Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Thời sự Chính trị
Chủ đề:
Việt Nam
Tác giả: Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Phục
sinh là sống lại. Chết rồi mà sống lại là chưa chết thực sự. Nếu
chết thật mà sống lại là phép lạ, như Chúa Giê-su chết rồi ba ngày
sau sống lại (Mt.28:5-9).
Người Ki-tô hữu hay Công Giáo tin là Chúa Giê-su đã sống lại thực
sự. Nếu Chúa không sống lại thì cuộc khổ nạn và cái chết của Người
mất hết ý nghĩa. Cái chết của nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam cũng
vậy, nếu không hồi phục lại được thì những hy sinh đấu tranh của
chúng ta trở thành vô nghĩa và mất giá trị.
NHỮNG CÁI CHẾT CỦA VIỆT NAM
Nước Việt Nam chúng ta, xuyên suốt chiều
dài lịch sử từ ngày lập quốc cho đến hiện tại, có người nói là đã bị
chết nhiều lần. Từ “chết” này phải được
hiểu là đất nước mình không có tự chủ, không còn độc lập, người dân
mất tự do và những quyền căn bản của con người vì lý do này hay lý
do khác. Người ta nói về 1000 năm Việt Nam bị giặc Tầu dày xéo, 100
năm bị giặc Pháp đô hộ. Từ ngày 30-4-1975 Việt Nam dưới sự thống trị
của đảng cộng sản Việt Nam cũng coi như đã chết. Việt Nam không có
độc lập vì nhà cầm quyền là đảng cộng sản Việt Nam vẫn nằm dưới sự
lãnh đạo, chi phối của Tàu Cộng; người dân không có tự do, dân quyền
và nhân quyền, những quyền căn bản của con người đã hoàn toàn bị
tước đoạt. Chuyện này là hiển nhiên không cần tranh cãi. Biển đảo,
biên giới, đất đai bị người Tầu chiếm đoạt một cách ngang nhiên hay
dưới chiêu bài bán nhượng rẻ mạt hoặc công khai nhận chủ quyền cùa
Tàu cộng trên đất và trên đảo Hoàng Sa và Trường Sa do thủ tướng
Phạm văn Đồng ký bằng một công hàm chính thức ngày 14-9-1958. Người
Tầu được mọi đặc quyền đặc lợi ngay trên đất nước Việt Nam mình, ra
vào nước mình như đi chợ, không cần visa. Những khu tự trị ở ngay
trên đất nước mình mà không một người Việt Nam nào kể cả công nhân
viên nhà nước được bén mảng đến gần. Nhà nước nể sợ người Tầu, cay
nghiệt với dân. Một cô gái Việt tát anh cảnh sát lưu thông vì bị bắt
ức, đã bị tòa án xử 9 tháng tù giam, trong khi hai tên Tàu tấn công
cảnh sát lưu thông còn nói lời đe dọa “Tao thách tụi bay
dám đụng đến người Trung quốc” thì được tòa tha bổng (Internet
TiengGoiNonSong Nov 14, 2017).
Hèn với giặc ác với dân là thế. Độc lập ở đâu nhỉ?
Việt Nam có một lịch sử Nam tiến. Từ ngày
lập quốc vua Đế Minh thuộc họ Hồng Bàng rồi Kinh Dương Vương đến Lạc
Long Quân, tục truyền nàng Âu Cơ sinh được 100 con trai, 50 người
theo mẹ lên núi, 50 người theo cha xuống biển và thành lập nước Bách
Việt, rồi Văn Lang / Hùng Vương. Cứ thế lịch sử trôi nổi bồng bềnh
vua nọ đánh vua kia, Chúa nọ cướp quyền Chúa kia, chia đất giành dân
đưa đến tình trạng Trịnh-Nguyễn phân tranh. Chúa Nguyễn xuống phương
Nam lập quốc đã chiếm Chiêm Thành, Chân Lạp, đô hộ cả Ai Lao, Cao
Mên và Thái Lan tạo thành một giải đất nước hình chữ S. Cuối cùng
lại Bắc-Nam hai ngả cộng sản và Tự Do do người nước ngoài định đoạt.
Anh, Pháp, Nga, Tàu và Hồ chí Minh ký kết với nhau; hơn triệu người
bỏ nhà cửa ruộng vườn trốn ách độc tài tìm tự do ở miền Nam.
Vì biến cố 30-4-75, Việt Nam lại một lần
nữa bị bức tử, tạo thành cuộc Nam tiến, hết đất đi, hàng triệu
người, vì không thể sống được dưới ách độc tài cộng sản đã liều chết
lao đầu vào đại dương tràn ra khắp thế giới. Một nước Việt Nam mới
thành hình. Cho đến nay đã có ước chừng 5 triệu người. Tình trạng
đất nước chúng ta ngày nay tuy bề ngoài người dân vẫn sinh hoat bình
thường, tạo vẻ phồn vinh tại các thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội,
Cần Thơ... nhưng là phồn vinh giả tạo, vì người dân quê vẫn còn sống
nơi bùn lầy nước đọng và dân sống ở ngoại ô các thành phố lớn vẫn
nghèo khổ cơ cực, bữa đói bữa no, vẫn sống trong những túp lều tranh
sơ sài ọp ẹp chỉ một cơn gió mạnh hay cơn mưa lớn là có thể cuốn đi
dễ dàng biến họ thành tay trắng, vô gia cư, còn những kẻ có quyền
thế vẫn nhà cao cửa rộng, xe hơi, tiền bạc dư thừa, ăn tiêu phung
phí vứt tiền qua cửa sổ. Chưa hết, người dân chẳng những không được
an cư lạc nghiệp mà còn phân vân lo sợ về nạn Hán hóa đang chập chờn
trước mặt cùng với biết bao nhiêu áy náy lo âu về ách cai trị tàn ác
của đảng csVN, không biết lúc nào công an đến nhà gõ cửa hay còng
tay bắt cóc ngoài đường phố vì dám chống đối nhà nước và bọn xâm
lăng Tàu cộng. Họ ngóng chờ thế giới tự do giúp họ có lại nhân
quyền, nhưng gần nửa thế kỷ rồi, tình trạng vẫn không khá. TT Donald
Trump trong chuyến công du Á Châu và Việt Nam, đã được dân Việt
trong và ngoài nước đặt nhiều kỳ vọng. Có người khen kẻ chê trách
rằng ông Trump chẳng giúp gì Việt Nam về nhân quyền, mà không nghĩ
đến lời ông ta đã bóng bảy khuyến khích nhà nước và dân chúng qua
bài diễn văn ca ngợi tinh thần dân tộc chống ngoại xâm của bà Trưng
bà Triệu, thân nữ nhi từ hai ngàn năm trước đã dám đứng lên cùng
toàn dân phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi giặc Tầu giành độc lập. Nói
cho cùng, chuyện của mình thì mình phải lo, tại sao lại nhờ người
ngoài. Lịch sử cho thấy chẳng nước nào thương nước mình bằng chính
người mình. Khẩu hiệu tranh cử của ông Trump là “Make America great
again” và “America first” / Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại và Nước
Mỹ trên hết. Chúng ta cũng không nên trách ông Trump. Ông ấy lo
chuyện của ông ấy là dĩ nhiên. Mình phải lo chuyện của mình, nhất là
mấy ông nhà nước, đảng cộng sản cầm quyền hiện nay có bổn phận phải
lo. Tiếc thay chính họ lại là kẻ nội thù rước giặc về giày mả tổ,
bức tử dân Việt một lần nữa qua hội nghị thành Đô năm 1990 với những
thực tế đang diễn ra hàng ngày trên đất nước, mà nếu chính thức xảy
ra thực sự vào năm 2020 thì Việt Nam lại một lần nữa bị bức tử, lệ
thuộc Tàu không biết bao lâu nữa đất nước mình mới sống lại được?
Nhưng chúng ta còn hy vọng vì vẫn còn một Việt Nam hải ngoại.
MỘT VIỆT NAM HẢI NGOẠI
Như đã biết lịch sử Việt Nam có một hướng
đi là Nam Tiến. Phía Bắc là cường địch, phía Nam là con đường thoát
hiểm. Bến bờ hy vọng mở ra ở phương Nam. Sự sống còn của Việt Nam
tùy thuộc vào phương Nam. Còn đường Nam tiến, Việt Nam còn tồn tại.
Hết đường Nam tiến, Việt Nam lâm thế nguy.
Ngày 30-4-1975 chúng ta bị dồn xuống tận
cùng Phương Nam. Hết đất đi, chúng ta đã lao vào đại dương. Từ đó
Việt Nam thoát xác. Nam tiến trở thành siêu tiến: chúng ta vượt biển
để tiến ra thế giới. Trong khoảng 10 năm đầu, hơn hai triệu người đã
vượt đại dương tràn ra thế giới. Đến nay số người Việt trên thế giới
đã tới khoảng chừng 5 triệu người. Chúng ta đã mất đất nhưng chúng
ta có dân. Một nước Việt Nam khác đang thành hình trong lòng thế
giới: một Việt Nam diaspora, một siêu quốc gia Việt Nam đã khai sinh
(1).
Di dân mở nước vốn là truyền thống của con
cháu Lạc Hồng. Vận mệnh Việt Nam đã ra khỏi Việt Nam. Tương lai của
Việt Nam không mở ra ở Việt Nam, nhưng sẽ mở ra trên toàn thế giới.
Sự sống còn của quê hương Việt Nam tùy thuộc hoàn toàn vào sự lớn
mạnh của phần siêu quốc gia Việt Nam này.
Mượn đất người sống đời mình,
Mượn sức
người làm việc mình,
Mượn thế người thăng
tiến mình.
Đó là con đường siêu tiến của Việt Nam hải
ngoại. Siêu tiến để thực hiện vận mệnh Việt Nam bằng những phương
tiện của thế giới. Siêu tiến để chuyển hóa tài lực của thế giới
thành tài lực của Việt Nam. Siêu tiến để khai thông những hưng thịnh
của thế giới chảy đổ về quê hương mình.
Những người Việt Nam trên thế giới liên
kết với nhau hoàn thành cuộc siêu tiến này: Nhanh quê hương sẽ thăng
tiến nhanh; chậm quê hương sẽ thăng tiến chậm. Nhưng trên hết và
trước hết, chúng ta liên kết với nhau để bảo vệ và thăng tiến chính
cuộc đời ta ngay lúc này trong cộng đồng thế giới.
Dân ta có một tiềm năng sống rất mạnh,
chịu khó, cần cù, biết thích hợp với hoàn cảnh rất nhanh. Vì vậy
chưa đầy 10 năm, nay thì đã hơn 40 năm, kẻ ít người nhiều, nơi xứ
lạ, phong tục tập quán khác biệt, cộng đồng Việt Nam đã qua mặt một
số cộng đồng dân tộc khác. Vì nhu cầu, trước tiên là sống còn, sau
là tìm bầu khí, hương vị quê hương đất nước, dân ta từ khắp các tiểu
bang đã dần dần qui tụ tại những tiểu bang mát mẻ, hợp khí hậu, quây
quần sống bên nhau như để tìm một sự nương tựa hỗ tương. California,
Texas, Origon, Washington, D.C., Florida... đã trở thành những trung
tâm của cộng đồng người Việt. Một Little Saigon đã xuất hiện tại
nhiều nơi, những đường phố được đặt tên những anh hùng Việt Nam,
những hội đoàn, hội ái hữu, rồi cộng đồng người Việt tiểu bang, liên
bang đã thành hình không kể những tổ chức chính trị... Chúng ta biết
hợp quần biết xây dựng cộng đồng vì tinh thần dân tộc và nhu cầu
sống. Nhưng cũng không tránh khỏi những chia rẽ đánh phá nhau vì
nghi kỵ mất niềm tin làm cho cộng đồng yếu đi. Thêm vào đó -lợi dụng
cơ hội- cộng sản đã gài cán bộ, người của chúng vào cộng đồng hải
ngoại để gây thêm chia rẽ hoang mang đã làm tê liệt dần dần cơ thể
cộng đồng khiến một số người đã thờ ơ với thời sự và đất nước, coi
chuyện tranh đấu cho tự do dân chủ, xây dựng đất nước và cộng đồng
không phải là chuyện của mình. Họ rút vào bóng tối, xa lánh cả người
đồng hương. Ngược lại có người bị chúng lôi kéo mê hoặc, trước kia
rất hăng say chống cộng nay bỗng chốc trở thành bạn của chúng, chấp
nhận làm kẻ nội thù. Phải chăng vì mất niềm tin và bả vinh hoa
DANH-QUYỀN-LỢI đã xâm chiếm vào tận tim óc chúng ta. Gột rửa được
cái đó, cộng đồng ta, dân tộc ta sẽ khá hơn người. Một điểm sai lầm
nữa, rất sai lầm là chúng ta khi trốn chạy khỏi đất nước thì thù
ghét cộng sản, tâm niệm chỉ trở về Việt Nam khi không còn cộng sản.
Nhưng nay vì lời phỉnh nịnh của cộng sản gọi Việt kiều là “khúc
ruột ngàn trùng” và vì cuộc sống no đủ, có đôi chút dư
giả, thì thi nhau “áo gấm về làng” đem
dollars về nước ăn xài một cách máy móc vô ý thức đã làm giầu cho
đám cầm quyền, giúp chúng vững tâm đàn áp, ăn cướp của dân. Hàng năm
người Việt hải ngoại đã đổ về Việt Nam hàng tỷ mỹ kim. Chính số tiền
này đã làm cho bọn cộng sản sống lâu, giàu sang, có phương tiện để
lung lạc đánh phá cộng đồng chúng ta ở hải ngoại. Hãy suy nghĩ đúng
và hành động đúng.
Tuy nhiên, một điểm son của cộng đồng Việt
Nam hải ngoại là trong một thời gian kỷ lục chưa đầy hai mươi năm ta
đã có không biết bao nhiêu sinh viên đủ mọi ngành chuyên môn tốt
nghiệp [từ] những trường đại học nổi tiếng trên khắp thế giới mà từ
xưa đến nay chưa một quốc gia chậm tiến nào có được kể cả Nhật Bản.
Người Việt hải ngoại đã có mặt, nắm những chức vị quan trọng trong
hầu hết các cơ quan của nước sở tại từ văn hóa, giáo dục, khoa học,
chính trị, thương mại, đến quân sự... Tài lực có, trí lực có, nếu
thêm được Tấm Lòng, chắc chắn cộng đồng ta sẽ mạnh, quê hương đất
nước sẽ được nhờ rất nhiều. Quê hương dân tộc ta nhất định không thể
mãi mãi nghèo khổ bất hạnh như hiện nay. Đất nước và hơn 80 triệu
đồng bào quốc nội đang trông chờ vào lòng nhiệt thành, yêu tổ quốc
của những người Việt hải ngoại.
Nhưng nguy cơ Việt Nam bị chính thức Hán
hóa không còn xa. Với bản tính xâm lược, mưu sĩ lại ác độc, Tàu cộng
với muôn ngàn quỷ kế và đảng cộng sản Việt Nam quyết “thà mất nước
không để mất đảng” thì đất nước Việt Nam khó có thể thoát khỏi vòng
kiểm tỏa đô hộ của Tàu cộng. Việt Nam chết lần này khó có thể phục
hồi được nếu Việt Nam hải ngoại không vững mạnh và đoàn kết chung
một lòng loại bỏ đảng cộng sản Việt Nam khỏi đất nước Việt Nam bằng
những ưu thế của mình.
VIỆT NAM PHỤC SINH
Dù cho Việt Nam quốc nội có chết đi nữa
thì Việt Nam hải ngoại cũng không thể chết. Vì chính cái chết của
Việt Nam quốc nội tự nó đã làm nảy sinh ra một Việt Nam hải ngoại.
Việt Nam này không có đất nhưng có dân lại có một tiềm lực trí thức
rất dồi dào, những đặc tính trời cho, chúng ta phải giữ lấy và vun
trồng để phát triển thành năm thành mười, không cho người ngoài can
dự vào việc của chúng ta, bởi lẽ đã có quá nhiều kinh nghiệm đau
thương trong lịch sử. Việt Nam phục sinh.
Câu đời thường nói “chẳng ai
thương mình bằng chính mình thương mình” quả là chí
lý. Nếu người ta tỏ ra thương mình -không kể những hành động hoàn
toàn đạo đức- thì cũng chỉ bề ngoài, thực chất là thủ lợi, nhiều ít,
bằng cách nào còn tùy. Nhân cuộc chiến Nam-Bắc Việt Nam từ sau ngày
chia đôi đất nước năm 1954 lấy sông Bến Hải phân chia hai miền và
câu chuyện bộ phim THE VIETNAM WAR do Ken Burns và Lynn Novick đạo
diễn, người Việt quốc gia, nhất là dân chúng miền Nam Việt Nam đã
từng sống trong chế độ VNCH miền Nam, sống và tham dự chiến tranh
Việt Nam do Bắc Việt xâm lăng thì biết chiến tranh Việt Nam có chính
nghĩa thế nào và dưới mắt người Mỹ và chủ trương của chính phủ Mỹ nó
thế nào. Việt Nam đã chết từ ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Chúng tôi lấy bộ phim “Chiến tranh
Việt Nam” vừa được trình chiếu mới đây để có kinh nghiệm,
rút ra bài học hầu mong có được một Việt Nam phục sinh thực sự.
Chúng tôi không đặt nặng việc phê bình cuốn phim vì người coi cũng
đã có khá nhiều nhận định rồi, từ nhà văn đến chính trị gia, kể cả
trí thức Mỹ lẫn Việt. Tựu chung, cuốn phim theo đa số người phê bình
thì có quá nhiều thiên kiến, thiếu trung thực, chỉ nói ra được một
nửa sự thật như ông Nguyễn ngọc Sằng đại diện người lính VNCH được
mời tham dự bàn luận về cuốn phim được trình chiếu ở tòa tổng lãnh
sự Mỹ tại Sài Gòn. Đã là nửa sự thật thì không còn là sự thật nữa,
hay một nửa sự thật kia đã bị che dấu để làm cho người xem hiểu sai
ý nghĩa của cuộc chiến và sự đấu tranh của dân chúng miền Nam Việt
Nam chống lại sự xăm lăng của miền Bắc. Cuốn phim chỉ đáng -theo lời
của ông Sằng- là “vất vào thùng rác”. Tiến sĩ Nguyễn tiến Hưng cựu
bộ trưởng kế hoạch thời TT Nguyễn văn Thiệu và là tác giả cuốn sách
“Khi đồng minh tháo chạy” đã kết luận “cuốn phim có
nhiều khiếm khuyết...”. Ngay cả những người làm phim
là Ken Burns và Lynn Novick đã ngang nhiên đưa ra nhận xét hoàn toàn
có tính thiên vị cố ý để bảo vệ mục đích của mình khi làm cuốn phim
và khi Mỹ đổ quân vào Việt Nam cũng như rút quân khỏi Việt Nam như:
“Người Mỹ can thiệp vào Việt Nam vì không hiểu Hồ chí
Minh và Mỹ rút khỏi VN không phải vì thua mà vì Việt Cộng có lý do
chính đáng giải phóng miền Nam, và đáng cho chế độ này vị trí đối
tác đúng mức.” Thật khôi hài chẳng hiểu gì về tình
trạng đất nước và con người Việt Nam. Việt Cộng xứng đáng để giải
phóng miền Nam sao lại có hiện tượng cả hàng triệu người liều chết
trốn khỏi Việt Nam khi cộng sản tiến vào Sài Gòn. Và mãi về sau này
cho đến bây giờ, người dân vẫn ao ước được ra đi thoát khỏi chế độ
cộng sản, cả dân chúng đã từng sống dưới chế độ cộng sản ở miền Bắc
từ năm 1954. Nói về chiến tranh Việt Nam sao lại chỉ nói về miền Bắc
mà lơ đi những cố gắng và lý do chính đáng của miền Nam Việt Nam khi
họ chiến đấu chống lại kẻ xâm lăng là cộng sản miền Bắc với những
lời phê phán bình luận đầy ác ý và thiên kiến cố ý? Ông G. Daddis,
giáo sư sử học đại học Chapman là cố vấn lịch sử cho cuốn phim cũng
nêu lên những thiếu sót và thiên vị của cuốn phim. Ông cho biết cuốn
phim chỉ dùng để “kích thích tranh luận” mà thôi. Nó không thể coi
là “mẫu mực / kinh thánh” cho Việt Nam và kêu gọi nên đồng cảm.
Không thể đồng cảm được khi sự thật không có lại thiếu sót và thiên
vị. Nhân đức dở hơi! Cứ nhìn vào sinh hoạt chính trị xã hội Mỹ ngày
nay với những tin tức giả tạo, biến trắng thành đen của truyền thông
báo chí dòng chính hay phe tả thì biết thái độ và hành động của họ
đối với chiến tranh Việt Nam cũng như thế mà thôi. Donald Trump, một
tổng thống hợp pháp và hợp hiến còn bị đánh tơi bời bằng những tin
tức giả tạo bia đặt / fake news có hệ thống không cần luân lý đạo
đức thì đối với cuộc chiến Việt Nam có xá chi. Họ bịa đặt câu
chuyện, bóp méo sự thật miễn sao đạt được mục đích của họ. Đúng là
thiên vị cố ý và ngụy tạo để làm mờ mắt người Mỹ và những ai không
hiểu biết tình trạng chiến tranh Việt Nam. Những hậu duệ của người
Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại, vì ảnh hưởng của giáo dục nhà
trường từ trung học đến đại học Mỹ đã hiểu sai lạc ý nghĩa của cuộc
chiến mà cha mẹ, các bậc đàn anh vì đã về chiều lại quá mệt mỏi với
thế sự không muốn nhắc đến chiến tranh Việt Nam nữa; mà có cắt nghĩa
cho con cháu hiểu cái thực chất của chiến tranh, lý do họ đã chạy
trốn ách cộng sản để có được như ngày nay thì chúng nghe hay không
cũng còn tùy thuộc nhiều lý do và hoàn cảnh. Dù sao đó cũng là bổn
phận của chúng ta và con cháu chúng ta.
ĐÔI LỜI KẾT:
TRÁCH NHIỆM CỦA NHỮNG NGƯỜI VƯỢT
BIÊN TỴ NẠN CỘNG SẢN VÀ BỔN PHẬN CỦA HẬU DUỆ SINH RA VÀ LỚN LÊN Ở
HẢI NGOẠI
Đây là điểm chốt mà nhiều người còn có tấm
lòng nghĩ về đất nước vẫn ưu tư, bởi lẽ những thế hệ thứ hai, thứ ba
và sau nữa có hiểu được lý do tại sao chúng ta liều chết vượt biên
trốn ách độc tài cộng sản, tại sao chúng ta chống cộng mới được sáng
tỏ và có ý nghĩa. Hiểu được như vậy mới hy vọng làm cho nước Việt
Nam đã chết được sống lại, một Việt Nam hải ngoại phục sinh. Coi và
suy nghĩ về bộ phim The Vietnam War rồi so sánh, đối chiếu với những
sự thật về chiến tranh của nó giữa hai miền Nam Bắc, giữa cộng sản
độc tài và VNCH miền Nam tự do mới thấm thía câu nói: “The
US uses 10 years to design the death of South Vietnam. Ken Burns and
Lynn Novick use 10 years with 30 million dollars to design the death
of her legitimacy. The South Vietnam’s fate is born to die. But her
death created the Vietnam diaspora which will become the
resurrection of VietNam.” Chính phủ Hoa Kỳ ủng hộ và nuôi dưỡng VNCH
của TT Ngô đình Diệm 10 năm rồi giết nó đi khiến một Nam Việt Nam
xáo trộn để đưa quân đội Hoa Kỳ vào tham chiến tại Việt Nam cũng 10
năm để rồi 10 năm sau lại cho nó chết vào ngày 30-4-1975. Nói cách
khác, chính phủ Hoa Kỳ đã mất 10 năm để làm ra kế hoạch giết chết
miền Nam Việt Nam. Ken Burns và Lynn Novick đã mất 10 năm với 30
triệu mỹ kim để hợp pháp hóa cái chết đó. Số phận của miền Nam Việt
Nam là sinh ra để chết. Nhưng cái chết đó lại phát sinh ra một Việt
Nam diaspora lưu vong có khả năng làm cho Việt Nam phục sinh.
Câu nói này đúng hay không, đúng nhiều hay ít cũng rất cần và đáng
cho chúng ta suy nghĩ, những người Việt Nam còn có lòng với quê
hương đất nước, còn xót xa với thân phận một Việt Nam đang bị dày
xéo bởi ngoại bang Tàu cộng cùng sự đồng lõa của bọn Việt gian là
đảng csVN cam phận làm thái thú cho Tàu cộng.
Chúng ta, những người tỵ nạn cộng sản và
con cháu chúng ta có bổn phận phải làm cho sự chiến đấu của chúng ta
chống lại cộng sản miền Bắc xâm lăng được sáng tỏ và có chính nghĩa,
để Việt Nam được sống lại bao lâu Việt Nam quốc nội còn nằm dưới sự
thống trị của cộng sản và ách đô hộ của Tàu cộng. Nhưng trên hết và
trước nhất chúng ta phải thiết lập một Việt Nam hải ngoại sống động,
có sinh khí anh hùng và thiện chí đồng một lòng như một Trưng Trắc
Trưng Nhị, một Trần quốc Toản, Hưng Đạo Vương, Lê Lợi, Quang Trung
khởi nghĩa chống ngoại xâm để có một Việt Nam hoàn toàn độc lập và
tự do. Một siêu quốc gia Việt Nam, một Việt Nam bên ngoài, một Việt
Nam hải ngoại, một Việt Nam phục sinh. Để được như vậy, giáo dục con
cháu chúng ta là cần thiết để những thế hệ sinh ra và lớn lên ở hải
ngoại chúng hiểu rõ lý do chúng ta lìa bỏ quê hương tỵ nạn cộng sản,
hiểu đúng và chính xác ý nghĩa của chiến tranh Việt Nam. Tại sao Mỹ
can thiệp vào chiến tranh Việt Nam rồi lại rút khỏi Việt Nam để khai
tử VNCH. Nuôi dưỡng VNCH rồi giết chết VNCH. Có như vậy thì một Việt
Nam diaspora mới thực sự phục sinh và có ý nghĩa. Có như vậy chúng
ta mới giải độc được thế giới, người dân Mỹ, truyền thông Mỹ, các
giáo sư đại học Mỹ, những tên phản chiến, cho đến giờ vẫn nhồi sọ
con cháu chúng ta là “cha ông các cô các cậu đã không chịu chiến
đấu, để mất Miền Nam Việt Nam chứ không phải Hoa Kỳ.” Để rồi con
cháu chúng ta, vì không hiểu rõ hoặc bị cs tuyên truyền, những tên
việt gian nối giáo cho giặc làm mờ mắt, có đứa trong một đám trẻ nào
đó đã ngang nhiên dám mở miệng nói “vì các bậc cha ông làm mất nước
nên chúng mới phải ly hương.” Chúng đâu có hiểu Miền Nam Việt Nam
chúng ta, thế hệ cha ông vì ở thế nhược tiểu đã bị thế lực quốc tế
bức tử nên vì tương lai con cháu, vì chúng, mới liều chết ra đi để
chúng mới có sự nghiệp như ngày hôm nay. Nếu không phản lại được
những tư tưởng chạy tội của thế lực quốc tế, của những kẻ nội thù,
đảng csVN cam phận làm thái thú cho Tàu cộng thì chúng ta đã không
làm tròn bổn phận của người tỵ nạn cs, và phần nào đã tự mình đổ tội
lên đầu mình.
Tuy
nhiên tin vào hồn thiêng sông núi, sức mạnh của dân tộc, lòng quả
cảm, sự cương quyết của giống nói. Việt Nam phải phục sinh.
Hãy suy nghĩ đúng và hành động đúng.
Fleming Island, Florida
27-11-2017
Nguyễn Tiến Cảnh
(1)
Danh từ SIÊU QUỐC GIA VIỆT NAM đã được
chúng tôi dùng tại Đại Hội IV Hội quốc tế Y sĩ Việt Nam tự do ngày
30, 31 tháng 7 và 1 tháng 8 năm 1993 tại Orlando, Florida trong bài
thuyết trình về VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG VIỆT NAM HẢI NGOẠI.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by ddcb chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, February 20, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang