Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Chính trị
Chủ đề:
CĐNVQGTNCS/Hải ngoại
Tác giả: Phạm Cao Dương
Bấm vào đây để in ra giấy (PDF)
Binh giả bất tường chi khí (Binh
khí là vật chẳng lành)
Phi quân tử chi
khí (Không phải là vật dùng của Quân tử)
Bất đắc nhi dụng (Bất đắc dĩ phải dùng)
Điềm đạm vi thượng (Nên điềm đạm làm đầu).
(Lão Tử, Đạo Đức Kinh, Chương 31, Nguyễn Tôn Nhan
dịch)
Trước khi vào đề
Tôi khởi sự viết về sự hình thành của
thành phần thứ hai của dân tộc Việt ở Hải
Ngoại từ tháng Hai năm 1982 sau khi đọc một bài báo tường trình
về hội chợ triển lãm Pontiac, Michigan, do Hội Tương Trợ Việt
Nam tổ chức một năm trước đó. Theo tác giả bài báo này, một
trong những diễn giả của hội chợ, sau phần ca ngợi nhiệt tâm và
những thành quả mà giới trẻ Việt Nam Hải Ngoại đã đạt được, đã
đưa ra nhận xét như sau:
“Tất cả đều là Việt Nam. Tuổì trẻ
Việt Nam ở Hải Ngoại. Tự hãnh diện với chính mình, mặc dù đứng
trước họ, tôi chỉ là kẻ đã tiêu gần hết cuộc đời mình. Họ là cái
bóng của chính tôi gần 30năm trước. Thế hệ của tôi gây nhiều đổ
vỡ hơn xây dựng. Thế hệ của tôi đã đưa đẩy họ đến phần
đất xa lạ này. Tôi kỳ vọng họ sẽ làm được những gì tốt đẹp hơn
là chúng tôi đã làm trong 30 năm qua.”
Tôi đặc biệt chú ý tới ba câu cuối của
lời phát biểu này vì chúng gợi cho tôi ý niệm về sự hình thành
của thành phần thứ hai của dân tộc Việt Nam ở ngoài nước
Việt Nam, bên cạnh thành phần còn lại ở trong nước. Sự
hình thành này tôi cho là cơ bản, vô cùng quan trọng cho lịch sử
lâu dài của dân tộc ta. Tuy nhiên, vì được biết vị diễn giả kể
trên từ trước và vì phần nào đồng tuổi với ông, tôi chỉ đồng ý
với ông về những gì ông nói trong hai câu sau mà không đồng ý
với ông về những gì những ông nói trong câu trước. Thế hệ của
tôi quả thực có trách nhiệm “đã đưa đẩy giới trẻ Việt Nam đến
phần đất xa lạ này và chúng tôi luôn kỳ vọng họ sẽ làm tốt đẹp
hơn là chúng tôi đã làm trong 30 năm qua” nhưng tôi không nghĩ
là “thế hệ của chúng tôi đã gây nhiều đổ vỡ hơn xây dựng”. Chúng
tôi đã không hề “gây đổ vỡ trong 30 năm qua” mà trái lại chúng
tôi là nạn nhân của những gì đã xảy ra từ trước do những thế hệ
trước mang lại. Bài viết do đó đã được chuyển sang viết về thế
hệ của chúng tôi và được phổ biến rộng rãi trên các báo chí
đương thời, không riêng ở Hoa Kỳ mà ở nhiều nước khác, trong đó
có tờ Việt Nam Tự Do của nhà báo Duy Sinh Nguyễn Đức Phúc Khôi
(số 80, ra ngày 8 tháng 3 năm 1983) ở Quận Cam, California và tờ
Độc Lập ở Tây Đức.
Đến năm 1989, khi Tạp Chí Thế Kỷ 21 ở
Quận Cam, California ra mắt độc giả Hải Ngoại và khi mọi người
cả trong lẫn ngoài nước nói nhiều về năm 1010, năm Vua Lý Thái
Tổ từ Hoa Lư dời đô ra Thăng Long, tôi lại viết thêm một bài
khác hướng về tương lai và tuổi trẻ, đúng hơn về tương lai của
người Việt Tị Nạn ở Hải Ngoại. Bài viết có nhan đề Dân Tộc Việt
Nam Trước Viễn Ảnh Của Năm 2010, đăng trong Thế Kỷ 21- Bộ 1 – Số
1- Ngày 1 Tháng 5 năm 1989, các trang từ 8 đến 11. Trong bài
này, lần đầu tiên tôi chính thức đưa ra nhận định về sự hình
thành của thành phần thứ hai của Dân Tộc Việt Nam, độc lập với
thành phần thứ nhất còn lại ở trong nước với một niềm tin tưởng
lạc quan về tương lai lâu dài của cả dân tộc thay vì cứ triền
miên ở mãi vị thế nhược tiểu như trong các thiên niên kỷ trước.
Tôi dựa vào các sự kiện trong quá khứ để chứng minh rằng, tới
một tầm vóc nào đó, lịch sử Việt Nam không thể chỉ đếm bằng năm,
bằng chục hay ngay cả trăm năm mà bằng ngàn năm với những điểm
mốc là các năm 111 trước Tây Lịch và 1010 sau Tây Lịch với những
Thế Kỷ Thứ Nhất và Thế Kỷ Thứ Mười sau Tây Lịch là những thời
gian chuyển tiếp nhìn một cách tổng quát, không nhất thiết phải
giới hạn trong các năm 1, 99 hay 900 và 999 mà có thể đẩy tới
hay đẩy lui ít chục năm để có thể hiểu trọn vẹn các biến cố
trong sự diễn tiến lâu dài và ảnh hưởng lớn lao hơn của các biến
cố này. Ở đây là biến cố 1975 và làn sóng bỏ nước ra đi tìm tự
do của hàng triệu dân tị nạn ra khắp thế giới và hậu quả là sang
Thiên Niên Kỷ Thứ Ba, thay vì nói như các trẻ em người Anh trong
Thiên Niên Kỷ trước là “mặt trời không bao giờ lặn trên Đế
Quốc Anh”, người ta sẽ nói “mặt trời không bao
giờ lặn trên những miền đất có người Việt Nam cư ngụ”.
Tôi gợi ý dùng danh xưng
Siêu Quốc Gia Việt Nam để gọi thành phần này.
Bài này sau đó đã được sửa lại và in chung với nhiều tác giả
trong tác phẩm Việt Nam: Đệ Ngũ Thiên Niên Kỷ do Nhà Báo Vương
Kỳ Sơn chủ biên và Trung Tâm Văn Hóa Việt Nam, ở Louisiana ấn
hành năm 1994.
Năm 2017, khi cho xuất bản cuốn
Trước Khi Bão Lụt Tràn Tới: Bảo Đại Trần Trọng Kim và Đế Quốc,
Việt Nam, tôi lại cho in thêm một bài liên hệ tới tuổi trẻ
Việt Nam Hải Ngoại trong một chương riêng, Chương 17, với nhan
đề: “Chuyện Ngoài Lề Sử Học: Sự Hình Thành Của Siêu Quốc Gia
Việt Nam Thiên Niên Kỷ Thứ Ba” nhân chuyện Cộng Đồng Người Việt
ở Quận Cam dựng tượng Đức Trần Hưng Đạo trên Đại Lộ Bolsa, một
việc làm liên hệ tới tín ngưỡng chung của người Việt, và tôi so
sánh cuộc di cư của người Việt cuối Thế Kỷ 20 với các cuộc di cư
của người Hy Lạp và của người Tầu trước kia. Những người này khi
ra đi đã mang theo thần linh của họ. Người Việt ngày nay cũng
vậy. Tính cách độc lập với nước mẹ như vậy đã tiến xa hơn một
bậc. Gọi là siêu vì nó có dân nhưng không có
lãnh thổ, không có chánh quyền. Tôi dùng hai chữ bắt đầu ở đây
là vì vậy, bắt đầu là vì nó tùy thuộc vào ý muốn, ý chí và khả
năng của mọi người dân. Ở đây là người Việt Hải Ngoại. Tôi sẽ
xin nói rõ hơn trong phần cuối của bài này.
Kinh nghiệm của một thế hệ
Trở lại với thế hệ chúng tôi. Vì được
quen vị diễn giả kể trên từ khi còn ở quê nhà, tôi được biết là
ông và tôi cùng sinh vào giữa thập niên 1930 nhưng theo tinh
thần của câu nói của ông, tôi hiểu ông không giới hạn trong mấy
năm giữa thập niên 1930 này khi ông nói tới thế hệ của ông mà
muốn mở rộng hơn, bao gồm không riêng tất cả những người sinh
trong thập niên 1930 mà phần nào luôn cả những người sinh vào
cuối thập niên 1920 và đầu thập niên 1940. Hiểu như vậy những
người thuộc thế hệ anh em chúng tôi đã có dịp sống chung với
nhau và chia sẻ nhiều những nỗi vui buồn, cay đắng, chua sót với
nhau như anh chị em trong một gia đình đông con, sống chung dưới
một mái nhà mà tôi và vị diễn giả kể trên là những người sinh ở
giữa. Mặt khác, ở trường học, chúng tôi có thể còn là thày trò
của nhau.
Một thời tương đối thanh bình, hạnh phúc
Vì sinh trong thời gian kể trên, chúng
tôi đã có may mắn được sống một phần tương đối thanh bình và còn
giữ được phần lớn những tập tục cổ truyền của dân tộc với những
con người còn sót lại của xã hội thời xưa, đặc biệt là những Nhà
Nho đã từng lận đận nơi trường ốc, hay xuất thân là những ông
nghè, ông cử, ông kép, ông tú, ông mền, thày đồ, thày khóa...
trong những kỳ thi cuối cùng của Nho học ở nước nhà. Chúng tôi
cũng được tiếp xúc, được sống với những người nông dân hiền
lành, chất phác, hầu như cả đời chẳng ra khỏi nơi mình ở, được
thấy các quan tri phủ, tri huyện, bố chánh, án sát, tuần phủ hay
tổng đốc, hay gần gũi hơn, các học quan, như các quan đốc học,
kiểm học, giáo thụ, huấn đạo, ngực đeo bài ngà khi các ngài đến
thăm trường hay đến thăm vùng mình ở. Chúng tôi cũng còn được
thấy các ngài mặc áo đại trào trong các buổi tế lễ cổ truyền.
Chúng tôi cũng biết chào các bậc tôn trưởng của mình bằng các
tiếng “lạy” và “ạ”, biết “lên gối”, “xuống gối” trước bàn thờ tổ
tiên nhà mình hay ở các từ đường của dòng họ. Khi nói chuyện với
bạn bè chúng tôi phải gọi nhau bằng “anh, chị” hay cùng lắm bằng
“cậu, tôi” hay “đằng ấy” và “tớ” chứ không được “mày, tao” đúng
như cách xưng hô giữa các nhân vật trong “Quốc Văn Giáo Khoa
Thư” của các ông Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đỗ Thận mà
chúng tôi là sản phẩm, và tuyệt đối không bao giờ được chửi thề,
nói tục. Chửi thề hay nói tục chắc chắn là bị la rầy và bị phạt,
hay nặng hơn, bị ăn đòn hay phạt quỳ. Mặc dù còn nhỏ, chúng tôi
còn được thấy, được đọc hay đọc lén, hay ít ra được nghe nói tới
những tác phẩm của các nhà văn lớn thời tiền chiến khi những tác
phẩm này mới được phát hành, không chỉ riêng các vị trong Tự Lực
Văn Đoàn mà còn Tô Hoài, Trần Tiêu, Ngọc Giao, Lan Khai... Chúng
tôi cũng được đọc các báo chí ấn hành hồi đầu thập niên 1940 khi
chúng được các bậc cha mẹ, ông bà mua dài hạn và được gửi đến
nhà. Chúng tôi cũng được nghe danh các vị trí thức, khoa bảng
lớn đương thời trong đó có anh em hai ông Phan Anh, Phan Mỹ và
các ông, Hoàng Xuân Hãn Đặng Thái Mai, với chữ Thái còn được
viết với dấu “sắc” thay vì không có dấu như sau này, luôn cả tên
ông Võ Nguyên Giáp... Chúng tôi cũng được nghe những ca khúc của
thời tiền chiến và tập hát những bài ca lịch sử như Bóng Cờ
Lau, Trên Sông Bạch Đằng, Bạch Đằng Giang,...
trong lớp học, hay theo người lớn hát những bài ca trữ tình như
Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Chinh Phụ Ca... Trong số những
bài hát này có bài Tiếng Gọi Thanh Niên sau trở thành quốc ca
của người Việt Quốc Gia, hồi ấy còn mang tên là “Tiếng Gọi
Sinh Viên” hay “Sinh Viên Hành Khúc” do các sinh
viên Đại Học Hà Nội tản cư về tạm cư ở gần nhà dạy. Bài hát này
được phổ biến vô cùng rộng rãi dưới thời Chính Phủ Trần Trọng
Kim, được người đương thời bán chính thức coi như quốc ca của
nước Việt Nam lần đầu tiên được độc lập và được cử hành trong
các cuộc biểu tình hay tụ tập đông người. Chúng tôi cũng còn
được xem các phim thời sự trong đó có hình ảnh Vua Bảo Đại và
Nam Phương Hoàng Hậu đến thăm Đế Thiên Đế Thích được chiếu ở sân
trường hay các sân vận động, bên cạnh những hình ảnh về kinh
thành Huế lúc còn nguyên vẹn và nếu là người Huế thì còn thấy
tận mắt kinh thành này với Điện Cần Chánh và Điện Kiến Trung nơi
Vua Bảo Đại cư ngụ và làm việc, những điện sau này những người
miền Bắc như chúng tôi chẳng bao giờ còn thấy được sau chính
sách “tiêu thổ kháng chiến” do Tổng Bí Thư Trường Chinh của Đảng
Cộng Sản khởi xướng khi Chiến Tranh Việt-Pháp bùng nổ vào cuối
năm 1946 cùng với biết bao đền đài, cung điện, dinh thự, miếu
mạo, chùa chiền, nhà cửa có giá trị lịch sử khác. Nói cách khác,
khi chúng tôi chưa lớn, hay bắt đầu lớn, đất nước Việt Nam tuy
chưa độc lập, tự do, tuy không phải là một nước phú cường và bị
người Pháp đô hộ từ cả non thế kỷ nhưng hầu hết tất cả những gì
những thế hệ đi trước, hoặc xa hơn do ông bà, tổ tiên xây dựng
và để lại, từ hàng trăm, hàng ngàn năm trước vẫn còn
nguyên vẹn. Anh linh của Quốc Tổ, của các anh hùng,
liệt sĩ nương theo truyền thống thờ phượng của cả dân tộc từ
ngàn xưa vẫn còn uy nghi, phảng phất trong
không gian và trong lòng trẻ thơ của chúng tôi mỗi khi chúng tôi
tới thăm đền thờ các ngài hay mỗi khi nhà trường hay chính quyền
địa phương làm lễ kỷ niệm các ngài. Người nông dân tuy còn ở
hoàn cảnh thiếu thốn, tối tăm, vẫn còn được sống cuộc
sống hiền lành, chân thật, biết quý trọng tình nghĩa đồng bào,
chưa biết thế nào là căm thù, hằn học, đặc biệt là chưa biết thế
nào là giai cấp đấu tranh, là vô sản, bần cố nông, địa chủ, là
trí, phú, địa hào.
Sau này ở các thành phố hay những vùng
bị Việt Minh gọi là tạm chiếm, thời Chính Phủ Quốc Gia của Cựu
Hoàng Bảo Đại, mọi sinh hoạt hầu như đã được hồi sinh. Chúng tôi
được đi học trở lại hay tiếp tục học cao hơn sau khi thi bằng
tương đương. Nhiều người sau đó được ra ngoại quốc du học khiến
cho sau này Miền Nam có đủ một lực lượng trí thức để xây dựng
đất nước. Chúng tôi cũng được dự những buổi tế lễ cổ truyền hay
tham gia kỷ niệm các anh hùng liệt sĩ có các quan chức địa
phương tới dự. Chúng tôi cũng được sống lại những ngày Tết với
những tập tục cổ truyền. Chúng tôi cũng được tham gia hay làm
khán giả những cuộc tranh đua hay trình diễn thể thao, điển hình
là những cuộc đua xe đạp vòng quanh bờ hồ Hoàn Kiếm hay vườn hoa
Nam Định trong đó già trẻ đều có mặt, đặc biệt là Ông Bát Già,
đã ngoài 80 tuổi, nổi tiếng cầm “đèn đỏ” nhưng không bao giờ bỏ
cuộc. Chúng tôi cũng được hát những bài hát tươi vui, lành mạnh,
cổ võ cho tinh thần thống nhất đất nước, xây dựng xã hội và tuổi
trẻ của các nhạc sĩ đồng thời cũng là các nhà giáo đương thời
như Thẩm Oánh, Hùng Lân... trong đó có Nhà Việt
Nam, Cô Gái Việt Nam, Khỏe Vì Nước, Học Sinh Hành Khúc...
một thời nhiều người cho là đẹp, với dư âm kéo dài mãi đến những
năm đầu của thập niên 60 của thế kỷ trước.
Khi những biến động bắt đầu
Khi chúng tôi bắt đầu hiểu biết hay
bắt đầu lớn lên thì đất nước cũng liên tiếp trải qua những biến
động kinh hoàng. Phải nói chúng tôi, những trẻ thơ Việt Nam được
biết và được thấy tận mắt những gì gọi là thân phận của những
người dân nô lệ và nhược tiểu dưới thời Pháp, Pháp-Nhật và sau
này là Nhật rồi Tầu, cảnh người Pháp bị đảo chánh sau đó, cảnh
các thành phố bị máy bay Mỹ oanh tạc, cảnh tản cư chạy loạn của
dân các thành phố với sự tốt bụng, thương người, nói chung là tử
tế của người dân các miền quê. Tệ hơn hết là “Trận Đói
Tháng Ba Năm Ất Dậu1945” với hình ảnh của từng đoàn
người già trẻ có, lớn bé có, chỉ còn có da bọc xương thay vì béo
tốt như trong các phim tài liệu sau này, từ các miền quê kéo
nhau lên tỉnh với những bà mẹ đã chết nằm bên vệ đường nhưng đứa
con hãy còn nằm trên bụng, miệng nhay vú mẹ, tiếng kêu khóc, rên
rỉ suốt đêm của những người bị đói rét hành hạ, phát xuất từ một
ngôi đền gần nhà, bị bỏ hoang nào đó. Chúng tôi cũng được sống,
được thấy, đôi khi được tham dự những biến cố sôi sục của lịch
sử sau đó, khi những lá cờ thuộc đủ mọi phe nhóm xuất hiện trên
đất nước Việt Nam, cùng với sự xuất hiện của những cán bộ “răng
đen mã tấu” và những thủ đoạn bịp bợm, đôi khi ngu
dốt của những người Cộng Sản, kèm theo đó là sự mất tích của một
số nhân vật quen thuộc, hay những xác người đầu một nơi, mình
một nẻo với một bản án viết nguệch ngoạc cài trên ngực áo.
Cùng với sự lớn lên của chúng tôi là
sự xuất hiện hay trở nên phổ thông trong ngôn ngữ Việt Nam vô số
những từ ngữ mới như cách mạng, cứu quốc, chiến khu, du kích,
đồng chí, Việt gian..., đặc biệt là những từ ngữ liên hệ tới các
hành vi tra tấn, thủ tiêu như mò tôm, đi tầu bay, tầu ngầm,
trước đó chúng tôi không hề được học ở nhà trường. Chúng tôi
cũng không nghĩ chúng là do anh em chúng tôi đặt ra, nhưng chúng
tôi đã được chứng kiến những thể hiện cụ thể của chúng, với
những buổi sáng thức dậy, mở cửa, ra đường thấy những xác người,
tay còn bị trói giật cánh khuỷu, nằm cong queo ở một góc phố hay
một bìa rừng nào đó, hay những đầu người, không phải là ngoại
quốc, được xâu thành chuỗi vào những chiếc đòn xóc hay đòn càn,
xuyên qua miệng và cổ họng, đặt trước một quận đường ngay giữa
thành phố hay một văn phòng của một hội đồng xã ở thôn quê. Sau
này, khi đã hồi cư “về thành”, buổi chiều hay những ngày nghỉ,
ra sông tắm hay tập bơi thỉnh thoảng chúng tôi cũng thấy hay
đụng phải những xác người, kể cả phụ nữ trôi bồng bềnh theo
những làn nước đục, giữa những đám cây khô, vô tư, vô giác, phát
xuất từ một rừng núi thâm u hay ngay cả một làng thôn gần đó,
kèm theo với những cảnh giật mìn, đào đường, đắp ụ mà nạn nhân
không phải là lính Pháp mà lại chính là những thường dân vô tội
đi lại buôn bán làm ăn nuôi gia đình.
Trong những năm đầu của cuộc chiến
tranh chống Pháp giành độc lập, chúng tôi cũng được chứng kiến
cảnh đốt phá nhà cửa, đền đài, cung điện của người mình bởi
chính người mình và do người mình chủ trương và gây ra trong
chính sách gọi là “tiêu thổ kháng chiến” mà anh em chúng tôi
chắc chắn là do những kẻ đã nhập cảng từ một nước Nga xa xôi nào
đó.
Chúng tôi
là những người hồi thiếu niên còn được sống dưới chế độ quân
chủ, trong đó nước nhà còn có vua, có hoàng hậu, công chúa,
hoàng tử... với cái ấn vua Tầu phong cho vua ta. Ấn ấy bây giờ
nếu còn sẽ là một cổ vật vô giá cho một bảo tàng viện của dân
tộc, nhưng người ta đã tẩu tán ngay từ những ngày đầu của cái
gọi là cách mạng. Nó đã bị phá hủy cùng với không biết bao nhiêu
là đền đài, cung điện, nhà cửa, cầu cống và các cổ vật vô giá
khác. Người ta, những người tự nhận là cách mạng đã mang những
cái bàn chạm trổ công phu, lưu truyền từ nhiều đời lên núi để
thái thịt, đã nấu nước trà hay vấn thuốc hút bằng những tờ giấy
bản xé từ các tài liệu lấy từ các cơ sở của triều đình cũ. Chúng
tôi cũng một phần là sản phẩm của một nền giáo dục trong đó
những quan niệm xưa cũ chưa bị lên án, đả kích hay loại bỏ và
thi ca còn được mọi người ưa thích. Nhưng trong số những thi ca
chúng tôi được nghe và ghi nhớ, được các cụ trong vùng lưu
truyền rộng rãi với những lời phê bình nghiêm khắc, từ đó học
thuộc luôn, có bài thơ của người lãnh đạo đương thời trong đó
ông đã tự ví mình với Đức Trần Hưng Đạo và gọi Đức Thánh Trần,
vị anh hùng của dân tộc, người đã sống trước ông cả bảy thế kỷ,
người đã được toàn thể quốc dân tôn thờ, coi là Thánh, là “bác”
và xưng là “tôi”. Bài thơ tôi còn nhớ đại khái:
Bác
trước, tôi sau cũng anh hùng
Cũng gan,
cũng góc, cũng kiếm cung.
Bác diệt quân
Nguyên thanh kiếm bạc,
Tôi trừ giặc
Pháp ngọn cờ hồng.
Bác đưa dân đến đừng nô lệ,
Tôi dắt năm châu đến đại đồng.
Bác có
anh linh cười một tiếng,
Để cho tôi sớm
được thành công.
Chưa hết, ngay từ những ngày đầu của
niên khóa 1945-1946, bên cạnh bài thơ Ngày Tựu Trường với những
hình ảnh và kỷ niệm vô cùng tươi đẹp, trẻ trung của tuổi học
trò, với những câu mở đầu mà tôi còn nhớ:
Giờ
nao nức của một thời trẻ dại,
Hỡi ngói
nâu! Hỡi tường trắng, cửa gương!
Những
chàng trai mười lăm tuổi vào trường,
Gương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc.
và bức thư gửi “Các em học sinh”
cũng của nhà lãnh đạo này với câu mở đầu:
“Các em
học sinh! Các em hãy nghe lời tôi, lời của một người
anh lớn, lúc nào cũng ân cần mong
mỏi cho các em được giỏi
giang....”
để đến bây giờ, sau khi ở tuổi trên
80, sống gần trọn cuộc đời, người viết vẫn còn nhớ trọn cả bài
và nhận ra rằng sau này người ta đã sửa đi nhiều lắm. Hóa ra
cách mạng là như thế! Cách mạng là tất cả đều là giống nhau, đều
là bằng vai, phải lứa với nhau, để một ông già trên năm mươi
tuổi, bắt cả nước phải gọi bằng “Cụ”, gọi những học sinh tuổi
chỉ đáng cháu nội hay cháu ngoại mình, là “Các em” và tự xưng là
“anh lớn”. Cũng vậy, cách mạng là tất cả gọi nhau bằng “đồng
chí”, “Đồng Chí Cha”, “Đồng Chí Con” mà nhiều người lớn tuổi phê
bình... Cũng như sau này tiếng trống trường bị thay thế bằng
tiếng kẻng của nhà tù với “cái kẻng” là một sản phẩm mới của
chính sách “tiêu thổ kháng chiến”, “vườn không, nhà trống” khi
người ta bóc đường “rầy” để phá đường xe lửa và dùng những cái
“tà vẹc” đem treo làm chuông dùng trong các nhà tù. Vô tình hay
hữu ý, nó đã chiếm chỗ của cái trống và từ tiếng gọi hiền lành,
thân yêu hướng vào tuổi trẻ, tiếng trống đã bị thay thế bằng âm
thanh chói tai, nhức óc, đầy đe dọa của các trại tù. Những hình
ảnh như:
“Xuân
đi học coi người hớn hở,
Gặp Cậu Thu đi
ở giữa đàng
Hỏi rằng sao đã vội vàng?
Trống chưa nghe đánh, đến tràng làm chi?...”.
quen thuộc với chúng tôi qua một bài
tập đọc trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Sơ Đẳng hoàn toàn không
còn nữa.
Những biến cố liên tiếp kể trên đã đưa tới những mất mát và mất
mát vĩnh viễn cùng với sự lớn lên và trưởng thành của thế hệ
chúng tôi. Những mất mát, tôi thấy cần phải nhắc lại là
hoàn toàn không do anh em chúng tôi gây ra, cũng như sự
nhập cảng của một số những gì mới, trong đó có chủ nghĩa
cộng sản mà tôi nghĩ là yếu tố chính đã đưa tới sự phân hóa thê
thảm, từ đó sự phá sản trầm trọng của dân tộc. Nói cách
khác, khi chúng tôi lớn lên và trưởng thành, đất nước Việt Nam
không còn được như xưa nữa để cho chúng tôi tập sự làm công dân
của nước Việt Nam độc lập, trong một thế giới đầy ắp những đổi
thay và tiến bộ nhanh chóng đến độ làm cho người ta phải chóng
mặt. Bên cạnh đó là một số những tư tưởng và những hiểu biết mới
mẻ mà các thế hệ đi trước đã du nhập nhưng chưa tiêu hóa nổi.
Nhưng nếu chỉ có thế thì có gì để nói, và nhận định của tôi đã
hoàn toàn mâu thuẫn với nhận định của vị diễn giả kể trên. Thực
sự thì thế hệ chúng tôi không phải là thế hệ đã gây ra
những đổ vỡ và sau này là sụp đổ. Như đã nói ở trên,
chúng tôi trưởng thành và hoạt động trong những năm năm mươi và
sáu mươi của thế kỷ trước và liên tục đến tận bây giờ. Do đó
chúng tôi cũng còn được may mắn hơn những thế hệ đàn em, đàn con
hay đàn cháu của chúng tôi đang sống tha hương ở hải ngoại. Lý
do là vì chúng tôi còn có đất nước và đồng bào để phục vụ, một
lý tưởng đẹp để hướng tới. Nói như vậy không có nghĩa là các thế
hệ hiện tại không có lý tưởng để tôn thờ mà vì lý tưởng
của chúng tôi thời đó vượt lên trên quyền lợi cá nhân,
từ đó cao cả hơn, rõ ràng hơn, gần gũi hơn, đơn giản hơn và có
vẻ dễ thực hiện hơn. Chúng tôi còn có nhau, còn quy tụ được với
nhau và còn quê hương, còn đồng bào. Chúng tôi còn có một quốc
gia với một thể chế dân chủ tương đối toàn hảo, với đầy đủ những
định chế mà bất cứ chế độ dân chủ tân tiến nào cũng phải có và
một nền pháp trị không phải hoàn toàn trên giấy tờ. Tất cả đã
được thành hình qua xương máu, mồ hôi, nước mắt của nhiều thế
hệ, kể cả thế hệ của chính chúng tôi. Nhưng cuối cùng thì chúng
tôi đã không giữ được dầu cho nhiều người đã nằm xuống một cách
âm thầm hay đã ra đi trong tức tưởi. Như một đại hồng thủy, biến
cố 30 Tháng Tư 1975 đã cuốn trôi và làm mục nát tất cả giống như
biến cố 19 Tháng Tám 1945 đã làm sụp đổ những công trình của Vua
Bảo Đại và Chính Phủ của Học Giả Trần Trọng Kim trước đó. Một
lần nữa đất nước Việt Nam lại mất thêm cơ hội trở thành một nước
dân chủ tiến bộ mà tình hình thế giới khiến chúng tôi không làm
gì được, ngoại trừ đem các con em cùa mình từ bỏ đất nước ra đi
tìm một tương lai mới, bất kể mọi mất mát, hiểm nguy, đau đớn,
chia lìa. Tất cả phải làm lại từ đầu, phải học lại từ đầu. Những
người sinh ra trong các thập niên 30 hay 40 của thế kỷ trước nay
đã đếm tuổi mình bằng con số bảy mươi hay tám mươi, kể cả chín
mươi và một số đã vĩnh viễn ra đi. Bóng chiều đã xế,
đường đi vẫn còn dài. Có điều tình hình đã hoàn toàn
thay đổi và chúng tôi có thể tin là các thế hệ con cháu chúng
tôi sau này có thể làm được.
Từ Cộng Đồng Việt Nam Hải
Ngoại, đến Siêu Quốc Gia Việt Nam của Thiên Niên Kỷ Thứ Ba
Cho tới nay, Cộng Đồng người Việt ở
Hải Ngoại đã được ngoài 40 tuổi, đã trải qua giai đoạn sống còn,
đã mỗi ngày mỗi thêm vững mạnh về đủ mọi phương diện để trở
thành thành phần thứ hai độc lập với thành phần thứ nhất
của dân tộc Việt Nam.
Cộng Đồng Hải Ngoại của chúng ta trẻ
trung hơn, năng động hơn, có tiềm năng hiểu biết cập nhật hơn,
có nhiều khả năng phát triển hơn nhờ đã hình thành và phát triển
trong những quốc gia tân tiến nhất trên thế giới, so với thành
phần thứ nhất mỗi ngày già cỗi hơn, mòn mỏi hơn, kiệt lực hơn,
không còn đủ khả năng nhận thức và ngay cả sử dụng những khả
năng trí tuệ vẫn còn tồn tại không ít của mình. Tuổi trẻ Việt
Nam ở Hải Ngoại có thể vào và đã vào bất cứ một đại học danh
tiếng nào nếu các em mong muốn và được cha mẹ khuyến khích. Rất
đông các em đã đạt được điều này. Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại
đã tự mình hội đủ mọi điều kiện để tự đứng vững. Chúng ta đã có
đầy đủ nếu không nói là khá đông các chuyên viên trí thức thượng
thặng từ các khoa học gia, các giáo sư đại học, các học giả tốt
nghiệp từ các học viện lớn và hiện đang phục vụ trong các trung
tâm, các viện nghiên cứu bậc nhất trên thế giới để góp sự hiện
diện của mình với các sắc tộc khác. Chúng ta cũng đã có những
chỉ huy cao cao cấp trong quân đội, kể cả tướng lãnh. Hãy tưởng
tượng hình ảnh một vị chỉ huy dẫn đầu nhiều ngàn sĩ quan, binh
sĩ dưới quyền, thuộc đủ mọi thành phần, chủng tộc, trong các
cuộc thao diễn, dẫn đầu họ chạy bộ hàng ngày hay nghiêm chỉnh
chào cờ trong căn cứ của đơn vị mình. Vị chỉ huy đó là người
Việt. Anh là vị tướng đi sát với binh sĩ của mình, tướng của
trận mạc, không phải tướng của phe phái, nói cách khác, tướng
cảnh. Chúng ta cũng có những chỉ huy trưởng khu trục hạm tối tân
nhất của Hải Quân Hoa Kỳ, những nữ đại tá người nhỏ thó chỉ đứng
đến nách những đồng sự hay thuộc cấp của mình nhưng vẫn được họ
chào kính một cách trịnh trọng. Họ thuộc thế hệ một rưỡi, luôn
cả thế hệ thứ hai của tỵ nạn Việt Nam. Tất cả đều vẫn còn thông
thạo tiếng Việt, đã trả lời dễ dàng, trôi chảy các cuộc phỏng
vấn bằng tiếng Việt. Tất cả đều đã trở thành “người”, đã “nên
người”, đã lập được sự nghiệp trên quê hương mới mà không cần
tới sự trợ giúp của các “đỉnh cao trí tuệ của loài người”. Chưa
hết! Bây giờ thì họ đã ngồi lại với nhau để trở thành một lực
lượng quân nhân gốc Việt, ít ra trong quân đội Hoa Kỳ, và sẽ dẫn
đường cho thế hệ thứ ba. Cầu mong các em sẽ thành công mỹ mãn
hơn. Trong địa hạt chính trị, người Việt nay cũng đã đi rất sâu
và rất cao trong hệ thống chính quyền của nhiều nước, ở đủ cả ba
ngành, ngay cả ở cấp trung ương. Nhiều người trẻ cũng đã xuất
hiện và đã thành công xuất sắc. Họ thông thạo ngôn ngữ, được
học, được sống và hiểu biết về xã hội nơi họ đang cư ngụ. Họ bắt
đầu thay thế cho thế hệ cha anh đã đến tuổi xế chiều, nhưng vẫn
hiểu biết về Việt Nam và thông thạo tiếng Việt. Trong tương lai,
các em sẽ còn đi xa và lên cao hơn nữa. Sang một địa hạt khác
gần gũi với mọi người hơn là địa hạt giáo dục. Ở đây tôi chỉ nói
về các cấp trung tiểu học và mẫu giáo, những cấp học cơ bản liên
hệ trực tiếp tới các con em nhỏ của chúng ta trong cộng đồng.
Con số những thày cô giáo người Việt hiện diện trong các trường
địa phương mỗi ngày một nhiều. Nghề làm thày cô giáo không còn
bị chê so với các nghề khác như trong những thập niên đầu của
thời kỳ di tản. Nhiều người tỏ ra đã yêu mến nghề dạy học ngay
từ khi còn học ở bậc trung và luôn cả tiểu học. Họ đã đạt được
ước vọng và sau nhiều năm hành nghề vẫn tỏ ra yêu nghề hơn bao
giờ hết. Nhiều người đã chuyển sang cấp chỉ huy làm hiệu trưởng,
phó hiệu trưởng các trường sau khi phụ trách lớp. Nên nhớ là, ít
ra là ở Mỹ, dạy ở cấp nào cùng được coi là quý, là trọng, không
nhất thiết là ở bậc đại học, nơi kiếm được một chỗ làm rất khó
vì rất hiếm, vì sự cạnh tranh giữa các sắc dân Á Châu rất nhiều
và nạn bè cánh, phe phái rất cũng không phải là hiếm. Yếu tố
quan trọng mà các em phải dựa vào để lựa chọn là chính mình, là
thiên tư và hạnh phúc của chính mình. Kinh nghiệm của cha mẹ,
ông bà của các em và những người đi trước thuộc thế hệ của các
ngài cũng vẫn còn là những gì đáng quý cho các em khi chọn ngành
và nhất là khi hoạt động cộng đồng.
Để hướng về các con em nhỏ trong cộng
đồng, riêng ở miền Nam California hàng trăm và có thể hàng ngàn
lớp Việt Ngữ đã được thành lập ở các chùa, các nhà thờ hay các
phòng ốc mượn của các trường địa phương trong những ngày cuối
tuần do các thày cô đã về hưu hay các sinh viên đại học phụ
trách. Hàng ngàn thày cô giáo bất đắc dĩ đã tham gia công tác
này với hàng chục ngàn trẻ em được cha mẹ mang tới dự. Hãy tưởng
tượng các vị này đã kiên trì, cố gắng như thế nào để cứ tình
nguyện mỗi cuối tuần mỗi đến, tuần này qua tuần khác, tháng này
qua tháng khác, năm này qua năm khác, thường xuyên dạy các em,
không bỏ dở nửa chừng. Họ âm thầm làm công việc của mình và
dường như ít được cộng đồng biết đến, thăm viếng và khích lệ.
Cộng đồng của chúng ta đã độc lập, đã
tự đứng vững và phát triển trong suốt 42 năm qua không hề phải
nhờ vả vào chính quốc. Trái lại, hàng chục tỷ đô-la hàng năm đã
được gửi về dưới hình thức này hay hình thức khác, gián tiếp làm
giàu cho các cán bộ và các đại gia ở trong nước và gián tiếp
giúp họ chuyển tiền ra ngoại quốc phòng ngừa khi tháo chạy. Có
điều, thay vì để yên cho thành phần thứ hai của dân tộc ở Hải
Ngoại phát triển để hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau song song phát
triển, cùng hướng tới một tương lai dài nhằm biến dân tộc Việt
Nam thành một dân tộc lớn của nhân loại thì các
“đỉnh cao trí tuệ” ở trong nước đã coi đó như một con gà đẻ
trứng vàng, tìm cách ảnh hưởng tới nó, bắt nó đẻ nhiều hơn, thậm
chí bắt và giết nó. Điều này là gì nếu không phải là một
tội đại ác đối với dân tộc và đối với chính họ?
Lịch sử dân tộc Việt Nam phải
được tính bằng ngàn năm
Trong một bài viết trước đây, nhằm kỷ
niệm một ngàn năm Lý Thái Tổ từ Hoa Lư thiên đô ra Thăng Long,
đăng trong Tập San Thế Kỷ 21, số 1, số ra mắt, đã nhắc tới trên
đây, người viết có đưa ra cái nhìn hơi khác về lịch sử của dân
tộc Việt Nam. Đó là lịch sử
phải được tính bằng ngàn năm với ba dấu mốc
chính: 111 trước Tây Lịch, 1010 sau Tây Lịch và những năm hiện
tại của thiên niên kỷ thứ ba mà chúng ta đang sống, chứ không
thể chỉ tính bằng chục năm, bằng trăm năm như lịch sử bình
thường. Nhìn như thế để chúng ta có thể thấy những điều vô nghĩa
mà nhiều người đã và đang làm. Nhìn như thế để chúng ta có thể
lạc quan về tương lai của dân tộc Việt Nam qua sự hình thành của
Cộng Đồng Người Việt ở Hải Ngoại trong thế kỷ 21 này.
Cơ hội ngàn năm một thuở: Mặt
trời không bao giờ lặn trên những miền đất có người Việt cư ngụ
Sự hình thành của Cộng Đồng Việt Nam
Hải Ngoại coi như thành phần thứ hai của dân tộc là một cơ hội
ngàn năm một thuở chúng ta mới có được, sau nhiều chục năm dài
đầy chiến tranh, đau thương, chết chóc và bất hạnh. Biến cố bi
thảm 1975 đã đẩy tung bà con chúng ta ra khắp thế giới để rồi
sau ngót bốn mươi năm, cũng họ, cũng những bà con đã bị đẩy tung
ra khắp thế giới ấy, bây giờ là Người Việt Hải Ngoại, đã định cư
và đã thành công ở khắp năm châu, không nơi nào là không có.
Chúng ta đã không có được một lãnh thổ duy nhất, một chính quyền
chung nhưng chúng ta có những con người, có chung một lịch sử,
một nguồn gốc, đã phải bỏ xứ ra đi trong cùng một hoàn cảnh, một
thời điểm. Nói một cách khác, chúng ta đã có một
Siêu Quốc Gia Việt Nam
không có lãnh thổ, không có chính quyền, không
có thủ đô nhưng tất cả đều nằm sâu thẳm trong lòng mọi người dân
của Siêu Quốc Gia ấy. Một Siêu Quốc Gia như vậy thích hợp hơn
với sinh hoạt quốc tế trong thời hiện tại, thời mà biên giới
giữa các nước đã mờ dần trước sự phát triển chung của cả loài
người. Cũng nói cách khác, nếu trong thế kỷ 19, một học sinh
người Anh được học rằng “Mặt trời không bao giờ lặn trên Đế
Quốc Anh” thì khác đi một chút, kể từ thế kỷ 20, một học
sinh Việt Nam phải được học rằng “Từ sau năm 1975,
mặt trời không bao giờ lặn trên những miền đất có người Việt Nam
cư ngụ.” Người Tầu cũng có thể nói câu tương tự.
Họ cũng hiện diện ở khắp nơi trên thế giới nhưng vẫn không thể
so sánh với người Việt. Lý do là vì người Tầu bỏ nước ra đi là
họ chọn tha phương cầu thực, do họ chọn lựa, còn người Việt thì
không được chọn lựa. Sau ba chục năm triền miên đầy đau thương,
giết chóc với ít ra là bốn năm triệu người đã bị hy sinh, nước
mắt tràn ngập khắp Trường Sơn, ra tận Biển Đông. Người Việt đã
bất đắc dĩ phải ra đi mà không biết sẽ đi đâu. Đến bây giờ thì
tự mình và với sự giúp đỡ của các chính quyền và của người địa
phương, bất chấp những sự dè bỉu, mỉa mai của nhà cầm quyền ở
trong nước trong những năm đầu, các cộng đồng Việt Nam ở khắp
nới trên thế giới đã trở thành vững mạnh thực sự so với thành
phần còn lại ở trong nước. Bổn phận của chúng ta là phải bảo vệ
và phát triển nó. Chúng ta không thể để cho những người đang
nhận sự giúp đỡ vô cùng to lớn của cộng đồng chúng ta, coi cộng
đồng chúng ta là con gà mái đẻ trứng vàng bắt nó đẻ nhiều hơn,
đẻ mãi, lợi dụng và giết nó. Chúng ta cũng phải lo cho chính
chúng ta và con cháu chúng ta. Chúng ta đang sống ở đây và sẽ
chết ở đây. Con cháu chúng ta cũng vậy. Những thế lực luôn luôn
gây bất ổn từ bảy mươi năm qua sẽ không tha chúng ta, không để
cho chúng ta yên. Họ luôn luôn muốn làm chủ chúng ta rồi làm chủ
con cháu chúng ta như họ đã làm ở trong nước, bây giờ là Cộng
Đồng Người Việt ở Hải Ngoại, cơ hội ngàn năm một thuở của chung
cả dân tộc, cơ hội sẽ đưa dân tộc ta thoát khỏi tình trạng nhỏ
bé và chậm tiến. Bất cứ hành động nào phá hoại Cộng Đồng
Việt Nam Hải Ngoại đều là một tội đại ác đối với dân tộc.
Có điều họ sẽ bất cần, sẽ tiếp tục làm như họ đã làm trong quá
khứ như các năm 1954, năm 1975. Nhưng họ sẽ không làm gì được
chúng ta. Chiêu bài độc lập thống nhất không còn hiệu nghiệm
nữa. Chuyện đó qua rồi. Cộng Đồng Hải Ngoại của chúng ta đã vững
mạnh và luôn luôn được các nhà cầm quyền và luật pháp bản xứ che
chở. Chúng ta cũng đã có đủ mọi khả năng để tự mình đứng vững.
Chúng ta đã đứng vững ít ra là hai ngàn năm và chắc chắn sẽ còn
đứng vững thêm nhiều ngàn năm nữa. Điều này tùy thuộc ở chính
chúng ta. Chúng ta sẽ coi quyền lực, danh lợi, tiền bạc của cá
nhân hay phe nhóm là trọng hay sự tồn vong và phát triển của cả
Cộng Đồng, cả dân tộc Việt Nam là trọng. Phải tin tưởng là tới
một giới hạn nào đó, Trời đã mở cửa cho chúng ta, đã “Tiệt
nhiên định phận tại Thiên Thư”, đúng như tổ
tiên ta từ thời Nhà Lý đã tin tưởng. Phần còn lại tùy thuộc ở
chúng ta, điều mà bà con đang sống trên đất mẹ của chúng ta xem
ra khó mà làm được vì dù có muốn họ cũng không được phép làm,
chưa kể tất cả hầu như đều đã quá mòn mỏi, khô cằn đến độ gần
như vô cảm, nếu không nói là kiệt lực chỉ còn đủ sức kiếm sống,
ăn chơi và dễ dàng bị ru ngủ và thụ hưởng.
Tất cả chỉ còn trông cậy ở chúng ta
và con cháu chúng ta. Hãy chứng tỏ chúng ta có đủ khả năng và
bản lãnh; chúng ta dời bỏ quê hương ra đi không phải để tha
phương cầu thực, để được hưởng “bơ thừa, canh cặn” hay chỉ là
“rác rưởi trôi giạt từ bên này đại dương sang bên kia đại dương”.
Cũng không nên và không được quên nửa triệu thuyền nhân đã bỏ
mình dưới lòng biển đại dương khiến cả thế giới động lòng và mở
rộng cửa đón dân tỵ nạn chúng ta trong suốt hai thập niên tám
mươi và chín mươi của thế kỷ trước, cũng như hàng ngàn tù nhân
của các trại học tập sau năm 1975 đã bị thủ tiêu hay qua đời vì
bị hành hạ và kiệt sức.
Phạm Cao Dương
(Những ngày giáp Tết Mậu Tuất, 2018)
Bấm vào đây để in ra giấy (PDF)
Trung tâm lưu trữ các Ngày lễ mừng Bổn mạng BCND/QLVNCH...
|
Hình nền: Bản đồ VIỆT NAM hoàn toàn. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MN Đỗ Như Quyên chuyển
Đăng ngày Thứ Tư,
February 7, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang