Hán.
Sau
đây là Lời của danh tướng Lý Thường Kiệt(1077):
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như
hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành
khan thủ bại hư
Dịch nghĩa
Núi sông
nước Nam thì vua Nam ở,
Cương giới đã
ghi rành rành ở trong sách trời.
Cớ sao
lũ giặc bạo ngược kia dám tới xâm phạm?
Chúng bay hãy chờ xem, thế nào cũng chuốc lấy bại vong.
Vua
Trần Nhân Tông(1258-1309) thì để lại di chúc
[1]
như sau:
Các Người chớ quên!
Nghe lời Ta dạy
Chính nước lớn
Làm những điều bạy bạ
TRÁI ĐẠO LÀM NGƯỜI
Bất nghĩa bất nhân
Ỷ nước lớn
Tự cho mình cái quyền ăn nói!
Nói một
đường làm một nẻo! Vô luân!
Chớ xem
thường chuyện nhỏ ngoài biên ải.
Chuyện
vụn vặt thành lớn chuyện: NGOẠI XÂM!
Họa
Trung Hoa!
Tự lâu đời truyền kiếp!
Kiếm cớ này bày chuyện nọ! TÀ MA!
Không
tôn trọng biên cương theo quy ước
Tranh
chấp hoài!
Không thôn tính được ta
Chúng gặm nhấm Sơn Hà và Hải Đảo
Chớ xem
thường chuyện vụn vặt Chí Nguy!
Gặm nhấm
dần
Giang Sơn ta nhỏ lại
Tổ ĐẠI BÀNG thành cái tổ chim di
Các
việc trên khiến Ta đây nghĩ tới
Canh
cánh bên lòng “ĐẠI SỰ QUỐC GIA”!
Chúng
kiếm cớ xua quân qua ĐẠI VỊÊT
Biến nước
ta thành quận huyện Trung Hoa!
VẬY NÊN!
CÁC
NGƯỜI PHẢI NHỚ LỜI TA DẶN
KHôNG ĐỂ MẤT
MộT TẤC ĐẤT CỦA TIỀN NHÂN ĐỂ LẠI
HÃY ĐỀ
PHÒNG QUÂN ĐẠI HÁN TRUNG HOA!
LỜI NHẮN
NHỦ
CŨNG LÀ LỜI DI CHÚC
CHO MUÔN ĐỜI CON CHÁU NƯỚC NAM TA.
Vua Lê Thánh Tông (1442-1497) cũng đã
có thái độ dứt khoát: “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào
lại tự tiện vứt bỏ?... Nếu người nào dám đem một tấc đất của vua
Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di”. (Đại Việt
Sử Ký Toàn Thư)
Trước tình trạng mất đất, mất biển,
người Tàu tràn lan khắp đất nước như hiện nay, cộng thêm với mật
ước Thành Đô, viễn tượng của nước Việt Nam thân yêu của nhân dân
Việt Nam trong năm 2020 là một tỉnh thành của Trung cộng, có thể
— trong giai đoạn đầu — do các quan thái thú Việt Nam, rút ra từ
Bộ Chính Trị, quản trị. Nhưng dĩ nhiên là mọi chính sách di dân,
khổ sai lao động, khai thác tài nguyên thiên nhiên đều do người
Tàu sai khiến để phục vụ quyền lợi của họ. Nhân dân Việt Nam sẽ
chỉ là những tên nô lệ.
Chỉ 16 người lãnh đạo Đảng cộng sản
Việt Nam trong Bộ Chính Trị cùng với các tổng bộ trưởng của chế
độ — chỉ vì quyền lợi, chức vị, và tiền bạc – mà đành tâm để cho
95 triệu người dân Việt phải làm nô lệ cho giặc Tàu. Người Việt
quốc gia trong cũng như ngoài nước, nghĩa là người Việt yêu nước
không cộng sản; cũng như người Việt cộng sản, ai ai cũng đồng tâm
chống lại sự thâm nhập và xâm lấn của Trung cộng luôn luôn muốn
thôn tính nước Việt ta. Thực ra, hiện nay ở Việt Nam không còn
chủ thuyết cộng sản; chủ thuyết cộng sản chỉ là một chiêu bài để
Đảng cộng sản khống chế, bóc lột nhân dân bởi vì tất cả những gì
lãnh đạo cộng sản Việt Nam đang thực hiện đều hoàn toàn đi ngược
lại với chủ thuyết cộng sản, một chủ thuyết sai lầm và lỗi thời.
Chỉ còn lại là một nhóm nhỏ, một số ít, trên chóp bu khăng khăng
bám chặt vào quyền lực để đàn áp hoặc bạc đãi đại đa số nhân dân
thấp cổ bé miệng, để bóc lột, tham nhũng, và đồi trụy. Trong số
đại đa số này là những thành phần các sĩ quan trẻ trong quân đội
nhân dân từ cấp tá trở xuống, binh sĩ, công chức, giáo sư, giáo
viên các cấp, các thành phần trí thức, báo chí, công nhân lao
động, nông dân, các thương gia nhỏ, và những thành phần nhân dân
khác. Trong số các thành phần lãnh đạo cao cấp, có lẽ cũng có một
số người yêu nước muốn chống lại sự áp bức, xâm lấn của Trung
cộng, nhưng số người này không chống lại nổi áp lực của số đông
hơn được Tàu cộng nâng đỡ qua sự trợ lực của tình báo Hoa Nam.
Những người này chờ đợi cơ hội thuận tiện để hành động vì đại
nghĩa. Trái lại trong số đại đa số thì — ngoại trừ một số rất ít
vì mù quáng, vì bị lường gạt — chứ gần như toàn thể nhân dân bao
gồm những thành phần các sĩ quan trẻ từ cấp tá trở xuống, binh
sĩ, công chức, giáo sư, giáo viên các cấp, các thành phần trí
thức, báo chí, công nhân lao động, nông dân, các thương gia nhỏ,
và những thành phần nhân dân khác đều thấy rõ và uất ức trước
viễn tượng xâm lăng của đại Hán.
Như vậy làm thế nào để thoát ách nô lệ
Trung cộng sắp xảy ra?
Chỉ có hai giải pháp:
Giải pháp I: Một quốc
gia độc lập có lãnh đạo được toàn dân tự do bầu lên — dưới sự
kiểm soát của quốc tế — cho ba ngành phân lập, hành pháp, lập
pháp, và tư pháp. Một chính phủ do đảng cử, dân bầu không thể đại
diện cho dân cũng như Đảng cộng sản chỉ là tự phong, không có giá
trị pháp lý trên chính trường quốc tế. Một khi đã có một quốc gia
Việt Nam độc lập do dân tự do bầu lên thì Việt Nam không còn lệ
thuộc vào Trung cộng nữa mà hoàn toàn tự do chọn lựa các quan hệ
song phương và bình đẳng với tất cả mọi quốc gia trên thế giới,
có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý (1 hl=1852km), nghĩa là
Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong vùng đặc quyền khai thác kinh tế
của Việt Nam. Và các hải đảo Hoàng Sa, Trường Sa có lãnh hải 12
hải lý. Vì là một quốc gia độc lập, dân chủ, và tự do nên lập
trường này sẽ được sự hỗ trợ pháp lý và có thể là quốc phòng nữa
của các quốc gia tự do, nhất là các quốc gia tự do có quyền lợi
giao thương trên Biển Đông, trong đó quyền lợi đầu tư của Hoa Kỳ
chiếm đến 23% tổng số (1.2 ngàn tỷ trên 5.3 ngàn tỷ).
Toàn dân đã sẵn sàng: hoặc là Đảng cộng
sản tự nguyện thay đổi lập trường nô lệ, ích kỷ, phản trắc, để
thành tâm xây dựng một chế độ dân chủ độc lập. Những người ngay
chính, trong sạch, yêu nước thuộc chế độ hiện tại vẫn có cơ hội
ứng cử vào các chức vụ lãnh đạo đất nước. Nếu lãnh đạo cộng sản
không chịu cứu nước bằng phương thức này thì các thành phần cấp
tiến như các sĩ quan trẻ, quân nhân, công chức, giáo chức, các
thành phần trí thức, cùng với các tổ chức xã hội dân sự sẽ đứng
ra tổ chức đấu tranh bất bạo động lật đổ bạo quyền để đi đến việc
thành lập một chính thể dân chủ tự trị và tự do, phục vụ quyền
lợi của toàn dân. Còn thân phận của những nhà độc tài ngoan cố
thì thế nào rồi cũng sẽ bị kết liễu như Nicolae Ceaưescu của
Ru-ma-ni mà thôi, lưu xú cho lịch sử dân tộc.
Giải pháp II: Trở lại
Hiệp Định Paris ngày 27 tháng 1, 1973. Hiệp Định này do 4 thành
phần ký: Ngoại Trưởng William P. Rogers (Hoa Kỳ), Ngoại Trưởng
Trần Văn Lắm (Việt Nam Cộng Hòa), Ngoại Trưởng Nguyễn Duy Trinh
(Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa), và Ngoại Trưởng Nguyễn Thị Bình
(Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam).
Theo Chương V, Điều 15 của Hiệp
Định thì:
Sự thống nhất của Việt Nam phải được
thực hiện từng bước một bằng phương tiện hòa bình dựa trên căn
bản thảo luận và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam,
mà không có sự ép buộc hay sáp nhập của từ phía nào, và không có
sự can dự của nước ngoài. Thời gian thống nhất sẽ do Miền Bắc và
Miền Nam Việt Nam thỏa thuận.
Trong lúc chờ đợi thống nhất:
a. Đường phân ranh quân sự giữa hai
vùng ở vĩ tuyến 17 chỉ là tạm thời và không phải là một ranh giới
chính trị hay lãnh thổ, như đã được nói đến ở đoạn văn 6 trong
Tuyên Bố Cuối Cùng của Hội Nghị Genève 1954.
b. Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam phải
tôn trọng Vùng Phi Quân Sự ở hai bên đường Phân Ranh Quân Sự Tạm
Thời.
Điều 19:
Các bên đồng ý triệu tập một Hội Nghị
Quốc Tế trong vòng 30 ngày kể từ ngày ký Hiệp Định này để xác
nhận những thỏa hiệp đã ký kết; để bảo đảm sự kết thúc cuộc
chiến, sự bảo tồn hòa bình ở Việt Nam, sự tôn trọng những quyền
quốc gia nền tảng của nhân dân Việt Nam, và quyền tự quyết của
nhân dân Miền Nam Việt Nam; và để đóng góp và bảo đảm hòa bình ở
Đông Dương.
Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, thay mặt cho các bên tham dự
Hội Nghị Paris về Việt Nam sẽ đề nghị những thành phần sau đây
tham dự Hội Nghị Quốc Tế này: Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Cộng
Hòa Pháp, Cộng Hòa Xã Hội Liên Bang Sô Viết, Anh Quốc, bốn quốc
gia trong Ủy Hội Quốc Tế về Kiểm Soát và Thanh Tra [Gia Nã Đại,
Hung Gia Lợi, Ba Lan, và Cộng Hòa Indonesia], và Tổng Thư Ký Liên
Hiệp Quốc, cùng với những bên tham dự Hội Nghị Paris về Việt Nam
[2]
[Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và Chính
Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam].
Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam nhóm họp
vào ngày 26 tháng 2, 1973. Các ngoại trưởng từ Gia Nã Đại, Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Pháp, Hung Gia Lợi, Indonesia, Ba Lan, Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam
Việt Nam, Liên Bang Sô Viết, Anh, và Hoa Kỳ đã dự Hội Nghị. Vào
ngày 2 tháng 3 các đại biểu đều trịnh trọng tuyên hứa tôn trọng
“những ước vọng và các quyền quốc gia nền tảng của nhân dân Việt
Nam,” “tuyệt đối tôn trọng và thực thi một cách nghiêm túc” những
thỏa hiệp của tháng Giêng, theo dõi và hỗ trợ những nỗ lực của Ủy
Hội Quốc Tế về Kiểm Soát và Thanh Tra (ICCS), và thực hiện những
tham khảo cần thiết để duy trì hòa bình.
Mặc dù đã tuyên hứa tôn trọng các điều
khoản của Hiệp Định Paris 1973 như thế, nhưng Miền Bắc đã xâm
chiếm miền Nam bằng vũ lực, vi phạm Hiệp Định Paris 1973.
Kissinger và Lê Đức Thọ được trao giải Nobel Hòa Bình ngày 16
tháng 10, 1973. Việc Lê Đức Thọ từ chối nhận giải chứng tỏ ý đồ
xâm chiếm Miền Nam của Miền Bắc Việt Nam đã được chuẩn bị ngay
sẵn từ đầu.
Trong bốn bên tham dự Hội Nghị này thì hiện nay chỉ còn Hoa Kỳ và
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, trên
thực tế, chỉ là cánh tay nối dài của chế độ cộng sản Miền Bắc,
nên đã bị giải thể ngay sau khi Miền Nam bị Miền Bắc chiếm đóng.
Miền Nam thua cuộc, nhưng những giới chức của chính phủ Việt Nam
Cộng Hòa và nhân dân Việt Nam yêu tự do vẫn là những nhân chứng
cho sự vi phạm Hiệp định của đảng cộng sản miền Bắc và vẫn có thể
vận động thế giới yêu cầu Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
thực thi các điều khoản của Hiệp Ước.
Về phần Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lãnh
đạo Đảng cộng sản Việt Nam hẳn phải thấy rằng, trước đe doạ của
Trung cộng, giải pháp này giải toả được áp lực của Trung cộng
bằng cách trả lại Miền Nam cho một chính phủ tự do, do dân bầu để
chính phủ tương lai này có thể độc lập với sức ép của Trung cộng
và đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và quyền các hải đảo
có lãnh hải 12 hải lý theo luật biển quốc tế. Lãnh đạo cộng sản
vẫn có Miền Bắc để quản lý theo mô thức chính trị mà họ hằng đeo
đuổi và Miền Nam có quyền tự quyết theo mô thức độc lập, dân chủ.
Vấn đề thống nhất đất nước vẫn có thể thực hiện được qua các thảo
luận hòa bình. Nếu lãnh đạo cộng sản Việt Nam không thấy hay
không chấp nhận con đường cứu nước này thì dòng thác lịch sử sẽ
thúc đẩy các sĩ quan trẻ, quân đội nhân dân, giới trí thức, các
tổ chức xã hội dân sự tạo áp lực để họ phải chấp nhận.
Về phần Hoa Kỳ, trước đây lãnh đạo Hoa
Kỳ chỉ muốn quên đi Việt Nam vì chiến tranh Việt Nam đã khơi dậy
lại một quá khứ mà người Mỹ không mấy hãnh diện. Tuy nhiên, từ
khi Trung cộng bành trướng ảnh hưởng và sức mạnh quân sự và kinh
tế xuống vùng Đông Nam Á thì Hoa Kỳ cũng đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa để trước tiên là trao
đổi giao thương và thứ đến cũng là để ngăn chặn sự bành trướng
này của Trung cộng. Do đó, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa có thể hợp
tác với Hoa Kỳ để đi đến Giải Pháp I hoặc Giải Pháp II.
Hoa Kỳ hẳn phải sẵn sàng hợp
tác vì những lý do sau đây:
Thứ nhất:
Quyền lợi tối quan trọng của Hoa Kỳ là con đường giao thương bằng
đường biển từ Ấn Dộ Dương tới Thái Bình Dương qua eo biển Malacca
và Biển Đông. Tổng trị giá giao thương này được đánh giá khoảng
5.3 ngàn tỷ đô-la mỗi năm là số lượng đầu tư thương mãi quốc tế
của Hoa Kỳ, Trung cộng, Nhật, Đức, Anh, Pháp, Ấn độ, Ý, Brazil,
và Gia Nã Đại; trong số đó, Hoa Kỳ chiếm khoảng 1.2 ngàn tỷ đô.
Ngoài ra, Biển Đông còn có trữ lượng dầu khoảng từ 7 đến 11 tỷ
thùng dầu. Theo phỏng tính lạc quan của Trung cộng thì Biển Đông
rồi sẽ có thể cung ứng lên đến 130 tỷ thùng dầu, đứng thứ nhì về
sản xuất dầu, chỉ sau Saudi Arabia. Biển Đông còn tiềm năng tích
trữ khoảng 900 ngàn tỷ cubic feet khí đốt [1 cubic foot = 28316.8
cubic cm].
Thứ hai: Năm 2014 Hoa Kỳ và Phi Luật
Tân đã ký kết Hiệp ước 10 năm về quốc phòng chung, cho phép Hoa
Kỳ hoạt động quân sự từ 8 căn cứ tại quốc gia này và Hoa Kỳ có
trách nhiệm bảo vệ an ninh quốc phòng cho Phi Luật Tân.
Thứ ba: Sự
bành trướng về quân sự và thương mãi của Trung cộng càng ngày
càng chiếm ưu thế trên thế giới, từ Biển Đông, Thái Bình Dương và
toàn cõi Đông Nam Á, đến châu Phi, và ngay cả Nam Mỹ, cạnh tranh
thách thức Hoa Kỳ.
Thứ tư: Mặc
dù Hoa Kỳ không dự đoán những hành động quấy phá của Trung cộng ở
Biển Đông liên hệ đến thủy lộ giao thương quốc tế, nhưng cũng
không chấp nhận việc Trung cộng có cơ hội có những hành động gây
hấn, như là chặn đường giao thương. Nhưng mới đây, ngày 23 tháng
4, 2018, Báo World và Observer thông báo là Đô Đốc David S.
Davidson - tổng tư lệnh Thủy, Lục, và Không lực của Mỹ tại Thái
Bình Dương – đã tường trình trước Quốc Hội Hoa Kỳ trong tuần vừa
qua là “Chúng ta đã mất Biển Đông”. Trung cộng đã biến 7 bãi đá
ngầm tại Trường Sa thành 7 căn cứ quân sự lớn mạnh đủ để kiểm
soát hằng ngàn dặm về phía Nam. Ông cũng cho biết là chỉ có một
cuộc đối đầu vũ trang mới chặn được Bắc Kinh đóng các thủy lộ
quốc tế tại Biển đông. Ông nói với các chính trị gia [các nhà lập
pháp] rằng đây là lý do [Hoa Kỳ] khẩn thiết phải nắm lại lợi thế
kỹ thuật mà quân đội Hoa Kỳ đã từng chiếm giữ suốt 5 thập kỷ sau
Đại Chiến II (He says only an armed conflict could now stop
Beijing from closing the South China Sea’s international sea
lanes. He told politicians this was why it was vital to recapture
the technological advantage US forces held for five decades after
World War II)
[3].
Nhưng lý luận cho thấy là trước khi Hoa
Kỳ quyết định đi đến xung khắc vũ trang với Trung cộng, dĩ nhiên
là nếu có giải pháp hòa bình nào đem lại quyền lợi cho Hoa Kỳ tại
Biển Đông thì xác suất lãnh đạo Mỹ hợp tác sẽ là rất lớn. Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa có thể, vì quyền lợi của đất nước quan trọng
hơn quyền lợi cá nhân, có thể hợp tác với Hoa Kỳ để thực thi Giải
Pháp I hoặc Giải Pháp II.
Đồng thời, để bảo đảm quyền lợi tối
thượng của đất nước Việt Nam thân yêu, người Việt quốc gia tại
hải ngoại và quốc nội sẽ ủng hộ và hỗ trợ bằng mọi phương tiện để
đi đến Giải Pháp I. Tuy nhiên, để đi đến Giải Pháp II, trong
trường hợp không thực hiện được giải pháp I, những người Việt
quốc gia sẽ vận động Hoa Kỳ thi hành Hiệp Định Paris ký ngày 27
tháng 1, 1973 và vận động các quốc gia tham dự Hội Nghị Quốc Tế
ngày 26 tháng 2, 1973 tại Paris mà các thành phần tham dự, bao
gồm cả Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đã tuyên hứa là sẽ tôn trọng
“những ước vọng và các quyền quốc gia nền tảng của nhân dân Việt
Nam,” “tuyệt đối tôn trọng và thực thi một cách nghiêm túc” những
thỏa hiệp của tháng Giêng. Những quốc gia này, vì sứ mạng và
trách nhiệm bảo vệ hòa bình và bảo đảm việc thực thi các điều
khoản của Hiệp Định Paris 1973, sẽ tạo áp lực lên Hoa Kỳ và Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải tôn trọng và thi hành các điều khoản
của Hiệp Định.
Để thực hiện công việc vận động này,
người Việt quốc gia cần kết hợp lại thành một tổ chức, đại diện
cho Việt Nam Cộng Hòa, bao gồm những thành viên có trách nhiệm
trong Đệ I và Đệ II Cộng Hòa, những thành phần đại diện cho các
đảng phái quốc gia, các tôn giáo, v.v. Tổ chức này đòi hỏi ba khả
năng:
(1)
Khả năng giao tế rộng và ngôn ngữ thích hợp để
vận động các giới chức tại các quốc gia cần vận động,
(2) Khả năng tài chánh
để gửi người đi vận động, nếu cần, và để trang trải những chi phí
tổ chức, và
(3) Khả năng kiến thức về khoa học chính trị,
luật pháp và các ngành chuyên môn khác.
Tổ chức sẽ có hai sứ mạng:
(1) Vận động cho việc thực thi các điều
khoản của Hiệp Định Paris ký ngày 27 tháng 1, 1973; và
(2) Thiết lập mô hình tổ chức chính thể
Miền Nam bao gồm những bước tiến từ (a) tổ chức bầu cử và ứng cử
cho chính phủ lâm thời và quốc hội lập hiến, đến (b) mô thức đi
đến chính phủ dân cử thực thụ cho Miền Nam.
Muốn hoàn thành tổ chức đại diện cho
Việt Nam Cộng Hòa nhằm thực thi hai sứ mạng vừa nói trên, trước
tiên cần có một nhóm nòng cốt tập họp lại để hoạch định kế sách
nối kết những thành viên cho tổ chức chính thức. Kế hoạch nối kết
cần dựa trên ba tiêu chuẩn khả năng mà tổ chức đòi hỏi như được
đề cập ở phần trên.
Với những sơ xuất tất nhiên hẳn phải có
vì sự hiểu biết hạn hẹp, tác giả bài này xin tạm đề nghị các
thành phần sau đây xung phong thành lập nhóm nòng cốt:
1. Đại diện chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
2. Đại diện Cựu quân nhân
3. Đại diện
Hội Cựu tù Nhân Lương Tâm
4. Đại diện
cựu tù nhân chính trị
5. Đại diện Người
Bảo Vệ Nhân Quyền
6. Đại diện Tập Hợp
Quốc Dân Việt
7. Đại diện Khối Tự Do Dân
Chủ 8406
8. Đại diện các chuyên gia
9. Đại diện cộng đồng người Việt quốc gia hải ngoại
10. Đại diện Phật giáo
11. Đại diện Tin
Lành
12. Đại diện Công giáo
13. Đại Diện Cao Đài
14. Đại diện Hòa
Hảo
15. Đại diện các đảng phái quốc gia
16. Đại diện Hội Luật Gia Việt Nam, California
17. Đại diện các tổ chức Xã hội dân sự
18. v.v.
Như
đã nói trên, vì sự thiếu sót do kiến thức hạn hẹp, xin quý vị
thức giả miễn thứ cho nếu đề nghị các thành phần trên đây có điều
gì lầm lỗi. Danh sách này chỉ có giá trị gợi ý. Và dĩ nhiên nhóm
nòng cốt sẽ vẫn phải được nới rộng hay thu hẹp tùy thuộc sự hiểu
biết và đề nghị của các thành viên khởi sự nhóm nòng cốt, trước
khi xúc tiến kế hoạch nối kết với các quý vị khác để thành lập TỔ
CHỨC VẬN ĐỘNG THỰC THI HIỆP ĐỊNH HÒA BÌNH BA-LÊ 1973 VÀ THIẾT KẾ
THỂ CHẾ DÂN CHỦ CHO MIỀN NAM VIỆT NAM. Điều quan trọng là cần có
người khởi xướng đầu tiên. Trong số những thành phần đề nghị ở
trên, hay từ những thành phần khác, thế nào cũng có vị ý thức
được tình trạng khẩn trương, nguy khốn của đất nước và sẵn sàng
xung phong ra kêu gọi các quý vị khác thành lập nhóm nòng cốt.
Một yếu tố hết sức quan trọng trong
việc thành lập tổ chức là vấn đề phá hoại và chia rẽ. Vấn đề này
xảy ra trong hầu hết các tổ chức của người Việt quốc gia tại hải
ngoại. Phá hoại và chia rẽ có thể là do cộng sản thâm nhập, có
thể là do tranh chấp, hoặc do “chụp mũ” không có bằng chứng. Các
phương tiện truyền thông của người Việt tại hải ngoại cũng như
của quốc tế đều thường xuyên nêu lên nhược điểm này tạo nên hoàn
cảnh các tổ chức bị coi nhẹ hoặc bị khinh miệt, làm mất đi sự tin
tưởng và hỗ trợ có thể có của các cơ quan, tổ chức quốc tế, cũng
như của các quốc gia tự do. Dĩ nhiên là người Việt quốc gia không
có phương tiện điều tra để đi đến kết luận phá hoại và chia rẽ là
do cộng sản, hay tranh chấp, hoặc chụp mũ một cách mù quáng. Tuy
nhiên, trong tiến trình lập kế hoạch tạo dựng tổ chức, nếu các
thành viên luôn luôn dựa trên (1) khả năng cần có của tổ chức và
(2) sứ mạng của tổ chức như đã được trình bày ở phần trên làm
tiêu chuẩn cho mọi thảo luận và hành động, và trong trường hợp
nếu có thành viên nào đi ngược lại những tiêu chuẩn này thì phải
bị loại ra khỏi tổ chức với đa số phiếu (50%+1) của ít nhất là
hai phần ba (2/3) thành viên hiện diện trên tổng số các thành
viên. Dĩ nhiên là khả năng và sứ mạng của tổ chức cần phải được
tất cả mọi thành viên (100%) của nhóm nòng cốt đả thông và thông
qua trước.
Philadelphia, ngày 28
tháng 4 năm 2018
Tiểu Thạch Nguyễn Văn Thái, Ph.D.
Nguyên Giáo Sư Thỉnh giảng: University of Pennsylvania,
St.Joseph’s University, Chestnut Hill College
Email:
thaivannguyen41@yahoo.com
Tham khảo:
[1].
Theo Giòng Bách Việt
[2].
Chuyển ngữ Chương V, Điều 15 và 19 từ tài liệu của Wikisource,
the Paris Peace Accords
[3].
World, “US Admiral warns: Only war can now stop Beijing
controlling the South China Sea”, Apr.23, 1973....
LIBERATION
FROM
THE CHINESE YOKE OF SLAVERY
Author: Dr. Nguyễn Văn Thái, Ph.D.
Nguyên
Giáo Sư Thỉnh Giảng
-University of Pennsylvania; -St. Joseph’
s University; -Chestnut Hill Colege
Vietnamese
overseas have been fighting for human rights in Vietnam -- that
are flagrantly and continually violated by the Vietnamese
Communist Party (VCP) -- for the last 43 years under various
forms such as (1) letters of protest, (2) demonstrations, and (3)
mobilizations of free countries and international organizations
to apply pressure upon the Vietnamese totalitarian communist
regime to respect the basic fundamental rights of human beings.
Inside Vietnam fighters for freedom and democracy and
organizations of civil society have also been standing up for the
basic human rights that Ho Chi Minh had incorporated in his
September 2, 1945 Declaration of Independence. However, not only
does the VCP not respect and comply with Ho Chi Minh’s
Declaration of Independence, but also contradicts and violates it
by incarcerating those human rights fighters, for vague or
unknown reasons, for 5 to 20 years with several more years of
house arrest, impinging upon the very communist nation’s
constitution itself.
Oppression and economic exploitation of
the people by the VCP and not respecting and complying with the
terms of the September 2, 1945 Declaration of Independence are
indeed no peccadilloes, not in the least. But the most abominable
and severe villainy committed by the VCP -- in order to buy
guarantee for its political position and power –isto sell Vietnam
to communist China.
The VCP has offered up more than 800
square kilometers of the north border land and the BảnGiốc
waterfall to communist China; rent out to Chinese investors for
50 years over 300 hectares of upper watershed forests, of which
the deforestation willultimately destroy estuarial lower land;
let China build the railroad connecting Hanoi to the
Vietnamese-Chinese border at Lao Cai, which would facilitate the
inpouring of Chinese soldiers to the northern provinces of
Vietnam; allowed Cao Bằng, Mong Cáy, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam,
Kontum, Bình Định, Bình Dương, Lâm Đồng, Trà Vinh provinces to
rent out nicely located lots of land to Chinese investors for 99
years while Vietnamese citizens are denied access to those lots;
permitted Chinese to build large China towns in Bắc Ninh, Hạ
Long, Hải Phòng, and Bình Dương; yielded Central Highland, the
country’s military Achilles’ heel, to the ChineseBauxite
enterprise, hazardous to the environment, and occupied by over 20
thousand workers that people believe to be disguised Chinese
soldiers and even Vietnamese security agents aren’t allowed to
enter the area; let China, via Taiwan as itsintermediary,
establish Formosa, a steel manufacturing installation, at Vũng
Áng, Hà Tĩnh Province, which has heavily polluted the seashores
of the four northernmost central provinces of Hà Tĩnh, Quảng Trị,
Quảng Bình and Thừa Thiên, resulting in hundreds of tons of dead
fish and the displacement of millions of fishermen, whose
livelihood depends on the seashores for hundreds of years from
generation to generation; allowed hundreds of thousands of
Chinese to enter Vietnam as tourists without a visa and it may
very well be expected that these people could stay over and
settle down in Vietnam for good because they are not followed up
and monitored. In the long run, no sooner than one realizes, the
Chinese wouldn’t need an armed conflict to conquer Vietnam, which
would eventually become a province of China anyway, just like
Tibet and Xinjiang. In addition to these territorial “gradual and
silent encroachments” by the Chinese, the CVP – in order to
secure its political power and position – signed a secret
agreement with China in Chengdu, Sichuan, in 1990, permitting
Vietnam to become a province of China. This secret agreement was
revealed by General Hà Thanh Châu, who offered up secret
documents from the communist Vietnamese Ministry of Defense to
Foreign Policy Magazine in 2013 in exchange for political asylum
in the United States
[1]. These documents
exposed a scheme of turning Vietnam into a province of China in 3
cycles of 20 years each:
Cycle I. - 2000-2020:Vietnam shall be
an autonomous province of China
Cycle
II. - 2020-2040: Vietnam shall be a Chinese province
Cycle III.- 2040-2060: The name Vietnam shall be changed to ÂuLạc
to designate the two ethnic minorities who used to inhabit the
areas between the two countries
In stark contradiction with the CVP’s
current treasonous behavior, of all the former Vietnamese kings,
throughout more than 2, 000 years of history, although some did
kowtow in front of the Chinese, not even a single one ever
yielded one inch of Vietnamese land to China.
Hereinafter are Lý Thường
Kiệt’s words (1077):
Mountains and Rivers of the Southern Nation are for the Southern
Emperor to inhabit
National borders have
been distinctly imprinted in the Heavenly Books
How dare ye, hoodlums, come here and encroach on our land
Ye wait and see, and shall endure painful defeat
King Trần Nhân Tông (1258-1309)
left behind the following testament
[2]:
Ye
shall not forget!
Hark to my
instructions:
It is a big country
That acts maliciously,
COMTRARILY TO
MORALITY
INHUMANLY and KNAVISHLY.
Self-confident that it is a big country,
It gives itself the right to say whatever it sees fit!
It says one thing and does another! Unethical!
Don’t disregard little incidents at the border!
Little things will become big things: FOREIGN INVASION!
The China calamity!
It perpetuates
itself through generations!
Ridiculous
reasons for incursions and invasion are concocted!
EVIL-MINDEDNESS!
Not respecting
boundaries in accordance with conventions,
Always looking for conflicts,
Not being
able to invade our nation,
It gnaws at
our mountains and rivers and islands little by little!
Don’t underestimate trivial incidents, They’re dangerous!
The gnawing little by little
Will
ultimately reduce the size of our nation
From the size of an Eagle nest to that of a sparrow.
Those above incidents cause me
to worry
day and night about “SERIOUS NATIONAL ISSUES”!
They are always seeking reasons for invading ĐẠI VIỆT
And turning our country into a Chinese province!
Therefore,
Don’t ye ever lose even one inch of the land left for us by our
predecessors.
Always watch out for the
Hans from China!
These reminders
Also serve as my Testament
For
generations of posterity of our Southern Land.
King Lê Thánh Tông (1442-1497) also
maintained an unyieldingly definite attitude towards safeguarding
ancestral territories: “How could it be possible for one to throw
away a yard of our mountains, an inch our rivers?... If it should
happen that anyone who offers up an inch of King Thái Tổ’s
territories as a bribe to our enemy [the Chinese], that person
and families must be executed.” (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
[Complete History of Đại Việt Compendium]).
Only 16 people from the CVP’s politburo
and scores of ministers and vice-ministers from various
government ministries – simply to secure their power and
privileges – have deigned to allow 95 million Vietnamese people
to be slaves to our communist Chinese enemies. Vietnamese
non-communist patriots overseas as well as those in Vietnam along
with Vietnamese communist patriots, all would unanimously stand
against communist Chinese infiltrations into and encroachments on
Vietnamese land and sea territories with the ultimate scheme of
invading entire Vietnam. As a matter of fact, there does
currently exist no communist theory being applied in
Vietnam;communismremains only as a pretext for the CVP-- a
mafia-likedespoticpolice state -- to control, oppress, and
economically exploit the people. Every single thingthe CVP is
carrying out currentlyruns in direct contradiction to what would
be prescribed by the communist theory, a false and dated theory
that has been dropped like a bad habit all over the world. There
does exist, however, only a small group of people, a tiny
minority, on the top echelon of the CVP, who tenaciously hang on
to power in order to oppress or maltreat the majority of the
people, communist or not, whose voices are being repressed for
the purpose of economic exploitation, corruption, and debauchery.
Among this majority are elements including military officers of
the rank of colonel and below, soldiers, civil servants, teachers
at all levels, intellectuals, press correspondents, factory
workers, peasants, small businessmen, and other common citizens.
Of the small minority, there probably aresome people who love the
country and are against Chinese invasion; however, these people
cannot resist the larger number of traitors who are being
staunchly supported by the Chinese secret services. They are
waiting for the opportune time to act on behalf of the good
cause. On the other hand, of the majority of the people – except
for a few who are misinformed and cheated – almost all people
including military officers of the rank of colonel and below,
second-class soldiers, civil servants, teachers at all levels,
other intellectuals, press correspondents, factory workers,
farmers, peasants, small business people, and other common
citizens, all see the danger of communist Chinese invasion
clearly and all are ready to fight for the country.
So, how can we liberate ourselves from
the slavery yoke of the communist Chinese?
There are two solutions:
Solution I: A free and independent
nation with leadership freely elected by the people – under
international supervision – for the three separate and
independent branches of government, the Executive, the
Legislative, and the Judiciary. A government with leadership
selected by the CPV, then elected by the people cannot represent
the people. The same must apply for the CPV, which is heretofore
self-selected and elected and cannot acquire legality as a
government in the international community. Once a free and
independent nation of Vietnam has been legally established with
leadership freely elected by the people, Vietnam is no longer
subservient to China, but is completely free to choose any
bilateral or multilateral relations -- on an equal basis – with
all countries in the world, with her right to the 200 nautical
miles of Exclusive Economic Zone (EEZ) and the 12 nautical miles
of territorial sea around the Paracel and Spratley Islands, which
legally belong to the Vietnamese EEZ. As a free, democratic and
independent nation, Vietnam’s position with regard to the EEZ
rights of 200 nautical miles and territorial sea rights of 12
nautical miles must be legally respected and supported, and its
national integrity and security, defended by free nations,
especially by the free nations that have commercial interests in
the South China Sea [Eastern Sea], among which is the United
States, whose international commercial interests share around 23%
of the world investment value (i.e., $1.2 trillionover $5.3
trillion).
The
entire Vietnamese people are ready: The CVP may elect to replace
its selfish, treacherous position of slavery to China with a
sincere commitment to establishing a free, democratic and
independent nation. Those leaders who are clean, righteous,
patriotic and truly willing to serve the people still have the
chance to run for leadership positions. If leaders of the CVP are
unwilling to save the country with this solution, then the
progressive elements of the country such as the military
officers, soldiers, teachers, other intellectuals, press
correspondents, small business people, factory workers, farmers,
peasants, and other common citizens, along with organizations of
civil society will rise up and plan for non-violent struggles
that will overthrow the recalcitrant regime in order to establish
a free, democratic, and independent nation, whose ultimate goal
is to truly serve the people. Meanwhile, the fate of those
despotic and intransigent leaders will likely end up like that of
Nicolae Ceaușescu of Romania, with their names smeared on the
pages of future Vietnam history books.
Solution II: Implementing the January
27, 1973 Paris Peace Accords. The Agreements were signed by four
parties: Ambassador William P. Rogers (US), Ambassador Trần Văn
Lắm (RVN), Ambassador Nguyễn Duy Trinh (DSRVN), and Ambassador
Nguyễn Thị Bình (PRG).
According to Chapter V,
Article 15
The reunification of Viet-Nam shall be
carried out step by step through peaceful means on the basis of
discussions and agreements between North and South Viet-Nam,
without coercion or annexation by either party, and without
foreign interference. The time for reunification will be agreed
upon by North and South Viet-Nam
Pending reunification:
(a) The military demarcation line
between the two zones at the 17th parallel is only provisional
and not a political or territorial boundary, as provided for in
paragraph 6 of the Final Declaration of the 1954 Geneva
Conference.
(b) North and South Viet-Nam shall respect the Demilitarized Zone
on either side of the Provisional Military Demarcation Line.
Article 19
The parties agree on the convening of
an International Conference within thirty days of the signing of
this Agreement to acknowledge the signed agreements; to guarantee
the ending of the war, the maintenance of peace in Viet-Nam, the
respect of the Vietnamese people’s fundamental national rights,
and the South Vietnamese people’s right to self-determination;
and to contribute to and guarantee peace in Indochina.
The United States and the Democratic
Republic of Viet-Nam, on behalf of the parties participating in
the Paris Conference on Viet-Nam will propose to the following
parties that they participate in this International Conference:
the People’s Republic of China, the Republic of France, the Union
of Soviet Socialist Republics, the United Kingdom, the four
countries of the International Commission of Control and
Supervision, and the Secretary General of the United Nations,
together with the parties participating in the Paris Conference
on Viet-Nam” [3].
“The International Conference on
Vietnam convened in Paris on February 26, 1973. Foreign Ministers
from Canada, the Democratic Republic of Vietnam, France,
Hung[a]ry, Indonesia, Poland, the People’s Republic of China, the
Provisional Revolutionary Government, the Republic of Vietnam,
the Soviet Union, United Kingdom, and the United States attended
the meeting....” [4]
“On March 2, the representatives
formally pledged to respect the “aspirations and fundamental
national rights of the Vietnamese people, “ and “strictly respect
and scrupulously implement” the January accords, monitor and
support ICCS efforts, and undertake consultations necessary to
uphold the peace.” [5]
Having solemnly pledged to “strictly
respect and scrupulously implement” the January agreements of the
1973 Paris Peace Accords, the Democratic Socialist Republic of
Vietnam nevertheless invaded South Vietnam by force, flagrantly
violating the Accords. US Secretary of State Henry Kissinger and
Lê Đức Thọ of North Vietnam were awarded the Nobel Peace Prize on
October 16, 1973, and Lê Đức Thọ refused to accept it. This is
ample evidence that North Vietnam had planned the invasion of
South Vietnam way ahead of time.
Of the four parties attending the
Conference, only the United States and the Democratic [Socialist]
Republic of Vietnam remain. The National Liberation Front (NLF),
since it’s, as a matter of fact, only an extension of the
Communist North, was immediately dissolved as soon as the
Communist North occupied the Free South. The South was defeated
and the Republic of Vietnam, as a consequence, ceased to exists.
However, the officials who used to work for the Republic of
Vietnam Government and all the freedom loving people of Vietnam
are still available, ready and willing to testify to the flagrant
violation of the Paris Peace Accords of 1973 by the Socialist
Republic of Vietnam and to mobilize international organizations
and communities, and the free countries of the world to apply
pressure on the United States and the Socialist Republic of
Vietnam to comply with and implement the agreements of the 1973
Paris Peace Accords.
On the part of the Socialist Republic
of Vietnam, leadership of the CVP would have to sensibly realize
that, in the presence of the China threat, this solution will
diffuse the pressure of the Chinese by way of returning the South
to an independent government, freely elected by the people in
order for this future government to be free of the Chinese
domination and to claim its Exclusive Economic Zone of 200
nautical miles encompassing the Paracel and Spratley Islands with
their 12 nautical miles of territorial sea in accordance with the
Third United Nations Conference on the Law of the Sea (UNCLOS
III). Leaders of the CVP would still be able to govern North
Vietnam with the political model of Marxist-Leninist type of
governance that they have been pursuing for 73 years while South
Vietnam can depend on self-determination with regard to its
choice of an independent, free, and democratic model of
governance. Reunification can still be “be carried out step by
step through peaceful means on the basis of discussions and
agreements between North and South Viet-Nam, without coercion or
annexation by either party, and without foreign interference. The
time for reunification will be agreed upon by North and South
Viet-Nam.” If it should happen that leaders of the CVP don’t see
or are unwilling to accept this solution to save our country, a
natural cascade of imminent events dictated by historicity will
push young military officers, soldiers of the People’s Army,
teachers, other intellectuals, civil servants, small business
people, factory workers, farmers, peasants, and other common
citizens, organizations of civil society into exerting pressure
on the leaders of the CVP so forcefully they will have to comply.
On the part of the United States,
people would have previously distanced themselves as much as they
could from the topic of involvement in the Vietnam conflict
because it brought back shameful as well as painful
recollections, of which they were not very proud. But when China
started to expand its military and economic power towards
South-East Asia, The United States had established normal
relations with the Socialist Republic of Vietnam in order
firstly, to exchange trade and secondly, to indirectly block the
China expansion. Therefore, the Socialist Republic of Vietnam may
wish to cooperate with the United States to opt for either
Solution I or Solution II.
The United States should inherently be
ready and willing to cooperate for the following reasons:
Firstly, the core interest of the
United States in South-East Asia is the commercial sea lines of
communication (SLOC) from Oceania and the Indian Ocean to the
Pacific Ocean via the Strait of Malacca through the South China
Sea [Eastern Sea], which is believed to be responsible for goods
transits worth $5.3 trillion of international trade value from
the United States, China, Japan, Germany, United Kingdom, France,
India, Italy, and Canada; with $1.2 trillion shared by the United
States.
Additionally, “... A conservative 1993/1994 US Geological Survey
(USGS) report estimated the sum total of discovered reserves and
undiscovered resources in the offshore basins of the South China
Sea at 28 billion barrels – yet, this estimate, for its part,
seems particularly low. Furthermore, the 1993/1994 USGS estimate
states that natural gas is actually more abundant in the area
than oil. According to the USGS, about 60 percent-70 percent of
the area’s hydrocarbon resources are gas while the sum total of
discovered reserves and undiscovered resources in the offshore
basins of the South China Sea [Eastern Sea] is estimated at 266
trillion cubic feet (tcf)”
[6], [1 cubic
foot = 28316.8 cubic cm].
Secondly, The United States and the
Republic of the Philippines signed “the Enhanced Defense
Cooperation Agreement (EDCA) in 2014, a ten-year deal that allows
a strengthened U.S. military presence in the Philippines... “ and
“Obama administration officials have publicly described the U.S.
commitment to the Philippines as “ironclad.”
[7]
Furthermore, “The Enhanced Defense Cooperation Agreement (EDCA)
is a framework to enable U.S. forces to access Philippine bases
and facilities, as well as pre-position materiel for warfighting
and humanitarian assistance and disaster relief (HADR) missions
[8].
Thirdly, China’s military and economic
expansion from the Eastern Sea, to all South-East Asia, the
Pacific Ocean, Africa, even South America in competition with the
United States appears to be prevailing.
Fourthly, even though the United States
may anticipate disturbances by China with regard to the
international sea lines of communication, it would not, however,
accept the fact that China has the opportunity to exhibit
aggressive behaviors such as blocking maritime trade lanes.
Recently, on April 22, 2018, World reported that in the previous
week’s congressional hearing, Admiral David S. Davidson, chief of
US Fleet Forces Command, said, “The island fortresses are built.
The airfields are ready. The harbours are open... All China needs
do now is move in the warships and combat jets... Beijing has
built up enough military infrastructure in the South China Sea to
completely control the disputed waterway... Once occupied, China
will be able to extend its influence thousands of miles to the
south and project power deep into Oceania... The PLA will be able
to use these bases to challenge US presence in the region, and
any forces deployed to the islands would easily overwhelm the
military forces of any other South China Sea-claimants... In
short, China is now capable of controlling the South China Sea
[Eastern Sea] in all scenarios short of war with the United
States... Admiral Davidson has been nominated to take over the
United States’ Pacific Command, responsible for coordinating
army, navy and air force actions in that region. He says only an
armed conflict could now stop Beijing from closing the South
China Sea’s international sea lanes... He told politicians this
was why it was vital to recapture the technological advantage US
forces held for five decades after World War II.”
[9]
However, logic would tell us that
before deciding to engage itself in an armed conflict with China,
the United States would welcome any peaceful means that could
bring about results that satisfy its interests in the Eastern
Sea. And the probability for the United States to cooperate in
such a solution would be very high. The Socialist Republic of
Vietnam may wish to make the decision to place national security
interest above self-interest and cooperate with the United States
to proceed with the option of either Solution I or Solution II as
mentioned above.
In the meanwhile, to guarantee the
national sacrosanct rights of Vietnam, the non-communist patriots
overseas and in Vietnam would do everything possible to support
the realization of Solution I. However, in order to proceed with
Solution II – in case the goals of Solution I for some reason are
unattainable – the non-communist patriots shall mobilize the
United States in the implementation of the January 27, 1973 Paris
Peace Accords and the countries attending the February 26, 1973
International Conference in Paris, in which all participants
including the Democratic [Socialist] Republic of Vietnam formally
pledged to respect the “aspirations and fundamental national
rights of the Vietnamese people, “ and “strictly respect and
scrupulously implement” the January accords...” [5] These
countries, due to their mission and responsibility to uphold
peace and guarantee the implementation of the agreements of the
1973 Paris Peace Accords, shall exert pressure on the United
States and the Socialist Republic of Vietnam to carry out the
articles of the Accords.
In order to proceed with this
mobilization task, the non-communist patriots must be unified
under one organization representing the illegally deceased
Republic of Vietnam, including those people who used to work for
the first and second republic governments, and representatives
from the nationalist political parties, different religious
groups, etc.
The Organization should possess three capabilities: (1) Excellent
communication skills in different languages needed for
interacting with high officials of countries to be mobilized, (2)
Strong knowledge of political science and law, and professional
expertise in different fields of specialty, and (3) Financial
resources to, if needed, send negotiators to different countries
and to defray the costs of organization. And the Organization
should be charged with two missions: (1) mobilizing international
organizations and free countries for the implementation of the
agreements of the January 27, 1973 Paris Peace Accords, and (2)
Establishing a model for a free and independent government for
South Vietnam with (a) preparation for the election of a
provisional government and a constitutional convention leading to
(b) the establishment of a permanent, freely elected government
of South Vietnam with three separate and independent government
branches, the Executive, Legislative, and Judiciary.
Setting up the Organization
representing the formerRepublic of Vietnam would demand the work
of a starting core group to formulate a recruitment plan for the
Organization. The recruitment plan should be based on the
criterion of the three capabilities and the missions required for
the Organization as suggested above.
With obvious shortcomings due to
limited knowledge, the author of this article
provisionallyrecommends the following elements to volunteer for
the setting up of the core group:
01. Representatives for the Republic of
Vietnam
02. Representatives of the
Vietnamese Veterans
03. Representatives
of the Association of Prisoners of Conscience
04. Representatives of the Association of Former Political
Prisoners
05. Representatives of People
for the Protection of Human Rights
06.
Representatives of The Vietnamese People Unified
07. Representatives of the Freedom and Democracy Bloc 8406
08. Representatives of the Association of Vietnamese
Professionals
09. Representatives of the
overseas Vietnamese communities
10.
Representatives of the overseas Vietnamese Buddhist Church
11. Representatives of the overseas Vietnamese Catholic Church
12. Representatives of the overseas Vietnamese Protestant Church
13. Representatives of the Cao Đài Church
14. Representatives of the Hoà Hảo Church
15. Representatives of Vietnamese national political parties
16. Representatives of the Association of Vietnamese American
Lawyers
17. Representatives of
Vietnamese organizations of Civil Society
18. And so on and so forth...
As mentioned earlier, shortcomings due
to limited knowledge in these provisional recommendations are
likely to occur, the author is sincerely seeking forgiveness for
any unintended consequences thereof. The recommended list only
carries the value of suggestions. Obviously, the size and
composition of the core group can be expanded or reduced in
accordance with the judicial judgment of those who first start
the group, before they proceed to formulate the recruitment plan
for the Organization. The essential issue is there must be
somebody available to start the project. Among the elements in
the suggested list or from some other elements in the larger
Vietnamese communities, there should be someone who is fully
aware of the critically dangerous situation of our beloved
country and would volunteer for the demanding task of setting up
the core group.
The most extremely vital issue,
however, with regard to the establishment of the Organization
entails problems of sabotage and division. This issue is endemic
to almost all overseas Vietnamese organizations. Sabotage and
division may probably be caused by communist infiltrations, by
envious rivalry, or by “maliciously labeling” someone communist
without evidence. Reports by overseas Vietnamese communication
media as well international media on this issue usually deprive
Vietnamese organizations of confidence and support of
international organizations and free countries in the world.
Evidently, Vietnamese don’t have the appropriate means to vet
those who join the Organization in order to figure out whether
sabotage and division are engineered by communist infiltrators,
by envious competitors, or by false “labelers”. Nevertheless, in
order to solve the problem of sabotage and division, it is
essential that the process of conducting the recruitment campaign
for the Organization compel constituent members to unanimously
agree to strictly adhere to the capabilities required and the
missions demanded by the Organization as the criteria for
recruitment and operation, then if it happens that any member
should go against those criteria, he or she must be dismissed,
based on the majority (50%+1) votes of at least 2/3 of the total
number of members present. And obviously, the capabilities and
missions of the Organization must have been discussed,
deliberated, and ratified by 100% of the members of the core
group.
Philadelphia, ngày 28 tháng 4 năm
2018
Tiểu Thạch Nguyễn Văn Thái,
Ph.D.
Email:
thaivannguyen41@yahoo.com
________________________________
REFERENCES:
[1] Mật ước
Thành Đô [The Chengdu Secret Agreements]:
http://www.vnfa.com/an14s1/1402_062.html
[2] According
to Giòng Bách Việt
[3]
Wikisource, the Paris Peace Accords, Chapter V, Article 15 and
Article 19.
[4]
Department of State Bulletin, March 26, 1973, pages 337–339.
[5] The New
York Times, March 3, 1973.
[6]
https://oilprice.com/Energy/Energy-General/How-Oil-Drives-The-South-China-Sea-Conflict.html
[7]
https://www.cfr.org/backgrounder/us-philippines-defense-alliance
[8]
https://news.usni.org/2014/04/29/new-defense-agreement-philippines-u-s-basics
[9] World, “US Admiral warns: Only war
can now stop Beijing controlling the South China Sea”, Apr.22,
1973.https://www.nzherald.co.nz/world/news/article.cfm?c_id=2&objectid=12037384
Print this article in American-English (PDF)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by LT chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, May 2, 2018
Cập nhật ngày Thứ Hai, May 7, 2018 - Thêm phần Anh ngữ
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang