Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Thời sự Hải Ngoại
Chủ đề: Biển đảo VN
Tác giả:
Tạ Văn Tài, Ph.D., luật sư,
Nguyên giảng viên Đại học Luật
Harvard, Hoa Kỳ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Vào
thời đại xa xưa, mà Đại Việt còn là tiểu quốc đơn độc tại Đông
Nam Á trước đại cường phía Bắc, sức mạnh quân sự thiên hẳn về
cường quốc phương Bắc, nhưng tinh thần dân tộc kiên cường đã
chiến thắng bọn xâm lược: vua quan và nhân dân Nhà Trần đã đại
thắng, đẩy lui nhiều cuộc tấn công của quân Nguyên, Lê Thái Tổ và
các sĩ phu giỏi như Nguyễn Trãi cùng quân sĩ đã trường kỳ kháng
chiến chống quân Minh, kết thúc bằng Tuyên ngôn Độc lập vang dậy
Bình Ngô đại cáo, “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn / Lấy chí nhân
mà thay cường bạo”.
Việt Nam cần sử dụng tối đa chính
nghĩa Luật Quốc tế để bảo vệ quyền về biển đảo tại Biển Đông, y
như Tuyên ngôn Bình Ngô đại cáo: Áp dụng gương sáng và bài học
lịch sử đó cho sự bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay chống tham
vọng Đại Hán của Trung cộng – tức là nếu vận dụng sức mạnh chính
nghĩa của luật pháp quốc tế và do đó, sẽ có thêm sự ủng hộ ngoại
giao của thế giới, thì Việt Nam ngày nay, đang có nhiều cường
quốc bạn trong nền ngoại giao đa phương và Việt Nam cũng từng là
nước hội viên và Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, lại
được tuyệt đại đa số nhân dân trong nước và hải ngoại ủng hộ việc
cương nghị với Đại Hán để bảo vệ chủ quyền biển đảo – thì chắc
Việt Nam không thể bị thua thiệt, bị Trung cộng lấn át được, cho
dù Trung cộng những năm gần đây cứ thỉnh thoảng lại có hành vi
hung hãn như đâm vỡ ngư thuyền của dân chài Việt Nam, bắt giam họ
mà đòi tiền chuộc, đem hạm đội tầu cá và hải giám của họ ào ạt
vào Biển Đông, đem giàn khoan vào Thềm lục địa Việt Nam.
Lãnh đạo cao cấp có thể dùng ngôn ngữ ngoại giao, lịch sự để cố
duy trì hòa bình hữu nghị, nhưng phải để cho các nhân viên ngoại
giao cấp dưới và cố vấn luật pháp dùng những lý luận cương nghị
nhất trong cuộc đấu tranh pháp luật, mà trên diễn đàn quốc tế bây
giờ thường gọi là lawfare, như là khí giới quan trọng ngang hàng
với chuẩn bị warfare/chiến tranh, nếu cần. Vì nếu có căn bản pháp
luật vững chắc cho lập trường của mình, thì một quốc gia mới có
thể tìm được các sự ủng hộ về mặt chính trị – ngoại giao của các
nước bạn, tức là có nhiều sức mạnh mềm (soft power) để củng cố vị
thế của mình, trước khi phải bất đắc dĩ dùng đến sức mạnh quân sự
trong việc tự vệ đơn phương hay tập thể (defensive warfare,
collective defense), theo đúng Hiến chương Liên Hiệp Quốc, đúng
theo nguyên tắc exhaustion of peaceful remedies (Tận dụng các
biện pháp hòa bình).
Xin đề nghị một chương trình hành
động để Việt Nam bảo vệ chủ quyền đất đai (sovereignty on
territories) của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, sau khi có
biến cố quan trọng là Phán quyết năm 2016 của Tòa án Trọng tài
Luật Biển trong vụ Phi Luật Tân kiện Trung cộng, tuy Bản án phần
lớn là đưa ra các kết luận về vùng biển (maritime areas), hơn là
về điểm nước nào làm chủ vùng đất đai nào (sovereignty over
territories, tức đảo, đá).
Trong những năm trước khi có
Bản án 2016 của Tòa án Trọng tài Luật Biển trong vụ Phi kiện
Trung cộng, thì chúng tôi đã có những nỗ lực giúp cho quyền và
lợi ích của Việt Nam trong những bài viết và phát biểu cho các
Hội thảo Quốc tế về Biển Đông tại Việt Nam, ở Quảng Ngãi 2013, ở
Đà Nẵng 2014 (dịp Trung cộng đem giàn khoan vô vùng biển Việt
Nam), ở Nha Trang 2016, ở Harvard University nhiều lần, ở
University of California, Berkeley 2014 và ở Yale University
(phải nói, riêng Hội thảo chỗ này diễn ra năm 2017), và chúng tôi
cũng có các dịp trả lời cho phỏng vấn tại Truyền hình Việt Nam
VTV4 hay báo Quân đội Nhân dân hay Thời báo Kinh tế Sài Gòn trong
các dịp các Hội thảo trên, hay trả lời phỏng vấn trên Radio Free
Asia, Radio France Internationale, Voice of America. Ngoài ra, có
hai lần Hội thảo Quốc tế về phân định biên giới vùng biển và kỹ
thuật khoan dầu biển khơi tại Houston, năm 2010 và 2012, trong đó
chúng tôi không đóng góp bài tham luận, nhưng có đứng lên chất
vấn đại diện Sở Đại dương Trung cộng và Công ty China National
Offshore Oil Corporation về những phát biểu sai pháp luật quốc tế
của họ.
Trong các dịp dự các Hội thảo Quốc tế hay trả lời
phỏng vấn trên, chúng tôi đã cố gắng trình bày chi tiết, ít hay
nhiều tùy dịp, là chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại phần lớn
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (không phải là trên tất cả các
đá, bãi ngầm) và các quyền chủ quyền (sovereign rights, về tài
nguyên) đi liền với các vùng biển chung quanh chúng, mà luật quốc
tế dành cho Việt Nam, thì được xây trên các căn bản chắc chắn của
các chứng cớ sự kiện lịch sử và các nguyên tắc của quốc tế công
pháp truyền thống và của luật quốc tế mới trong Công ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển (United Nations Convention on the Law of
the Sea, UNCLOS).
Ngoài các lời biện hộ cho Việt Nam dựa
trên căn bản các sự kiện lịch sử và các luận cứ pháp luật, chúng
tôi có nhắc đến một sự kiện được một luật sư lãnh đạo đoàn luật
sư của Phi Luật Tân tại Tòa Luật Biển là ông Francis Jardeleza,
trong hai lần ông đến Harvard thuyết trình, có nói lại với tôi là
Chính phủ Phi Luật Tân, năm 2014, có rủ Việt Nam, và Malaysia
nữa, cùng nạp đơn kiện Trung cộng, sau khi Phi đã nghĩ kỹ về giải
pháp thương nghị để gỉảm thiểu sự lấn lướt trong 17 năm của Trung
cộng, mà Phi cố gắng mãi không xong, nhưng Việt Nam rút cục chỉ
nạp một vài ý kiến dự sự để yêu cầu Tòa để ý đến quyền lợi của
Việt Nam. Rút cục thì Phi Luật Tân đã thắng vẻ vang tại Tòa Luật
Biển năm 2016 mà Việt Nam thì hụt mất một cơ hội để có một Bản án
về quyền lợi của mình, trong đó mình đã tham gia với tư cách
nguyên đơn. Còn nếu chỉ có một văn thư xin Tòa để ý cho mình, thì
Việt Nam không có một Bản án thắng Trung cộng mà từ đó trở đi có
thể dán lên ngực đại diện Trung cộng mỗi khi phải đương đầu với
họ, với luật pháp quốc tế do tòa phán quyết, như một khí giới đại
nghĩa thắng được sự hung tàn. Luận cứ luật pháp là sức mạnh của
kẻ yếu về quân sự, cần vận dụng tối đa, ngoài sự vận dụng ngoại
giao và ủng hộ của các cường quốc mạnh về quân sự. Chính cái
thành ngữ tiếng Việt “đinh đóng cột” mà tôi đã nói trên radio
trong câu “quyền lợi trong Vùng Đặc quyền Kinh tế và Thềm lục địa
của các nước cận duyên như Việt Nam đã được luật quốc tế minh
định chắc chắn như ‘đinh đóng cột’”, đã được một ông Tầu cộng
trong đài Á Châu Tự Do nhắc lại và nói là nghe tôi nói trong đài
Á Châu Tự Do và muốn hỏi lại tôi điều này, điều kia về quan điểm
về quyền lợi Việt Nam.
Vì những kinh nghiệm trên, chúng
tôi càng có xác tín là cần phải xây dựng trên cái đà chiến thắng
của luật pháp quốc tế, tượng trưng bởi Bản án 2016 của Tòa Trọng
tài trong vụ Phi kiện Trung cộng, mà suy ra Việt Nam có thể dựa
trên Bản án đó mà củng cố thêm quyền lợi và thế đứng chính nghĩa
của mình ra sao.
Không thể có chỗ ở đây để nhắc lại tất cả
các chi tiết về các luận cứ pháp lý, về chủ quyền đất đai
(sovereignty over land features) và quyền chủ quyền trong các
vùng biển (sovereign rights in the maritime zones, EEZ và
Continental Shelf), mà chúng tôi đã đưa ra trong các bài tham
luận đóng góp cho các Hội thảo Quốc tế suốt từ 2010 cho đến 2017.
Vì thế ở thời điểm 2018 này, chỉ xin đề nghị là chỉ xây đắp luận
cứ pháp lý cho Việt Nam dựa trên biến cố trọng đại gần đây mà
thôi, tức là Bản án Tòa Trọng tài 2016 trong vụ kiện Phi chống
Trung cộng.
Xin suy ra các hệ luận từ Bản án đó trong vụ
Phi kiện Trung cộng cho vấn đề chủ quyền đất đai của Việt Nam.
Đây là làm một việc mà đạo đức nghề nghiệp luật sư (code of
professional ethics) khuyến khích như một sứ mạng: cố kéo dài
luật pháp (extension of the law) để nhấn đến mức tối đa lợi ích
của của người hay quốc gia mình biện hộ. Ngay cả nước ưa dọa dùng
võ lực và cũng đã dùng võ lực là Trung cộng cũng phải đồng ý, dù
là đồng ý miễn cưỡng, với các nước Đông Nam Á là nên biến các quy
tắc ứng xử nhiệm ý ở Biển Đông (Declaration of Conduct) thành một
Bộ luật Ứng xử (Code of Conduct), với giá trị cưỡng hành để có
chính nghĩa của luật pháp có hiệu lực bó buộc.
Bản án
Trọng tài về việc Phi kiện Trung cộng ngày 12 tháng 7, 2016 của
Tòa án Trọng tài Thường trực (Permanent Court of Arbitration) là
một Bản án tuyên phán về ý nghĩa luật pháp và không có hiệu lực
cưỡng hành về mặt buộc một quốc gia phải hành động gì đó, nhưng
Bản án không kháng cáo được mà là chung quyết và bó buộc các phe
đương tụng về mặt thẩm quyền xét xử (compulsory jurisdiction) –
dù Trung cộng lờ Tòa án đi, mà chỉ làm một bài viết bên ngoài Tòa
án, không xuất hiện mà nạp Tòa. Nó là một chiến thắng vẻ vang của
Phi, mà các quốc gia có tình trạng tương tự như Phi được hưởng
lợi về sự giải thích luật của Bản án, và là một sự thất bại ê chề
của Trung cộng trong tham vọng quá đáng xác nhận bừa chủ quyền
trên một khoảng đại dương quá lớn trong Biển Nam Hải (South China
Sea), gọi là vùng Đường 9 đoạn hay Đường lưỡi bò. Khi Tòa bàn về
các vấn đề dưới ánh sáng của Công ước Luật biển (United Nations
Convention on the Law of the Sea – UNCLOS) năm 1982, Bản án của
Tòa không xét đến các lời yêu sách, xác nhận chủ quyền về đất đai
(territorial sovereignty) về đá (rocks) và đảo (islands) có trong
Hoàng Sa và Trường Sa, vì chuyện chủ quyền đất đai thuộc lãnh vực
của Luật Quốc tế Truyền thống hay Tập tục (Traditional or
Customary International Law) đã có từ 4 thế kỷ. Nhưng Bản án có
ảnh hưởng gián tiếp tới việc định nghĩa đặc tính của các mỏm đất
(land features) đó.
Vì thế, sau đây sẽ xin trình bày ảnh
hưởng của Bản án đối với quyền lợi của Việt Nam trong Biển Nam
Hải, về các mỏm đất trong Hoàng Sa và Trường Sa:
I. Tóm lược nội dung Bản án Trọng tài mà phần lớn nói về vùng
biển
Bản án ban cho Phi một chiến thắng pháp lý
rõ rệt, dựa trên các quy tắc luật về vùng biển (maritime zones)
trong UNCLOS: Trung cộng không thể dùng Đường chữ U (Lưỡi bò) mà
đòi chủ quyền lịch sử trên 80% diện tích Nam Hải, phải từ bỏ sự
quấy phá như đã làm, mà phải tôn trọng quyền chủ quyền (sovereign
rights) chuyên độc của Phi Luật Tân về tài nguyên cá, dầu khí,
khoáng sản trong Vùng Đặc quyền Kinh tế (Exclusive Economic Zone)
và Thềm lục địa (Continental Shelf) của Phi, và không được làm
hại tới mức vô phương cứu chữa, như đã làm, gây ra cho sự toàn
vẹn của môi sinh đại dương. Các điểm thắng lợi pháp lý này của
Phi cũng có lợi cho các quốc gia cận duyên khác, như Việt Nam, mà
họ không phải nạp đơn trong một vụ kiện mới nào, vì giải thích
của Tòa là áp dụng cho mọi quốc gia trong UNCLOS.
Chúng
tôi đã viết bài nhận định vế Bản án Tòa Trọng tài cho Hội thảo
tại Nha Trang vào ngày 17 tháng 8, 2016, Hội thảo năm 2016 này là
nỗ lực của Việt Nam tiếp tục đẩy tiến thêm các kết quả của các
Hội thảo tại Quảng Ngãi năm 2013 và Đà Nẵng năm 2014.
Vì
thế trước hết, xin ghi lại vài đoạn của các tham luận cho hai Hội
thảo trước 2013 và 2014, để cùng thấy rõ là may thay, các kết
luận hay quan điểm đưa ra trong các bài tham luận 2013 và 2014
đó, đã được tuyên nhận trong Bản án Trọng tài năm 2016 về vụ Phi
kiện Trung cộng:
‘China
cannot show any international law basis for this ridiculous claim
[on maritimes zones in the U-Line] and has been
self-contradictory at international conferences when providing
various vague rationales for this claim: “historical
circumference” or “adjacent waters”. But such sweeping and
unfounded claims are clearly in violation of the other Southeast
Asian coastal states’ claims on their own territorial seas of 12
miles, their exclusive economic zones and their continental
shelves of 200 miles width measuring from the base line. In these
maritime zones, the coastal states are protected in the exercise
of their exclusive sovereign rights under the 1982 UN Convention
on the Law of the Sea (UNCLOS), articles 56, 57, 76, and 77.
These sovereign rights over natural resources are exclusive to
the coastal states, which they can enjoy without being required
to proclaim a claim to them, and they may construct artificial
structures on rocks, whether submerged or not, into artificial
islands, and carry out sea research, regulate protection of
environment, provided that they respect the rights of other
states to freedom of navigation or to laying of oil pipelines or
cables. Other states than the coastal states cannot exploit
natural resources in the EEZ and Continental Shelf of the coastal
states without their explicit consent. UNCLOS has reserved these
exclusive rights to coastal states as firmly as ‘nail hit into a
wooden pole’ (as we say in the Vietnamese proverb: “chắc như đinh
đóng cột”). The U-shaped line, which claims vast ocean areas for
China, is unsupported by UNCLOS (article 89 says “No State may
validly purport to subject any part of the high sea to its
sovereignty”)’.
“Trung
cộng không đưa ra được căn bản luật quốc tế nào cho sự nhận vơ
này [về Đường 9 đoạn chữ U]”, mà còn mơ hồ hay mâu thuẫn trong
lúc biện giải tại các hội nghị quốc tế, khi thì nói đến “vòng
cung lịch sử” (historical circumference), khi thì nói đến các
“vùng biển lân cận” (adjacent waters) tính từ các đảo/đá của
Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng các yêu sách quá đáng và vô căn cứ
này trái với quyền của các quốc gia cận duyên Đông Nam Á (quanh
Biển Đông) trong vùng lãnh hải (territorial sea) 12 hải lý và
trong Vùng Đặc quyền Kinh tế (Exclusive Economic Zone, EEZ) cũng
như ở Thềm lục địa (Continental Shelf, CS) tính từ Đường cơ sở ra
200 hải lý. Các quyền chủ quyền về tài nguyên, tài nguyên sinh
vật như cá sống trong vùng nước 200 hải lý đó, cũng như tài
nguyên vô sinh như dầu khí và khoáng chất dưới đáy biển, là các
quyền chuyên độc hay dành riêng (exclusive rights) của các quốc
gia cận duyên, mà họ được hưởng mà không cần ra tuyên bố xác lập
(UNCLOS, các điều 56, 57, 76, 77). Các quốc gia cận duyên có
quyền xây các kiến trúc nhân tạo trên các đá, dù nhô trên mặt
nước biển hay ngầm, thành các đảo nhân tạo, thi hành nghiên cứu
biển, qui định việc bảo vệ môi sinh, miễn là họ tôn trọng các
quốc gia khác khi họ sử dụng quyền tự do lưu thông hải hành
(freedom of navigation) hay đặt các ống dẫn dầu và cáp ngầm. Các
quốc gia khác đó không có quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên
trong Vùng Đặc quyền Kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia cận
duyên, nếu không có sự ưng thuận minh thị của các nước cận duyên.
Thực là UNCLOS dành các quyền chuyên độc cho các nước cận duyên
một cách chắc chắn như “đinh đóng cột”. “Đường 9 đoạn” yêu sách
vùng biển rộng lớn cho Trung cộng, là hoàn toàn trái với UNCLOS
(Điều 89 của UNCLOS nói “yêu sách chủ quyền trên biển cả là vô
giá trị”).
Sau sự phản đối của Trung cộng về
thẩm quyền bó buộc của Tòa Trọng tài khi vụ kiện được đệ nạp vào
năm 2013 và về sự không công nhận phán quyết chung kết về các vấn
đề nội dung vào tháng 7-8/2016, được nêu ra bởi nhiều cấp bậc
Chính quyền Trung cộng, từ Chủ tịch Tập, đến Ngoại trưởng, và
Người phát ngôn, thì chính ra nước Tàu đã có thái độ trầm lặng
đối với Bản án (vài học giả còn nói nên công nhận một vài khía
cạnh của Bản án) và hình như Trung cộng không sẵn sàng thực thi
các đe dọa như xây cất thêm ở Vùng Bãi cạn Scarborough hay các đá
ngầm khác, hay lập Vùng Nhận dạng Phòng không (Air Defense
Identification Zone-ADIZ) tại Biển Đông. Hình như Trung cộng
thiên về thương nghị, như chính Đại sứ Trung cộng ở Mỹ nói, và
thiên về đấu tranh pháp lý: không còn nói tới rút lui khỏi
UNCLOS, Tòa án Tối cao Trung cộng đưa ra một quyết nghị chống lại
Tòa ở Hague, tức là Trung cộng thấy cuộc chiến tốt hơn là cuộc
đấu pháp lý (lawfare).
Do đó, ta nên chú trọng đến các
luận cứ pháp lý trong chương trình sau đây cho Việt Nam, dù ta
thấy có thể phải có chiến lược khác nữa là các cường quốc có hải
quân mạnh, như Mỹ, có thể giúp củng cố cho cuộc đấu pháp luật với
vài sự đe dọa võ lực khả tín nào đó, như đưa hàng không mẫu hạm
tới Biển Đông, gần các mẩu đất có tranh chấp.
II.
Ảnh hưởng của Bản án 2016 đối với việc định nghĩa tình trạng pháp
lý của các mẩu đất ở Trường Sa và có thể cả ở Hoàng Sa
Bản án ngày 12 tháng 7, 2016 giải thích như sau về đặc tính
của các mẩu đất tại Trường Sa: tất cả các mẩu đất đó thì (a) hoặc
là đá (rocks) (tức là thực thể nổi trên mặt nước lúc thủy triều
lên cao, nhưng không phải là đảo theo định nghĩa của UNCLOS, tức
là khi ở trong trạng thái thiên nhiên nguyên thủy, nó có nước
ngọt và động, thực vật cho con người có thể sống trong một nền
kinh tế tự chủ), (b) hoặc là các thực thể chỉ thấy nhô lên khi
thủy triều xuống hoặc là chìm khi nước lên. Đá thì có lãnh hải 12
hải lý bao quanh, nhưng các thực thể chìm hay chỉ thấy lúc nước
xuống thì không có lãnh hải đó. Đó là nguyên tắc luật pháp: “đất
ngự trị biển”. Chắc hẳn định nghĩa pháp lý này của Tòa án cũng áp
dụng cho các đá và đá chìm ở Hoàng Sa. Do đó chúng tôi đề nghị là
Việt Nam nên khởi động một vụ kiện tại Tòa Trọng tài, y như vụ
Phi Luật Tân, để xác lập tình trạng pháp lý của các thực thể ở
Hoàng Sa – mà Việt Nam vẫn tuyên nhận chủ quyền, chống sự xâm
lược của Trung cộng đã từ nhiều năm, trong đa số các thực thể đó
– đều là đá, chứ không phải là đảo.
Khi Tòa tuyên bố là
không thực thể nào ở Trường Sa là có thể cho con người cư ngụ
được trong trạng thái thiên nhiên, thì hệ luận là không thực thể
nào là đảo theo định nghĩa trong UNCLOS, mà có thể hưởng được
Vùng Kinh tế Đặc quyền (Exclusive Economic Zone, EEZ) có bề rộng
200 hải lý.
Lời giải thích, tuyên nhận này của Tòa có hậu
quả là bác bỏ giá trị pháp lý, thực ra không có, của luận cứ
Trung cộng vẫn đưa ra để gây tranh chấp: đòi hỏi vô căn cứ pháp
lý là có một vùng Thềm lục địa hay Vùng Kinh tế Đặc quyền rộng
200 hải lý tính từ Đường cơ sở của các mỏm đá, mà Trung cộng tự
định nghĩa là đảo.
Trong hai Hội thảo Quốc tế ở Quảng
Ngãi, 2013 và Đà Nẵng, 2014, chúng tôi đã đưa ra trong các bài
tham luận cái đề nghị giống như tuyên phán năm 2016 của Tòa Trọng
tài, để tiến tới một giải pháp trong đó giảm được tranh chấp do
yêu sách đòi quá đáng một vùng biển rộng hơn là 12 hải lý của
lãnh hải (territorial sea):
For Paracels:
We can ask the Arbitral Tribunal
of the Law of the Sea to use the compulsory procedure to
interpret and apply UNCLOS, (articles 186, 288) and to issue a
declaratory judgment to the effect that all land features in
Paracels, such as Tri Ton, or even Woody, do not satisfy the
conditions for qualification as islands in accordance with
article 121 of UNCLOS. Islands must, in their original state of
nature, have adequate conditions for human habitation and
self-sustaining economy (such as soft water, food raised or
planted locally – if only coca-cola is available for drinking, as
a Malaysian scholar joked, then it is not island). If not island,
then a land feature can only be a reef or rock (article 121,
section 3). If only a rock, it has no exclusive economic zone or
continental shelf, but only the 12-mile territorial sea (article
121, section3). If island, the land feature would then have
territorial sea, contiguous zone, exclusive economic zone, and
continental shelf. In front of the Arbitral Tribunal of the Law
of the Sea, Vietnam can sue under the compulsory procedure to
drag China into the tribunal which would interpret and apply
UNCLOS (articles 286, 288) and hear Vietnam’s presentation of
historical evidence of many centuries on the necessity of Hoang
Sa flottilla to bring soft water and food on its expeditions to
Hoang Sa, and then to withdraw back to the mainland for not being
able to live there all year round, in a self-sustaining economy.
Therefor, at the present moment, China cannot ask for the status
of island for any land feature in Paracels, despite its
construction of artificial structures thereon, or for any
recognition of exclusive economic zone and continental shelf
emanating from any land feature in Paracels.
Về Hoàng Sa:
Việt Nam có thể xin Tòa án Trọng tài Quốc tế về Luật Biển, theo
thẩm quyền bắt buộc về giải thích và áp dụng UNCLOS (điều 186,
288), ra một Bản án tuyên nhận (declaratory judgment) rằng tất cả
các hòn như Tri Tôn hay ngay cả Phú Lâm tại Hoàng Sa, đều không
hội đủ điều kiện để là đảo theo định nghĩa của Điều 121 của
UNCLOS. Đảo phải là nơi mà trong trạng thái thiên nhiên nguyên
thủy, có đủ điều kiện hỗ trợ cho đời sống con người và một nền
kinh tế tự túc (như có nước ngọt, thực phẩm nuôi và trồng tại chỗ
– nếu “chỉ có cocacola thay nước” như một học giả Malaysia nói
đùa, thì không phải là đảo); không đủ điều kiện là đảo thì chỉ có
thể là đá (reef, rock) theo khoản 3 của Điều 121. Và nếu là đá
thì không có Vùng Đặc quyền Kinh tế và thềm lục địa ở chung
quanh, mà chỉ có lãnh hải 12 hải lý (theo khoản 3, Điều 121). Còn
nếu là đảo thì có các vùng nước chung quanh như lãnh hải, vùng
tiếp giáp lãnh hải (Contiguous Zone), Vùng Đặc quyền Kinh tế và
Thềm lục địa giống như lục địa vậy. Trước Tòa án Trọng tài Quốc
tế về Luật Biển, Việt Nam có thể theo thủ tục bắt buộc
(compulsory procedure) để kéo Trung cộng ra tòa, mà yêu cầu tòa
dùng thẩm quyền giải thích và áp dụng UNCLOS (Điều 286 và Điều
288), để Việt Nam trình bày được chứng cứ lịch sử của nhiều thế
kỷ về hoạt động của đội Hoàng Sa trước đây hàng năm đi ra quần
đảo đều phải mang nước ngọt và thực phẩm đi theo, rồi không sống
quanh năm trong một nền kinh tế tự túc được, và do đó, ngay bây
giờ, Trung cộng cũng không đòi quy chế đảo cho Hoàng Sa được, và
cũng không đòi Vùng Đặc quyền Kinh tế và Thềm lục địa 200 hải lý
cho Hoàng Sa được. Và do đó, vào năm 2014, Giàn khoan HD-981 đã
xâm phạm vào Vùng Đặc quyền Kinh tế và Thềm lục địa của Việt Nam.
Chính những người Tầu cộng làm việc tại Hoàng Sa trong những
năm gần đây cũng phải công nhận là Hoàng Sa không đủ nước ngọt do
mưa cung cấp để con người có thể sống (nước giếng thì bị cứt chim
làm độc và do đó không uống được), mà cũng không có đủ rau trái
mà ăn, do đó phải ăn đồ hộp mang từ đất liền ra, và sau hết không
có đất trồng trọt. Do đó, mỗi tháng, phải tiếp tế đồ ăn và nước
uống từ lục địa
(http://www.shtong.gov.cn/.../node839.../userobject1ai121797.html.
(http://baike.baidu.com/view/28617.htm).
Mở rộng chiến
thuật phản biện này sang các đá ở Trường Sa, mà minh chứng tất cả
các hòn ở đó đều là đá trong trạng thái thiên nhiên trước khi xây
các kiến trúc nhân tạo, thì có thể giảm thiểu nhiều sự tranh
giành chủ quyền của Trung cộng trong vùng biển Trường Sa, vì dù
Trung cộng có chiếm vài đá và đá ngầm, họ cũng không thể đòi gì
rộng hơn 12 hải lý lãnh hải quanh các đá đó (đá ngầm cũng không
tạo ra lãnh hải, có xây trên đó cũng không tạo thành đảo, và chỉ
quốc gia cận duyên mới có quyền xây trên đá ngầm – Điều 60
UNCLOS), không thể đòi Vùng Đặc quyền Kinh tế và Thềm lục địa
xuất phát từ các hòn đá; và “Đường 9 đoạn” càng mất cơ sở là có
hòn đất nào đó để bám vào.
III. Hệ luận của Bản án
đối với chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa
Một khi đã mô tả các đặc tính vật lý
của các đá, đá ngầm, hay đá nổi lên lúc thủy triều xuống và định
nghĩa tình trạng pháp lý của các thực thể đất đai ở Hoàng Sa và
Trường Sa, ta còn phải giải quyết vấn đề này, là quốc gia nào có
chủ quyền lãnh thổ trên các thực thể đó. Vấn đề chủ quyền lãnh
thổ của Việt Nam trên các thực thể đất đai trong hai quần đảo thì
do Luật Quốc tế Cổ truyền hay Tục lệ quy định.
Trong hai
Hội thảo Quốc tế trước đây, năm 2013 và 2014, chúng tôi đã bàn về
vấn đề này như sau:
“Claims
of sovereignty over each land feature in the Paracels and
Spratleys must be based on the customary/traditional/ classical
rule of international law of the last 4 centuries on acquisition
of territorial sovereignty over land: a government wishing to
establish a sovereignty claim over a land area has to assert,
after discovery or occupation, its intention to make such claim,
and to continue administering such area in peace, and if such
land area is taken over by another government through the use of
force, it has to protest in order to prevent the new authority to
acquire sovereignty by prescription, i.e. continuous and
undisputed exercise of sovereignty.
The historical facts
about Vietnam’s discovery and occupation of Paracels, and also an
unspecified number of land features in Spratleys, dated back to
centuries-old Vietnamese historical records, such as Phu Bien Tap
Luc (Fronties Chronicles) of Lê Quí Đôn, while Chinese historical
records did not mention Paracels or Spratleys but stopped at
Hainan as the southernmost boundary of China; among these Chinese
records is the detailed Kiangsi emperor map of 1717 compiled by
the French Jesuits, a copy of which, drawn by J.B.Bourguignon,
was recently donated by German Chancellor Merkel to Chinese
President Xi Jin-ping. The Vietnamese historical records under
the emperors and under the French colonial rule show Vietnam’s
repeated assertions of sovereignty over and administration of
both Paracels and Spratleys (which were named Hoang Sa and Truong
Sa). Western travelers’ and Christian missionaries’ writings also
confirmed them.
During the existence of the two Vietnams
from 1954 to 1975, the role of asserting sovereignty over
Paracels and Spratleys fell on the Republic of Vietnam – RVN –
which was entrusted with the administration of Paracels and
Spratleys, situated south of the partition line of 17th parallel,
by the 1954 Geneva Accords, which was signed by a number of big
powers, including by China, and by the Democratic Republic of
Vietnam represented by Prime Minister Pham Van Dong himself.
But the most resounding assertion of Vietnam’s sovereignty
over the Paracels was the valiant sea battle the RVN navy fought
on January 19, 1974 with China’s navy which was sent to occupy
Hoang Sa – for a long time occupied and administered by Vietnam –
after China’s announcing sovereignty over Hoang Sa and Truong Sa
on January 12 and the RVN protested on January 16 with a request
for the United Nations Security Council to take action, which
request was repeated on January 20, for UN Security Council to
hold an emergency meeting. At the June 28, 1974 UN Conference on
the Law of the Sea in Caracas, the RVN repeated its claim of
sovereignty over the archipelagos and its protest against illegal
occupation by China. On September 24, 1975, at talks with a
Vietnamese delegation on visit to China, Vice-Premier Deng
Xiao-ping admitted there was dispute between China and Vietnam on
the archipelagos and suggested discussion to settle the problem.
Ever since the unification of the two Vietnams into one, many
times the successor state of Socialist Republic of Vietnam has
protested whenever there was an encroachment by China, by
presenting historical evidence on the sovereignty of Vietnam over
Paracels and many territories in Spratleys, in declarations or
white papers, in the years of 1978, 1979, 1980, 1981, 1982, 1984,
1988 (protesting China’s declared incorporation of the
archipelagos into Hainan), 1990, 1991, 1994 (protesting – not
China’s territorial claim – rather China’s signing agreement with
Crestone permitting the latter to survey in Vietnam’s continental
shelf and exclusive economic zone), 2012 (protesting China’s
overall plan for management of islands). There was also action in
defense of Vietnam’s sovereignty in 1988 when in supplying the
Vietnamese navymen standing in defense Vietnam-occupied Giac Ma
in the Spratleys, Vietnam suffered 64 casualties. All these words
and acts claiming and defending sovereignty make it impossible
for China to erode Vietnam’s sovereignty by prescription.
During the crisis of the oil rig HD-981, from May to July 2014,
Vietnam brought to the area surrounding the rig many fishery
inspection vessels, the maritime police or coast guard, to demand
withdrawal of the oil rig, so as to preserve sovereignty and
sovereign rights. Vietnamese fishermen continued to fish in the
proximity, despite the harassment of the Chinese vessels, keeping
a safe distance to avoid armed clash, with the purposes of
earning their livelihood and asserting national sovereignty in a
self-controlled manner.
This maneuver to preserve
Vietnamese sovereignty by words and deeds has kept intact the
claim of Vietnam over Paracels and Spratleys and avoided its
erosion”.
Sự xác lập chủ quyền đối với từng
thực thể lãnh thổ trong Vùng Hoàng Sa và Trường Sa này phải dựa
vào quy tắc thủ đắc chủ quyền lãnh thổ của Luật Quốc tế Truyền
thống hay Thông lệ của 4 thế kỷ qua: một chính quyền của một quốc
gia muốn xác lập chủ quyền trên một vùng đất đai thì phải tuyên
bố ý định đó, sau khi khám phá hay chiếm hữu đất đai đó, và liên
tục quản lý trong hòa bình, và nếu bị một chính quyền khác dùng
võ lực chiếm mất, thì phải phản đối để không cho quyền lực mới đó
thủ đắc chủ quyền bằng thời hạn tiêu diệt, nghĩa là có một thời
gian mà chủ thể quyền lực mới thi hành chủ quyền liên tục mà
không ai phản đối.
Các bằng chứng về các sự kiện lịch sử
trong câu chuyện Việt Nam khám phá và chiếm ngụ Hoàng Sa, và một
số thực thể đất đai ở Trường Sa, thì đã được ghi trong các tài
liệu lịch sử Việt Nam có từ nhiều thế kỷ, như cuốn Phủ biên tạp
lục của Lê Quí Đôn. Trong khi đó thì tài liệu lịch sử Trung cộng
không nói tới Hoàng Sa và Trường Sa mà dừng lại ở Đảo Hải Nam là
vùng đất Cực Nam của Trung cộng; trong số tài liệu đó, phải kể
Bản đồ Chi tiết năm 1717 đời Vua Khang Hy của Nhà Thanh, do các
linh mục Dòng Tên Pháp sưu tập, mà một bản do J.B. Bourguignon vẽ
đã được Thủ tướng Đức Merkel gần đây tặng Chủ tịch Trung cộng Tập
Cận Bình. Tài liệu lịch sử của Việt Nam thời các vua chúa và thời
Pháp thuộc cho thấy Việt Nam liên tục xác lập chủ quyền và quản
lý Hoàng Sa và Trường Sa. Các sách viết bởi các du khách Phương
Tây và các nhà truyền đạo Thiên Chúa Giáo cũng xác nhận như thế.
Trong thời kỳ có hai nước Việt Nam, từ 1954 đến 1975, thì vai
trò khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa rơi vào
tay Việt Nam Cộng Hòa, được trao nhiệm vự quản lý Hoàng Sa và
Trường Sa, chúng ở phía nam Vĩ tuyến 17, bởi Hiệp định Geneva
1954, Hiệp định này do các cường quốc trong đó có Trung cộng và
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (do Thủ tướng P. V. Đồng đại diện) ký.
Nhưng sự khẳng định mạnh mẽ nhất về chủ quyền Việt Nam đối
với Hoàng Sa là trận hải chiến can đảm mà các chiến sĩ hải quân
Việt Nam Cộng Hòa đã tiến hành ngày 19 tháng 1, năm 1974 chống
lại hải quân Trung cộng được gửi tới chiếm Hoàng Sa – từ lâu do
Việt Nam chiếm đóng và quản trị – trận này xảy ra sau khi Trung
cộng tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa vào ngày 12
tháng 1 và Việt Nam Cộng Hòa phản đối ngày 16 tháng 1 với lời yêu
cầu Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc can thiệp, lời yêu cầu được
nhắc lại ngày 20 tháng 1, mong Hội đồng họp khẩn. Đến khi Hội
nghị Luật Biển của Liên Hiệp Quốc họp ở Caracas ngày 28 tháng 6,
1974, Việt Nam Cộng Hòa nhắc lại lời xác lập chủ quyền đối với
hai quần đảo và lời phản đối Trung cộng xâm chiếm bất hợp pháp.
Ngày 24 tháng 9, 1975, khi một phái đoàn Việt Nam qua Trung cộng,
Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình công nhận là có tranh chấp giữa
Trung cộng và Việt Nam về hai quần đảo và khuyên hai bên thương
thảo để giải quyết vấn đề.
Sau khi thống nhất đất nước,
CHXHCN Việt Nam, kế quyền Việt Nam Cộng Hòa về các quần đảo, đã
nhiều lần phản đối sự xâm chiếm của Trung cộng. Liên tục nhiều
năm, Việt Nam đã phản đối và đưa ra các chứng cứ lịch sử về chủ
quyền, trong lời tuyên bố hay các Bạch thư (Sách trắng) vào các
năm: 1978, 1979, 1980, 1981, 1982, 1984, 1988 (phản đối Trung
cộng tuyên bố sát nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào đảo
Hải Nam), 1990, 1991, 1994 (phản đối Trung cộng ký hợp đồng với
hãng Crestone cho phép thăm dò trong Thềm lục địa và Vùng Kinh tế
Đặc quyền của Việt Nam), 2012 (phản đối Trung cộng đưa ra chương
trình quản lý các đảo, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa). Việt Nam cũng phải đổ máu bảo vệ chủ quyền ở Gạc Ma
năm 1988 khi đem đồ tiếp tế đến cho các chiến sĩ bảo vệ hòn đá
đó, mà Trung cộng tàn sát 64 chiến sĩ hải quân khi họ đang lội
nước ngang lưng. Trong vụ Giàn khoan HD-981 từ tháng 5/2014 đến
tháng 7, Việt Nam đã đưa tàu kiểm ngư và tàu cảnh sát biển tới
vùng biển nơi HD-981 đang hoạt động trái phép để bảo vệ chủ quyền
và yêu cầu Trung cộng rút giàn khoan. Ngư dân Việt Nam vẫn tiếp
tục đánh cá ở gần đó, mặc dù bị các tàu Trung cộng bao vây nhưng
họ vẫn giữ một khoảng cách an toàn, hầu tránh xung đột võ trang,
vừa để mưu sinh, vừa để bảo vệ chủ quyền với sự tự kiềm chế, mặc
dù Trung cộng rất hung hãn, dùng võ lực, đâm tàu Việt Nam và dùng
súng nước tấn công tàu Việt Nam. Các lời phản đối và hành động
bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với vùng biển Hoàng Sa trong vụ
Giàn khoan HD-981 càng cho thấy chủ quyền Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và vùng biển chung quanh luôn được
duy trì, không hề bị xói mòn.
Về các mỏm đá nổi trên mặt
nước khi thủy triều ở mức cao, mà Việt Nam đã quản lý trong thời
gian lâu từ các năm 1975-76 theo Luật Quốc tế Truyền thống, trước
khi có Công ước Luật biển 1982, dù rằng một số ở trong Thềm lục
địa hay Vùng Đặc quyền Kinh tế của Phi Luật Tân, thì Việt Nam có
thể xây trên các mỏm đá, vốn là vùng đất nổi trên mặt nước trong
trạng thái thiên nhiên (chứ không chìm dưới mặt nước), và tình
trạng pháp lý của chúng không có gì thay đổi, và do đó, Việt Nam
tiếp tục có chủ quyền lãnh thổ đối với các đá này theo Luật Quốc
tế Truyền thống – vì Phi Luật Tân, nước cận duyên gần nhất, theo
UNCLOS, chỉ có quyền chủ quyền về tài nguyên (sovereign rights)
trong Thềm lục địa và Vùng Kinh tế Đặc quyền, chứ không có chủ
quyền lãnh thổ (sovereignty over land territories) ở các vùng
biển đó.
Nhưng các thực thể chìm, hay chỉ nổi lên khi mức
thủy triều xuống thấp, thì có tình trạng pháp lý khác: Việt Nam,
và cả Trung cộng, không thể xây cất các cấu trúc trên các thực
thể đó ở trong Thềm lục địa 200 hải lý của Phi Luật Tân, vì các
thực thể đó là một phần của đáy biển trong Thềm lục địa của Phi
trong đó Phi có quyền chủ quyền về tài nguyên (nhưng Phi cũng
không có chủ quyền lãnh thổ).
Nhưng liệu có cái biệt lệ
nào cho nguyên tắc không có chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia
đối với các đá chìm, mà một vài quốc gia có thể viện ra với lý do
biệt lệ chủ quyền đó là quyền thủ đắc (acquired rights) trong quá
khứ? Thí dụ: liệu Việt Nam có thể lý luận hay không như sau: Các
thực thể ngầm mà Việt Nam đã chiếm ngụ từ các năm trước khi có
UNCLOS, 1982, và quản lý liên tục và xây cất thêm cho chúng nổi
trên mặt nước, mà không chìm nữa, từ các năm xa xưa đó cho đến
năm có UNCLOS 1982, thì các thực thể đó có thể coi là lãnh thổ
thuộc chủ quyền của Việt Nam, chiếu theo Luật Quốc tế Cổ truyền,
hay không? vì UNCLOS không thể áp dụng hồi tố cho các quyền và
tình trạng đã thủ đắc của Việt Nam? Các lãnh thổ nổi trên mặt
nước đó của Việt Nam, có trước 1982, phải chăng phải có lãnh hải
12 hải lý?
Vấn đề sau chót là Vùng Nhận dạng Phòng không
ADIZ. Quốc gia nào không có chủ quyền lãnh thổ trong một vùng đất
nào đó, dù là đá, thì không có quyền pháp lý lập vùng ADIZ (Air
Defense Identification Zone) ở trên cái vùng đất đó, theo Luật
Liên Hiệp Quốc. Đó là lập luận mà các nước Đông Nam Á hay các
quốc gia khác có thể đưa ra chống lại lời yêu sách của Trung cộng
đòi quyền lập ADIZ trong vùng Trường Sa.
IV. Kết
luận
Hậu quả thực tế của Bản án Trọng tài có thể
là Trung cộng và các nước khác không có làm gì để thay đổi nguyên
trạng, như rút lui khỏi các mẩu đất đá họ đã chiếm ngụ hay chiếm
thêm các thực thể khác, và cùng lắm là củng cố những gì họ đã
chiếm bằng cách củng cố các cấu trúc trên đó. Trung cộng không
còn nhắc đến chủ quyền dựa trên Đường chữ U, và đang cần một thời
gian để lấy lại thể diện, và hình như chỉ đặt hy vọng vào kế
họach khác, là khi củng cố các thực thể đá họ đã chiếm, thì sẽ
biến chúng thành đảo có 12 hải lý lãnh hải và có thể có 200 hải
lý Vùng Đặc quyền Kinh tế. Hy vọng này cũng không có căn bản theo
UNCLOS, vì phải là đảo trong trạng thái thiên nhiên nguyên thủy
mới có vùng Thềm lục địa và Đặc quyền Kinh tế 200 hải lý. Vì thế
các nước khác cũng chẳng cần làm gì quá, mà làm mất mặt dân chúng
Tầu cộng mà họ đang bị lãnh đạo khích động với chủ nghĩa quốc gia
quá khích. Việc khuyến cáo chuẩn bị một vụ kiện của Việt Nam để
xác lập tính cách đá, không phải là đảo, của các thực thể ở Hoàng
Sa và Trường Sa, là cốt giảm căng thẳng, căng thẳng bắt nguồn từ
khuynh hướng tham lam quá mức, trái luật quốc tế, về Thềm lục địa
và Vùng Đặc quyền Kinh tế, và về các hệ luận về quyền khai thác
tài nguyên cá, dầu khí, và khoáng sản cho mọi dân tộc quanh Biển
Đông; và do đó Việt Nam có thể cắt nghĩa cho cộng đồng quốc tế là
Việt Nam muốn đóng góp vào hòa bình trong khu vực Biển Đông.
Phải công nhận đã từ rất lâu, có lẽ từ 1988 khi chiếm Gạc Ma,
Trung cộng không chiếm thêm thực thể đá đất nào mới. Về phía các
quốc gia khác có quyền lợi chống bá quyền Trung cộng, thì trong
hơn một năm nay, 2017-2018, Hoa Kỳ đã thực hiện, cùng với một số
nước đồng minh như Anh, Úc, các vụ hải hành xác nhận tự do hàng
hải (Freedom of navigation operations – FONOPS) đi sát vào các
mỏm đá ở Trường Sa và Hoàng Sa. Ngay cả Pháp và Nhật cũng biểu lộ
quyết tâm bảo vệ an ninh và quyền tự do hàng hải tại Biển Đông và
sẵn sàng can thiệp chung khi tình thế đòi hỏi (Theo tin Nikkei
trước khi lên đường sang Tokyo ngày 26/01/2018, Bộ trưởng
Florence Parly của Pháp cho rằng Pháp-Nhật cần biểu lộ quyết tâm
bảo vệ an ninh và quyền tự do hàng hải tại Biển Đông và sẵn sàng
can thiệp chung khi tình thế đòi hỏi. Lên án chiến lược của Trung
cộng đặt quốc tế trước “chuyện đã rồi”, nữ Bộ trưởng Pháp cảnh
cáo: Không phải cứ cắm cờ ở nơi nào đó, thì nơi đó đổi chủ).
Nhưng ta vẫn thấy có vài vụ Trung cộng tiếp tục củng cố các
cấu trúc trên vài thực thể đá đã chiếm, mà không gặp sự phản ứng
thực tế nào như Bộ trưởng Ngoại giao Tillerson và Bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ Mathis đã dọa, và Trung cộng dùng đòn chiến tranh tâm lý
chống Viêt Nam như yêu cầu hãng dầu REPSOL của Tây Ban Nha ngưng
dùng giàn khoan để khai thác lô dầu 136/03 (ngưng vào giữa năm
2017) và lô 07/03 (ngưng vào tháng 3/2018) trong Thềm lục địa của
Việt Nam. Muốn Trung cộng nể vì, cần tránh dùng các hãng của nước
nhỏ như Tây Ban Nha, mà cần bám chặt các hãng dầu của Mỹ, Ấn,
Nhật, Úc. Vì đằng sau các hãng dầu khí đó là có các cường quốc
ngáo ộp đó, để gián chỉ – deter – Trung cộng (Làm sao Tàu dám
vượt mặt hải quân Mỹ mà phá giàn khoan có Mỹ đầu tư?).
Về
việc bảo vệ dân chài Việt Nam, Hội Nghề Cá cũng phản đối và yêu
cầu hải giám giúp đỡ hành nghề cá. Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm
22/03/2018 đã tuyên bố bác bỏ lệnh cấm đánh cá trên Biển Đông mà
Trung cộng lại đơn phương ban hành, cho rằng quyết định đó vi
phạm luật pháp quốc tế.
T.V.T.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Thu về. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by ddcb chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, November 21, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang