Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Chủ đề:
Chính Trị
Một mặt trận hai kẻ thù
Giặc
cộng bán nước, giặc tầu xâm lăng
Tác giả: Đỗ Mai Lộc
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Cứ đến ngày 19 tháng
1 hàng năm, mặc dù nỗi lo cơm áo gạo tiền để sum họp gia đình vào
những ngày Tết cổ truyền cận kề; nhiều người Việt trong, ngoài
nước có cảm giác hụt hẫng, mất mát một điều thiêng liêng lắm,
không thể dùng đồng hồ đếm ngược để biết khi nào thì có lại. Đó
là nhớ đến ngày 19 tháng 1 năm 1974, Trung Cộng xâm chiếm Hoàng
Sa – sự kiện gắn liền với nhân vật lịch sử: cố Thủ tướng Phạm Văn
Đồng và công hàm 14/9/1958.
Và, đây là tâm sự của một người sinh ra
từ Mộ Đức:
Tôi
xin tự giới thiệu: Tôi sinh ra, lớn lên trên quê hương Mộ Đức của
cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, được đào tạo liên tục từ tiểu học lên
đại học một cách chính quy dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Về
mặt gia đình tôi gọi ông Đồng bằng ông, trong họ tôi cũng có
người hoạt động bí mật cùng thời với ông Đồng rồi bị Pháp bắt và
sát hại từ những năm 1930.
Tôi không có ý khoe khoang nhưng tôi
muốn nói rằng: không có lý do gì mà bản thân tôi lại không tự hào
và kính trọng ông Phạm Văn Đồng.
Đúng là thế hệ chúng tôi đã từng rất tự
hào là quê hương đã sinh ra một người con ưu tú. Một sự tự hào đã
được giáo dục nhồi nhét để trở thành “bản năng”, như là một “phản
xạ không điều kiện”, đến nỗi trong tất cả các bài tập làm văn
chúng tôi đều phải cố lồng vào những câu đại loại: “tự hào là một
học sinh dưới mái trường XHCN, tự hào được sống trong thời đại Hồ
Chí Minh, tự hào quê hương đã sinh ra Thủ tướng Phạm Văn Đồng,
người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”, v.v.
Nhận thức về sự kính trọng và tự hào
cũng được đúc ra từ những khuôn mẫu có sẵn, làm hành trang để
chúng tôi tiếp tục vào đại học rồi ra trường tham gia guồng máy
quản lý nhà nước. Rồi cũng đến lúc chúng tôi cần tìm hiểu về
những gì mình đã từng tự hào kính trọng. Chẳng hạn, cái gọi là
mái trường XHCN mà chúng tôi ca ngợi cho đến bây giờ như thế nào
vẫn chưa định hình được. Ngày xưa học dưới mái trường XHCN còn
bây giờ đang “định hướng” XHCN nhưng lại được đánh giá là xã hội
phát triển, có nghĩa là càng đi xa CNXH thì xã hội càng phát
triển. Chính vì sự “kính trọng và tự hào trong khuôn mẫu” mà vẫn
cứ kiên định con đường XHCN vô vọng!
Về ông Hồ Chí Minh thì nhiều người đã
nói rồi, tôi chỉ có thể ghi thêm lời dân gian quê chúng tôi ta
thán:
“Sống
dưới triều đại Cha Hồ (1)
Làm con thì
được, làm người thì không.”
Là người dân Mộ Đức, tôi nói về ông
Đồng – hơn 30 năm làm Thủ tướng, ông đã làm được gì cho đất nước,
quê hương. Tỉnh Quảng Ngãi nói chung, huyện Mộ Đức nói riêng cứ
có dịp là tự sướng lên ông là “nhà nọ, nhà kia” vĩ đại, lỗi lạc
tầm cỡ thế giới, chỉ sau bác Hồ.
Gọi ông là một nhà ngoại giao, một nhà
chính trị tài ba đã giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước là không đúng, bởi vì cuộc chiến tranh này có
thể tránh được. Vả lại “thắng” nhưng không có “lợi”, những người
Mỹ, chính sách Mỹ mà ông chống, bây giờ được mời quay lại Việt
Nam. Cũng không có “nhà ngoại giao tài ba” nào lại ký công hàm
công nhận lãnh thổ của mình cho quốc gia khác.
Nếu gọi ông là một nhà kinh tế cũng
không sai trong mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp; lúc
có một nửa đất nước ở miền Bắc, ông không đưa ra được quốc sách
nào có tính vĩ mô để tăng trưởng kinh tế, ngoài chính sách “tiết
kiệm” để tích lũy, kiểu như “hạt gạo cắn làm hai, làm ba”. Còn
sau tháng 4/1975 với chính sách hợp tác xã nông nghiệp và di dân
đi kinh tế mới, ông đã bần cùng hóa cả miền Nam, vốn trước đó là
một nước mạnh trong khu vực Đông Nam Á, được phương Tây gọi là
“Hòn ngọc Viễn Đông”.
Nói ông là một nhà lý luận, một nhà văn
hóa cũng không ổn. Ông có câu nói với thanh niên, học sinh: “Muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải có những con người mới xã hội
chủ nghĩa” nhưng ông lại vòng vo về cái CNXH và con người XHCN.
Con người mới khác con người cũ cái gì? Kiểu như “con gà, cái
trứng” hay chính sách “có hộ khẩu mới có việc làm, có việc làm
mới cho nhập khẩu” dưới thời của ông. Còn về văn hóa thì hình như
ông hơi thiếu vốn tiếng Việt nên thường dùng đệm tiếng Pháp trong
văn nói. Những người nghe ông nói, dù không hiểu, nhưng vẫn cứ vỗ
tay để bộc lộ kính trọng sự uyên thâm của người luôn đề cao “giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt”.
Người dân Mộ Đức “kính trọng” ông lắm!
Tôi xin kể một số giai thoại về ông Đồng ở quê hương Mộ Đức:
Thời kỳ còn hợp tác xã nông nghiệp, mỗi
lần ông về quê là dân Mộ Đức tới khổ. Trước khi ông về là chính
quyền tập trung “ngụy quân, ngụy quyền” (2) lên núi để học tập
cải tạo cho đến khi nào ông đi mới được thả về.
Trên tuyến đường ông qua, hai bên đường
được bón rất nhiều phân urê (đạm), lúa xanh đậm thấy rất đẹp mắt.
Ông khen địa phương làm ăn giỏi, chẳng mấy chốc nữa sẽ tiến lên
chủ nghĩa cộng sản. Đến khi ông đi rồi, thì chỗ phân nhiều cây
lúa bị cháy vàng, chỗ thiếu phân còm cõi không trổ bông nổi. Do
đó mỗi lần ông về quê, một ngày công của xã viên may mắn lắm được
4 lạng lúa (0.4kg), thậm chí có những hợp tác xã vùng bán sơn địa
chỉ có 2 lạng lúa/ngày công (10 điểm)!
Năm nọ, các xã ven biển ở Mộ Đức như
Đức Lợi, Đức Minh, Đức Phong có con cá ông (dân biển gọi cá voi
là cá ông, cá bà) cứ bơi lởn vởn ngoài biển ngang làm ghe tàu nhỏ
của ngư dân không dám ra biển đánh cá; còn ở xã miền núi Đức Phú,
Đức Hòa thì đêm đêm nhiều bầy heo rừng ra phá hoại hoa màu của
dân, chính quyền địa phương bất lực. Gặp lúc ông Đồng về quê,
sáng nghe báo cáo tình hình địa phương xong, ông xuống biển chờ
cho cá ông nổi lên ông nói với đoàn cán bộ tháp tùng “Yêu cầu các
đồng chí kết nạp cá thành xã viên hợp tác xã”. Con cá ông mới
nghe “vào hợp tác xã” thế lặn tuốt ra biển. Chiều đến, ông lên
núi xem heo rừng phá hoại hoa màu. Ông cũng nói với cán bộ địa
phương cho chúng vào hợp tác xã là chúng sẽ thuần hết, nhưng cán
bộ nói: “thưa bác, chúng nó đã vào hợp tác xã lâu rồi, chúng cũng
làm ăn tập thể đàng hoàng, lúc nào xuống phá hoa màu cũng đi cả
bầy từ vài ba chục con trở lên”. Ông bảo đảng ủy xã: “Vậy thì lập
danh sách cho chúng đi kinh tế mới!”. Nghe đến “đi kinh tế mới”,
kể từ tối hôm ấy, các xã miền núi không còn con heo rừng nào dám
ra phá nữa.
Về
quê ông thường ở nhà khách của tỉnh, có lần ông tới thăm nhà chị
ruột là bà Thừa Xuân, có mảnh vườn trồng rau để ăn và để bán. Hồi
đó tiền có giá, ông nghe người ta mua bán nhau nắm rau, quả cà,
cứ nói “một đồng, hai đồng”, ông giận lắm vì bị mấy bà hàng xén ở
chợ gọi tên húy ra. Sau đó ông về Hà Nội và quyết định “nâng”
tiền Việt Nam, để từ đó người ta không kêu “một đồng, hai đồng”
nữa mà chuyển qua “một ngàn, hai ngàn” cho đến bây giờ.
Sự kính trọng của người dân Mộ Đức đối
với ông Đồng là như thế đó.
Còn sự tự hào thì sao? Sau khi biết
được ngày 14-9-1958 ông Phạm Văn Đồng ký công hàm công nhận quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Trung Cộng thì người dân Mộ Đức,
những thế hệ học sinh trên chính quê hương và ngôi trường mang
tên ông cũng cảm thấy nhục nhã. Cuộc đời con người hay chế độ
chính trị có thể có nhiều sai lầm, nhưng bán đất, bán nước cho
ngoại bang thì là sai lầm không thể tha thứ được. “Noi gương”
ông, là Trần Đức Lương – người được ông đào tạo, nâng đỡ, với tư
cách là Chủ tịch nước đã tham gia ký hiệp định đường biên trên bộ
và trên biển tiếp tục nhượng đất và biển cho Trung Cộng.
Rồi đây, lịch sử dân tộc Việt Nam sẽ
ghi:
–
Ông
Phạm Văn Đồng quê ở Mộ Đức, Quảng Ngãi, với tư cách là Thủ tướng
Chính phủ, ngày 14-9-1958 đã ký công hàm công nhận quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa thuộc về Trung Cộng.
– Ông Trần Đức Lương quê ở Đức Phổ,
Quảng Ngãi, với tư cách là Chủ tịch nước, ngày 30-12-1999 đã ký
Hiệp ước biên giới trên đất liền nhượng cho Trung Cộng hàng ngàn
cây số vuông, tiếp đến ngày 25-12-2000 đã ký Hiệp định phân định
vịnh Bắc Bộ tiếp tục nhượng hàng chục ngàn cây số vuông mặt biển
cho Trung Cộng.
Vậy là Quảng Ngãi có hai tội đồ cùng
tham gia bán nước dưới triều đại Hồ Chí Minh.
Nhân dân Mộ Đức, Quảng Ngãi có thể có
sự kính trọng, tự hào được không?
Không, hoàn toàn không! Ngay cả chính
con cháu trong tộc họ Phạm không ai dám ngẩng cao đầu để tự hào
là con cháu ông Phạm Văn Đồng. Họ cũng biết rằng, Nguyễn Thân,
quê ở Thạch Trụ, vùng giáp ranh giữa Mộ Đức (quê ông Đồng) và Đức
Phổ (quê ông Lương), là đại thần triều Nguyễn, cấu kết với thực
dân Pháp chống phá phong trào Cần Vương, tiêu diệt nghĩa quân
Phan Đình Phùng, sau năm 1945 đã bị Việt Minh cho đào phá toàn bộ
mồ mả, nhà cửa. Có lẽ vì vậy mà cộng sản không đưa ông Phạm văn
Đồng về chôn ở quê nhà, còn ông Trần Đức Lương khi hết làm Chủ
tịch nước cũng không về Quảng Ngãi, đã chọn chỗ hậu sự không ở
quê hương.
Kể
ra thì ông Đồng cũng biết sám hối, khi cuộc đời đã xế chiều sống
trong bóng tối của sự mù lòa và của xã hội ông tham gia tạo nên;
vị thủ tướng ba phải, hiền lành đến nhu nhược, đã có câu nói trứ
danh “Không ai làm thủ tướng lâu như tôi và cũng không ai làm khổ
dân nhiều hơn tôi!” – có lẽ đó là câu nói duy nhất đúng trong
cuộc đời của ông.
Không những ông làm khổ dân lúc còn
sống, mà ông còn làm khổ dân khi đã chết. Biết bao giờ nhân dân
Việt Nam mới lấy lại được Trường Sa, Hoàng Sa, trong khi Trung
Cộng cứ đưa công hàm của ông ra để biện minh cho hành động xâm
lược? Còn người dân Quảng Ngãi vẫn tiếp tục è cổ ra nộp thuế để
xây lăng mộ cho dòng họ Phạm, xây bảo tàng, nhà tưởng niệm mang
tên ông.
Ngày
1-9-2008 Quảng Ngãi đã khánh thành “Khu tưởng niệm Phạm Văn
Đồng”; theo thông báo chính thức từ chính quyền, tổng kinh phí
hơn 46 tỷ đồng, trong đó phần xây lắp hơn 20 tỷ, trên diện tích
hơn 2 ha (giá đất là 1.3 triệu/m2, trị giá đất khoảng 26 tỷ).
Bốn mươi sáu tỷ kia có thể làm được
những gì cho nhân dân Mộ Đức, Quảng Ngãi? Tính theo thời giá thì
xin thưa:
–
Xây dựng 3,067 ngôi nhà cho người nghèo
– Tạo điều kiện cho 115,000 trẻ em
nghèo có điều kiện mua sách vở đến trường trong năm học mới
– Là tiền thuế của 144,230 người dân Mộ
Đức trong 2 năm (thu ngân sách năm 2008 của huyện là 23.1 tỷ
đồng).
Đó là
chưa tính đến các chi phí khánh thành, duy tu, lễ nghi, chi lương
cho nhiều người trông coi, bảo vệ.
Đến năm 2016 lại tiếp tục khánh thành
giai đoạn 2, với quy mô diện tích xây dựng mới thêm trên 33,800m2
với tổng kinh phí 36 tỷ đồng.
Một người con của quê hương núi Ấn sông
Trà, nhưng chết rồi vẫn còn làm khổ nhân dân Quảng Ngãi, có phải
vì ông là đảng viên cộng sản, học trò của Hồ Chí Minh không?
Trong khi cụ Huỳnh Thúc Kháng, quyền Chủ tịch nước đầu tiên của
Việt Nam dân chủ cộng hòa, yên nghỉ trên núi Ấn lộng gió, ngôi mộ
đơn giản được xây dựng từ thời ông Ngô Đình Diệm, khách trong
ngoài nước, đủ mọi thành phần viếng thăm đều thể hiện lòng tôn
kính.
“Vạn Niên là Vạn Niên nào?
Thành xây xương lính, hào đào máu dân!”
Câu ca dao xưa đi vào tiềm thức của thế
hệ chúng tôi, “thế hệ sinh ra và lớn lên dưới mái trường xã hội
chủ nghĩa”; câu ca dao khơi mào cho cuộc khởi nghĩa nông dân mang
tên “khởi nghĩa Chày Vôi” (năm Bính Dần 1866) xuất phát từ việc
xây dựng Vạn niên cơ, quân sĩ và dân phu phải làm lụng khổ sở,
nhiều người oán giận, vua Tự Đức một thời đã đi vào lịch sử dân
tộc là vị vua hôn quân vô đạo.
Tôi đã đến lăng mộ vua Tự Đức, cũng
thường đến khu tưởng niệm Phạm Văn Đồng. Trên tất cả mọi phương
diện (đất đai, diện tích, quy mô, kinh phí...) lăng Tự Đức còn
lâu mới bằng khu tưởng niệm Phạm Văn Đồng – một vị Thủ tướng dưới
chế độ cộng sản còn hơn cả vị Hoàng đế của triều đại phong kiến,
ngay cả khi đã chết.
Cả nước có nhiều con đường, đại lộ mang
tên Phạm Văn Đồng, đường nối tiếp theo nên đặt tên là “đường 19
tháng 1” để làm bài học lịch sử hiện thực và sinh động.
Lịch sử rất sòng phẳng. Thời gian trôi
qua, dân tộc sẽ có cái nhìn khách quan hơn, đánh giá công, tội
một cách rõ ràng; sự kính trọng đối với từng nhân vật lịch sử
không cần phải áp đặt, cưỡng chế.
Là một người dân Mộ Đức, tôi cảm thấy
có tội khi nói thêm (Quê tôi) “là quê hương của cố Thủ tướng Phạm
Văn Đồng”.
P/S: Nếu có sự tôn trọng, thì đó là trước khi mất, ông Phạm Văn
Đồng dặn dò con trai duy nhất là Phạm Sơn Dương: “Ba không có tài
sản gì để lại cho con. Ba chỉ có một sự nghiệp phải tiếp tục. Ba
yêu cầu con chăm sóc má của con, chăm lo dạy bảo các con của con
mạnh khỏe, ngoan ngoãn, học giỏi, trở thành người có ích cho xã
hội, cho đất nước, con xứng đáng là người sĩ quan của quân đội
ta.”
Con chim
sắp chết tiếng kêu thương, người sắp chết lời nói phải. Với ông
“sự nghiệp phải tiếp tục” là lấy gia đình làm nền tảng, con không
phải trung với Đảng, cháu nội không phải xứng đáng cháu ngoan bác
Hồ.
Có thể nhờ
vậy mà dân tộc này không thêm một “thái tử đỏ” hay “nhà tư bản
đỏ”.
Đỗ Mai Lộc
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by ddcb chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, February 10, 2017
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang