Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Thời sự Chính Trị
Chủ đề: Cộng sản quốc tế
Tác giả: Nguyễn Anh Tuấn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời Các anh em hãy tìm lấy sự thật, và sự thật sẽ giải phóng anh em.
--John: 8-32
Cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh ra quả ngọt sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa.
--Luke: 2-9
1 - NHỮNG BÀI HỌC LỊCH SỬ CHO
NHỮNG THẾ HỆ SẮP TỚI
Vào tháng 10- 1964 Tổng Thống Johnson
đã đọc một bài diễn văn trong đại hội Liên Bang, ông nói,
“Chúng ta
đang sống trong một giai đoạn chuyển tiếp lớn lao - một sự chuyển
tiếp từ tinh thần quốc gia cục bộ hẹp hòi ích kỷ để tiến vào
những hợp tác quốc tế; từ tinh thần bất đồng của Chiến Tranh Lạnh
(Cold War) đi đến một tinh thần hy vọng chung cho tất cả nhân
loại đang sống đau khổ chồng chất với những đe dọa kinh hoàng của
chiến tranh trên mặt đất này”.
Trên tinh thần đó, W. W. Rostow phụ tá
đặc biệt của TT Johnson nhìn lại những thập niên sau Đệ II Thế
Chiến, và nhìn thẳng vào những gì cần thảo luận với những thế hệ
sắp tới, ông nói: “Những cuộc chiến tranh và các cuộc cách mạng
trên thế giới vừa qua đã và đang để lại những sự kiện kinh hoàng,
trong đó có những ảo tưởng vĩ đại cần nhận ra, những hiểu lầm ngộ
nhận, biết bao sự thật bị che dấu hay bị thêu dệt hoặc bị bóp
méo, nhưng với thời gian luôn luôn thay đổi và chuyển hóa - phải
nhìn lại mọi sự kiện để tìm cho ra đâu là sự thật - nhìn ra những
tiềm năng lớn lao hiện có - học lại những bài học lịch sử mà con
người đã trải qua từ 1945 đến nay để nắm lấy những sự thật ấy cho
bước khởi đầu của thế giới toàn cầu hóa - một thế giới của cộng
đồng toàn cầu”.
Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt 42
năm; có thể nhiều người đã quên hay không muốn nhớ tới nữa. Riêng
đối với những nạn nhân của 20 năm chiến tranh và nạn nhân của
cộng sản trong 42 năm hòa bình thì chưa bao giờ quên được cái
chết của Miền Nam Việt Nam. Những con người đau khổ này không thể
nào ra khỏi được những nhói buốt trong tim của họ. Cả nước Mỹ và
thế giới đã nói và đã viết cả triệu triệu bài viết và cả mấy ngàn
cuốn sách, nhưng nạn nhân của cuộc chiến đó vẫn chưa bao giờ có
tiếng nói trước dư luận, vì họ là những con người không có tiếng
nói (voiceless people) nên đành sống trong buồn bã, câm nín và
uất hận hay đem theo họ vào thế giới bên kia những tra vấn não
nề: Tại sao chúng ta mất Miền Nam? Quân đội Cộng Hòa Miền Nam có
thực sự hèn nhát không? Nếu Hoa Kỳ phản bội thì tại sao họ lại
làm như thế? Thực sự lỗi về ai? Nếu quân đội Hoa Kỳ và quân đội
Miền Nam đã chiến thắng về quân sự, tại sao không bảo vệ được
Miền Nam? Tại sao Tổng Thống Diệm bị lật đổ và bị giết thảm thiết
như thế? Tại sao truyền thông báo chí Hoa Kỳ và Tây Phương lại ca
tụng cộng sản và thù nghịch với nạn nhân của chiến tranh? Làm sao
để học xong bài học chiến tranh Việt Nam quá khó khăn và vô cùng
phức tạp như thế? Phe nào có chính nghĩa và phe nào phi nghĩa?
Làm sao hiểu được hai bài học từ khối tư bản và khối quốc tế cộng
sản khi cả hai chi phối vận mệnh Việt Nam và cả thế giới? Sự Thật
nằm ở chỗ nào?
Từ 1945 đến nay, hay nói rộng hơn là
trong suốt thế kỷ XX có ba phong trào trên và chiến tranh lạnh
chi phối toàn bộ sinh mệnh của tất cả nhân loại, trong đó có Việt
Nam và Đông Dương --- Đó là PHONG TRÀO THỰC DÂN, PHONG TRAO GIẢI
THỰC VÀ PHONG TRÀO QUỐC TẾ CỘNG SẢN. ĐẶC BIỆT LÀ CHIẾN TRANH
LẠNH. Tìm hiểu và nghiên cứu về ba phong trao lớn lao này, và
hiểu được chiến tranh lạnh là những yếu tố quan trong nhất để
hiểu được lịch sử thế giới trước khi muốn hiểu được chiến tranh
VN và làm sáng tỏ được những uẩn khúc và sự thật sâu kín nhất của
lịch sử để rút tỉa những kinh nghiệm cho các thế hệ tương lai và
trả lại danh dự và công lý cho Tổng Thống Diệm, quân dân Miền Nam
Việt Nam và những quân nhân Hoa Kỳ đã hy sinh mạng sống để bảo vệ
độc lập cho Miền Nam Việt Nam và Tiền Đồn của Thế Giới Tự Do để
xây nên trật tự, ổn định và hòa bình cho Á Châu và thế giới.
Trong khi đó phong trào cộng sản nhân danh cách mạng vô sản đã
gây ra chiến tranh cách mạng tơi bời từ Đông qua Tây, đặc biệt là
Việt Nam chính là nơi phải gánh chịu suốt 20 năm một cuộc chiến
tranh nóng bỏng và khủng khiếp nhất để ngăn chận làn sóng đỏ đang
tràn vào Á Châu và thế giới. Vì thế, chỉ có người dân Việt tại
Miền Nam Việt Nam mới hiểu được thế nào là “tội ác chiến tranh
của cộng sản”, và đồng thời hiểu được luôn thế nào là “ảo tưởng
điên rồ của cách mạng cộng sản” thể hiện trọn vẹn trong suốt 42
năm hòa bình tại Việt Nam (1975-2017). Trải qua hai “đại thảm
họa” không chỉ trong 20 năm chiến tranh, mà cả 42 năm hòa bình
trong vòng tay của cộng sản với tất cả “ảo tưởng điên rồ của cách
mạng cộng sản”. Ngoài những nạn nhân khốn khổ đó, ai là người
trên trái đất này hiểu được chiến tranh Việt Nam hơn những nạn
nhân đó?
Sau
đệ II Thế Chiến Phong Trào Giải Thực do Hoa Kỳ chủ xướng đã giải
phóng và đem lại độc lập cho 70 quốc gia đang bị thực dân Âu Châu
chiếm đóng và thống trị, và sau đó hướng dẫn các tân quốc xây
dựng dân chủ và phát triển đất nước của họ. Đây là giai đoạn khởi
đầu cho tiến trình xây dựng trật tự mới của thế giới (the new
order of the world) bằng một cuộc cách mạng dân chủ trên tầm mức
toàn cầu. Nhu cầu của trật tự mới phải bắt nguồn từ trật tự của
mỗi quốc gia, trật tự quốc gia được xây dựng trên nền tảng hiến
pháp có nội dung của ĐẠO ĐỨC VÀ CÔNG LÝ để tôn trọng tự do và
quyền bình đẳng của người dân cũng như tôn trọng những quyền mà
Đấng Tạo Hóa đã ban cho con người không thể phủ nhận được như đã
minh định trong Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ vào 1776. Chính
trên tinh thần cách mạng dân chủ đã đặt nền móng căn bản vững
chắc cho hòa bình, ổn định và phát triển tại VN, Á Châu và trên
toàn thế giới từ Đệ II Thế Chiến tới nay (1945-2017).
Tại Miền Nan Việt Nam từ 1954-1963 Tổng
Thống Diệm, ông Nhu và toàn quân toàn dân vừa gánh trên đôi vai
một quốc gia đang quằn quại trong lò lửa chiến tranh vừa làm cuộc
cách mạng dân chủ để xây nên nền Đệ I Cộng Hòa Việt Nam và Miền
Nam trở thành Hòn Ngọc Viễn Đông. Đây là nền dân chủ đầu tiên của
một tân quốc gia ở Á Châu, chỉ sau Nhật Bản đem lại an ninh trật
tự và đời sống ấm no hạnh phúc cho 14 triệu dân Miền Nam Việt
Nam. Lật đổ và giết TT Diệm và ông Nhu đã kéo theo cái chết kinh
hoàng cho cả một quốc gia vào ngày 30 tháng 4-1975 và bôi xóa
luôn những thành quả vĩ đại của cách mạng dân chủ đã đạt được
trong suốt 9 năm mà Tổng Thống Diệm lãnh đạo quốc gia.
Trong lúc đó Liên Bang Sô Viết với
Phong Trào Cộng sản Quốc tế đã phản bội hiệp ước Yalta mà họ đã
ký kết vào 1945 với phe đồng minh để chiếm đóng và nô lệ hóa Đông
Đức, Ba Lan và các nước Đông Âu. Trong lúc theo đúng hiệp ước
Yalta thì Nga phải tôn trọng quyền độc lập, tự quyết và toàn vẹn
lãnh thổ của Đức, Ba Lan và các nước Đông Âu. Sau đó, tại Á Châu
Mao Trạch Đông với Phong Trào cộng sản và chiến tranh nhân dân đã
chiếm Hoa Lục để nô lệ hóa cả tỷ con người tại Trung Hoa Lục Địa
và bành trướng phong trào cộng sản tại Việt Nam, Bắc Hàn và khắp
Á Châu cho đến ngày hôm nay.
Vì thế muốn học được bài học lịch sử về
Chiến Tranh Việt Nam thì phải đặt cuộc chiến này trên tầm mức Á
Châu và tầm mức toàn cầu với sự hiện diện của các trung tâm quyền
lực vừa kể trên đã khai sinh ra Phong Trào cộng sản, Phong Trào
Thực Dân, và Phong Trào Giải Thực - tất cả đã chi phối và ảnh
hưởng trực tiếp đến dòng sử mệnh Việt, chi phối ảnh hưởng trực
tiếp tới sinh mệnh lịch sử của cả vùng Á Châu và toàn cầu, đặc
biệt nhất là Việt Nam, Ba Lan và các nước Đông Âu. Cái gọi là
“thế giới lưỡng cực” trong Chiến Tranh Lạnh (polarized world) vẫn
chưa bao giờ được nhìn là hai dòng thác cách mạng toàn cầu
(global revolutionary waves) để phân biệt giữa cách mạng cộng sản
của giới vô sản và cách mạng dân chủ do Hoa Kỳ phát động và hướng
dẫn các tân quốc gia vừa được độc lập. Một bên là cách mạng phá
hoại và một bên là cách mạng xây dựng quốc gia (destructive
revolution and constructive revolution). Một bên là đưa lại tự do
dân chủ cho người dân, và một bên là xiềng xích nô lệ.
Trong thế giới đại học hàn lâm, phần
đông tầng lớp trí thứ khoa bảng tại Mỹ và Âu Châu cũng ngả theo
khuynh hướng cộng sản, khi viết về các cuộc cách mạng trên thế
giới, họ chỉ viết về cách mạng Pháp và cách mạng cộng sản, nhưng
họ cố tình lờ đi cuộc cách mạng Hoa Kỳ, vì thế mà cuộc cách mạng
Hoa Kỳ vào 1776 và vào thế kỷ 20 rất ít ai biết tới. Cuộc cách
mạng này đã cứu cả nền văn minh Ki-tô giáo khỏi sụp đổ và khai
sinh ra nền văn minh dân chủ mà ngày nay cả nhân loại được hưởng.
NẾU KHÔNG CÓ CUỘC CÁCH MẠNG HOA KỲ XUẤT
HIỆN VÀO ĐẦU THẾ KỶ 20 ĐỂ CỨU CẢ ÂU CHÂU VÀ Á CHÂU THOÁT KHỎI
NANH VUỐT CỘNG SẢN THÌ CẢ THẾ GIỚI ĐÃ BỊ NHUỘM ĐỎ VÀ BỊ XÍCH HÓA.
ĐÓ LÀ SỰ THẬT CỦA LỊCH SỬ.
Phải tìm cho ra những nguyên tắc, tiêu
chuẩn, giá trị và mục đích của các cuộc cách mạng, trong đó có
cách mạng cộng sản vô thần và cách mạng dân chủ hữu thần của
truyền thống Puritan tại Hoa Kỳ thì mới thấy được tất cả những ảo
tưởng và tội ác vĩ đại của bạo lực cách mạng cộng sản khi gây ra
chiến tranh xâm lăng Miền Nam Việt Nam. Trong lúc Cách mạng dân
chủ hữu thần theo truyền thống Puritan là một cuộc cách mạng phi
bạo lực để xây dựng quốc gia. Mục đích của cách mạng dân chủ là
đem lại tự do và dân chủ với quyền tối thượng (sovereignty) của
quốc gia thuộc về toàn dân. Đặc biệt là những quyền mà đấng Tạo
Hóa đã ban cho con ngươi, đó là những quyền không thể phủ nhận
được (inalienable rights) như quyền sống, quyền tự do, quyền tư
hữu và quyền tìm kiếm hạnh phúc. Phải nhìn hai dòng thác cách
mạng diễn ra trong chiến tranh Việt Nam để thấy rõ cách mạng dân
chủ hữu thần tại Miền Nam Việt Nam quần thảo như thế nào với cách
mạng cộng sản vô thần trong suốt 9 năm (1954-1963) trong cuộc
chiến tranh đó (theist democratic revolution and atheist
communist revolution), và tìm hiểu xem tại sao cách mạng dân chủ
Miền Nam Việt Nam không chỉ thắng cộng sản trong chiến tranh xâm
lược, mà còn thắng oanh liệt trong cách mạng xây dựng quốc gia để
đưa quốc gia thành hòn ngọc viễn động, và sau đó phải nhìn cách
mạng cộng sản trong chiến tranh VN, và nhìn cộng sản tàn phá
chính quốc gia của họ như thế nào sau những [bức] màn sắt tại Hà
Nội, Moscow, Bắc Kinh, và 27 nước cộng sản trong phong trào quốc
tế cộng sản; để làm gì, hay để chứng kiến cảnh hoang tàn đổ nát
của các quốc gia cộng sản với máu, nước mắt và mồ hôi của 100
triệu con người tại Hà Nội, Moscow, Bắc Kinh và 27 quốc gia cộng
sản, và tìm những sự thật hiện đang có trong lịch sử, chứ không
phải tìm lý thuyết suông từ sách vở từ chương hay nghe qua hệ
thống tuyên truyền đồ sộ của cộng sản hoặc báo chí thiên tả thiên
cộng thêu dệt nên để đánh lừa dư luận trong Chiến Tranh Việt Nam
từ lúc khởi đầu cho đến lúc chiến tranh chấm dứt.
Một sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng
đã bị Phong Trào Quốc Tế cộng sản tìm mọi cách che dấu đi - đó
là, trong lúc Phong Trào Giải Thực đang thúc đẩy mạnh để trao trả
tự do và độc lập cho 70 quốc gia đang bị thực dân Âu Châu chiếm
đóng trên toàn thế giới sau đệ II Thế Chiến, trong đó có các nước
Đông Dương và Việt Nam. Staline và Mao Trạch đông đã nhảy vào “ăn
có” trước Phong Trào Giải Thực để lợi dụng khai thác những khó
khăn và sự non kém bấp bênh của các quốc gia vừa mở mắt chào đời
với âm mưu nhuộm đỏ và nô lệ hóa các nước trong Thế Giới Đệ III,
đưa ra “chiến tranh nhân dân” và “Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc”,
không phải để làm cách mạng xây dựng cho những quốc gia vừa mở
mắt chào đời vừa được độc lập như Hoa Kỳ chủ trương, mà nhảy vào
để ăn cướp rồi phá hủy triệt để và phá hủy toàn diện các quốc gia
đó. Đó là mục đích “giải phóng” của phong trào cộng sản tại Việt
Nam, Hoa Lục, Bắc Hàn và khắp nơi trên thế giới. Nhưng giải phóng
cái gì và giải phóng ai khi các nước bị thực dân đô hộ đang trên
tiến trình giải thực để có tự do và độc lập? Vì thế cái gọi là
“mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Miền Nam Việt Nam” là con đẻ của
Staline và Mao Trạch Đông đã đưa ra “chiến tranh nhân dân”. Hồ
Chí Minh và đảng cộng sản BV được ủy nhiệm gây ra chiến tranh
cướp MNVN với hai chiêu bài “chiến tranh nhân dân” và “giải phóng
dân tộc”. Chiến tranh VN là chiến tranh ủy nhiệm (proxy war) của
quốc tế cộng sản với những chiếc mặt nạ “tranh đấu giành độc lập”
cho VN để lôi kéo những người yêu nước chưa biết cộng sản là gì,
và cũng không biết rõ về phong trào giải thực trên toàn thế giới
đang trả lại độc lập cho đất nước của họ, và lại càng không biết
được những âm mưu nhuộm đỏ VN, Á Châu và thế giới của phong trào
cộng sản quốc tế. Tất cả đã bị Hồ Chí Minh, đảng cộng sản Việt
Nam, Bắc Kinh và Moscow lừa đảo nên mới tiếp tay cho cộng sản gây
ra chiến tranh tơi bời khói lửa cho quê hương thân yêu của họ mà
họ vô tình không biết. Hàng ngũ những người Việt Nam bị Hồ Chí
Minh, cộng sản Bắc Việt, Bắc Kinh và Moscow trí trá gạt gẫm,
không biết nên lại rất tự cao tự đại huyênh hoang lớn lối tự vỗ
ngực khi đi xâm lăng Miền Nam “tôi là lão thành cách mạng có công
tranh đấu giành độc lập cho đất nước Việt Nam”. Tội nghiệp thế
đó.
Trong khi
đó giới báo chí truyền thông tả phái bất lương (dishonest liberal
left) tại Mỹ và Tây Phương lại nhất quyết cho rằng đó là phong
trào cộng sản địa phương nổi lên chống chính quyền Ngô Đình Diệm
và Miền Nam Việt Nam, bù nhìn của Mỹ, không liên quan gì tới cộng
sản Bắc Việt và Quốc Tế cộng sản. Chính lối thông tin giả dối,
bóp méo hay thêu dệt này đã giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và giết
luôn nền Cộng Hòa Việt Nam vào tháng 4-1975 bởi vì dư luận chung
đã tin vào những nhóm truyền thông giả dối bất lương này.
Điều đó chứng tỏ giới truyền thông báo
chí, học giả, các chính trị gia dân chủ và trí thức Mỹ và Tây
Phương không mấy ai có sự hiểu biết cần thiết và những kiến thức
cần thiết về thực tế ở những nước cộng sản, nhất là cộng sản Bắc
Việt, Mặt trận Giải Phóng Miền Nam và cộng sản Hoa Lục. Tất cả
đều có những bức màn sắt che khuất tất cả mọi sự thật. Và tất cả
người cộng sản đều đeo mặt nạ khi tiếp xúc với những ai không
phải cộng sản nên chẳng mấy ai biết được bộ mặt thật của những
người cộng sản. Vì thế một học giả HK đã nói, “Hoa Kỳ dấn thân
vào Chiến Tranh VIệt Nam nhưng những hiểu biết về kẻ thù rất mù
mờ”. Đây là nguyên nhân chính yếu đã làm cho Hoa Kỳ thất bại thê
thảm trong Chiến Tranh Việt Nam. Trong khi Tổng Thống Diệm và ông
Nhu biết rất rõ kẻ thù là ai thì lại lật đổ và giết các ông nên
Hoa Kỳ đến Việt Nam như con tàu lạc lối trong sương đêm cho đến
khi gục ngã mà không hiểu được tại sao?
Tất cả những gì giới truyền thông và
trí thức biết chỉ trên sách vở từ chương hay những hệ thống tuyên
truyền đồ sộ của cộng sản đưa ra. Cộng sản luôn luôn chủ trương
không cho ai ăn đồ thật mà chỉ cho ăn đồ giả mà thôi. Vì thế,
khối quốc tế cộng sản mới có mặt trận tuyên truyền đồ sộ để đánh
lừa dư luận. Trong khi đó những nạn nhân khốn khổ điêu linh vì
chiến tranh do cộng sản gây ra thì lại không bao giờ có tiếng nói
trước dư luận. Khối quốc tế cộng sản cũng đưa ra phong trào hòa
bình để chống chiến tranh Việt Nam và kêu gọi hòa bình khắp thế
giới để đòi chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam và phong trào hòa
bình cũng có tại Miền Nam Việt Nam, cũng chống chiến tranh, cũng
kêu gọi hòa bình và đòi Mỹ cút khỏi Việt Nam, nhưng những con bồ
câu này không phải bồ câu thật mà đều loài ác điểu đội lốt bồ
câu. Trên thực tế không có con bồ câu nào chịu kêu gọi cộng sản
Bắc Việt, Bắc Kinh và Moscow chấm dứt chiến tranh xâm lăng Miền
Nam mà chỉ muốn quân đội và toàn dân Miền Nam Việt Nam và quân
đội Hoa Kỳ phải buông súng để vãn hồi hòa bình, vì thế Tổng Thống
Nixon mới nói: “nền hòa bình tại Việt Nam và Động Dương là nền
hòa bình trong những nấm mồ”. ĐÂY LÀ TRÒ CHƠI CỦA NHỮNG PHONG
TRÀO PHẢN CHIẾN TẠI MỸ VÀ KHẮP NƠI TRÊN THẾ GIỚI.
Dư luận Hoa Kỳ và Tây Phương chỉ tin
vào truyền thông báo chí mà truyền thông báo chí tuyệt đối đa số
thiên tả hay thiên cộng nên làm gì còn lương tâm, họ thường bỏ
quên lương tâm chức nghiệp và đạo đức cũng như công bình của
những người cầm viết có lương tri, lương năng khi viết về chiến
tranh VN để che lấp sự thật và thêu dệt nên những điều giả dối.
Giới báo chí truyền thông đúng là thứ quyền lực kiêu căng phách
lối như những ông trời con (arrogant powers without conscience)
vô lương tâm. Họ quay mặt trước sự thật và quay mặt luôn với
những nạn nhân của chiến tranh, và lúc nào cũng sẵn sàng chà đạp
lên sự thật để đưa ra cho dư luận những điều giả dối để có cớ tấn
công rất tàn bạo Tổng Thống Diệm, chính quyền Miền Nam và tấn
công luôn chính quyền Hoa Kỳ và những viên chức cao cấp của Hoa
Kỳ chống cộng sản, và chống luôn những ai chống cộng sản (anti
Americanism and anti-anti-communism) tại Mỹ và tại Việt Nam.
Chính họ đã đưa đến cái chết cho Tổng Thống Diệm và cái chết của
nền Đệ I Cộng Hòa Việt Nam, và làm cho Hoa Kỳ phải hy sinh 58,000
người mà cuối cùng phải lãnh nhận một sự bại trận nhục nhã lần
đầu tiên trong lịch sử cũng như làm cho chính sách ngăn chặn cộng
sản (containment policy) tại Á Châu rơi vào thảm họa cho đến ngày
hôm nay.
Kết
quả là những thông tin về Chiến tranh Việt Nam cho công luận Hoa
Kỳ và thế giới Tây Phương tuyệt đối là một con đường một chiều
chiều (absolute one way street). Cộng sản Bắc Việt và Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam tuyệt đối cấm (absolute forbid) tất cả truyền
thông báo chí Mỹ và Tây Phương không được bén mảng tới gần những
hoạt động cực kỳ tàn bạo, độc ác và vô luân của chúng trong chiến
tranh cũng như trong hòa bình. Hình như đây là một sự thật lịch
sử vĩ đại nhưng đã 42 năm trôi qua kể từ ngày Miền Nam Việt Nam
chết trong tay cộng sản - không có mấy ai tìm kiếm hay đem ra
thảo luận công khai nên biết bao sự thật kinh hoàng và ngộ nhận
hiểu lầm vẫn còn cho đến ngày hôm nay (2017).
Trong Chiến Tranh Lạnh Hoa Kỳ đã thành
công trong chính sách và chiến lược ngăn chặn làn sóng cộng sản
tại Âu Châu, và cuối cùng Tổng Thống Ronald Reagan và Đức Giáo
Hoàng John Paul Đệ II đã đưa ra một cuộc THÁNH CHIẾN (crusade) để
đạp đổ bức tường Bá Linh và giật xập cả hệ thống quốc tế cộng sản
vô thần để giải phóng Ba Lan và các nước Đông Âu và đem lại tư do
dân chủ cho luôn cả bao triệu những người dân Nga thoát khỏi nanh
vuốt hãi hùng của đế quốc cộng sản do Liên Bang Sô Viết lãnh đạo
- một đế quốc mà TT Reagan gọi là evil empire (đế quốc quỷ quái
đầy tội lỗi) (1980-1991). Trong lúc tất cả dân Nga nhìn Tổng
Thống HK như một vị cứu tinh và ân nhân vĩ đại của họ thì truyền
thông báo chí Mỹ lại có người lên án TT Reagan là fascist. Lạ thế
đấy! Biến cố lịch sử trọng đại này cho thấy DÒNG THÁC CÁCH MẠNG
DÂN CHỦ HỮU THẦN CỦA HOA KỲ đã làm cho cả hệ thống Quốc Tế cộng
sản vô thần của Liên Bang Sô Viết sụp đổ tan hoang. Những người
cộng sản thường lớn lối cường điệu rêu rao: “thế giới tư bản đang
dẫy chết”. Thế giới tư bản dẫy chết thì chưa ai thấy dù đã tồn
tại gần 300 năm; chỉ thấy “thế giới cộng sản” vừa mới ra đời 1917
thì đến 1989 đã dẫy chết đành đạch thật thảm hại trước mắt cả thế
giới. Thế giới cộng sản dẫy chết đành đạch trên ảo tưởng và tội
ác vĩ đại của chính nó. Nhiều thành phần thuộc hàng ngũ báo chí
truyền thông Mỹ và trí thức vẫn không đủ can đảm nhận mình sai
lầm khi tán dương và hỗ trợ cộng sản Bắc Việt trong Chiến Tranh
Việt Nam và tôn vinh Marx, và vẫn cho rằng Lenine, Staline và Mao
sai, chứ không phải Marx. Trong khi chính Marx-Engels lúc về già
đã tự thú nhận là họ sai khi cả hai nhìn vào cuộc cách mạng dân
chủ của nước Anh của những người Ki-tô giáo thuộc trường phái
Purutan quá tốt đẹp khi Anh quốc xây nên nền Dân Chủ Nghị Viện
(parliamentary democracy) và đưa ra Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền
(the Bill of Rights) vào năm 1688 để sau này trở thành Bản Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc, và lúc đó,
Marx-Engels mới nhận ra bạo lực cách mạng và hận thù giai cấp của
họ chủ trương và cổ súy quá sai lầm, vì làm tiêu tan tình đoàn
kết quốc gia. Bạo lực cách mạng mà lại muốn xây dựng “thiên đàng
trên mặt đất” thì không phải ảo tưởng thì là cái gi? Hận thù giai
cấp mà lại huyênh hoang cổ súy “thế giới đại đồng” trên máu, nước
mắt tràn lan khắp mặt đất có phải là tội ác vĩ đại không? Và
Chiến Tranh Việt Nam có gì ngoài máu và nước mắt của 14 triệu con
người dâng tràn trên quê hương Miền Nam khốn khổ của họ suốt 20
năm chiến tranh (1954-1975) và 42 năm hòa bình (1975-2017)? Chính
vì những dòng máu và nước mắt đó thôi thúc trái tim tan nát của
những người Việt Nam suốt gần nửa thế kỷ qua - để hôm nay những
con người đó phải ngồi viết lên những hàng chữ buồn bã này. Hỡi
những nhà báo, những nhà truyền thông, trí thức, những chính trị
gia HK và phong trào phản chiến, tại sao các ngài nỡ quay mặt với
tất cả nạn nhân của chiến tranh? Tại sao các ngài lại vinh danh
xưng tụng những kẻ gây ra chiến tranh như những vị anh hùng của
cách mạng cộng sản? Chim bồ câu của các ngài là biểu tượng cao
quý của hòa bình. Muốn có hòa bình thì phải kêu gọi những kẻ gây
ra chiến tranh là cộng sản Bắc Việt, Bắc Kinh và Moscow - chấm
dứt chiến tranh. Nếu các ngài muốn có hòa bình thật sự cho Việt
Nam và Á Châu thì các ngài phải kêu gọi chấm dứt bạo lực và hận
thù giai cấp nơi những người cộng sản, và tôn trọng quyền sống
của con người. Khi những con bồ câu vinh danh xưng tụng cộng sản
có nghĩa là những con bồ câu đã đồng hành và toa rập với bạo lực
và hận thù. Tại sao, tại sao bồ câu lại bay chung với những loài
ác điểu? Tất cả sự thật lịch sử cho thấy bạo lực và hận thù trong
cách mạng chưa bao giờ dẫn con người đến an vui và hòa bình. Bạo
lực và hận thù chỉ dẫn đến một con đường độc đạo - đó là đưa đến
sự chết kinh hoàng và những nấm mồ oan khuất tức tưởi ngẹn ngào
cho bao triệu con người mà thôi. Muốn có hòa bình thì phải tôn
vinh và cổ súy cho tự do và công lý, tại sao lại tôn vinh và cổ
súy cho bạo lực và hận thù? Các ngài sinh ra và lớn lên trưởng
thành trên mảnh đất của tự do và công lý, tràn đầy sữa và mật
ong; chưa bao giờ các ngài phải sống dưới những bàn tay của bạo
lực và hận thù với máu và nước mắt như những nạn nhận cộng sản
nên các ngài mới ngoảnh mặt làm ngơ trước sự đau khổ tột cùng của
bao triệu nạn nhân quằn quại rên xiết từng giờ trong lò lửa của
chiến tranh do cộng sản gây ra, và nườm nượp xếp hàng chạy theo
thứ hào quang tưởng tượng của cộng sản để quay lưng với ÁNH SÁNG
TRÊN ĐỒI CAO của mảnh đất của tự do và công lý mà các Founding
Fathers đã xây dựng cho quốc gia này.
LỜI THÚ NHẬN CỦA MARX - ENGELS KHI VỀ
GIÀ (1862) CÓ TRƯỚC CÁCH MẠNG CỘNG SẢN THÁNG 10-1917 TẠI NGA. TẠI
SAO CON NGƯỜI VẪN ĐEM NHỮNG SAI LẦM mà chính Marx-Engels đã tự
thú ĐỂ LÀM CHO CẢ THẾ GIỚI CON NGƯỜI PHẢI ĐIÊU LINH THỐNG KHỔ CẢ
MỘT THẾ KỶ NHƯ THẾ chỉ vì những ảo tưởng sai lầm của cách mạng
cộng sản?
Không có ảo tưởng cộng sản thì làm gì có “chiến tranh nhân dân”
và có “phong trào giải phóng dân tộc” để gây ra chiến tranh Việt
Nam. Không có ảo tưởng cộng sản thì làm gì có trí thức thiên tả,
có chính trị gia thiên tả, và làm gì có truyền thông báo chí
thiên tả để giết Tổng Thống Diệm và Miền Nam Việt Nam như giết
một quốc gia vừa mới mở mắt chào đời (infant nation). Vì vậy khi
học bài học chiến tranh Việt Nam mà không thấy “ảo tưởng và tội
ác vĩ đại của cộng sản” đã gây ra chiến tranh suốt 20 năm và giật
sập Tiền Đồn của Thế giới Tự Do thì học bài học chiến tranh Việt
Nam làm sao học được? Phải có khả năng tìm hiểu cặn kẽ Phong Trào
Thực Dân, Phong Trào Giải Thực và Phong Trào cộng sản với sự tiếp
tay tích cực và trực tiếp của những thằng ngốc hữu dụng (useful
idiots) trong giới báo chí truyền thông, phong trào phản chiến và
trí thức Mỹ và Tây Phương thì mới hy vọng học xong bài học chiến
tranh này.
BỞI
VÌ TRÊN NHỮNG ẢO TƯỞNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN ĐÓ, TỔNG THỐNG DIỆM VÀ
MIỀN NAM VIỆT NAM ĐÃ CHẾT THẬT KINH HOÀNG VÀ NHỤC NHÃ CHO ĐẾN
NGÀY HÔM NAY VÀ LÀM ĐỔ NÁT LUÔN TIỀN ĐỒN CỦA THẾ GIỚI TỰ DO.
Trên thực tế, chính sách và chiến lược
ngăn chặn cộng sản tại VN và Á Châu của HK đã thất bại. Tại sao?
Muốn tìm được câu trả lời thì không gì bằng duyệt xét lại toàn bộ
Chiến Tranh Việt Nam và nhìn lại cái chết não nề của TT Diệm và
MNVN như một quốc gia đã hy sinh mạng sống mình cho TIỀN ĐỒN CỦA
THẾ GIỚI TỰ DO. Hoa Kỳ đã trả công cho sự hy sinh của Tổng Thống
Diệm và quân dân Miền Nam Việt Nam bằng cách lật đổ ông để đưa
đến cái chết não nề cho ông và đưa luôn đến cái chết cho nền Đệ I
Cộng Hòa VN. Nếu không lật đổ TT Diệm thì chiến lược ngăn chặn
làn sóng cộng sản tại Á Châu của Hoa Kỳ chắc chắn đã thành công
từ 1965. Lật đổ TT Diệm khi ông và Miền Nam Việt Nam đã và đang
chiến thắng cộng sản BV, Hoa Kỳ đã chuyển thắng thành bại không
chỉ cho MNVN mà cho cả nước Mỹ. Vì lẽ đó mà TT Johnson nói rằng:
“lật đổ TT Diệm là lỗi lầm vĩ đại nhất của Hoa Kỳ trong Chiến
Tranh Việt Nam”; vì lỗi lầm này mà Tổng Thống Johnson phải lãnh
đủ mọi hậu quả tàn khốc nhất cho ông và cho nước Mỹ của ông, ông
đành phải Mỹ hóa (Americanization) chiến tranh để đem vào VN
550,000 quân, chi phí mỗi ba tháng là 2 tỷ dollars, mỗi tuần chết
300 người; cuối cùng quốc gia vĩ đại nhất thế giới này phải hy
sinh 58,000 mạng người mà vẫn phải chịu mang tiếng thất trận thật
nhục nhã lần đầu tiên trong lịch sử. Một lần sa chân lỡ bước mà
phải ôm hận đến ngàn thu, là thế! Tại sao lại là Chiến Tranh Việt
Nam mà không phải Malaya, Indonesia, Philippine, Cambodia, Lào
hay Triều Tiên? Bởi vì đúng như các Tổng Thống Hoa Kỳ như Truman,
Eisenhower, Kennedy và Johnson đã nhận định về Chiến tranh Việt
Nam với ba điểm chính yếu như sau:
“Cuộc chiến thắng của cộng sản sẽ đưa
đến bi kịch cho người dân Miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến thắng này
làm tiêu tan sự sống còn của các nước Đông Nam Á và làm cho những
quyền lợi chiến lược của Hoa Kỳ bị rơi vào thảm họa. Cuộc chiến
thắng đó còn dẫn đến những cuộc xâm lăng bành trướng của cộng sản
lớn rộng thêm, không chỉ tại Á Châu mà trên khắp thế giới”.
Từ 42 năm qua biết bao lần người Mỹ đã
ngồi để duyệt xét lại để học lại bài học Việt Nam, nhưng những ảo
tưởng, những ngộ nhận hiểu lầm và những sự thật lịch sử bị che
dấu, bị thêu dệt, bóp méo hay đánh tráo của cộng sản hay của giới
truyền thông, đặc biệt là phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ và Tây
Phương để đánh lừa dư luận nước Mỹ và cả thế giới Tây Phương -
vẫn chưa được làm sáng tỏ. Nếu những phong trào cộng sản tại Liên
Bang Sô Viết, cộng sản Hoa Lục và cộng sản Bắc Việt phát động
chiến tranh khắp Á Châu dương cao ngọn cờ tranh đấu giành độc lập
hoàn toàn giả dối (full phony) thì những tin tức mà phần đông
giới truyền thông Hoa Kỳ và Tây Phương đưa đến cho dư luận nước
Mỹ và thế giới, đa số cũng hoàn toàn giả dối - tuyệt đối giả dối
(absolute phony) như cộng sản. Giới truyền thông báo chí quá mê
sảng và mù quáng trước những ngọn cờ giả dối của cộng sản nên đã
tự biến mình thành những thằng “ngốc hữu dụng” để cho cộng sản
khai thác trục lợi. Mục đích của phong trào cộng sản chẳng phải
tha thiết gì với cách mạng thế giới đại đồng và cũng chẳng phải
tranh đấu giành độc lập cho ai cả. Tất cả những ai còn thiên tả
và thiên cộng đừng nằm mơ nữa nhé! Mục đích chính của phong trào
cộng sản tại Việt Nam, Á Châu và Âu Châu là tranh giành đoạt lợi,
tranh bá đồ vương và tranh quyền cướp nước của Việt Nam và của
các quốc gia cựu thuộc địa của Âu Châu đang trong tiến trình giải
thực để có tự do và độc lập thật sự. Xin các ngài hãy nghe cho
thật kỹ lời tuyên bố của của một người CS sau này là Tổng Bí Thư
cộng sản Việt Nam là Đỗ Mười huyênh hoang lớn lối tuyên bố vào
lúc 10 giờ sáng ngày 20 tháng 2-1976 ngay tại Tòa Đại Sứ cũ của
Mỹ được dùng làm trụ sở của Ủy Ban Bí Thư Trung Ương sau họ khi
chiếm được Miền Nam Việt Nam:
“After the South Vietnam was liberated,
we have right to confiscate their properties, seized their homes.
manifactures, lands, we will drive their cars, their wives should
be raped, their children must be sent to be slaves for us. All
their government ofiicials and military offers shall be sent to
new economic zones in the deep jungles and poisonious water then
all they will be destroyed,slowly and surely.”
“Sau khi Miền Nam đã được giải phóng,
chúng ta có quyền tịch thu tài sản, trưng thu nhà cửa, hãng
xưởng, ruộng đất của chúng nó. Xe của chúng ta lái đi, vợ của
chúng nó chúng ta cứ đè ngửa ra mà hãm hiếp, con chúng nó ta bắt
đi làm nô lệ cho chúng ta. Còn tất cả những viên chức chính
quyền, những sĩ quan trong quân độ Miền Nam chúng ta đày chúng nó
lên vùng kinh tế mới trong rừng sâu nước độc, chắc chắn là chúng
nó sẽ chết dần chết mòn trong đau khổ và tủi nhục.”
Thực tế của cách mạng cộng sản Việt Nam
buồn nôn quá, nhơ nhuốc quá, bẩn thỉu, đê hèn và hạ cấp như thế
mà được cả giới truyền thông, trí thức và chính trị gia cũng như
các phong trào phản chiến khắp nước Mỹ và Âu Châu tán dương hỗ
trợ trong suốt 20 năm chiến tranh Việt Nam thì con người không
thể nào hiểu được (no understandable). Trong suốt 42 năm qua kể
từ ngày 30 tháng 4-1975 cho đến hôm nay 2017 đường lối cai trị và
chính sách quốc gia của cộng sản Việt Nam đối với người dân Việt
Nam hoàn toàn đúng như những gì Đỗ Mười đã nói vào năm 1976 tai
Sài Gòn. ĐÓ LÀ BẢN CHẤT ĐÍCH THỰC CỦA CÁCH MẠNG CỘNG SẢN TAI VIỆT
NAM VÀ TRUNG HOA LỤC ĐỊA. Trong khi đó giới truyền thông báo chí
một mặt tán dương hỗ trợ tận tình cộng sản Bắc Việt, và gọi Việt
cộng và những cán binh cộng sản Bắc Việt là những con người “cao
cả”, mặt khác tìm mọi cách để tấn công Tổng Thống Diệm, chính
quyền Miền Nam, dân quân Miền Nam và tấn công thật tàn bạo cả
chính quyền Hoa Kỷ và các viên chức cao cấp thuộc phe mà gọi là
“diều hâu” thuộc hữu phái như Tổng Thống Nixon, Johnson, Đại sứ
Nolting, tướng Harkins, Tướng Krulak, Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến
HK tại VN, tướng Taylor là những người rất kính trọng Tổng Thống
Diệm và luôn luôn chống lại việc lật đổ Tổng Thống Diệm vì biết
rõ biết rõ dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Diệm và Miền Nam đang
chiến thắng cộng sản Bắc Việt từ 1958-1961 và 1963. Họ cho rằng
chỉ trong vòng hai năm nữa tức vào 1965 thì Hoa Kỳ có thể rút ra
khỏi Việt Nam. Nếu lật đổ Tổng Thống Diệm thì Miền Nam sẽ rơi vào
hỗn loạn và sẽ mất vào tay cộng sản.
2 - SỰ THẬT LỊCH SỬ CHO THẤY
TỔNG THỐNG DIỆM VÀ DÂN QUÂN MIỀN NAM ĐÃ CHIẾN THẮNG CỘNG SẢN TẠI
Á CHÂU VÀO NĂM 1954-1963.
Trong bài viết có tựa đề: “Chúng Ta Đã
Làm Gì Tại Việt Nam” của tác giả Arthur M. Shlesinger, phụ tá đặc
biệt của Tổng Thống Kennedy cho biết Tổng Trưởng Quốc Phòng
McNamara trên chuyến đi Việt Nam vào 1962 có nói:
“Việt Nam đã chỉ cho chúng ta thấy là
chúng ta đang thắng trong cuộc chiến tranh này.”
Tướng Maxwell Taylor khi trở về từ Việt
Nam có một cái nhìn mới sau chuyến công vụ đầu tiên của ông tại
Việt Nam, ở đó ông đã khám phá ra, “một phong trào quốc gia đang
lớn mạnh trên đường tiêu diệt cộng sản. Đây là điều khó tin nhưng
lại là sự thật đó là sự cải tiến sâu xa và rộng lớn về tình trạng
quân sự tại Việt Nam”. Trong bài diễn văn đọc trước cuôc họp của
Liên Bang vào 1963 Kennedy hân hoan tóm lược sau khi đã nghiên
cứu các phúc trình từ Việt Nam sau một năm biến chuyển: “ngọn
giáo hiếu chiến của cộng sản đã cùn lụi tại Việt Nam”.
Sự lạc quan tràn ngập trong tâm tư cho
đến 1963. Vào tháng 3 Tổng Trưởng Ngoại Giao đã nói rằng, “chiến
tranh đang có những chuyển điểm quan trọng... Những lực lượng của
chính quyền Diệm đã kiểm soát được phần lớn đất nước”. Một tháng
sau ông còn biết thêm rằng, “một phong trao rầm rộ đang tiến tới
để xây dựng một hệ thống hiến pháp với sự ưng thuận của toàn
dân”. Sau đó còn tuyên bố thêm: “the strategic hamlet program is
producing excellent results” (Chương [trình] ấp chiến lược đã đưa
đến những kết quả quá tuyệt vời). Bên cạnh đó còn cho biết thêm
là, “tinh thần của người dân tại các vùng nông thôn lên rất cao”.
Ông Tổng trưởng Ngoại Giao bảo đảm với những người thính giả đang
lắng nghe ông rằng, “đối với những người nông dân Việt Nam thì
Việt cộng càng lúc càng mất đi hy vọng chiến thắng”. Ông kết luận
rằng: “Miền Nam Việt Nam đang đi trên đường chiến thắng cộng
sản”. Vào tháng 5 thì Bộ Quốc Phòng tuyên bố: “Chiều hướng đã
xoay chuyển để đi đến chiến thắng tại Việt Nam”.
Riêng Tướng Harkins, Tư Lệnh Quân Đội
Hoa Kỳ tại Việt Nam thì đưa ra lời tiên đoán tràn đầy hứa hẹn là
chiến thắng cuộc chiến tranh sẽ đến “trong vòng một năm nữa”. Còn
Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt là Nolting thì cũng nói với tất cả tin
tưởng rằng: “Miền Nam Việt Nam đang đi trên con đường để chiến
thắng du kích cộng sản”. Đến tháng 10 thì Tướng Harkins còn nói
thêm: “đã có nhiều dấu hiệu cho thấy là chiến tranh sẽ chấm dứt”.
Theo cuộc điều tra của Higgins thì tin
tức Hoa Kỳ cho biết sau các cuộc phỏng vấn tù nhân chính trị BV
tiết lộ thì từ 1959-1963 có khoảng 2700 quân nòng cốt từ Miền Bắc
đưa vào Miền Nam. Vào 1961 con số xâm nhập lên tới 4000. Vào 1962
con số là 6000 Vào năm 1963 thêm 4000 và vào 1964 thì con số là
10,000. Tất cả xâm nhập qua lối Lào và với võ khí của Trung Cộng,
chưa kể quân du kích Miền Nam có khoảng 100,000.
Nhìn vào bản đồ cho thấy sông Cửu Long
chảy ra Biển Đông, nơi đây là địa điểm để cho Bắc Việt xâm nhập
vào Miền Nam khi băng qua biên giới Lào và Cambodia để đi vào
Miền Nam. Đây là địa điểm duy nhất để có nguồn cung cấp tiếp liệu
quân sự. Nhưng vào 1963 thì phần lớn quân Bắc Việt xâm nhập đã bị
càn quét. Như thế chiến lược quân sự của Miền Nam Việt Nam đã
thành công lớn lao.
Giáo Sư Bernard Fall của Đại Học
Harvard cùng nhận thấy nguồn thực phẩm tại Miền Tây, tức đồng
bằng sông Cửu Long rất dồi dào, trong lúc tại vùng cao nguyên lại
khan hiếm. Quân Bắc Việt có những căn cứ ẩn núp tại Lào và
Cambodia đã tìm về vùng này để có thực phẩm nuôi quân và có tiếp
liệu quân sự, ho thường băng qua biên giới để mở các cuộc tấn
công vào Cao Nguyên và các tỉnh phía Bắc, vì rất gần các căn cứ
ẩn núp. Tại các tỉnh Mỹ Tho và Cần Thơ có rất nhiều ấp chiến
lược, chỉ có một số nhỏ là thiếu an ninh, còn phần đông rất an
ninh, vì được tổ chứ và huấn luyện rất kỹ lưỡng cùng với sự bảo
vệ và che chở của quân đội Miền Nam.
Trước khi tìm đến với chiến tranh
Higgins đã trao đổi với Robert Thompson, người đứng đầu ủy ban cố
vấn của Anh quốc gởi đến Việt Nam đã hoạt động tại Việt Nam ba
năm để giúp Miền Nam xây nên những ấp chiến lược để bảo vệ an
ninh cho tất cả người dân sống tại nông thôn khắp Miền Nam.
Thompson đi từ tỉnh này đến tỉnh khác, từ làng này qua làng khác,
từ ấp chiến lược này qua ấp chiến lược khác. Chắc chắn ông là
người nắm rất vững vấn đề nông thôn và tình hình an ninh của cả
Miền Nam nói chung. Robert Thompson là hy vọng để tìm kiếm những
sự thật hoàn toàn khác hẳn với những giả dối của báo chí và các
viên chức Bô Ngoại Giao thuộc phe Bồ Câu thiên cộng và thiên tả
khi viết về tinh hình quân sự tại Miền Nam Việt Nam.
Thompson xác nhận rằng:
The improvement in 1962 and 1963 was
far greater than he had anticipated. (Sự cải thiện tình hình tốt
đẹp vào những năm 1962 và 1963 lớn lao hơn cả những dự liệu của
ông.)
Đứng
trước chiến tranh du kích qua kinh nhiêm mà ông đã thấy ở Mã Lai,
nỗ lực của du kích nổi dậy của cộng sản Mã Lai rất bấp bênh. Nếu
Hà Nội gia tăng những đơn vị nòng cốt từ Bắc Việt vào, nhưng với
những tiến bộ của Miền Nam Việt Nam như hiện nay thì Miền Nam vẫn
có thể đảo ngược được tình thế vào 1964 và 1965. Ông cảm thấy
chiến tranh Việt Nam không thể thất bại được.
Khi đứng nhìn thực tế trong giai đoạn
này, Robert Thompson đã tỏ ra rất lạc quan khi ông nói: “there is
light at the end of the tunnel” (đã nhìn thấy ánh sáng cuối đường
hầm). Bởi vì chiến tranh trong giai đoạn này Việt cộng áp dụng
chiến tranh du kích, khủng bố và ám sát vào 1962-1963 nhưng quân
độ Cộng Hòa đã giải tỏa gần như toàn diện các vùng duyên hải,
nhưng báo chi lại đưa ra những tin tức không đúng sự thật làm bất
lợi cho miền Nam.
Maggie Higgins cho biết vào mùa hè 1963
các chiến lược gia chiến tranh của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa đã càn
quét cộng sản ra khỏi vùng Cao Nguyên, đẩy các lực lượng cộng sản
và Việt cộng lún sâu vào vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nhờ vậy mà
Tổng Thống Diệm đã ổn định được Miền Nam Việt Nam trong suốt 9
năm (1954-1963).
Quan trọng hơn, Tướng Harkins người
đứng đầu về cố vấn quân sự Mỹ cho quân đội Miền Nam cho Higgins
biết, ông rất hãnh diện với đà phát triển quân sự của Miền Nam
Việt Nam, vào giữa tháng 2-1962 và mùa hé 1963, lực lượng không
quân bay cả ngàn phi vụ một tháng so với 100 phi vụ năm trước
đây. Hải quân VN hầu như không có gì trước khi Hoa Kỳ tới. Lúc đó
Việt Nam có một lực lượng hải quân như một con tàu đổ nát gồm
những giang thuyền và những con tàu tuần tra trên biển. Bây giờ
thì có 375 đơn vị bảo vệ dân sự (civil guard) với nhân sự nhiều
ngàn người đã được thành lập, cộng thêm lực lượng bảo vệ làng xã
là 60,000. Cộng thêm với 230,000 trong quân đội Miền Nam. Tất cả
8,000,000 triệu dân trên tổng số 14,000,000 triệu dân Miền Nam đã
được bảo vệ an ninh khi sống trong các ấp chiến lược.
Cuối cùng lịch sử còn để lại một bằng
chứng vững chắc nhất (solid evidence) để chứng minh hùng hồn là
Tổng Thống Diệm và quân dân Miền Nam đã chiến thắng oanh liệt khi
ngăn chặn “làn sóng đỏ” tại Á Châu để bảo vệ Tiền Đồn của Thế
Giới Tự Do. Bằng chứng đó chính là - qua chương trình chiêu hồi
vào 1963 nhiều Việt cộng đã nhìn thấy hàng ngũ của họ đang tan rã
từng ngày. Vào tháng 4-1963 TT Diệm đã đưa chính sách chiêu hồi
để kêu gọi các cán binh cộng sản về hồi chánh với chính quyền
quốc gia (forgiveness and rehabilitation).
Tại tỉnh Quảng Ngãi khoảng 800 cán binh
Việt cộng đã bỏ hàng ngũ để trở về trong chương trình chiêu hồi.
Trên khắp Miền Nam đã có khoảng 10,000 cán binh Việt cộng đã về
hồi chánh vào 1963 (amnesty program).
Maggie Higgins không thể tưởng tượng
được khi nhìn thấy cán binh cộng sản tiếp tục buông súng để trở
về với hàng ngũ quốc gia như những con chim tìm về tổ ấm của họ.
Ngay cả sau khi Tổng Tống Diệm bị lật đổ, là khoảng thời gian có
những cuộc nổi loạn chống chính quyền Miền Nam tơi bời do Thích
Trí Quang và nhóm Phật giáo quá khích của ông gây ra. Trong những
cơn lốc dữ dội vào 1964 và 1965 con số chiêu hồi tiếp tục gia
tăng từng ngày. Sự kiện thực tế cho thấy đã có tới 27,000 cán
binh cộng sản chính quy và trừ bị đã tung cánh chim tìm về tổ ấm
với hàng ngũ quốc gia Miền Nam.
Chiêu hồi trở thành một làn sóng tiếp
tục gia tăng ngay khi những võ khí của Nga và Trung Cộng tuôn ào
ạt đổ vào, cùng với lực lượng Miền Bắc xâm lăng Miền Nam. Các lực
lượng này theo đường mòn Hồ Chí Minh, từ Miền Bắc qua Lào để xâm
nhập Miền Nam. Những đơn vị khác đã xâm nhập bằng đường biển đi
qua vùng Biển Đông để đưa tiếp liệu và vũ khí vào Miền Nam. Nhưng
tất cả những nỗ lực tiến chiếm Miền Nam Việt Nam của cộng sản Bắc
Việt mà tất cả những chứng liệu lịch sử đáng tin cậy nhất vừa nêu
lên ở trên cho thấy Tổng Tống Diệm và quân dân MN đã chiến thắng
oanh liệt trước những đoàn quân xâm lăng và những lực lượng nằm
vùng tại Miền Nam để bảo vệ nền anh ninh và ổn định nông thôn
khắp Miền Nam từ 1954-1963.
Tuy nhiên giới báo chí truyền thông
thiên tả và thiên cộng và những viên chức chính quyền trong Bộ
Ngoại Giao HK thuộc phe bồ câu thì tìm mọi cách đề đảo ngược tất
cả sự thật hiển nhiên mà các viên chức cao cấp nhất của chính
quyền Hoa Kỳ đưa ra trong những hồ sơ còn lưu trữ lại. Trong lúc
đa số báo chí truyền thông chỉ ngồi ở Caravel, Givral hay
Continental tại Sài Gòn để tưởng tượng ra mà viết; rất ít người
tham dự trong các trận đánh tại chiến trường hay đi về các vùng
nông thôn trên 4 vùng chiến thuật mà quan sát và tìm hiểu sự
thật. Nhưng dư luận Hoa Kỳ và thế giới Tây Phương, thay vì tin
vào những sự thật do phái bộ quân sự của Hoa Kỳ và những phúc
trình của CIA hay Robert Thompson phúc trình cho Tòa Đại Sứ Mỹ để
biết tất cả sự thật, dư luận lại tin theo những tin tức giả dối
hay bị bóp méo bởi những nhà truyền thông không có lương tâm
(journalists without conscience) hay những thằng ngốc hữu dụng
(useful idiots) khuất thân làm công cụ tuyên truyền không công
cho cộng sản, viết ra để hướng dẫn dư luận hoàn toàn có hại cho
Tổng Thống Diệm và cả quân dân Miền Nam. Họ biến những chiến
thắng của Miền Nam thành những thảm bại cho quốc gia của họ.
Quan sát những thành quả vĩ đại của TT
Diệm, có lần Thương Nghị Sĩ Mike Manfield đưa ra nhận xét về Tổng
Thống Diệm: “the savor of all Southease Asia” - vị cứu tinh của
khắp vùng Đông Nam Á. Còn Jacob Javits thì tôn vinh Tổng Thống
Diệm: “one of the real heroes of the free world” (đúng là một vị
anh hùng của thế giới tự do). Nhưng tại sao một số người Mỹ lại
lật đổ TT Diệm để đưa đến thảm bại cho cả nước Mỹ? Higgins tìm
được nguyên do như sau:
“Kẻ thủ cộng sản là thứ lọc lừa trí trá
rất tinh vi. Những người Mỹ thay vì phải học nơi ông Diệm khi đến
Việt Nam, họ đã cưỡng ép trói buộc ông phải làm theo lời cố vấn
của họ trong lúc những hiểu biết về kẻ thù cộng sản của họ rất mù
mờ, mù mờ như con tàu đi trong sương đêm vì lạc lối.”
ĐÓ LÀ TẤT CẢ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN CÁI
CHẾT KINH HOÀNG CHO Tổng Thống DIỆM VÀ ĐƯA LUÔN MIỀN NAM VIỆT NAM
VÀO TAY CỘNG SẢN VÀO 30 THÁNG 4-1975 khiến TT Johnson phải than
thở: “Lật đổ TT Diệm là lỗi lầm vĩ đại nhất đã làm cho chính sách
ngăn chận của Hoa Kỳ tại Á Châu thất bại”.
3 - VỊ TRÍ VÀ THAM VỌNG BÀNH
TRƯỚNG CỦA LÀN SÓNG CỘNG SẢN VÀ VAI TRÒ CỦA MỸ TẠI VN VÀ Á CHÂU.
Theo William Bundy, phụ tá đặc trách Á
Châu Sự Vụ cho biết, vào ngày 31 tháng 1-1965 tờ Pavda đã cho
biết Thủ Tướng Sô Viết là Kosygin đã dẫn một phái đoàn đến Hà
Nội, gồm cả các viên chức cao cấp quân sự và kinh tế chứng tỏ
Moscow muốn dấn thân trực tiếp trợ giúp Hồ Chí Minh và cộng sản
Bắc Việt đối đầu với chiến tranh. Và Bắc Kinh coi đó như một
thách đố nguy hiểm cho ảnh hưởng của họ tại Miền Bắc Việt Nam, là
Moscow đang chơi tay trên Bắc Kinh.
Theo cuộc điều tra của Lucian Pye cho
biết: “An ninh Á Châu rất bấp bênh vì cộng sản Hoa Lục can thiệp
vào Việt Nam”. Như vậy bảo vệ được Miền Nam Việt Nam là bảo vệ
được an ninh Á Châu và bảo vệ luôn được Tiền Đồn Của Thế giới Tự
Do. Phó Tổng Thống Lyndon Johnson là người đã viếng thăm Sài Gòn
vào tháng 5-1961 đã phúc trình cho TT Kennedy như sau: “Quyết
định cho Đông Nam Á là tại đây - tại Việt Nam này”.
Theo bài viết của Arthur M. Schlesinger
cho biết: “Những vụ lộn xộn của Phật giáo trở thành chủ đề hàng
đầu của Hoa Kỳ”. Tại Mỹ trong một bài diễn văn trong một đại học,
TT Kennedy tuyên bố: “theo ý kiến của tôi, nếu chúng ta rũ bỏ
những nỗ lực của chúng ta tại Việt Nam thì sẽ dẫn đế sự sụp đổ
không chỉ Miền Nam Việt Nam mà cả vùng Đông Nam Á, vì thế chúng
ta sẽ ở lại Việt Nam”. Sau chót các tướng lãnh trong quân đội
Miền Nam Việt nam đã làm một cuộc đảo chánh lật đổ và giết Tổng
Thống Diệm và ông Nhu và làm cho chiến tranh đi vào tăm tối không
tìm thấy lối ra. Ba tuần lễ sau Kennedy bị giết và tân Tổng Thống
là Johnson lãnh nhận tất cả hậu quả khủng khiếp.
William Bundy có cho biết thêm khi quan
sát những âm mưu của cộng sản Hoa Lục: “Chiến tranh nhân dân của
Mao mang một ý nghĩa khuấy động và với những hỗ trợ cho những
phong trào được coi như những phong trào của địa phương, được
thành lập với mục đích phá hủy, và lật đổ những chính quyền đương
thời tại Việt Nam và Á Châu vừa được độc lập, và thay thế vào đó
là những chế độ cộng sản sẽ làm theo sự chỉ đạo của Bắc Kinh”.
Về phía Hoa Kỳ, William đã nói rõ mục
đích của Hoa Kỳ tại Việt Nam và Á Châu như sau:
“Chúng ta chỉ có một lựa chọn và phải
đứng dậy để đối phó với tình trạng bành trướng của Bắc Kinh. Vì
thế, nền tảng quan trọng nhất của chính sách của Hoa Kỳ là hỗ trợ
các quốc gia bảo vệ an ninh của họ, đó cũng là quyền lợi an ninh
của chúng ta. Những cam kết của chúng ta phản ảnh từ chính sách
và chiến lược bảo vệ an ninh đó - những cam kết song phương với
Nhật Bản, Nam Hàn. Đài loan và Philippies, nhưng trên sự liên hệ
đến Tổ Chức Liên Phòng ĐNA là SEATO. Hiệp Ước An Ninh (security
Treaty) gồm cả Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, và mở rộng đến Miền Nam
Việt Nam.” Trong phần kết luận, William Bundy nói thẳng thừng:
“WE ARE PEKING’S GREAT ENEMY” (CHÚNG TA
LÀ KẺ THÙ VĨ ĐẠI CỦA BẮC KINH.)
“Bởi vì sức mạnh của chúng ta là một
yếu tố quan trọng để duy trì và bảo vệ SỰ THĂNG BẰNG QUYỀN LỰC
(balance of powers) tại Á Châu; khi các quốc gia Á Châu phải
chống lại những âm mưu bành trướng của cộng sản Hoa Lục tại Á
Châu... Những sự kiện quá đơn giản với những xung đột nền tảng
giữa những mục tiêu mà Bắc Kinh nhắm tới và những mục tiêu mà Hoa
Kỳ nhắm tới - trên hết là những hỗ trợ của chúng ta là tôn trọng
quyền tự do và độc lập cũng như những quyền tự chủ và tự quyết
đúng như sự mong muốn của các nước ĐNA.”
“Cộng sản Hoa Lục đã lập ‘mặt trận ái
quốc’ ở Thái Lan và hỗ trợ cho cộng sản Indonesia. Cũng trên tầm
mức quan trọng như thế, Bắc Kinh đã khích động và hỗ trợ cho cộng
sản Bắc Hàn và cộng sản Bắc Việt. Những gì đang diễn ra tại Việt
Nam không chỉ là tham vọng riêng của Hà Nội. Cuối cùng Bắc Kinh
muốn kiểm soát Hà Nội hoặc một nước Việt Nam thống nhất dưới sự
kiểm soát của Hà Nội. Nếu MBVN chống lại Bắc Kinh như đã chống
Tàu trong quá khứ lịch sử thì Bắc Kinh vẫn hưởng lợi lớn lao từ
sự chiến thắng của Hà Nội, từ đó giúp Bắc Kinh bành trướng xuống
Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Burma. Nếu Hà Nội thành công tại
Việt Nam thì Bắc Kinh sẽ thành công tại Á Châu.”
Liên Bang Sô Viết một mặt đề cao chính
sách chung sống hòa bình toàn cầu, mặt khác vẫn nhấn mạnh đến sự
hỗ trợ “những phong trao giải phóng dân tộc” tại VN và trên toàn
thế giới. Sô Viết đưa ra một cuộc vận động rầm rộ để hỗ trợ chính
trị và vật chất cho cộng sản Việt Nam - đó là những người duy
nhất dấn thân để đối đầu công khai với đế quốc Mỹ (American
imperialism). Chiến tranh phải được trợ giúp bằng cách tập trung
cuộc tranh đấu chống đế quốc của thế giới tại Việt Nam bằng cách
đặt những người cộng sản Việt Nam đứng đầu trận tuyến, do đó buộc
Moscow và Bắc Kinh phải sát cánh đứng chung với Hà Nội, và nguyện
thề trợ giúp tinh thần và vất chất.
Sự thật là như thế, theo Liên Bang Sô
Viết thì những người cộng sản Việt Nam là những người duy nhất
đối đầu trực tiếp và công khai với Đế Quốc Mỹ, là những người
đứng đầu trận tuyến nên Sô Viết phải sát cánh. Trong khi cả khối
cộng sản quốc tế gồm cả Liên Bang Sô Viết, cộng sản Bắc Kinh và
27 quốc gia cộng sản và cộng sản Bắc Việt tập trung mũi dùi vào
tấn công Tổng Thống Diệm và Miền Nam Việt Nam nhưng làn sóng đỏ
khủng khiếp này đã bị Tổng Thống Diệm, ông Nhu và toàn dân quân
Miền Nam đánh cho tơi tả suốt 9 năm (1954-1963). Chính những viên
chức của Hoa Kỳ nhận thấy là đến 1965 thì Miền Nam sẽ toàn thắng
cộng sản và chiến tranh sẽ chấm dứt để Hoa Kỷ rút ra khỏi Việt
Nam.
Từ những
chiến thắng vẻ vang đó mới thấy Tổng Thống Diệm và ông Nhu cũng
như toàn dân quân Miền Nam vừa chiến thắng được cộng sản vừa xây
dựng được nền Đệ I Cộng Hòa Việt Nam và Hòn Ngọc Viễn Động - nên
TNS Mike Mansfield mới vinh danh Tổng Thống Diệm là “vị cứu tinh
của cả vùng Đông Nam Á”, và Jacob Javits thì tôn vinh Tổng Thống
Diệm: “đúng là anh hùng của thế giới tự do”. Vì thế phải nhìn
chiến tranh VN trên tầm mức Đông nam Á và trên tầm mức toàn cầu,
và nhìn đó là Tiền Đồn của Thế giới Tự Do như Tổng Thống Kennedy
đã nói thì mới mong hiểu được trọn vẹn chiến tranh Việt Nam. Đây
là một cuộc chiến tranh phức tạp nhất, khó hiểu nhất, nhiều bí ẩn
nhất và, nóng bỏng nhất trong lịch sử chiến tranh lạnh của thế
giới vào thế kỷ 20. Chính Tổng Thống Johnson đã nói: “Việt Nam là
mảnh đất khó khăn nhất trên thế giới”.
Tại sao chiến tranh Việt Nam lại khó
khăn nhất thế giới? Tại sao lại khó hiểu nhất thế giới? Bởi vì
nguyên tắc và chiến lược của những kẻ gây ra cuộc chiến này được
tính toán, quyết định và hành động cực kỳ xảo quyệt và tinh vi
bằng chiến lược đầu tiên là tung hỏa mù (smoke screen strategy)
bất cứ lúc nào và tung ra khắp mọi nơi. Chiến lược thứ hai là
chiến lược tuyên truyền (propaganda strategy) để cho tất cả những
ai chưa biết cộng sản là gì sẵn sàng tin theo “lý tưởng” giả dối
của cộng sản mà hỗ trợ tiếp tay cho cộng sản nhuộm đỏ Việt Nam, Á
Châu và thế giới. Muốn thành công cộng sản phải tìm mọi cách để
bêu xấu (vilify) phe tư bản là Hoa Kỳ và làm cho mọi người tin là
Hoa Kỳ là tân đế quốc thực dân (new colonial imperialism) cần
phải tiêu diệt thì lý tưởng cộng sản mới thành tựu được tại Việt
Nam, Á Châu và trên toàn thế giới.
Vì thế, sau Đệ I Thế Chiến Tổng Thống
Woodrow Wilson đã đưa phong trào giải thực để đòi các đế quốc
thực dân trao trả độc lập cho 70 quốc gia đang bị họ chiếm đóng
và đô hộ trên toàn thế giới. Phong trào giải phóng thuộc địa lớn
lao này được cơ cấu hóa và định chế hóa bằng Hội Quốc Liên và
Liên Hiệp Quốc để giúp đỡ các tân quốc gia độc lập đi vào dân chủ
hóa và xây dựng quốc gia của họ. Từ đó, lần đầu tiên các quốc gia
nhược tiểu mới có tiếng nói trên diễn đàn quốc tế. Khối quốc tế
cộng sản trắng trợn dán ngay cho Hoa Kỳ nhãn hiệu “đế quốc tân
thực dân”, và ngay từ 1920-1930 Lenine và Staline đã âm mưu phát
động phong trào “giải phóng dân tộc” để cướp các tân quốc gia vừa
được HK cứu ra khỏi xiềng xích nô lệ của thực dân Âu Châu. Đến
1950-1960 thì chính thức tham dự vào chiến tranh Triều Tiên và
Việt Nam để ủng hộ cộng sản Bắc Việt chiếm Miền Nam Việt Nam. Sự
thật hiển nhiên của lịch sử cho thấy 70 tân quốc gia vừa thoát
khỏi ách nô lệ của thực dân Tây Phương, những con người vừa được
tháo gỡ khỏi xiềng xích nô lệ thực dân, chưa kịp cất [tiếng] cười
reo vui của tự do và độc lập thì xiềng xích kinh hoàng của đế
quốc cộng sản lại tròng ngay vào cổ của những con người bất hạnh.
ĐÓ LÀ TOÀN BỘ SỰ THẬT VỀ CÁC PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC CỦA
CỘNG SẢN TRONG CHIẾN TRANH VN VÀ KHẮP NƠI TRÊN THẾ GIỚI. Trước
những hành động xâm lăng ngang ngược để chiếm đóng và đô hộ các
tân quốc gia vừa được độc lập đã cho thấy ai thực sự là tân đế
quốc thực dân sau Đệ I Thế Chiến? Vào những thập niên 40-50-60
vẫn chưa có mấy ai hiểu phong trao giải thực ra sao và phong trào
cộng sản là gì, nên khi cộng sản Bắc Việt và khối quốc tế cộng
sản khoác “mặt nạ giải phóng dân tộc” để giành độc lập cho quốc
gia từ tay “tân đế quốc thực dân Mỹ” đa số đã tin theo sự lừa bịp
của cộng sản nên chiến tranh Việt Nam mới trở thành “mảnh đất khó
khăn nhất thế giới” như Tổng Thống Johnson đã nhận định.
Tại Á Châu sau khi chiếm được Hoa Lục
vào 1949 Mao phát động “chiến tranh nhân dân” tại Việt Nam và
khắp vùng Đông Nam Á.
Chiến tranh lạnh là chiến tranh Ý Thức
Hệ, tức là chiến tranh văn hóa (ideological and cultural wars),
và chiến tranh nóng (hot war) là chiến tranh du kích và địa chiến
để xâm lăng và bành trướng để nhuộm đỏ Việt Nam, rồi từ đó nhuộm
đỏ cả Á Châu và thế giới.
Bởi vì Việt Nam là tụ điểm và xuất phát
điểm cho an ninh chiến lược bành trướng của cả khối quốc tế cộng
sản, gồm cả Liên Bang Sô Viết và Hoa Lục nên chính sách ngăn chận
làn sóng xâm lăng và bành trướng của cộng sản cũng khởi đầu từ
Việt Nam và Đông Dương. Chiến tranh Việt Nam là mảnh đất khó khăn
nhất và chiến tranh VN là chiến tranh khó hiểu nhất, vì tất cả
mọi người khi đứng nhìn chiến tranh diễn ra trong làn khói hỏa mù
dầy đặc suốt 20 năm nên không mấy ai hiểu được tham vọng bành
trướng cực kỳ nguy hiểm của khối cộng sản là gì, và cũng không
hiểu rõ tại sao Hoa Kỳ lại đưa ra chính sách ngăn chận cộng sản.
Trong lúc con người chỉ có một lựa chọn rất đơn giản - Nếu con
người xua đuổi ánh sáng thì bóng tối sẽ ập tới ngay. Con người
không bảo vệ được tự do thì họ sẽ sống trong tay của độc tài. Bởi
vì những đế quốc và những tên độc tài muốn tước đoạt tự do của
con người lúc nào cũng có và có khắp mọi. Trong chiến tranh Việt
Nam cũng thế, con người có quyền tự do (free will) để chọn lựa -
hoặc đứng về phe bành trướng, hoặc đứng về phe ngăn chận làn sóng
đỏ đang bành trướng khắp nơi để nhuộm đỏ và xích hóa con người.
Một bên là tự do chủ trương tôn trọng quyền sống, quyền tự do,
quyền tư hữu, và quyền tìm kiếm hạnh phúc của con người; còn bên
kia là chuyên chính vô sản tước đoạt quyền sống, quyền tự do,
tước luôn quyền tư hữu và quyền tìm kiếm hạnh phúc của con người.
Một bên là quyền năng của bạo lực và một bên là quyền năng của
đạo lý, đạo đức và công lý. Con người đứng về phía nào là chính
danh của lịch sử, và phe nào là bất chính trước lịch sử?
Có phải chính Liên Bang Sô Viết, Hoa
Lục, cộng sản Việt mới là những đế quốc tân thực dân không? Ai
chiếm Đông Đức, Ba Lan và các nước Đông Âu? Ai xuất cảng “chiến
tranh nhân dân” tại Việt Nam và khắp vùng vùng Đông Nam Á? Ai xua
quân chiếm Miền Nam Việt Nam, Lào và Cambodia? Hãy trả lời đi;
hỡi những “đế quốc đỏ quỷ quái điêu ngoa, tồi bại đầy tội lỗi
kia”?
Vì thế
muốn hiểu được chiến tranh Việt Nam thì phải hiểu được chủ
trương, đường lối, mục đích, chiến lược và chiến thuật của quốc
tế cộng sản. Mặt còn lại phải hiểu cặn kẽ chủ trương, đường lối,
chính sách, mục đích và giá trị của làn sóng giải thực, tức là
làn sóng cách mạng dân chủ do Hoa Kỳ chủ xướng thì mới thấy rõ
vai trò của Hoa Kỳ và vai trò của Tổng Thống Diệm trong chiến
tranh Việt Nam, Á Châu và thế giới như thế nào trên cái tiền đồn
của thế giới tự do tại Đông Nam Á (the cornerstone of the free
world of Southeast Asia). Khi mọi người đã hiểu được sự thật ấy
thì mới thấy được cái vị trí quan trọng của HK, Miền Nam Việt Nam
và tiền đồn thế giới tự do trên mảnh đất đó trong chiến tranh
lạnh toàn cầu. Có hiểu được hai làn sóng cách mạng dân chủ và
cách mạng CS quần thảo nhau trong chiến tranh Việt Nam mới thấy
rõ ai là bạn và ai là kẻ thù. Khi dấn thân vào chiến tranh mà
không phân biệt ai là bạn, ai là thù đã dẫn đến bi kịch thảm khốc
cho Tổng Thống Diệm và Miền Nam Việt Nam.
Vào 1913 trên thế giới có 7 đế quốc
thực dân: Anh, Đức, Nga, Ý Đại lợi, Thổ Nhĩ Ký, Pháp và Nhật bản.
Đế quốc là một khái niệm cho rằng bất cứ quốc gia nào nắm được
quyền thống trị trên những phần đất nào trên thế giới này, nếu họ
có thể xâm lăng và chiếm đoạt được bằng vũ lực là họ có quyền
thống trị. Liên Bang Sô Viết, cộng sản Hoa Lục và cộng sản Việt
Nam đều đi xâm lăng và chiếm đoạt và thống trị các quốc gia bằng
vũ lực và bạo lực rất hung ác tàn bạo sau đệ II Thế Chiến, nếu
không phải tân thực dân thì gọi những con người này là cái gì bây
giờ?
4
- VAI TRÒ CỦA HOA KỲ LÀ TRANH ĐẤU GIÀNH ĐỘC LẬP CHO 70 QUỐC GIA
ĐANG BỊ THỰC DÂN TÂY PHƯƠNG ĐÔ HỘ VÀ BẢO VỆ ĐỘC LẬP CHO CÁC QUỐC
GIA TRƯỚC CUỘC XÂM LĂNG CỦA LÀN SÓNG ĐỎ CỘNG SẢN
Tổng Thống Woodrow Wilson nhận thấy đó
là điều sai lầm. Khi ông nhận ra những sai lầm của các đế quốc
thực dân, ông cho rằng HK không thể giữ mãi vị trí trung lập được
nữa. Ngày 12 tháng 4-1917 ông đã đến Quốc Hội HK và yêu cầu tuyên
chiến để chống lại đế quốc Đức, và ông tuyên bố rằng: “The world
must be made safe for democracy” (phải làm cho thế giới này thành
nơi an toàn cho nền dân chủ). Sau khi chiến thắng Đệ I Thế Chiến
vào năm 1918, TT Wilson biết đánh gục những trung tâm quyền lực
của đế quốc chỉ là một phần nhỏ trọng trách mà HK phải làm trong
tầm tay. Đối với HK việc xây dựng lại một hệ thống chính trị mới
để thay thế chủ nghĩa đế quốc thực dân (colonial imperialism) còn
quan trọng hơn nhiều.
Điều đòi hỏi đầu tiên là - nước Đức
phải buông súng xuống, ra khỏi nước Pháp, và các quốc gia khác,
nhìn nhận nền độc lập của Ba Lan và các nước Đông Âu. Sau khi
chiến tranh Đệ I Thế Chiến chấm dứt vào tháng 11-1918 TT Wilson
muốn chấm dứt tất cả các cuộc chiến tranh bằng cách xây dựng nên
một thế giới tốt đẹp hơn thế giới mà các đế quốc thực dân đang
chiếm đóng và thống trị khắp nơi.
Theo Gerald W. Johnson cho biết: “lúc
khởi đầu như mọi người đã thấy, Tổng Thống Wilson đã bị chống đối
mạnh mẽ bởi các chính khách tại Âu Châu như Anh và Pháp, vì họ
đều có thuộc địa khắp nơi. Mãi đến khi họ hiểu được chủ trương và
đường lối của Wilson thì họ đã chấp nhận Giao Ước của Công Lý của
Hội Quốc Liên có chương trình giải thực để trả độc lâp cho các
quốc gia. Trong Hiến Chương của Công Lý (covenant of justice) với
14 điểm có đoạn như sau: “Tuy nhiên không có ai đòi hỏi hay mong
ước gì hơn là một sự bình đẳng với các quyền căn bản không thể
phủ nhận được của nhân loại ngày nay đang tìm kiếm tự do”. Trong
chương trình giải thực này, Hoa Kỳ phải gánh vác hai cuộc chiến
tranh:
CHIẾN
TRANH CHỐNG LẠI LÀN SÓNG ĐỘC TÀI (Nazism, fastcism and communism)
CHIẾN TRANH ĐÒI QUYỀN SỐNG CHO TẤT CẢ
CON NGƯỜI.
Ngay từ thời cách mạng, Thomas Jefferson đã cho rằng, Trong các
đường lối ngoại giao với các quốc gia HK có một sứ mạng đem lại
ánh sáng tự do cho tất cả nhân loại với giá trị như sau:
- Những chính sách ngoại giao của một
quốc gia dân chủ gồm luân lý đạo đức, bởi vì HK là một quốc gia
thừa kế từ những con người yêu chuộng hòa bình.
- Chính sách đối ngoại phải phản ảnh
đúng với những tiêu chuẩn đạo đức giống như đời sống đạo đức của
mỗi cá nhân.
-
Nhà nước không được quyền đòi tách luân lý đạo đức ra khỏi bản
thân của chính nhà nước.
Theo công trình nghiên cứu của Gerald
W. Johnson thì tiến trình giải thực vào thời hậu Đệ I Thế Chiến
vào 1920 được đặt trên Hiến Chương Atlantic Charter. Tổng Thống
Roosevelt đã tuyên bố rằng Hiến Chương không chỉ áp dụng cho Âu
Châu, mà khắp nơi, kể cả các khu vực thuộc địa trên toàn thế
giới, ông tuyên bố:
“Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng nếu chúng
ta muốn tiến tới một nền hòa bình ổn định thì nền hòa bình đó có
liên quan tới sự phát triển của các quốc gia lạc hậu. Tôi không
thể nào tin được là chúng ta có thể tranh đấu với chủ trương nô
lệ của fastcist, nhưng lại không nỗ lực hợp tác với tất cả những
con người vừa được tự do từ các chính sách thuộc địa lạc hậu xây
dựng đời sống và quốc gia của họ. Vào 1942 vai trò lịch sử của
Hoa Kỳ là đối kháng mạnh mẽ lại các quốc gia thực dân đang chiếm
đóng và nô lệ các thuộc địa. Nếu cuộc chiến tranh này là một cuộc
chiến tranh thật sự giải phóng cho con người, thì cuộc chiến đó
phải bảo đảm quyền bình đẳng cho con người khắp thế giới. Chiến
thắng mà chúng ta phải đưa đến sự giải phóng cho tất cả con
người. Thời đại của đế quốc thực dân đã cáo chung”.
Quan điểm của Roosevelt về thực dân đã
có từ trước. Ông muốn nhìn thấy Hoa Kỳ nắm vai trò dẫn đầu đưa
đến cuộc giải phóng không thể nào tránh được cho các khu vực đang
bị các thực dân chiếm đóng.
Charle Taussing, cố vấn Tổng Thống cho
biết khi TT Roosevelt nhìn về các nước ĐNA thì ông tuyên bố,
“Tổng Thống nói rằng ông rất ưu tư lo lắng cho những người dân da
vàng tại Á Châu. Ông nói tại đó có cả tỷ con người đang bị người
da trắng thống trị, và họ rất đau khổ và oán hận. Mục tiêu của
chúng ta là giúp họ đòi lại nền độc lập - để cho cả tỷ con người
trong oán thù là điều vô cùng nguy hiểm”.
Trong bài diễn văn quan trọng nhất đọc
trước Quốc Hội vào 1941, TT Roosevelt nói:
“Trong những ngày tới đây, chúng ta
phải tìm được một sự bảo đảm khi chúng ta nhìn thẳng vào một thế
giới được xây dựng trên bốn giá trị tự do thiết yếu nhất của con
người:
- Tự do
đầu tiên là tự do ngôn luận, và tự do bày tỏ ý kiến và quan điểm
riêng của mỗi người - khắp nơi trên thế giới
- Tự do thứ hai là tự do thờ lạy đấng
Tạo Hóa theo cách riêng của họ - ở khắp nơi trên thế giới
- Tự do thứ ba là tự do được theo ước
muốn của con người với sự hiểu biết về kinh tế. Vì nó sẽ bảo đảm
cho mỗi quốc gia được giầu mạnh trong cuộc sống thanh bình cho
những ai đang sống trên đó - ở khắp mọi nơi trên thế giới
- Tự do thứ tư là tự do thoát khỏi mọi
đe dọa, sợ hãi, có nghĩa là giảm bớt vũ khí trên tầm mức thế
giới, để tiến tới điểm đó, trên một đường lối như thế, không còn
một quốc gia nào được mở ra các cuộc xâm lấn và chiếm đóng các
nước lân bang - ở khắp thế giới.”
Sau Giao Ước của Công Lý do Woodrow
Wilson đưa ra là Hiến Chương Bắc Đại Tây Dương với 4 quyền tự do
Roosevelt đưa ra, cuối cùng là Liên Hiệp Quốc đã trở thành diễn
đàn để các nước nhược tiểu và trung bình được trình bày quan điểm
của họ với thế giới lưỡng cực. Khởi đầu là 51 quốc gia, sau tăng
lên 122 quốc gia vào 1967, trong đó có 49 quốc gia đã từng là cựu
thuộc địa của thực dân Âu Châu.
Vào 1962 đã có những hội nghị trên 10
khu vực và quốc tế được tổ chức. Tất cả đã đưa 4 nguyên tắc cho
chương trình giải thực như sau:
1. Loại trừ chủ nghĩa thực dân
(colonialism) và chủ nghĩa đế quốc (imperialism)
2. Phát triển kinh tế
3. Tôn trong quyền tối thượng
(sovereignty) của mỗi quốc gia
4. Xây dựng trật tự cho hòa bình của
thế giới, trong đó các nước lớn phải tôn trọng các nước nhỏ và
trung bình.
5 - CHƯƠNG TRÌNH GIẢI THỰC.
Tiến trình giải thực phần lớn diễn ra
rất êm thắm như tại Đông Nam Á có Ấn Độ (1947), Phi Luật Tân
(1946), Ceylon và Burma (1948), Indonesia (1949), Việt Nam, Lào
và Cambodia (1954), Mã Lai (1957), Sarawak và Bắc Borneo (1963),
Madagasca (1960), Singapore (1963), Hồng Kông (1997).
Tại vùng Trung Đông có Lybia (1951), Ai
Cập và Morroco (1956), Tunisia (1957), và Algery (1962).
Riêng tại vùng Phi Châu có 27 quốc gia
đều đã được trao trả độc lập, và chuyển giao quyền hành một cách
tương đối êm xuôi. Nước Cộng Hòa Nam Phi của Nelson Mandela cũng
được độc lập vào 1961.
Theo Raymond Bett cho biết thì tổng
cộng chương trình giải thực đã trao trả độc lập và chuyển giao
lại quyền hành từ các chính quyền thực dân cho các chính quyền
của các tân quốc gia, tất cả là 70 quốc gia. Hiện tượng giải thực
thể hiện sinh hoạt chính trị quốc tế và toàn cầu. Tiến trình này
phần đông đã diễn ra sau Đệ II Thế Chiến vào những thập niên
1950-1960 để kết thúc phong tào thực dân đã xây dựng đế quốc của
họ 500 năm trên toàn thế giới.
QUỐC GIA ĐI TRANH ĐẤU CHO CÁC NỀN ĐỘC
LẬP CỦA 70 QUỐC GIA ĐANG BỊ CÁC ĐẾ QUỐC THỰC DÂN ÂU CHÂU CHIẾM
ĐÓNG - QUỐC GIA ĐÓ CHÍNH LÀ HOA KỲ.
Khởi đầu các chương trình giải thực là
Tổng Thống Woodrow Wilson khi ông trình lên Quốc Hội Hoa Kỳ 14
điểm để kêu gọi HK đứng ra tái lập hòa bình sau Đệ I Thế Chiến và
sắp xếp lại trật tự mới của thế giới. Bước vững chắc cho việc xây
dựng và ổn định Âu Châu và thế giới là thành lập nên Hội Quốc
Liên vào 1918. Đây là tổ chức quốc tế và toàn cầu - tiền thân của
Liên Hiệp Quốc sau này.
Tuy nhiên, phong trào Quốc Tế cộng sản
do Liên Bang Sô Viết lãnh đạo đã phát đông những cuộc chiến tranh
để giải phóng dân tộc (National Liberation Front) trên toàn thế
giới, với mục đích là cướp lấy những quốc gia vừa được độc lập
trong thế giới đệ III. Vì thế Mặt trận Giải Phóng Miền Nam là một
bộ phận của Quốc Tế cộng sản, tuyệt đối không phải phong trào tự
phát của quần chúng đứng lên chống chính quyền Miền Nam Việt Nam
như tầng lớp báo chí, trí thức và phong trào phản chiến nhận
định. Vì quá nhẹ dạ thiển cận, ngây thơ và thiếu hiểu biết và
kiến thức lịch sử HK và Âu Châu vào thời hiện đại nên những người
này đã hùa theo và tôn vinh những người cộng sản trong cái gọi là
các “cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ‘khỏi đế quốc’ tân thực
dân là HK”.
ĐÂY LÀ MỘT SỰ LỪA ĐẢO VĨ ĐẠI NHẤT CỦA LỊCH SỬ NHÂN LOẠI VÀO THỜI
HIỆN ĐẠI MÀ CHO ĐẾN HÔM NAY (2017) VẪN CHƯA ĐƯỢC LÀM SÁNG TỎ.
CHÍNH SỰ LỪA ĐẢO TRẮNG TRỢN NÀY ĐÃ ĐƯA ĐẾN CÁI CHẾT CHO TỔNG
THỐNG DIỆM VÀ CHO MỘT QUỐC GIA SƠ SINH VỪA MỞ MẮT CHÀO ĐỜI LÀ NỀN
CỘNG HÒA VIỆT NAM ĐÃ ĐƯỢC TỔNG THỐNG DIỆM VÀ TOÀN DÂN TOÀN QUÂN
XÂY DỰNG NÊN TRONG LÒ LỬA CỦA CHIẾN TRANH SUỐT 9 NĂM. (1954-1963)
Trên thực tế của lịch sử, phong trào
quốc tế cộng sản không chỉ dương ngọn cờ “Mặt trận giải phóng dân
tộc” khắp thế giới, mà họ còn dương “ngọn cờ yêu chuộng hòa bình”
khắp mặt đất. Ở đâu có ngọn cờ giải phóng, ở đó có xiềng xích nô
lệ, và ở đâu có ngọn cờ “yêu chuộng hòa bình” ở đó có lò lửa của
chiến tranh. Nhưng tiếc thay và bất hạnh thay, phần đông dư luận
trên toàn thế giới, chỉ thấy ngọn cờ giải phóng mà không thấy
xiềng xích nô lệ của những người cộng sản. Dư luận cũng chỉ nhìn
thấy ngọn cờ “yêu chuộng hòa bình” mà không nhìn vào các cuộc
chiến tranh do ngọn cờ tráo trở giả dối này gây ra để Harison
Salisbury phải gào thét trên bi kịch thảm thiết này:
LƯƠNG TÂM CỦA THẾ GIỚI ĐANG Ở ĐÂU?
LƯƠNG TÂM CỦA NƯỚC MỸ ĐANG VẤT VƯỞNG NƠI NÀO? VÀ TẠI SAO LƯƠNG
TÂM CỦA CON NGƯỜI LẠI TỐI TĂM U ÁM NHƯ THẾ NÀY?
Tại sao báo chí truyền thông, tầng lớp
trí thức, các chính trị gia tại Mỹ và Âu Châu cũng như phong trào
phản chiến không đứng ra và hô hào chống những kẻ nào gây ra
chiến tranh bằng những cuộc chiến tranh du kích, ám sát, bắt cóc
quá rùng rợn tại Việt Nam, Lào, Cambodia, Phi, Thái Lan, Mã Lai,
Indonesia, Đại hàn hay Burma? Tại sao họ lại chống Miền Nam Việt
Nam, Lào và Cambodia là những quốc gia nạn nhân vô cùng đau khổ
do chiến tranh du kích của hàng ngũ cộng sản gây ra? Tại sao lại
chống Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất trong lịch sử, một quốc gia ân
nhân vĩ đại nhất thế giới đã đứng ra tranh đấu cho 70 quốc gia
được trao trả độc lập? Tại sao phong trào phản chiến lại gọi Hoa
Kỳ là “quốc gia con heo” (pig nation) khi Hoa Kỳ đã thực thi
quyền năng của đạo đức và công lý, để cứu Âu Châu, cứu Á Châu,
Phi Châu, Trung Đông và Việt Nam thoát khỏi xiềng xích nô lệ của
thực dân? Tất cả sự thật đều có trong lịch sử với những tài liệu
thành văn, tại sao không mấy ai chịu học hỏi nghiên cứu để thấy
sự thật ở chỗ nào, tại sao lại tôn vinh hay chống đối toàn những
điều giả dối bịa đặt trắng trợn như thế? Tại sao? Tại sao? và tại
sao lương tâm của tầng lớp truyền thông báo chí, tầng lớp trí
thức khoa bảng hàn lâm, và chính trị gia thiên tả và thiên cộng
tại Hoa Kỳ và Âu Châu lại tối tăm và u ám như thế này?
6 - PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC CỦA QUỐC TẾ CỘNG SẢN ĐỂ LẠI CHO LỊCH SỬ NHÂN LOẠI NHỮNG GÌ
NGOÀI ẢO TƯỞNG VÀ TỘI ÁC VỚI NHỮNG CÁI CHẾT CỦA 1OO TRIỆU NGƯỜI
VÔ TỘI TRÊN TOÀN THẾ GIỚI?
Trong cuốn Black Book of Communism của
tập thể tác giả như: Stephen Courtois, Nicolas Werth, Jean Louis
Panne, Andrzej Paczkowski, Karel Bartosek, và Jean Louis
Margolin, xuất bản 2001 cho biết họ đã để ra 7 năm để thu thập
tài liệu về Liên Bang Sô Viết và các nước Đông Âu cũng như tại
Hoa Lục, Phi Châu và Nam Mỹ để phân loại và phân tích những tội
ác của cộng sản.
“Revolution, trees, must be judged by
their fruits”. (Ignazio Silone)
Thật đúng như thế, muốn biết cách mạng
cộng sản là gì thì giống như nhìn vào một cây ăn trái - phải nhìn
vào hoa trái của nó để mà phê bình phán xét. Đơn giản là, nhìn
quả biết cây.
Và với những tiêu chuẩn đó các tác giả đã đem ra áp dụng để truy
xét về những việc mà người cộng sản đã làm ---tại Hoa Lục có Mao
(the great helmsman), tại Bắc Hàn có Kim II Jung, Việt Nam có
“uncle Ho”, Cuba có Fidel Castro, Ethiopia có Mengistu, Angola có
Neto, tại Afghanistan có Najiballah và Cambodia có Polpot. Đây là
những tên tội đồ của nhân loại. Theo các tác giả nhận thấy thế kỷ
XX là một thế kỷ đẫm máu nhất, xuất phát từ cách mạng cộng sản.
Các cường quốc Âu Châu đã tạo ra bi kịch buôn bán nô lệ. Nền cộng
hòa Pháp đã tạo ra thực dân chiếm đóng các quốc gia nhỏ bé hay
nghèo khổ làm thuộc địa.
Hai cuộc thế chiến với chủ nghĩa Nazism
và Fascism.
Phong trào cộng sản xuất hiện nhân danh cách mạng cộng sản để tạo
ra bao bi kịch hãi hùng khiếp đảm khắp nơi. Phong trào cộng sản
bắt đầu khởi đi từ Sarjevo vào 1914 và chấm dứt tại Nga vào 1991
- đó là trung tâm cách mạng cộng sản. Sự phân biệt giữa chủ nghĩa
cộng sản và thực chất rất cần thiết và quan trọng. Các tác giả
cho biết: ở đây chúng ta không xét về mặt triết lý và chủ thuyết
mà xét trên thực tế của lịch sử.
Cách mạng cộng sản đã vượt qua tội ác
cá nhân, mà là tội ác của những chế độ cộng sản, trong lúc nắm
quyền lực và củng cố quyền lực đã phạm hàng loạt tội ác (mass
crime) do hệ thống chính quyền cộng sản gây ra. Đặc biệt trong
các cuộc xâm lăng và chiếm đóng các nước Đông Âu của Liên Bang Sô
Viết và của Mao Trạch Đông tại Trung Hoa Lục Địa, đều gây ra sự
hãi kinh hoàng, và các chế độ này đã thành lập nên hệ thống chính
quyền để đàn áp con người hàng ngày, nắm giữ và kiểm soát tất cả
phương tiện truyền thông, kiểm soát các vùng biên giới, và trục
xuất những người bất đồng chính kiến. Từ Hoa Lục tới Bắc Hàn, và
“bác Hô” của cộng sản Việt Nam, Fidel Castro, Mengistu, Agostino
hay Najiballah.
Tập thể tác giả nhận thấy, những tội ác
của cộng sản vẫn chưa được đánh giá lại trên quan điểm của lịch
sử và đạo đức. Vì thế, cuốn Black Book of Communism đã chú tâm
tới những khía cạnh tội ác được áp dụng trên những khu vực chính
yếu, và trong bối cảnh toàn cầu... tất cả tội ác được xét đoán
không phải trên những tiêu chuẩn luật pháp cộng sản mà trên tiêu
chuẩn luật thiên nhiên của nhân loại.
Lịch sử của các chế độ cộng sản và
những đảng cộng sản, cũng như những chính sách của họ, với sự
liên hệ tới những xã hội của chính họ, và liên hệ đến cộng đồng
quốc tế, tạo ra những kinh hoàng và những tội ác do những người
cộng sản gây ra. Tại Liên bang Sô Viết và các chế độ dân chủ nhân
dân (people’democracies) sau cái chết của Staline cũng như tại
Hoa Lục sau cái chết của Mao, khủng bố kinh hoàng đã bớt đi vào
thời chung sống hòa bình (peaceful co-existance). Những cuộc
tranh đấu giai cấp với những cuộc hành quyết các con tin, những
toán ám sát, các cuộc tàn sát các nông dân nổi loạn hay đẩy các
nông dân vào những trận đói khủng khiếp.
Chúng ta muốn nghiên cứu các loại tội
ác nào? Cách mạng cộng sản đã phạm những tội ác đa dạng, không
chỉ chống lại cá nhân con người, mà còn chống lại văn minh của
thế giới, và chống lại các nền văn hóa của các dân tộc. Staline
đã phá tan các nhà thờ tại Moscow, Causescu đã phá trung tâm lịch
sử của Bucharest, Polpot đã phá sập nhà thờ chính tòa tại Phnom
Penh và chiếm đền thờ Angkor Wat. Trong cách mạng văn hóa Mao đã
tàn phá tất cả những gia sản vô giá của Trung Hoa bằng những bàn
tay đẫm máu của hồng quân. Những phá hoại này nằm trong tầm mức
quốc gia cũng như với nhân loại như một tổng thể, với những vụ
sát nhân tập thể hàng loạt, đàn ông, đàn bà và trẻ em.
Tập thể tác giả Black Book nhận thấy
đây là những tội ác vô giới hạn để gieo tai vạ cho những thường
dân như là mấu chốt của các cuộc khủng bố, bao gồm các cuộc hành
quyết bằng nhiều phương tiện khác nhau, chẳng hạn như ám sát,
treo cổ, trấn nước cho chết, đánh đập, gây ra những tai nạn, giết
người bằng những độc dược, hủy diệt con người bằng cách gây ta
những trận đói khủng khiếp, tống xuất đến những vùng xa xôi, để
cho con người suy liệt, đau ốm đói khát, lạnh lẽo. Tội ác cộng
sản gây ra cho nhân loại được ước tính [với] con số nạn nhân như
sau:
Liên Bang
Sô Viết 20 triệu người vô tội bị giết
Trung Hoa Lục địa 65 triệu người vô tội bị giết
Việt Nam 1 triệu người vô tội bị giết
Bắc Hàn 2 triệu người vô tội bị giết
Đông Âu 1 triệu người vô tội bị giết
Châu Mỹ La Tinh 150,000 người vô tội bị giết
Afghanistan 1.5 triệu người vô tội bị giết.
Phong trào quốc tế cộng sản và các đảng
cộng sản phát động “chiến tranh giai cấp”, “chiến tranh nhân” và
“chiến tranh giải phóng” đã đưa đến những cái chết hãi hùng và
khiếp đảm cho 100 triệu con người hoàn toàn vô tội trên khắp thế
giới.
Riêng
tại Cambodia, theo tài liệu lịch sử mà các tác giả thu thập được
cho thấy, trong suốt thời gian 3 năm rưỡi Polpot đã thi hành các
cuộc tàn sát thật khủng khiếp qua các cuộc tra tấn, hành hạ, tàn
sát và tạo ra nạn đói lan tràn khắp nơi làm chết 1/3 dân số của
Cambodia. Tại Trung Hoa lục địa dưới thời Mao việc giết người
diễn ra như không tiền khoáng hậu. Tại LBSV dưới thời Lenine và
Staline, máu của những người cộng sản trở nên lạnh lùng băng giá
nên đã tàn sát con người liên tu bất tận.
Tập thể tác giả đã đưa ra lời giải
thích như sau: qua các cuộc điều tra, điều đòi hỏi phải có là
nghiên cứu “phẩm chất” đặt trên một tảng pháp lý với trọn vẹn ý
nghĩa của “tội ác”.
- Những tội ác chống lại nền hòa bình,
đã được định nghĩa ở Article 6a, có liên quan đến kế hoạch sửa
soạn, gây ra chiến tranh xâm chiếm hay gây ra chiến tranh là vi
phạm những thỏa ước quốc tế như LBSV chiếm Ba Lan, sát nhập các
nước vùng Baltic và chiếm các nước Đông Âu. Chủ mưu gây ra chiến
tranh Nam-Bắc Triều Tiên vào 1950, và cộng sản Hoa Lục đã xua
quân tràn ngập trong chiến tranh Triều Tiên. Những phương pháp đã
được CS xử dụng để hỗ trợ trực tiếp các đảng cộng sản tại VN và Á
Châu để gây ra những tội ác chống lại nền hòa bình. Cộng sản còn
tạo ra các cuộc lật đổ chính quyền của các quốc gia như VN hay
Afghanistan.
-
Các tội ác chiến tranh được định nghĩa bởi Article 6b được coi là
vi phạm những luật lệ hay tập quán của chiến tranh. Những vi phạm
đó gồm có sát nhân, đối xử tàn tệ với con người hoặc trục xuất
các cư dân, đẩy họ vào vòng nô lệ lao động, sát hại hay đối xử
tàn tệ với các tù nhân chiến tranh hoặc những người dân trên các
vùng biển, giết hại các con tin, và phá hoại tài sản riêng tư,
tàn phá các thành phố, các đô thị và làng xã.
Staline đã để mặc cho những tội ác tung
hoành để cộng sản sát hại gần như tất cả các sĩ quan của Ba Lan
đã bị bắt làm tù binh vào 1939. Riêng tại Katyn Staline đã tàn
sát 4500 người, còn những tội ác lớn hơn nhiều vẫn chưa được xét
tới. Trong đó có những cuộc sát nhân hoặc chết trong các goulag
trên 1000 quân Đức khi bị bắt làm tù binh từ 1943 và 1945. Khi
hồng quân Nga chiếm đóng Đức đã hãm hiếp phụ nữ Đức, và tàn phá
tất cả các dụng cụ trong các nghành kỹ nghệ.
- Với tội ác “chống lại con người”
(crime against humanity) đã bị các nước Anh, Pháp và cả Nga vào
1915 lên án những cuộc tàn sát dã man những người Armenians của
đế quốc Thổ, được coi như một tội ác mới mẻ để “chống lại con
người và chống lại văn minh của nhân loại”. Những hành động tội
ác tàn bạo mà phe Đức Quốc Xã đã gây ra đã được tòa án Nuremberg
định nghĩa trong Article 6c như: “tội sát nhân, hủy diệt. Xô đẩy
con người vào vòng nô lệ, trục xuất và những hành động phi nhân
khác (inhuman actions) để chống lại các thường dân, trước hoặc
sau chiến tranh, hoặc các cuộc hành quyết con người, vì lý do
chủng tộc, chính trị và tôn giáo.”
Trong phiên tòa tại Nuremberg, vị thẩm
phán công tố là Francois de Menthon đã phát biểu như sau:
“Hôm nay tôi đưa ra để chứng minh về
tất cả các tổ chức tội ác này đã phạm vào quá nhiều tội ác, từ
cái tội mà tôi có quyền gọi là - tội ác chống lại giá trị tinh
thần, tôi muốn nói tới một thứ chủ thuyết đã chối bỏ những giá
trị đạo đức, luân lý và tinh thần mà các quốc gia đã xây dựng nên
từ bao ngàn năm qua để đưa đến những cải thiện tốt đẹp cho những
điều kiện sống của con người trong xã hội, chủ thuyết này nhắm
vào để đẩy con người trở lại thời kỳ hồng hoang man rợ tại các
quốc gia để biện minh cho những cứu cánh với tất cả phương tiện
để hủy diệt con người. Tội ác này xuất phát từ tinh thần của xã
hội chủ nghĩa của các quốc gia cộng sản - chính là nguồn gốc phát
sinh ra tất cả tội ác.”
CHỦ NGHĨA QUỶ QUÁI NÀY CHÍNH LÀ
TINH THẦN KÝ THỊ CHỦNG TỘC.
Vị thẩm phán này tiếp tục luận tội:
chúng ta suy xét về một tội ác để chống lại nền hòa bình, hoặc
tội ác chiến tranh, chúng ta không chỉ phải đối mặt như với một
tai nạn, hoặc thứ tội ác chỉ đợi khi diễn ra mà chúng ta trên
thực tế phải đối mặt với một hệ thống tội ác (systematic
criminality) bắt nguồn từ chủ thuyết của Đức Quốc Xã.
Luật mới của Pháp về tội phạm, đã được
áp dụng July 23-1992, đưa ra định nghĩa về các tội ác trong chiến
tranh với các hành động như sau đây: trục xuất, xô đẩy con người
vào vòng nô lệ, hoặc trên tầm mức lớn hơn là những hệ thống hành
quyết (systematic executions), tổ chức bắt cóc những người, sau
đó bị biến mất, những hành hạ tra tấn, hoặc những hành động phi
nhân bởi những động lực chính tri, tư tưởng triết học, hoặc tôn
giáo. Mục đích của hệ thống tội ác này dùng để chống lại các
thường dân.
Tất cả những định nghĩa trên, đặc biệt là của Pháp vừa qua nói về
tội ác của Lenine, đặc biệt là Staline, và tất cả những lãnh tụ
của tất cả các quốc gia cộng sản đều đã phạm tội. Tuy nhiên, điểm
chính yếu không thể nào chạy trốn đươc là các chế độ cộng sản đã
hành động “nhân danh sự siêu đẳng của ý thức hệ” khi thi hành các
chính sách của họ. Vì nhân danh với sự tin tưởng vào một hệ thống
tư tưởng - nhiều triệu nạn nhân vô tội đã bị tàn sát bằng cả
những hệ thống tội ác đồ sộ nhắm vào tầng lớp trung lưu, quý tộc,
kulak (phú nông) người Ukrainian, hoặc ngay cả với các đảng viên
cộng sản. Mikhail Tomski tuyên bố: “tuy nhiên, nguyên tắc căn bản
cần phải phân biệt giữa chúng ta và Tây Phương như sau: độc đảng
thống trị, và còn tất cả các đảng phái khác thì phải tống vào
tù.”
Theo các
vị thẩm phán trong phiên tòa thì, quan niệm về tội ác chống lại
con người là điều rất phức tạp, và nó đưa đến trực tiếp những tội
ác đã suy xét tại đây. Trong đó một trọng tội được nói đến chính
xác là tội diệt chủng. Những tội ác chống lại con người đã được
định nghĩa bởi Liên Hiệp Quốc về việc ngăn chận và trừng phạt tội
diệt chủng vào December 9-1948 như sau:
- “Diệt chủng có nghĩa là đã phạm vào
tội cố ý hủy diệt toàn thể hay môt phần các nhóm thuộc các dân
tộc, hay các nhóm thiểu số hoặc các tôn giáo, chẳng hạn như (a) -
giết hại những thành viên, (b) - đưa đến những nguy hại về thể
chất, tinh thần cho những người trong nhóm đó (c) - áp đặt phương
pháp để ngăn cản sinh nở trong các nhóm, (e)- đưa trẻ em từ nhóm
này qua nhóm khác.”
Lenine và các đồng chí của ông đã chủ
trương “chiến tranh giai cấp” (class war), trong đó gồm những kẻ
thù về phương diện chính trị và ý thức hệ, cũng như toàn thể xã
hội, đều đã được xếp loại như những kẻ thù, và đó là những người
cần phải tàn sát. Nhóm Bolshevik đã quyết định để dùng luật, và
các phương tiện khác để loại trừ tất cả những ai có thái độ tiêu
cực hoặc chống đối quyền hành tuyệt đối của họ. Chiến lược này
không chỉ đã được áp dụng với những nhóm có những quan điểm chính
trị chống đối, mà còn có cả tầng lớp trung lưu, quý tộc, trí
thức, và cả tu sĩ cũng như những nhóm trí thức chuyên gia như
những sĩ quan quân đội và cảnh sát. Đôi khi Bolshevik đẩy những
người này vào chỗ diệt chủng.
- Hành động tiêu diệt những người nông
dân giầu có tại Sô Viết (dekulakization) vào 1930-1932... Khi
lệnh chính đưa ra “để tiêu diệt bọn địa chủ như tiêu diệt một
giai cấp”. Những người Kulak đã đồng loạt đứng lên tập thể để
chống đối đều đã bị bắn bỏ, và những ngưới khác đã bị trục xuất
cùng với vợ con và những người già cả trong gia đình. Số con lại
bị lùa vào các trại lao động cưỡng bách trong các vùng hoang vu ở
Siberia hay vùng cực Bắc để họ chết dần mòn trên đó. Mấy chục
ngàn người đã bỏ xác tại vùng này, con số chưa biết chính xác là
bao nhiêu. Cũng như nạn đói khủng khiếp tại Ukraine vào
1932-1933, đưa đến hậu quả từ những sự chống đối tập thể của
những người dân bị đưa vào lao động tập thể là đã đưa tới 6 triệu
người bị chết trong thời gian vài tháng.
Tại đây, cuộc diệt chủng một giai cấp
vì lý do chủng tộc, đem bỏ đói một số trẻ em thuộc giới phú nông
(the Ukainian kulak) của chế độ Lenine “cũng tương tự” như nạn
đói của trẻ em Do Thái tại các ghetto ở Warsaw do bọn Đức Quốc Xã
gây ra.”
Nhiều
chế độ cộng sản - đã tạo ra nạn đói như một thứ vũ khí. Chế độ có
chủ trương kiểm soát toàn diện thực phẩm và đều cung cấp theo
tiêu chuẩn “xứng đáng” đối với mỗi cá nhân. Chính sách này đã tạo
ra những trận đói trên mức độ rộng lớn đã làm chết hàng triệu
triệu con người. Và một lần nữa vào 1980 hai quốc gia Phi Châu
theo chế độ Marxist-Leninist là Ethopia và Mozambique đã đau khổ
tột [cùng] vì nạn đói do chế độ cộng sản gây ra.
Tập thể tác giả còn cho thấy, trên mức
dộ toàn cầu những tội ác mà những chế độ cộng sản đã phạm như
sau:
- Cuộc
hành quyết trên 10,000 người con tin và tù nhân không hề được xét
xử, sát hại cả trăm ngàn người, những người này hoặc là công nhân
hay nông dân từ 1918-1922.
- Trận đói vào 1922 đã đưa đến những
cái chết cho 5 triệu người.
- Những hành động tiệu diệt và trục
xuất những người Cossack vào 1920.
- Sát hại 10,000 người trong trại tập
trung từ 1918-1930.
- Trục xuất 2 triệu điền chủ Kulak vào
1930-1932.
-
Tiêu diệt 4 triệu người Ukrainians và 2 triệu ngưới khác bằng
nhiều phương tiện, và bằng cách tạo ra những nạn đói vào
1932-1933.
-
Trục xuất cả trăm ngàn người Ba Lan, Ukrainian, Sbalts, Moldovans
và Bessarabian từ 1939-1941.
- Trục xuất những người Đức Volga 1941.
- Trục xuất toàn bộ những người Crimean
Tatars vào 1943.
- Trục xuất toàn bộ những người Chechen
vào 1944.
-
Trục xuất toàn bộ những người Ingush vào 1944.
- Trục xuất và tiêu diệt những người
dân đô thị tại Cambodia từ 1975-1978.
- Tiêu diệt từ từ những người dân Tây
Tạng của cộng sản Hoa Lục vào 1950.
Tất cả những thực tế của lịch sử của
phong trào quốc tế cộng sản mà cuốn Black Book of Communism vừa
tóm lược ở trên chỉ xuất hiện vào 2001. Trước đó là những bức màn
sắt kiên cố dựng lên ở tất cả các quốc gia cộng sản để che dấu
tất cả mọi sự thật trong thế giới cộng sản, đặc biệt là che dấu
tất cả tội ác của phong trào cộng sản do hận thù giai cấp và bạo
lực cách mạng vô sản gây ra khắp thế giới. Black Book sẽ không
bao giờ xuất hiện - nếu bức màn sắt ở LBSV không sụp đổ. Một mặt
HK đã thất trận tại Việt Nam nên đã đưa Miền Nam vào chỗ chết vào
1975; nhưng mặt khác, Tổng Thống Ronald Reagan và Đức Giáo Hoàng
John Paul II đã đạp đổ bức tường Bá Linh và đạp đổ luôn bức màn
sắt tại Moscow vào 1980-1989. Hoa Kỳ thua cộng sản Bắc Việt trong
chiến tranh Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ đã toàn thắng cả hệ thống quốc
tế cộng sản vô thần đồ sộ để giải phóng Đông Đức, Ba Lan, các
nước Đông Âu và giải phóng luôn cả dân Nga thoát ách cộng sản để
cho làn sóng cách mạng dân chủ tràn vào nước Nga. Trước cái chết
của Miền Nam Việt Nam người dân Mỹ đã sáng suốt nhận ra đó là lỗi
lầm của phe những người dân chủ và tả phái làm mất Miền Nam Việt
Nam nên đã dồn phiếu cho phe cộng hòa của Ronald Reagan.
Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc
bằng cái chết khủng khiếp của Miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng
4-1975; cả nước Mỹ và thế giới rúng động khi chứng kiến một quốc
gia quằn quại rên xiết dưới những ngọn cờ đỏ và những lưỡi gươm
đỏ của đoàn quân chiến thắng. Đoàn quân này, trong cuộc chiến này
đã phát động “chiến tranh nhân dân”, “chiến tranh giải phóng” và
“chiến tranh giai cấp” để tiến chiếm một quốc gia lân bang ở Miền
Nam Việt Nam.
Tổng Thống Reagan là người có chủ trương chống cộng sản mạnh mẽ
ngay từ thời ông còn là Thống Đốc tiểu bang California vào 1960.
Ông nhận thấy HK đã thất bại trước làn sóng cộng sản với hiệp ước
Yalta, chính sách ngăn chận, hòa hoãn và chung sống hòa bình nên
ông khi bước vào tòa Bạch Ốc đã thay đổi chính sách bằng những
cuộc cuộc đối đầu trực tiếp và ăn thua đủ với Liên Bang Sô Viết
mà ông gọi là evil empire (đế quốc tồi bại xấu xa đầy tội lỗi).
Nhờ vào sự sáng suốt và quyết chí của ông và của Đức Giáo Hoàng
John Paul II với CUỘC THÁNH CHIẾN ĐỂ QUYẾT ĐẤU VỚI CỘNG SẢN VÔ
THẦN, từ đó làn sóng cách mạng dân chủ đã chôn vùi luôn cách mạng
cộng sản vô thần. Nếu Thống Đốc Reagan làm tổng thống vào 1960
thì Tổng Thống Diệm không bị chết thảm thiết như thế; còn Tổng
Thống Diệm và ông Nhu, Miền Nam không bao giờ rơi vào tay cộng
sản cũng như chính sách và chiến lược an ninh của HK tại Á Châu
đã thành công mỹ mãn. Vì thế bài học chiến tranh Việt Nam chính
là tìm kiếm xem Phong Trào cộng sản và Phong Trao Giải Thực của
Hoa Kỳ cũng như khi Hoa Kỳ dấn thân vào chiến tranh VN. Cả hai
phong trào này đã thành công hay thất bại như thế nào và tại sao?
Tại sao Tổng Thống Diệm và dân quân Miền Nam, trong suốt 9 năm
(1954-1963) đã đánh cho tan tác đoàn quân xâm lăng của làn sóng
đỏ, tại sao những người Mỹ như Averell Harriman, Roger Hilsman,
George Ball, Rush và Henry Cabotloge lại bật đèn xanh cho đám
tướng lãnh trong quân đội Miền Nam Việt Nam lật đổ và giết Tổng
Thống Diệm và ông Nhu để tự tạo ra sự thảm bại ê chề và nhục nhã
sau này cho chính nước Mỹ của các ông?
Trong suốt 42 năm qua (1975-2917) biết
bao nỗ lực tìm kiếm nguyên do đưa đến cái chết cho Tổng Thống
Diệm và sau đó là Miền Nam Việt Nam, cả người Mỹ và người Việt
hải ngoại - hình như khi nhìn vào chiến tranh VN và những hậu quả
thảm khốc của cuộc chiến này, phần đông - không phải tất cả, vẫn
là những “người mù ngồi nghe gió kiếm” hay những “người bước đi
chập chờn trong sương đêm để dò dẫm”. Còn những người cộng sản
Việt Nam thì hoàn toàn tối mắt lại trước của cải vơ vét được từ
những nạn nhân của chiến tranh tại Miền Nam Việt Nam, đúng như Đỗ
Mười đã huyênh hoang cường điệu tuyên bố vào tháng 2-1976 tại Sài
Gòn... quyền của những kẻ chiến thắng là - vơ vét, vơ vét và vơ
vét cho túi tham vô đáy của người “anh hùng giải phóng”; -những
con người này còn cần biết gì nữa đâu? Đó là thực chất của “cách
mạng cộng sản” và những “người vô sản”, của “chiến tranh nhân
dân”, của chiến tranh giải phóng và của “chiến tranh giai cấp”.
Marx-Engel bây giờ ở đâu, các ông có nhìn thấy giai cấp vô sản
của các ông là “những con người lý tưởng của cách mạng cộng sản”
thật à? Tại sao các ông lại ngây thơ khờ dại trước bản chất u ám
của con người như thế? Thật tội nghiệp cho thiên tài Marx-Engels!
Điều đáng nói nhất và đáng sợ nhất trong đời sống xã hội là bản
chất u ám của con người, chứ không phải giai cấp, các ông ơi! Hãy
nhìn lại những người cộng sản VN. Hãy nhìn lại Lenine, Staline,
Mao, Hồ Chí Minh, Fidel Castro, Polpot và các lãnh tụ cộng sản
khác xem bản chất của những con người này như thế nào? Chính tất
cả những việc làm của cách mạng cộng sản đang phơi bày ra trước
lịch sử đã tự tố cáo nên bản chất cực kỳ u ám của những con người
này. Khi những con người với bản chất u ám đầy thú tính như thế
nắm trọn quyền lực thì 100 triệu con người vô tội trên khắp thế
giới đã chết vì họ. Đây là cái giá lịch sử mà cả nhân loại phải
trả vì cách mạng cộng sản ngây thơ dại khờ trước bản chất u ám
đầy thú tính của cái gọi là “những con người vô sản”; biến những
lý tưởng lúc ban đầu của Marx-Engels thành ảo tưởng vĩ đại với bi
kịch của một dân tộc (national tragedy) và tạo luôn bi kịch cho
tất cả nhân loại (global tragedy).
Đó là bài học rút ra từ “bài học chiến
tranh Việt Nam” trong đầy vơi nước mắt của những con người sống
[trong] tột cùng đau khổ và bi phẩn vì những ngọn cờ đỏ và những
lưỡi gươm đỏ trong chiến tranh Việt Nam mà nhân loại đã trao lầm
vào tay những người vô sản với bản chất u ám đầy thú tính để họ
làm tình làm tội anh em đồng loại của họ. Chính những lời tuyên
bố của Đỗ Mười vào 1976 tại Sài Gòn, và chính những đường lối và
chính sách cai trị một nước Việt Nam thống nhất với 92 triệu con
người đang sống trong đó từ 42 năm qua (1975-2917) đã dạy cho
những người Việt Nam và người Mỹ chúng tôi hiểu được - THẾ NÀO LÀ
BẢN CHẤT U ÁM CỦA CON NGƯỜI TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM, VÀ THẾ
NÀO LÀ HÀNG NGŨ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỚI NHỮNG NGƯỜI VÔ SẢN. BÀI HỌC
QUAN TRỌNG KẾ TIẾP MÀ NHỮNG CÔNG DÂN HOA KỲ CHÚNG TÔI HỌC ĐƯỢC TỪ
JAMES MADISON VÀ CÁC NHÀ CÁCH MẠNG HOA KỲ VÀO 1776 LÀ - PHẢI CÓ
LUẬT PHÁP ĐỂ KIỂM SOÁT BẢN CHẤT U ÁM CỦA CON NGƯỜI, VÀ ĐỒNG THỜI
KHƠI DẬY NHỮNG GÌ CAO QUÝ NHẤT ĐANG CÓ SẴN TRONG BẢN CHẤT CON
NGƯỜI.
Trên
thực tế các nước cộng sản đều có hiến pháp và luật pháp, nhưng
tất cả các lãnh tụ cộng sản đều đứng trên hiến pháp và luật pháp,
như vậy là phi pháp hay vô pháp. Xã hội từ đó không bao giờ có
trật tự và ổn định. Nước Việt Nam trong 42 năm qua là một thí dụ
điển hình của những xã hội phi pháp hay vô pháp.
7 - AI PHẢI GÁNH TRÁCH NHIỆM
TRỰC TIẾP VỀ CÁI CHẾT CỦA ĐÔNG DƯƠNG VÀ MNVN NGOÀI GIỚI BÁO CHÍ
TRUYỀN THÔNG HOA KỲ VÀ PHONG TRÀO PHẢN CHIẾN?
Trong cuốn Real Peace and No More
Vietnam, xuất bản tại Hoa Kỳ vào 1985, 10 năm sau cái chết kinh
hoàng, uất nghẹn và tủi nhục của Miền Nam. Đây là cái chết đầu
tiên của một quốc gia trong lịch sử của tất cả nhân loại. Trong
đó, Tổng Thống Nixon đã đưa ra nhận định của ông về cái chết của
Miền Nam Việt Nam như sau:
“Sự thất trận của Hoa Kỳ tại Việt Nam
là một bi kịch cho những người dân ở Đông Dương. Sự thất bại đó
còn đưa đến một bi kịch lớn hơn cho chính nước Mỹ và bao triệu
con người trên toàn thế giới - đó là những con người không có sự
trợ giúp của HK, họ đã mất những cơ may để được sống trong tự do
và một đời sống tốt đẹp hơn.
Chiến tranh VIệt Nam đã đưa đến một
chiến thắng quan trọng cho chiến tranh “giải phóng” của Liên Bang
Sô Viết để họ thống trị và kiểm soát toàn thể các nước nghèo
trong thế giới đệ III, và cộng sản Hoa Lục thống trị và kiểm soát
Việt Nam, mà còn gây ra sự suy vi về phương diện tâm lý cho nước
Mỹ, khiến cho nước Mỹ mất luôn khả năng bảo vệ những quyền lợi
của quốc gia trong những quốc gia đang phát triển, và trên các
trận ?doanh? trước những xung đột giữa Đông và Tây, nơi có những
cuộc chiến tranh đang xảy ra tại thế giới đệ III.
Sự thất bại của chúng ta đã đưa đến
những cơ hội cho các chế đô độc tài xâm lăng và thống trị trên
khắp thế giới. Cuộc tháo lui bỏ chạy khỏi chiến tranh Việt Nam để
lại hết cơn khủng hoảng này đến những cơn khủng hoảng khác tại
Phi Châu, Trung Đông và Nam Mỹ.
... Trong khi chúng ta phủi tay và đau
đớn sót xa vì những lỗi lầm của chúng ta, hơn 100 triệu người ở
phía Tây bị bỏ rơi cũng bởi sự rút lui của chúng ta trước khung
cảnh rối bời của thế giới.
Vì vậy sự thất bại của chúng ta tại
Việt Nam đã làm cho những lý tưởng cao đẹp của chúng ta bị lu mờ,
tinh thần xuống dốc, ý chí hao hụt và biến một quân đội hùng mạnh
nhất thế giới cũng như đường lối ngoại giao mất hết sinh khí
trước một thế giới mà ở đó sức mạnh của Hoa Kỳ cần hiện diện hơn
bao giờ hết.
Chiến tranh Việt đã kéo dài 20 năm là một cuộc chiến tranh với
bản chất vô cùng phức tạp, vì có quá nhiều những âm mưu gian dối
và lừa đảo (subplots), với những màn kịch được diễn xuất thật
tinh vi của những người cộng sản Bắc Việt để đánh lừa dư luận và
làm mất đi bao cơ hội lớn lao.
Tất cả chúng ta phải chia sẻ gánh lấy
trách nhiệm để mất Miền Nam Việt Nam, các vị tư lệnh trong quân
đội và những lãnh tụ chính trị chính là những ai đã làm ra những
lỗi lầm chiến lược và chiến thuật khi theo đuổi chiến tranh.
Những dân biểu nghị sĩ trong Quốc Hội đã từ chối viện trợ cho
quân dân Miền Nam Việt Nam như khối Liên Bang Sô Viết đã trợ giúp
cộng sản Bắc Việt, và tất cả những ai trong phong trào phản chiến
đã vô trách nhiệm khi chỉ trích những nỗ lực của Hoa Kỳ khi tìm
kiếm một nền hòa bình công chính (just peace).
Cuối cùng chiến tranh đã thảm bại và
mất Miền Nam Việt Nam không phải trên các mặt trận tại Việt Nam,
mà mất Miền Nam Việt Nam vì mặt trận chính trị tại Hoa Kỳ.”
Tổng Thống Nixon tiếp tục đưa ra những
hình ảnh bi thảm lúc Miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản Bắc
Việt: Vào ngày 30 tháng 4-1975 một nền hòa bình đầy thảm họa đã
đến sau chiến tranh Việt Nam, chứ không phải là một nền hòa bình
công chính, trật tự ổn định và thịnh vượng như những người phản
chiến tại HK và khắp nơi trên thế giới tưởng rằng sẽ nhìn thấy
sau chiến thắng của những người cộng sản Bắc Việt. Những người
lính trên các xe tăng của Nga đã tiến vào các đường phố của Sài
Gòn để dẫn Miền Nam Việt Nam đến một chế độ độc tài và khổ đau
chống chất cho những người dân đang sống tại Đông Dương... sự
chiến thắng của những tên cộng sản xâm lăng Miền Nam cũng là lúc
cho người ta thấy sự phản bội và sự nhục nhã của Hoa Kỳ.
Sự rút lui của Hoa Kỳ và sự chiến thắng
của cộng sản đã đưa đến bi kịch thảm khốc cho 40 triệu dân Miền
Nam Việt Nam, Lào và Cambodia. Trước khi Hoa Kỳ rút lui những con
người bất hạnh này đã từng có may mắn được sống tốt đẹp dưới
những chính quyền đã đươc HK hỗ trợ và cũng nhờ vào ảnh hưởng lớn
lao của Hoa Kỳ. Ngày nay Hoa Kỳ đã từ bỏ những lời cam kết với
các quốc gia này, và giờ đây họ phải sống đau khổ tột cùng trong
bàn tay của một chế độ tàn bạo và độc ác nhất thế giới.
Sau khi chiếm được Miền Nam Việt Nam
nhờ “chiến tranh nhân dân” và “chiến tranh giải phóng dân tộc”,
bây giờ những người cộng sản Bắc Việt bắt đầu phát động rầm rộ
“chiến tranh giai cấp” trên khắp Miền Nam. Theo Tổng Thống Nixon
cho biết:
“Khi
Bắc Việt tiến chiếm Miền Nam vào tháng 4-1975 những cuộc khủng bố
kinh hoàng tức khắc diễn ra. Hà Nội đã thi hành những cuộc hành
quyết để trả thù những người trong chính quyền SG vừa bị thảm
bại, trong đó có cả những sĩ quan trong quân đội. Bây giờ xã hội
Miền nam không còn tự do chính trị, tôn giáo, kinh tế và báo
chí.”
Hà Nội
áp dụng những biện pháp để trừng trị tất cả những ai mà họ cho là
kẻ thù.
1. Hà
Nội đã dựng lên các trại tập trung cải tạo, hàng loạt các nhà tù
dựng lên khắp Miền Nam. Sự chiến thắng của cộng sản, các lực
lượng Miền Nam bị bắt giam ngay với tất cả những ai có thể đưa
đến sự đối lập. Việc làm này không chỉ bao gồm tất cả các sĩ
quan, các chính trị gia, và lãnh tụ trong chính quyền mà còn tất
cả những thành phần trí thức...
2. Hà Nội đã gửi những người mà họ nghĩ
là sau này vẫn còn trung thành với chế độ cũ đi đến những vùng
kinh tế mới. Tất cả những người này sẽ là những thành phần đối
nghịch, trong đó có cả những thân nhân của các tù cải tạo, và tất
cả những giai cấp thù nghịch khác, chẳng hạn những tên đã từng là
tư bản bóc lột. Tất cả đã bị đày ải trên những vùng rừng sâu nước
độc để họ chết lần chết mòn trên đó.
3. Vì chế độ tàn bạo và độc ác nên hơn
1 triệu người Miền Nam đã tìm đường vượt biển trên những con
thuyền mong manh để tìm tự do và 600,000 người đã bỏ thân trên
biển cả...
4.
Để nắm vững quyền lực, Hà Nội thấy cần phải tàn phá hủy diệt toàn
bộ quốc gia Miền Nam - đó là diều cần thiết. Trước khi các lãnh
tụ Hà Nội có thể thống trị được thì họ phải tàn phá cho tan tành
quốc gia này...
5. Hà Nội áp dụng ngay chính sách hộ
khẩu để tạo ra những trận đói khủng khiếp cho 25 triệu dân Miền
Nam.
Sau hết,
chính Đỗ Mười đã công khai nói ra tất cả những đường lối và chính
sách của CSBV áp dụng cho 25 triệu dân Miền Nam sau khi họ cưỡng
chiếm được Miền Nam từ ngày 30 tháng 4-1975 cho đến ngày hôm nay
(2017) như đã đề cập ở phần trên.
CUỘC TẮM MÁU VÀ DIỆT CHỦNG TẠI
CAMBODIA.
Ngoài ra Tổng Thống Nixon còn cho biết
thêm như sau: “Khi Cambodia sụp đổ thì tại Hoa Kỳ tờ New York
Times viết một hàng tít lớn: Đông Dương Không Còn Bóng Dáng người
Mỹ, đời sống đối với đa số dân chúng tốt đẹp hơn”...
Trong khi đó, theo Tổng Thống Nixon thì
kể từ tháng 2-1974, những phúc trình về những chủ đích của Khờ-me
đỏ đã được luân lưu tại Tây Phương. Các chuyên gia về Cambodia
cho biết về “cuộc cách mạng xã hội toàn diện” (total social revo
lution) của Khờ-me đỏ. Cuộc cách mạng này đã đem ra thực hành sau
khi chiếm được Cambodia.
Hai lãnh tụ hàng đầu của Khờ-me đỏ là
Khieu Samphan và Polpot, đã không mất thì giờ để cho thi hành các
chương trình của họ. Ngày 17 tháng 4-1975 ngày Cambodia rơi vào
tay cộng sản, cuộc di tản của các lực lượng Phnom Penh đã bắt
đầu. Ba triệu người đã bị tập trung lại trên các vùng nông thôn
trước mũi súng, không một ai có ngoại lệ. Những chiến binh cộng
sản đã bắn thẳng vào bất cứ người nào đi trên đường phố, và bắn
luôn cả những người bệnh tật và đang hấp hối tại các bệnh viện
trong thành phố đều bị những phát súng ân huệ để ra đi trong sợ
hãi tột cùng. Từ cái nhìn đầu tiên về chính quyền của Khờ-me đỏ
cho thấy đất nước trong tay cộng sản không hề có trật tư chân
chính như các phong trào phản chiến tiên đoán như trước đây. Đó
chính là những hình ảnh của các bác sĩ và y tá trong bệnh viện bị
cưỡng bách phải đưa ngay những bệnh nhân đang nằm trên giường
bệnh ra khỏi thành phố, với những chai nước biển vẫn còn lơ lửng
trên các giường của bệnh nhân. Khi màn đêm buông xuống, hơn
20,000 người đang bị thương trong thành phố đã được lệnh đưa họ
vào trong rừng và đưa thẳng đến những cái chết tức tưởi.
Tất cả chỉ là những bước khởi đầu.
Những cuộc di tản tương tự như thế đã được thi hành trên tất cả
các đường phố của Cambodia. Những cuộc hành quyết đã diễn ra ngay
sau đó. Những người chiến binh của Khờ-me đỏ đã giết ngay lập tức
hàng ngũ quân đội, và những viên chức chính quyền, những người
trí thức, những nhà giáo, những sinh viên, và giết bất cứ người
nào đang bị bệnh nặng tại vùng Siem Reap, trên 100 bệnh nhân đã
bị sát hại ngay trên giường bệnh của họ, bằng dao đâm hay bằng
gậy gộc. Tại Mongkol Borei, sau khi gài những quả mìn rất cẩn
thận trên suốt một cánh đồng, và những người Khờ-me đỏ đã cưỡng
bách 200 sĩ quan trong quân đội Cambodia phải bước trên cánh đồng
đầy mìn đó. Tại Donauy Khờ-me đỏ đã đóng đinh một đại tá trên một
thân cây, sau đó đã đánh đập và cắt mũi và hai tai của ông, sau
đó thì 3 ngày sau ông này mới chết. Sau những cuộc hành quyết
này, những người vợ và những người con của những nạn nhân bị bỏ
rơi và rồi cũng bị giết luôn.
Riêng Harison Salisbury, một nhà báo Mỹ
rất hiếm hoi trong giới truyền thông Hoa Kỳ - lương thiện, có
lương tâm của người cầm bút và khách quan trung thực đã viết về
chiến tranh Việt Nam như sau:
“cuộc chiến man rợ, phức tạp không
thể nào hiểu được vì quá xa vời, rồi như mớ bong bóng. Thú thật,
cũng như phần đông dân Mỹ, tôi chỉ biết rất mơ hồ về sự tham dự
của HK tại VN... Hoa Kỳ bước vào một vùng đất lạ, môi trường lạ,
trước một nền văn hóa lạ, chống lại một kẻ thù quá xa lạ với mình
trong một cuộc chiến tranh hoàn toàn xa lạ:
1. Chính quyền Kennedy dấn thân hành
động trong chiến tranh mà không có một sự hiểu biết thực tế nào
cả
2. Tầng lớp
trí thức và giới truyền thông báo chí Hoa Kỳ quan sát, đã thảo
luận sôi nổi, đã viết lách và phê phán rất hung hăng nhưng cũng
không có sự hiểu biết thực tế nào cả
3. Phong trào phản chiến đã tấn công
vào chính quyền Mỹ của họ và tấn công chính quyền Miền Nam nhưng
cũng chẳng biết thực tế là cái gì
4. Dư luận quần chúng Hoa Kỳ suốt ngày
ngồi nghe tiếng gào thét của phong trào phản chiến và giới truyền
thông mà cũng chẳng có hiểu biết thực tế nào cả
5. Chính quyền Miền Nam đã hợp tác với
Hoa Kỳ mà không có sự hiểu biết về nền văn hóa của nước bạn đồng
minh Hoa Kỳ
6.
Những người cộng sản Việt Nam đã chiến đấu tới chết mà cũng không
hiểu mục tiêu của kẻ thù là gì, cũng như mục tiêu của chính họ
sao mơ hồ quá
7. Nền Cộng Hòa Việt Nam được coi như một quốc gia bị đóng đinh
trên thập tự giá đến chết mà cũng không hiểu thật sự tại sao mình
phải chịu chết như thế này?”
(Trích trong cuốn, Peace
and Freedom, Harrison Salisbury (1964) trang 159).
Chiến tranh có thể xa lạ với nhiều
người, nhưng không xa lạ với Tổng Thống Diệm, ông Nhu và dân quân
Miền Nam, vì họ đều là nạn nhân không chỉ của cả khối quốc tế
cộng sản xâm lăng mà còn là nạn nhân của những người bạn đồng
minh Hoa Kỳ, nạn nhân của truyền thông báo chí, trí thức và phong
trào phản chiến, và còn là nạn nhân của dư luận Hoa Kỳ và thế
giới nữa. Thực tế của lịch sử là - 14 triệu nạn nhân quằn quại
rên xiết trong lò lửa chiến tranh từng giờ, nhưng dư luận đã bịt
lỗ tai lại trước những lời rên xiết ấy để lắng nghe trọn vẹn giới
truyền thông báo chí nói và viết toàn những chuyện không phải sự
thật trong chiến tranh VN - để Harison Salishbury, một trong
những trái tim trong sáng nhất tìm thấy nơi lương tâm người cầm
bút Hoa Kỳ gào thét thay cho 14 triệu người dân MNVN:
“where was the conscience of the world
and where was the conscience of the United States of America? Why
was human conscience so dark” - LƯƠNG TÂM CỦA THẾ GIỚI Ở ĐÂU RỒI
VÀ LƯƠNG TÂM CỦA NƯỚC MỸ VẤT VƯỞNG NƠI ĐÂU? TẠI SAO LƯƠNG TÂM CỦA
CON NGƯỜI LẠI U ÁM TĂM TỐI NHƯ THẾ NÀY?
Từ những sự thiếu hiểu biết và kiến
thức về những âm mưu của quốc tế cộng sản, và vai trò cao quý của
HK trong phong trào giải thực, cộng với đầu óc hẹp hòi thiển cận,
nhưng lại kiêu căng phách lối như những ông trời con (little
gods) của giới truyển thông và trí thức Hoa Kỳ trong chiến tranh
VN, một mặt tôn vinh cộng sản, nhưng lại thù nghịch với Tổng
Thống Diệm, Miền Nam Việt Nam và thù nghịch luôn cả với chính
quyền Hoa Kỳ của họ, và vì thế chiến tranh Việt Nam không thể nào
hiểu được vì những lý do đó, từ đó đã gây ra biết bao ngộ nhận
hiểu lầm chết người giữa chính quyền Miền Nam và Hoa Kỳ, cuối
cùng đã đưa đến cái chết bi phẫn cho Tổng Thống Diệm và cái chết
của Miền Nam Việt Nam vào 30 tháng 4-1975. Vì thế muốn làm sáng
tỏ lịch sử về chiến tranh Việt Nam thì phải rất khách quan, bình
tĩnh, sáng suốt và kiên nhẫn để tìm hiểu cặn kẽ cả ba phong trào
thực dân, phong trào cộng sản và phong trào giải thực thì mới có
hy vọng làm sáng tỏ được. Đặc biệt là giới truyền thông báo chí,
trí thức thiên tả và phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ và Âu Châu
chính là những người mà Tổng Thống Nixon cho rằng:
“NHỮNG NGƯỜI NÀY PHẢI CHỊU HẾT TRÁCH
NHIỆM VỀ CÁI CHẾT CỦA TỔNG THỐNG DIỆM VÀ LÀM MẤT MIỀN NAM VIỆT
NAM VÀO TAY CỘNG SẢN.”
Quan trọng hơn cả là Chiến Tranh Việt
Nam là điểm hội tụ những xung đột của ý thức hệ (ideological
conflict) giữa khối tự do dân chủ hữu thần và khối độc tài cộng
sản vô thần trong toàn bộ chiến tranh lạnh của thế giới lưỡng
cực. Vì thế thành hay bại, thắng hay thua không chỉ trên tầm mức
Việt Nam mà còn trên tầm mức của vùng Đông Nam Á, và cả tầm mức
toàn cầu nữa. Chính Liên Bang Sô Viết và cộng sản Bắc Kinh cũng
như các tổng thống, các chiến lược gia quân sự và các lãnh tụ Hoa
Kỳ cũng đều nhìn nhận là chiến tranh Việt Nam mang tâm mức toàn
cầu và Á Châu. Sự xung đột ý thức hệ giữa vô thần và hữu thần này
bắt nguồn từ ý thức hệ cộng sản. Những người cộng sản biến hận
thù giai cấp thành hận thù giữa quốc gia này và quốc gia khác, và
giữa Miền Nam và Miền Bắc Việt Nam. Vì thế họ đã phát động chiến
tranh cách mạng (revolutionary war) để xâm lăng Miền Nam với
chiêu bài “giải phóng dân tộc” Miền Nam. Hàng ngũ cộng sản không
chỉ giới hạn mục tiêu là lật đổ Tổng Thống Diệm để chiếm Miền Nam
Việt Nam mà mục tiêu sau cùng của họ là thống trị cả vùng Đông
Nam Á, và sau đó diệt Hoa Kỳ trên toàn thế giới để xích hóa và
nhuộm đỏ cả nhân loại mà cộng sản gọi là “thế giới đại đồng”. Vì
cảm nhận được tham vọng bành trướng của cả khối cộng sản quốc tế
nên có lần Tổng Thống Diệm đã nói: “sau tôi là cơn hồng thủy”.
Cơn hồng thủy mà Tổng Thống Diệm nói ra
như một vị tiên tri về làn sóng đỏ với những ngọn cờ đỏ và những
lưỡi gươm đỏ ồ ạt xâm lăng Miền Nam Việt Nam để mở đường nhuộm đỏ
cả Á Châu và thế giới.
Đối với toàn dân Việt Nam, Hồ Chi Minh
tuyên bố tranh đấu cho nền tự do và độc lập cho Việt Nam, nhưng
khi Salishbury gặp ông ta tại Hà Nội vào 1965 thì ông ta không
dấu diếm nói rằng: “những ngày tuyệt vời sẽ đến khi tất cả các
đồng chí đến bên nhau. Tất cả mọi người đang nỗ lực tranh đấu để
đem đến sự thành công cho Miền Bắc Việt Nam --- đó là những người
Nga, những người Hoa Lục, và tất cả các đồng chí tại Đông Âu. Tất
cả đều kỳ vọng chờ mong cho Miền Bắc Việt Nam trở thành một điển
mẫu, thành một nơi triển lãm thu hút muôn người, và mẫu mực lý
tưởng mà chủ nghĩa cộng sản có thể đưa đến cho các dân tộc Á
Châu.”
Từ
những lời tuyên bố công khai của Hồ Chí Minh cho thấy Mặt Trận
Giải Phóng Dân Tộc Miền Nam và cộng sản Bắc Việt đều đóng vai trò
“tiền phương” của quốc tế cộng sản để bành trướng làn sóng đỏ tại
Việt Nam và Á Châu cũng như khắp thế giới. HCM và những người
cộng sản Việt Nam là những người Bolsheviks của quốc tế cộng sản.
Họ đã tự chối bỏ làm người VN nên cái gọi là cuộc “tranh đấu
giành độc lập cho Việt Nam” không có thật mà hoàn toàn trá ngụy.
Khi HK rút khỏi VN và ĐD để cho ba quốc gia này rơi vào tay cộng
sản với tất [cả] những thảm họa khinh hoàng đã diễn ra tại Miền
Nam Việt Nam và Cambodia như đã đề cập ở phần trên.
Harison Salishbury đứng trước cái chết
rùng rợn của Miền Nam Việt Nam đã thổn thức nghẹn ngào viết xuống
những dòng chữ sau đây:
“Một quốc gia đã bị đóng đinh trên thập
tự giá và cái chết của một quốc gia chưa từng bao giờ xảy ra
trong lịch sự nhân loại. Chỉ vì giết Tổng Thống Diệm, Hoa Kỳ đã
tự đưa chính quốc gia của mình đi vào một con đường không bờ
không bến (unpredictable direction). Hành động nguy hiểm này như
một người cài nút áo; nếu nút đầu tiên cài lộn thì tất cả các nút
sau đều sai luôn. Sau khi Tổng Thống Diệm và ông Nhu nằm xuống,
tất cả những nỗ lực của Hoa Kỳ và cả Miền Nam đều tan vỡ tơi bời,
xô đẩy cả Miền Nam Việt Nam vào tình trạng hỗn loạn, bấp bênh,
nguy hiểm, và không biết tương lai đi về đâu. Hoa Kỳ và Miền Nam
Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam mới thực sự có chính nghĩa,
nhưng chính nghĩa này được nhìn qua một làn khói mịt mù đầy lệch
lạc, vì mọi nhận định đều bị cuốn hút trong cơn lốc của lịch sử
(historical vortex) nên không mấy ai nhận chân được sự thật;
trong lúc những người Bolshevik Bắc Việt che dấu và đánh tráo
thật tài tình mọi sự thật, và họ đã làm cho bao người khác và dư
luận chung cả thế giới tin rằng Hoa Kỳ là ‘tân đế quốc thực dân’”
(neo-colonial imperialism).
Ngày nay tất cả sự thật lịch sử đã được
phơi bày dưới ánh sáng mặt trời với tất cả những bằng chứng vững
chắc nhất và khả tín nhất (solid evidences and reliable sources)
của lịch sử thế giới (global history). Chính sử của thế giới
trong một thế giới lưỡng cực có TỰ DO và ĐỘC TÀI, phải có hai
chiều đối ứng và đối nghịch mới làm nên chính sử. Lịch sử do hàng
ngũ cộng sản viết ra thường chỉ có chủ quan một chiều, thiếu hẳn
những bằng chứng vững chắc để chứng minh HK là “tân đế quốc thực
dân”. Sự thật lịch sử cho biết chính Liên Bang Sô Viết, Bắc Kinh
hay cộng sản Bắc Việt mới là TÂN THỰC DÂN bởi vì Liên Bang Sô
Viết chiếm Đông Đức, Ba Lan và các nước Đông Âu, cộng sản Bắc
Việt chiếm Miền Nam Việt Nam và Bắc Kinh xuất cảng “chiến tranh
nhân dân” tại Việt Nam và khắp vùng Á Châu - có phải đây mới là
những bằng chứng lịch sử vững chắc nhất mà những người cộng sản
đã và đang để lại trong lịch sử - bây giờ không thể nào chối cãi
được nữa, phải vậy không?
Tại sao Hoa Kỳ, trên thực tế của lịch
sử không chiếm bất cứ quốc gia nào - mà còn tranh đấu để đòi độc
lập cho 70 quốc gia từ tay 7 đế quốc thực dân từ Đông sang Tây,
tại sao lại gọi Hoa Kỳ là “tân đế quốc thực dân” mà giới truyền
thông báo chí, trí thức Hoa Kỳ và cả dư luận của thế giới lại
tin? Tại sao vậy?
Hàng ngũ quốc tế cộng sản và cộng sản
Bắc Việt khoác cho Hoa Kỳ nhãn hiệu “đế quốc Mỹ” là “tân thực
dân” để có cớ để “đánh Mỹ cứu nước” khi xâm lăng tiến chiếm Miền
Nam Việt Nam, và ngày nay cộng sản Bắc Việt đã viết 10,000 trang
sử để khoác hào quang cho “sự nghiệp vĩ đại là đánh bại đế quốc
Mỹ để đem lại độc lập cho dân tộc Việt Nam” vào 30 tháng 4-1975.
Tiếc thay, chính sử của thế giới cho thấy: Hoa Kỳ là “tân đế quốc
thực dân” không phải sự thật mà chỉ là một thứ lịch sử hoàn toàn
ngụy tạo tinh vi (total fabricated history) của cộng sản Bắc Việt
và quốc tế cộng sản cố tình tạo ra để đánh lừa dư luận khắp nơi.
ĐÂY LÀ MỘT SỰ NGỤY TẠO LỊCH SỬ VĨ ĐẠI
NHẤT ĐÃ ĐƯA ĐẾN CHIẾN TRANH VIỆT NAM VÀ ĐÔNG DƯƠNG SUỐT 20 NĂM
(1954-1975). ĐÂY LÀ SỰ THẬT QUAN TRỌNG NHẤT CẦN LÀM SÁNG TỎ.
Trước những ngụy tạo lịch sử trắng trợn
đó, giới truyền thông báo chí, trí thức và những người phản chiến
tại Hoa Kỳ và Âu Châu lại tin theo, và vì thế đã chĩa mũi dùi tấn
công HK và TT Diệm và chính quyền và quân dân Miền Nam Việt Nam
liên tục trong suốt mấy chục năm chiến tranh Việt Nam. Lương tâm
của truyền thông báo chí, của trí thức Hoa Kỳ và của công luận
tại sao lại u ám tăm tối như thế? Chức năng cao quý của truyền
thông báo chí và trí thức là thông tin và hướng dẫn dư luận về
những sự thật đang diễn ra trong lò lửa sôi sục của chiến tranh
xâm lăng Miền Nam Việt Nam của hàng ngũ quốc tế cộng sản. Tại sao
lại ca tụng và choàng hào quang cho những kẻ xâm lăng tàn bạo và
độc ác như thế? Hàng ngũ cộng sản luôn trí trá lừa đảo; hàng ngũ
truyền thông và trí thức cũng trí trá lừa đảo dư luận để phụ họa
theo cộng sản và tất cả dư luận đã tin theo; trong lúc đó Tổng
Thống Nixon, Tổng Thống Johnson, Đại Sứ Nolting và biết bao viên
chức cao cấp trong chính quyền và các tướng trong quân đội Hoa Kỳ
thuộc phe diều hâu, đặc biệt là Tổng Thống Diệm và ông Nhu - là
những người nắm rất vững tất cả sự thật về chiến tranh Việt Nam,
và đều có lương tâm trong sáng, khả kính và đáng tin cẩn nhất -
đều nói và viết để đưa ra những sự thật thì dư luận lạ bịt tai
lại không nghe. Vì thế biết bao sự thật trong chiến tranh Việt
Nam đã bị che dấu hay đánh tráo cho đến nay vẫn chưa được làm
sáng tỏ. Bài học chiến tranh VN trở nên khó hiểu là vì như thế.
Trên thực tế lịch sử chiến tranh Việt
Nam đã chấm dứt 42 năm, và từ 42 năm qua biết bao lần những tầng
lớp trí thức tinh hoa nhất của Hoa Kỳ và khắp nơi đều đã duyệt
xét lại những bài học về chiến tranh Việt Nam, nhưng phần đông sự
thật vẫn còn mịt mùng như sương mù trong đêm, và mọi người vẫn bị
những cơn lốc của chiến tranh làm ngả nghiêng trong nhận thức và
phán đoán. SỰ THẬT LỊCH SỬ TRONG CHIẾN TRANH Việt Nam VẪN LÀ MỘT
LÓNG CHỈ RỐI BỜI, khó mà tìm ra manh mối nếu không nghiên cứu
thật kỹ toàn trình và toàn diện (systematic thinking and
systematic research), không chỉ lịch sử VN mà cả lịch sử của thế
giới lưỡng cực trong suốt Thế kỷ XX. Ngoài ra còn phải thật sáng
suốt, hoàn toàn khách quan không thiện lệch và hết sức công minh
trước mọi sự thật.
Theo Tổng Thống Nixon cho biết đã có
1200 cuốn sách viết về chiến tranh Việt Nam, và tất cả đều sai
lầm với 22 điểm không đúng sự thật. Tầng lớp truyền thông báo
chí, trí thức và học giả đông đảo này là thành phần tự cho mình
là tinh hoa nhất của Mỹ và Tây Phương, nhưng họ vẫn là những
người bàng quang, đứng từ bên ngoài chiến tranh để nhận xét và
phán đoán.
Tuyệt đối không có lấy một người phải chịu cái chết muôn vàn đắng
cay tủi nhục như những con người ở Việt Nam, Lào và Cambodia
trong chiến tranh và trong hòa bình tại Đông Dương sống dưới sự
thống trị tàn bạo của những người Bolshevik Việt Nam và Á Châu.
Họ chưa một lần đứng trước những họng súng hành quyết rùng rợn
của cộng sản khi vừa chiếm được Miền Nam Việt Nam, chưa một lần
thử bước vào các trại cải tạo hay đói nhăn răng trước chính sách
hộ khẩu. Họ cũng không có ai phải vượt biển tìm tự do trên những
chiếc thuyền mong manh để gởi thân trên biển cả hay chứng kiến
một lần chính sách diệt chủng của Polpot hay nằm thử trong bệnh
viện để cho những người Khờ-me đỏ cầm dao đâm túi bụi trên thân
xác bệnh hoạn như những người dân Cambodia. Tầng lớp tinh hoa
này, không có ai sinh ra trong chiến tranh, lớn lên trong tiếng
gầm thét của bom đạn, và cũng không phải thử bước trên một cánh
đồng đầy mìn để chứng kiến trong run rẩy sợ hãi tột cùng với hình
ảnh xác thân anh em tan tác khắp nơi sau tiếng mìn nổ và rồi xác
thân vô tội của chính mình rồi cũng nổ tung như xác pháo - như
200 sĩ [quan] quân đội Cambodia sau ngày quốc gia khốn khổ này
rơi vào tay những người Bolshevik Cambodia.
TẠI SAO 40 TRIỆU CON NGƯỜI ĐAU KHỔ TỘT
CÙNG TRONG CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH ViIỆT NAM, VÀ ĐÔNG DƯƠNG SUỐT
60 NĂM CHƯA CÓ TIẾNG NÓI TRƯỚC LƯƠNG TÂM CỦA NHÂN LOẠI? NHỮNG NẠN
NHÂN CỦA NHỮNG NGƯỜI BOLSHEVIK Á CHÂU TRÊN BI KỊCH ĐÔNG DƯƠNG
PHẢI LẤY MÁU, NƯỚC MẮT VÀ MỒ HÔI CỦA BAO TRIỆU CON NGƯỜI ĐÃ NẰM
XUỐNG VÀ ĐÃ HY SINH CHO LÝ TƯỞNG TỰ DO MÀ VIẾT VỀ CUỘC CHIẾN RÙNG
RỢN NÀY. TẠI SAO PHẢI VIẾT? PHẢI VIẾT - BỞI VÌ NHỮNG NGƯỜI CẦM
BÚT TẠI HOA KỲ VÀ TÂY PHƯƠNG VỀ CHIẾN TRANH VN ĐÃ PHẢN BỘI LẠI
LƯƠNG TÂM CỦA CHÍNH HỌ TRƯỚC KHI HỌ PHẢN BỘI SỰ THẬT VÀ PHẢN BỘI
LÝ TƯỞNG CỦA HOA KỲ - MỘT QUỐC GIA ĐƯỢC THIÊN CHÚA CHỌN LÀM ÁNH
SÁNG TRÊN ĐỒI CAO ĐỂ SOI SÁNG CHO NHỮNG KẺ ĐAU KHỔ TRONG VÒNG TAY
CỦA CÁC CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI TÌM VỀ VỚI ÁNH SÁNG CỦA TỰ DO VÀ CÔNG LÝ,
CHỨ KHÔNG PHẢI VIẾT ĐỂ THAN THÂN TRÁCH PHẬN HAY NGUYỀN RỦA NHỮNG
AI ĐÃ GÂY ĐAU KHỔ CHO MÌNH. SO HELP ME, GOD.
Trước những bi kịch kinh hoàng và buồn
bã của các nước Đông Dương suốt 60 năm, kinh hoàng trong chiến
tranh 20 năm (1954-1975) và buồn bã trong hòa bình từ 42 năm qua
(1975-2017) giới truyền thông báo chí, trí thức và những người
phản chiến tại Hoa Kỳ không có lấy một người phải sống trên những
bi kịch kéo dài lê thê như thế như những con người của Việt Nam,
Lào và Cambodia. Làm sao những con người như thế biết được bộ mặt
thật của chiến tranh và hòa bình Đông Dương 60 năm qua? Chính
những con người này đã hướng dẫn nhận thức và phán xét của dư
luận nước Mỹ và Âu Châu về chiến tranh Việt Nam. Khi những người
dẫn đường mù quáng và mê sảng trong nhận thức và phán xét thì dư
luận sẽ bước đi trong sương mù lầm lạc khi nhìn về lò lửa chiến
tranh Việt Nam. Đầu tiên và trên hết, giới truyền thông báo chí
Hoa Kỳ và Tây Phương, đến Việt Nam trong làn khói mịt mù của bom
đạn và những cơn lốc của hận thù, nghênh ngang phách lối, tự cao
tự đại như những ông trời con (demi-gods); những con người này tự
coi họ là những người: trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý cả
hay sao, mà tự ý cho mình toàn quyền làm những ông “phán quan”
như thời phong kiến thực dân để phán xét bất công và bất minh về
chiến tranh Việt Nam. Vì quá chủ quan khinh địch nên trở nên
những người ngây thơ khờ dại (useful idiots) bị những con người
cộng sản quỷ quái phương Đông (Oriental bogeymen) xỏ mũi dẫn đi
để nói và viết tất cả những gì không phải sự thật. Chính giới
truyền thông này đã viết ra 22 lỗi lầm và các học giả đã lập lại
22 lỗi lầm đó trong 1200 cuốn sách của họ như Tổng Thống Nixon đã
nói.
1. Chiến
tranh Việt Nam là một cuộc nội chiến
2. Hồ Chí Minh là một người quốc gia
yêu nước, thứ đến là phong trào cộng sản tại Việt Nam đã được đa
số dân Miền Nam cũng như Miền Bắc Việt Nam hỗ trợ
3. Ngô Đình Diệm là bù nhìn của Pháp
4. Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Miền Nam
là một phong trào cách mạng độc lập với Hà Nội
5. Việt cộng đã chiếm được nhân tâm của
những người dân sống các vùng nông thôn Miền Nam, vì những chính
sách nhân đạo của họ
6. Tuyên ngôn về hội nghị Geneve vào
1954, chính quyền Ngô Đình Diệm và Hoa Kỳ phải có trách vụ pháp
lý vì đã chấp thuận thỏa ước và đã ký kết để thống nhất Việt Nam
qua một cuộc bầu cử vào 1956
7. Thỏa ước trung lập Lào vào 1962 đã
ngăn chặn sự bành trướng của chiến tranh
8. Cuộc biểu tình chống đối Tổng Thống
Diệm bắt nguồn từ đàn áp tôn giáo
9. Chính quyền Johnson là người đầu
tiên đem quân chiến đấu tại Việt Nam
10. Phần lớn lính Mỹ bị ghiền ma túy và
họ thường có những chiến thuật thật độc ác vô nhân đạo trong
chiến tranh
11. Những người lính da đen chiếm đa số bị tử thương tại Việt Nam
12. Hoa Kỳ đã thua về quân sự trong
chiến tranh Việt Nam
13. Hoa Kỳ đã thảm bại trong cuộc tổng
công kích tết Mậu Thân
14. Cuộc ném bom bí mật của Hoa Kỳ vào
[năm] 1964, và những cuộc tấn [công] của quân đội Miền Nam Việt
Nam vào các căn cứ của cộng sản tại Cambodia vào 1970 phải chịu
trách nhiệm làm cho phe cộng sản chiếm Cambodia vào 1975
15. Những mục tiêu dội bom của Hoa kỳ
nhắm vào thường dân
16. Số thường dân Việt Nam bị chết vì
chiến tranh tại Việt Nam cao hơn các cuộc chiến tranh khác
17. Các tù nhân Mỹ được cộng sản Bắc
Việt đối xử rất nhân đạo
18. Các cuộc biểu tình chống chiến
tranh Việt Nam của các phong trào phản chiến đã làm cho chiến
tranh không kéo dài nữa
19. Hiệp ước Paris về hòa bình 1973 là
cơ hội tốt cho Hoa Kỳ rút quân
20. Hoa Kỳ có thể có đụng chạm mạnh
trong hành động giống như 1969 và 1973
21. Chủ thuyết Domino chứng tỏ đã thất
bại
22. Cuộc
sống của toàn dân Đông Dương sung sướng và hạnh phúc hơn nhiều kể
từ khi Hoa Kỳ rút quân vào 1975.
Theo Tổng Thống Nixon thì tất cả 22
điều kể trên đều sai lầm không phải sự thật. Đây là một xác quyết
chính xác nhất và đáng tin cậy nhất. Tại sao? Bởi vì tất [cả] các
tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất nắm rất vững mọi tin tức và
tình hình khắp thế giới. Trong chiến tranh Việt Nam Tòa Bạch Ốc
đều nhận được mỗi ngày tất cả mọi tin tức và mọi diễn biến từ các
ủy ban quân sự các cấp, các ủy ban dân sự, CIA và Tòa Đại Sứ cũng
như những đặc sứ của tống thống gởi đi nghiên cứu riêng tình hình
tại chỗ. Tổng thống là người soạn thảo và làm chính sách đối
ngoại (foreign policy). Ngoài ông không có ai có thể nắm vững tin
tức và tình thế bằng các tổng thống.
Còn giới truyền [thông] báo chí khi đến
VN phần đông ngồi ở hotel Caravel, Givral hay Continental, ít ai
đi về các vùng nông thôn hay tham dự các trận đánh đang diễn ra
trên chiến trường; vì thế tin tức của họ không mấy khi chính xác
và thiếu sót rất nhiều. Tệ hại hơn nữa là đa số truyền thông báo
chí Hoa Kỳ và Tây Phương thiên tả và thiên cộng nên đã cố tình
bóp méo 22 sự thật kể trên. Chính tầng lớp báo chí truyền thông
này đã tìm mọi cách để làm băng hoại chính nghĩa của Hoa Kỳ và
Tổng Thống Diệm Diệm và Miền Nam Việt Nam và làm cho hàng ngũ
cộng sản có nhiều chính nghĩa trước dư luận Hoa Kỳ và Tây Phương.
Từ những sự thật lịch vừa nêu trên cho
thấy chính giới truyền thông báo chí Hoa Kỳ và Tây Phương phải
chịu trách nhiệm đầu tiên và trực tiếp về cái chết của Miền Nam
Việt Nam và cả Đông Dương vào 1975.
Kế quả là Hồ Chí Minh được giới trí
thức Hoa Kỳ và Tây Phương vinh danh và choàng cho ông đầy hào
quang cách mạng và giới truyền thông báo chí, phong trào phản
chiến và dư luận quần chúng cũng bị lôi kéo theo khuynh hướng tả
phái để chống Mỹ và chính quyền Miền Nam Việt Nam. Những người
này phê phán và đóng đinh vào tất cả sự thật và không thèm nhìn
đến những gánh nặng chồng chất trên đôi vai Hoa Kỳ và Miền Nam
Việt Nam. Hoa Kỳ đến Việt Nam với một trách vụ đạo đức (moral
struggle) để tranh đấu bảo vệ tự do và độc lập cho Miền Nam Việt
Nam trước làn sóng xâm lăng của những người Bolshevik Á Châu và
Miền Nam Việt Nam được chọn vác thánh giá trên đồi Golgotha để
bảo vệ tiền đồn tự do cho Đông Nam Á và thế giới tự do. Chiến
tranh Việt Nam đã vượt khỏi tầm tay của những người trí thức thực
nghiệm và vượt khỏi tầm hiểu biết của tầng lớp truyền thông báo
chí đầy cảm tính và thơ ngây.
Những người này vinh danh Hồ Chí Minh,
vì họ cho ông là người quốc gia yêu nước (patriotic nationalism)
như họ đã vinh danh Marx-Engels, Lenine, Staline hay Mao - bởi vì
tất cả các thần tượng này đã được phong trào quốc tế cộng sản hô
to khắp nơi: “chúng tôi là chân lý, là sự sống, là ánh sáng và là
người dẫn đường cho toàn thế giới như Chúa Jesus 2000 năm trước
đây.” Một mặt họ vinh danh cộng sản, mặt khác họ viết cho thế
giới biết Diệm “thoái hóa đồi trụy và đàn áp” (corrupt and
repress) và dẫn đến một chính quyền bất lực. Dư luận khắp nơi bị
nhào nặn và uốn nắn từ giới truyền thông và dư luận đã lắng nghe
qua một màn khói mù mịt. Họ đã nhắc lại lời tuyên bố của Hồ Chí
Minh:
“Những
tên tư bản đế quốc Mỹ và những bọn Việt nam ở Miền Nam đều là bọn
phi nhân và đều là loại ma quỷ nguy hiểm nhất trên mặt đất này.
Bọn người này chính là nguồn gốc phát sinh ra tất cả những đau
khổ cho toàn dân Việt Nam. Chúng ta phải tiêu diệt tất cả chúng
nó để cứu dân Việt và cứu quê hương của chúng ta.” (trích trong
No More Vietnams, Nixon (1985)
Tại Paris, Jean Paul Sartre, một triết
gia hiện sinh nổi tiếng nhất nước Pháp cũng tuyên bố trong chiến
tranh VN như sau: “ANTI COMMUNIST IS A DOG - KẺ NÀO CHỐNG CỘNG LÀ
MỘT CON CHÓ.”
Tại Mỹ phong trào phản chiến trong một cuộc biểu tình triệu người
tại Washigton, D.C. để chống chiến tranh Việt Nam, chống Nixon và
chống Johnson. Đám biểu tình này đã phất cờ Mặt Trận Giải Phóng
Dân Tộc Miến Nam và hô to: Hồ... Hồ... Hồ sẽ chiến thắng tại VN.
Ngược lại đám biểu tình đã lên án Nixon là kẻ sát nhân như Hitler
và chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tranh vô luân.
Mc Govern thì mạt sát HK: “Những hành
động sát nhân tàn bạo nhất và vô luân nhất.”
Howard Zinni, cầm đầu Hội Sử Gia Hoa Kỳ
(HHA) vào 1969 thì tuyên bố: “Mở rộng đế quốc Mỹ trong thời hiện
đại, cộng sản Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là đại
biểu của tinh thần quốc gia của dân tộc Việt Nam. Đó mới là các
nhà cách mạng” chân chính.
Tờ New Work Times thì lên án Hoa Kỳ:
“sự phá hoại bỉ ổi nhất trong lịch sử nhân loại.”
Riêng tờ Washington Post thì nguyền rủa
Hoa Kỳ: “Man rợ nhất với những hành động vô lý chưa từng thấy.”
Khi đứng nhìn giới truyền thông báo chí
viết về chiến tranh Việt Nam, David Hallin nhận thấy - “tất cả
chính quyền Mỹ đều bị giới báo chí nhìn như những kẻ thù nghịch.
Họ khích động dư luận quần chúng, coi chính quyền Miền Nam Việt
Nam như một thứ hải âu và buộc Nixon và Johnson phải từ bỏ nỗ lực
đạt đến chiến thắng tại Việt Nam. Dưới mắt của họ chính quyền
Miền Nam là những kẻ bất lực, trộm cắp và đồi trụy.”
Giới truyền thông báo chí và trí thức
còn đi xa hơn nữa khi họ thống trách Hoa Kỳ là Hoa Kỳ đã đứng vào
vị trí lịch sử sai lầm (the wrong side of history) trong lịch sử;
lẽ ra Hoa Kỳ phải đứng về phía những nhà cách mạng cộng sản, chứ
không phải đứng về phía Miền Nam Việt Nam (No More Vietnam). Như
vậy giới truyền thông báo chí và trí thức cũng như phong trào
phản chiến tại Hoa Kỳ và Tây Phương không biết gì bản chất và mục
đích của Quốc Tế cộng sản là sự thật.
Sau khi những bức màn sắt của Liên Bang
Sô Viết bị Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ronald Reagan
và Đức Giáo Hoàng John Paul Đệ II đạp đổ để cho cuốn Black Book
ra đời vào năm 2001 thì giới truyển thông báo chí, trí thức và
phong trào phản chiến mới bừng mắt ra thì đã muộn; bởi vì Miền
Nam Việt Nam và các [nước] Đông Dương đã nằm trong xiềng xích của
những người Bolshevik Việt Nam và Á Châu từ 1975 cho đến ngày hôm
nay (2017) tất cả là 42 năm.
8 - LẬT ĐỔ TỔNG THỐNG DIỆM ĐÃ
DẪN ĐẾN CÁI CHẾT CHO MIỀN NAM VIỆT NAM, VÀ TỪ ĐÓ Á CHÂU TRỞ THÀNH
MỘT VÙNG ĐẤT NGUY HIỂM NHẤT VÀ BẤT ỔN NHẤT THẾ GIỚI, TẠI SAO?
Theo nhận định của Maggie Higgins thì:
kẻ thù cộng sản là thứ lừa đảo rất tinh vi. Người Mỹ thay vì phải
học nơi Tổng Thống Diệm, họ đã ép buộc ông phải làm theo lời cố
vấn của họ với một đường lối quá nhiều lầm lạc. Người Mỹ đã xô
đẩy không chỉ Tổng Thống Diệm vào chỗ chết mà còn xô đẩy cả một
quốc gia của Miền Nam vào chỗ chết luôn.
Bên cạnh Higgins còn có Louis Fanning,
tác giả cuốn Betrayal in VietNam cũng đưa ra nhận xét như sau:
Sau khi ám sát Tổng Thống Diệm vào tháng 11-1963 tình hình quân
sự tại Miền Nam đã trở nên vô cùng tồi tệ, nhóm tướng lãnh sau đó
đã chẳng làm nên trò trống gì cho đất nước của họ. Tình thế đen
tối này đẩy chính quyền Sài Gòn vào chỗ không làm sao giữ vững
được nền Cộng Hòa Việt Nam nữa, không còn khả năng chống đỡ cuộc
xâm lăng của Bắc Việt nữa. Vào mùa xuân 1965 tình thế cho thấy rõ
trước mắt những nhà quan sát quốc tế, họ thấy rằng Miền Nam gần
như bị “làn sóng đỏ” nuốt chửng.
Tiếp theo là Salisbury thì cũng nhận
thấy khi Tổng Thống Diệm bị giết đi Hoa Kỳ và Miền Nam Việt Nam
đã mất “một đại xích thố trên trận mạc”, một chiếc cột trụ chính
của căn nhà Việt Nam đã bị phá hủy thì sự sụp đổ làm sao tránh
được. Cả Hoa Kỳ và Miền Nam Việt Nam không ai tiên đoán được cái
hậu quả khủng khiếp này. Tổng Thống Diệm và Tổng Thống Kennedy
đều bị chết, Tổng Thống Johnson lãnh đủ bi kịch quá lớn lao này
để sa lầy trong chiến tranh Việt Nam.
Cũng theo Salisbury thì theo như nhận
định của Tổng Thống Nixon: Tối thiểu Tổng Thống Diệm đã lèo lái
con thuyền trên một hải trình đúng hướng. Ông Diệm chết kéo theo
tất cả mọi sự đều sụp đổ. Tổng Thống Nixon thống trách Hoa Kỳ:
“Khi chúng ta tự đặt chúng ta ở một vị
trí có quyền để lựa chọn chính quyền Miền Nam, chúng ta cũng phải
có trách nhiệm với số phận của quốc gia này.” Theo sau là lời
tuyên bố của Tổng Thống Johnson:
“Lật đổ Tổng Thống Diệm là một lỗi lầm
vĩ đại nhất của Hoa Kỳ. Kennedy đã gieo xuống cái nhân. Và bây
giờ chúng ta phải gặt hái toàn quả đắng.” Trước tình thế cực kỳ
nguy khốn cùa Miền Nam, và với trách nhiệm với số phận của Miền
Nam, Tổng Thống Johnson không còn một lựa chọ nào khác khi ông
nhậm chức. Để ngăn chận sự sụp đổ thảm khốc của Miền Nam, ông
phải leo thang chiến tranh, và làm cho chiến tranh thành của
người Mỹ hơn là của người Việt Nam. Từ đó mới có 500,000 quân Mỹ
tại Việt Nam. Nhưng rồi cũng chẳng cứu được Miền Nam Việt Nam, và
chết 58,000 người để cuối cùng phải nhìn Miền Nam Việt Nam rơi
vào tay cộng sản.
Như vậy sự thật lịch sử thế giới ngày
nay cho thấy, lật đổ và giết Tổng Thống Diệm và ông Nhu, không
chỉ làm mất Miền Nam Việt Nam vào tay những người Bolshevik Việt
Nam mà còn để cho cả vùng Á Châu rơi vào bất ổn, biến vùng này
thành nơi bất ổn nhất thế giới như ngày nay mọi người đã và đang
thấy tại Á Châu và vùng Biển Đông. Vị thẩm phán Tối Cao Pháp Viện
Hoa Kỳ là Justice William Douglas sau chuyến viếng thăm Việt Nam
một tuần lễ vào 1953 đã phúc trình là: ông Diệm là vị ANH HÙNG
CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM. Dưới cái nhìn của Thượng Nghị Sĩ Mike
Manfield và Jacob Javits thì Tổng Thống Diệm là “CỨU TINH CỦA
VÙNG ĐÔNG NAM Á và là MỘT VỊ ANH HÙNG CỦA THẾ GIỚI TỰ DO”. Khi
nhóm 5 người Mỹ mà Tổng Thống Johnson gọi là “bọn ác ôn côn đồ”
nằm trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ bật đèn xanh cho nhóm tướng lãnh
trong quân đội Miền Nam lật đổ và giết Tổng Thống Diệm - là Hoa
Kỳ và nhóm tướng lãnh Miền Nam đã giết VỊ ANH HÙNG CỦA DÂN TỘC
VIỆT NAM, đã giết VỊ CỨU TINH CỦA VÙNG ĐÔNG NAM Á và giết luôn
MỘT VỊ ANH HÙNG CỦA THẾ GIỚI TỰ DO. Đây là bằng chứng vững chắc
mà lịch sử Hoa Kỳ và thế giới đã ghi chép về vị trí của Tổng
Thống Diệm vào thế kỷ XX.
Nhóm 5 người Mỹ “ác ôn côn đồ” đó chính
là Averell Harriman, Roger Hilsman, George Ball, Cabot Lodge và
Rush. Phe tướng lãnh đảo chánh có Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn,
Mai Hữu Xuân, Trần Thiện Khiêm, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Dương
Ngọc Lắm và Phạm Ngọc Thảo, một sĩ quan tình cao cấp của Hồ Chí
Minh cũng lọt được vào để lèo lái cuộc đảo chánh lật đổ vị anh
hùng của dân tộc Việt Nam...
Khi Tổng Thống Diệm và ông Nhu nằm
xuống, tình thế Miền Nam hoàn toàn rơi vào hỗn loạn cùng cực
không làm sao vãn hồi được trật tự. Trong khoảng thời gian này có
hàng loạt các cuộc đảo chánh tại Miền Nam từ 1964 và 1965, cộng
sản chụp ngay cơ hội để gia tăng các cuộc tấn công Miền Nam.
Higgins cho biết, sau hai chuyến trở lại Việt Nam khác nhau sau
cái chết của Tổng Thống Diệm, Higgins bị rúng động khi thấy cộng
sản đã tái chiếm lại các vùng duyên hải thuộc phía Bắc. Tại Phan
Rang vào mùa hè 1963 Higgins có thể đi lại tự do mà không cần có
quân đội hộ tống để đi vào các làng xã của người Chàm. Bây giờ
phải có xe quân đội mới vào được.
- Tại Quảng Ngãi vào mùa hè 1963 đời
sống tại các làng xã có ấp chiến lược rất tiến bộ và rất khả
quan. Bây giờ trở lại thấy cộng sản chiếm rất nhiều
- Các khu vực duyên hải vào 1963 có rất
đông dân sống yên bình. Bây giờ biến thành một nơi cộng sản luôn
luôn quấy nhiễu
- Vào 1962 với viện trợ quân sự dồi dào
của Hoa Kỳ chỉ mới khởi đầu. Đây là lúc các làng xã trên các khu
vực duyên hải thường là mục tiêu phá hoại của cộng sản, chúng có
thể vào các khu vực này kiếm thực phẩm và bắt các thanh niên trẻ.
Ngay cả thành phố Quảng Ngãi cũng là mục tiêu tấn công của cộng
sản
- Vào 1963
các khu vực duyên hải không còn bị quấy nhiễu nữa, kể cả các vùng
duyên hải kéo dài 100 dặm từ Huế vào Phan Thiết, về phía Nam
những tiến bộ của Quảng Ngãi được coi như một “phép lạ”
- Nhưng những phép lạ đã biến mất từ
mùa thu 1963, Hoa Kỳ đã áp lực Tổng Thống Diệm di chuyển một số
đơn vị của sư đoàn 25th về vùng đồng bằng sông Cửu Long, nơi bị
áp lực mạnh của cộng sản.
Sự di chuyển quân như thế là sai lầm,
vì phần lớn quân đội đều từ các nông dân mà có. Họ không hiểu gì
ngoài làng xã của họ. Sư đoàn 25 đã tuyển mộ các nông dân để
chiến đấu bảo vệ làng xã và tỉnh của họ. Đưa họ vào các vùng đất
lạ, sự chiến đấu của họ mất rất nhiều hiệu năng.
Vào mùa đông 1964-1965, phép lạ của
Quảng Ngãi không cò nữa. Sự suy sụp của họ bởi sức mạnh gia tăng
quá mau chóng của quân đội cộng sản. Tại Quảng Ngãi là vùng địa
đầu của quân đội Miền Nam và vào 1963 quân cộng sản ước tính là 4
tiểu đoàn. Vào 1964 quân số nhảy vọt lên 14 tiểu đoàn. Vì thế mà
sức mạnh của cộng sản gia tăng 500%.
Thêm vào đó, Higgins còn cho biết thêm:
Trên đường trở lại Việt Nam để theo dõi như trước đây. Dịp này
tìm hiểu, đối chiếu và so sánh giữa chế độ của Tổng Thống Diệm và
sau khi ông nằm xuống. Sau khi Tổng Thống Diệm bị chính những
người Miền Nam Việt Nam giết thì các nơi như Huế, Đà Nẵng,
Pleiku, Tây Ninh, Qui Nhơn, Mỹ Tho, Cân Thơ, Vĩnh Long. Tất cả
những gì Higgins đã nghe và đã nhìn thấy... Như một chuỗi báo
động là quân cộng sản chưa bao giờ đông và mạnh như bây giờ.
Vào 1965 quân của Hồ Chí Minh được ào
ạt gởi vào Miền Nam, họ được trang phục theo kiểu Việt Minh để
khai thác triệt để hậu quả của cuộc đảo chánh 1963 đưa đến cho
họ. Phần lớn quân Bắc Việt đi vào Kontum và vùng Cao Nguyên. Nhờ
thế số quân và sức mạnh của cộng sản gia tăng rất mau lẹ sau đảo
chánh.
Higgins
đưa ra tra vấn với chính quyền Hoa Kỳ: chúng ta có những sai lầm
gì?
Nếu chúng
ta xây dựng dân chủ và tổ chức các cuộc bầu cử thì sau đó có loại
trừ được cộng sản không? Thực tế là Hoa Kỳ quá xa lạ với những
thực tế tại Việt Nam... Robert Kennedy đã phàn nàn rằng: “phải
chăng chúng ta đã thất bại vì không tranh thủ được con tim và
khối óc của người dân Việt Nam.” Nhưng nếu nói là cộng sản đã
chiếm được nhân tâm của người dân là không phải sự thật, chỉ là
dối trá bịa đặt.
Higgins nhận thấy: Sự thù ghét cộng sản
của người dân Việt Nam thể hiện rõ vào 1964 và 1965, gần 500,000
người đã “bỏ phiếu bằng chân” để chống lại cộng sản và tìm về với
phe quốc gia. Tại tỉnh Bình Định hơn 100,000 dân đã bỏ làng ra đi
vì ghét cộng sản. Tại Qui Nhơn tương đối yên ổn. Tại Đồng Xoài
người dân xin di tản chỗ nào có chính quyền Quốc Gia.
Dù người ta muốn nói gì về ông Diệm
cũng được, nhưng tối thiểu ông đã lo được cuộc sống cho dân. Phần
lớn các tướng lãnh và chính trị gia Sài Gòn chỉ bận bịu với những
trò chơi tranh danh đoạt lợi ích kỷ cho riêng họ. Sau khi lật đổ
Tổng Thống Diệm những hỗn loạn chính trị tại Miền Nam đã mời gọi
Hà Nội gia tăng những nỗ lực chiến tranh. Và Hồ Chí Minh đã chấp
nhận lời mời gọi, không phải chỉ hả hê khoái chí mà còn có thể
gấp rút giải phóng Miền Nam.
Cố vấn Mỹ có mặt trong tất cả hệ thống
quân đội, từ bộ tư lệnh đến các tiểu đoàn, để cung cấp tiếp liệu
và thống nhất quân độ; trong lúc các tướng tá đứng đầu quân đội
Miền Nam thì bỏ hết thì giờ và tâm lực vào đầu trường hung hãn
của chính trị để tranh chấp, giành giựt hay tìm kiếm quyền hành
và danh lợi cho riêng mình.
Tình hình chính trị cực kỳ nguy hiểm
không làm sao kiểm soát được làm cho các lãnh tụ Hoa Kỳ bất lực
và các tướng lãnh phía Việt Nam cũng thất bại ê chế vì không phân
biệt hai thứ kẻ thù quân sự và chính trị trong chiến tranh. Kẻ
thù đầu tiên là súng đạn của cộng sản bắn ra. Kẻ thù thứ hai là
do nhóm Phật giáo đội lốt để gây rối loạn tơi bời khắp nơi nên
chiến tranh Việt Nam vô cùng phức tạp và rắc rối nên phe quốc gia
khó mà nhận ra những lưỡi dao găm đâm lút cán sau lưng mình.
Cũng theo cuộc điều tra của Higgins tìm
thấy trong hồ sơ của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, trong đó ông Đại Sứ
Nolting đã từng báo với các viên chức Hoa Kỳ tại Việt Nam như
sau:
“Tại Việt
Nam trước đây không có ngày nào mà không có một số tướng lãnh,
hay một số đại tá hoặc một số chính trị gia của Sài Gòn dò dẫm
với người Mỹ xin được hợp tác hay chấp nhận cho họ hợp tác trong
việc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Các tướng lãnh sau đó làm gì?
Dĩ nhiên nhóm quân nhân này mong sẽ được Mỹ tiếp tục ủng hộ sau
khi ông Diệm bị lật đổ là Hoa Kỳ không trừng phạt họ bằng cách
cúp viện trợ mà Hoa Kỳ hỗ trợ họ. Trong thời gian tôi làm Đại Sứ
tôi đã từng đưa ra chỉ thị phải tìm cách ngăn chận một cuộc đảo
chánh. Tòa Đại Sứ phải minh thị rằng, chúng ta không thể chống
lại chính quyền đồng minh của chúng ta. Chúng ta không thể đục
con thuyền quốc gia của họ trong khi họ đang phải gánh vác một
cuộc chiến tranh quá thảm khốc, và cuộc chiến bây giờ là cuộc
chiến tranh chống lại làn sóng cộng sản - như thế đã quá đủ khốn
đốn và khó khăn cho chúng ta rồi. Những chỉ thị của Tòa Đại Sứ là
nói vào mặt những kẻ âm mưu đảo chánh rằng, hãy trở về với hàng
ngũ quân đội để đánh giặc với cộng sản, đây là một cuộc chiến
tranh đòi hỏi mọi người phải làm đúng chức năng của mình.”
9 - NHỮNG ĐIỆN TÍN VỚI TẤT CẢ
NHỮNG ÂM MƯU THÂM ĐỘC CỦA BỌN “ÁC ÔN CÔN ĐỒ” THUỘC BỘ NGOẠI GIAO
HOA KỲ ĐÃ BẬT ĐÈN XANH CHO CUỘC ĐẢO CHÁNH.
Theo cuộc điều tra của Higgins thì
những bức điện tín gởi đến Sài Gòn của Tòa Bạch Ốc ngày 24 tháng
8-1963 đã chấp thuận cho nhóm tướng lãnh Việt Nam phát động một
cuộc chiến tranh với chính quyền của họ (make the war on their
own government) cùng với lời chúc tụng của Hoa Kỳ (blessing of
the United States). Điểm then chốt của bức điện tín gởi cho Tòa
Đại Sứ tại Sài Gòn là thuyết phục ông Diệm lọai trừ em ông là Ngô
Đình Nhu, thả ngay những người Phật giáo nổi loạn, chấm dứt kiểm
soát báo chí, và phục hồi lại những quyền tự do dân chủ
(democratic liberties) đã bị cấm đoán vì thiết quân luật. Và nếu
những đòi hỏi mà bức điện tín đã đưa ra, mà ông Diệm không chịu
thi hành như Hoa Kỳ đòi hỏi, thì Tòa Đại Sứ phải liên lạc với các
tướng lãnh Việt Nam và nói cho họ biết Hoa Kỳ không còn ủng hộ
cho chính quyền của ông Diệm nữa... có nghĩa là (rocking the boat
was no longer US taboo)---đục thủng con thuyền Miền Nam Việt Nam
đi Hoa Kỳ không cấm cản nữa đâu.
Trong khi đó một bức điện tín khác được
gởi tới cho nhóm tướng lãnh vào tháng 8 cho họ biết về ý kiến của
Hoa Kỳ về một số dư luận cho biết là ông Nhu đã bí mật tiếp xúc
với Hà Nội hoặc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của cộng sản. Sau đó
Higgins cho biết thêm về chuyện tiếp xúc giữa ông Nhu và Hà Nội.
Hoa Kỳ tỏ ra lập lờ, nhưng Cabot Lodge lại nói rằng, Hoa Kỳ luôn
luôn ủng hộ một chính quyền Việt Nam chống cộng sản.
Cũng theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cho
biết, ông Nhu đôi khi có tiếp xúc với những người cộng sản, cả Hà
Nội và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nhưng với mục đích khuyến
khích họ chấm dứt chiến tranh. Những chi tiết về những cuộc tiếp
xúc này luôn luôn được ông Nhu chuyển cho ông Đại Sứ Nolting và
CIA là John Richardson. Nói một cách khác, trong lúc Hoa Kỳ có
nghe dư luận về những cuộc tiếp xúc này, nhưng Hoa Kỳ chưa bao
giờ coi như một chính sách một cách nghiêm chỉnh hay phê phán ông
Nhu đang cố gắng tiếp xúc với cộng sản để chấm dứt chiến tranh mà
dấu không cho Hoa Kỳ biết.
Hoa Kỳ đưa ra đòi hỏi là ông Nhu phải
ra đi. Chính Ngoại Trưởng Dean Rusk khi trao đổi với Higgins tại
Washington, D.C. có nói, “Liệu có cách nào tách ông Nhu ra khỏi
ông Diệm được không?” Với chút ngập ngừng, Higgins đã trả lời ông
Dean Rusk như sau: “với tất cả sự kính trọng, thưa ông Ngoại
Trưởng, tôi nghĩ tách ông Nhu ra khỏi ông Diệm còn khó hơn là
tách Robert Kennedy ra khỏi Tổng Thống Kennedy. Ngay cả tổng
thống của chúng ta cũng cần có Robert Kennedy. Tổng Thống Diệm
trước cơn khủng hoảng vĩ đại của Việt Nam, ông Diệm cũng cảm thấy
phải cần có em ông, đặc biệt là ông Nhu đang coi chương trình ấp
chiến lược để bảo vệ an ninh cho 8 triệu nông dân đang sống tại
các vùng nông thôn.”
Dean Rusk nói:
“Higgins ơi! tôi không thể chối bỏ được là ông Nhu là người có
đầy hiệu năng và hiệu xuất trong vai trò khó khăn của ông.”
Hiigins còn tiết lộ thêm rằng: Trong
một lần Higgins trao đổi với ông Nhu thì ông nói:
“Ở đất nước này tôi bị người ta thù
ghét, vợ tôi cũng bị như thế! Đây mới là những lý do khiến cho
người ta dựng chuyện là chúng tôi là những người đang tìm kiếm
quyền lực cho riêng mình, tôi điên hay sao. Một con người bị thù
ghét như tôi không sống được đến 5 phút... tất cả những chính
quyền đều cần có những bàn tay thật cứng rắn, đó là người phải
nhúng tay vào những chuyện bẩn thỉu nhơ nhớp và không có gì hứng
thú để làm những chuyện như thế. Ngay cả Tổng Thống Eisenhower
cũng cần có Sherman Adams, trong một quốc gia tân tiến và đoàn
kết như Hoa Kỳ mà vẫn phải làm những việc như thế. Tại Việt Nam,
bạo lực hung hãn và âm mưu hiểm độc giăng mắc khắp mọi nơi và lúc
nào cũng có. Tôi là người phải gánh trên đôi vai toàn những việc
làm chẳng hứng thú tí nào, và còn bẩn thỉu nhơ nhớp chịu không
thấu (violence and virulence are everywhere). Vì đó mà tôi là
người bị ngưới ta dựng chuyện và vu khống (It is I who am
vilified) để những kẻ hiểm độc được yên thân của với những âm mưu
của họ.”
Theo
ý kiến riêng của Higgins thì nếu ông Nhu có những hành dộng mềm
mỏng hơn và ít độc đoán hơn thì chắc ông bớt bị vu khống. Ông Nhu
bị kết tội là người hoang tưởng về quyền lực (megalomania) vì ông
đặc trách chương trình ấp chiến lược. Đó là lý do chính mà nhiều
ngưới muốn hạ ông.
Về bức điện tín từ Washington gởi tới
Sài Goàn ngày 24 tháng 8-1963 được tóm lược như sau: Tổng Thống
Kennedy đang nghỉ hè tại Hyannis Port và các cố vấn cao cấp nhất
như Mc Namara, McCone, Maxwell Taylor, tướng Krulak đều không có
ai có mặt trong Tòa Bạch Ốc. Như vậy một tài liệu quan trọng nhất
trong chiến tranh Việt Nam do Washington gởi đi Việt Nam mà
Kennedy và các cố vấn cao cấp không ai được đọc.
Khi bức điện tín gởi tới Sài Gòn thì
ông Đại Sứ Henry Cablot Lodge mới đến nhậm chức 3 ngày. Bức điện
tín tới tay ông Lodge khi ông chưa đến trình ủy nhiệm thư cho
Tổng Thống Diệm. Trong khi đó đài phát thanh Tiếng Nói Hoa Kỳ gần
như mời mọc các tướng lãnh Việt Nam nổi loạn làm cuộc đảo chánh,
ngay trước khi ông Lodge gặp Tổng Thống Diệm vào lúc 11 giờ sáng
ngày thứ hai, ngày 26 tháng 8.
Đài phát thanh Tiếng Nói Hoa Kỳ tại
Việt Nam nói rằng: “các viên chức cáo cấp của Hoa Kỳ tại Sài gòn
đổ hết lỗi lầm cho lực lượng cảnh sát mà người đứng đầu là Ngô
Đình Nhu để chống lại những người Phật giáo. Các viên chức này
còn đe dọa là Hoa Kỳ có thể cắt giảm viện trợ cho Việt Nam cho
đến khi nào Tồng Thống Diệm và các viên chức cảnh sát mật vụ phải
chịu trách nhiệm trong việc tấn công vào các chùa.”
Roger Hilsman đã gọi cho đài phát thanh
Hoa Kỳ phải loan tải thật chính xác chính sách của Hoa Kỳ.
Hilsman nghĩ rằng nếu ông ta công khai đưa ra lời đe dọa cắt viện
trợ thì nhóm tướng lãnh Việt Nam sẽ nhân danh đó mà lật đổ Tổng
Thống Diệm thật nhanh chóng và chớp nhoáng. Ông Diệm và ông Nhu
sẽ bị loại trừ. Nếu thất bại thì tối thiểu ông Diệm cũng phải
loại trừ ông Nhu. Và Hoa Kỳ sẽ nói với thế giới là Hoa Kỳ đã loại
trừ được một phần tử xấu.
Vì thế tất cả đài phát thanh Hoa Kỳ sẽ
chú ý vào điểm duy nhất: Loại trừ Nhu ra khỏi chính quyển (get
rid of Nhu). Ông Diệm rung động bởi buổi phát thanh của Tiếng Nói
Hoa Kỳ và CIA.
Tại Sài Gòn vào ngày Chúa Nhật 25 tháng
8 trong cuộc họp tại Tòa Đại Sứ ông Lodge đã quyết định “vẫy tay
ra hiệu” cho các tướng lãnh Việt Nam đứng ra tiến hành cuộc đảo
chánh, trong đó có tướng Dương Văn Minh, với chức vụ cố vấn quân
sự cho Tổng Thống Diệm, và Trung Tướng Trần Văn Đôn, tư lệnh quân
lực, và Thiếu Tướng Lê Văn Kim tổng cộng là 6 tướng.
Vào buổi sáng thứ hai những viên chức
cao cấp nhất của Ngũ Giác Đài và CIA thấy được toàn bộ nội dung
bức điện tín gởi đi từ Tòa Bạch Ốc tới Sài Gòn. Khi Tướng Taylor
nghiên cứu bức điện tín như một “tối hậu thư”: loại trừ ông Nhu.
Taylor vô cùng giận dữ, Ông Tổng Trưởng Quốc Phòng Mc Namara cũng
giận dữ như Taylor và Giám Đốc CIA của Tòa Bạch Ốc cũng điên tiết
luôn. Riêng Phó Tổng Thống Lyndon Jphnson thì tỏ ra bị rung động
mạnh nhất về bức điện tín. Tất cả các viên chức cố vấn cao cấp
nhất của Tổng Thống Kennedy đều có chung một nhận định:
“Quyết định được công bố như trên là
một lời mời gọi sự phá hoại nền tảng chính trị của nước Việt Nam
Đồng Minh.”
Tất cả những sự kiện diễn ra cho thấy các viên chức cao cấp nhất
của Tòa Bạch Ốc đều chống lại sự dàn dựng vô cùng nguy hiểm của
Hoa Kỳ khi cho phép đám tướng lãnh Việt Nam cầm dao đâm ngay vào
cổ họng của chế dộ Cộng Hòa Việt Nam... Các tường lãnh Việt Nam
dường như chỉ biết nói về trò chơi cách mạng bạo lực để lật đổ
chính quyền Diệm hơn là sửa soạn cho việc lãnh đạo quốc gia khi
quyền hành nằm trong tay của họ.
Trong lúc các tướng lãnh sau khi lật đổ
Tống Thống Diệm không có một người có một chút khả năng chính trị
và nắm vững tình hình quốc gia hay nắm vững quyền hành quốc gia
nên đã làm mất quyền lực chính trí vào Thích Trí Quang. Trong lúc
Thích Trí Quang không chỉ cầm đầu tổ chức tranh đấu của Phật
giáo, mà ông còn cầm đầu Hội Đồng Cứu Nguy Dân Tộc, kiểm soát và
điều động 14 tổ chức ngoại vi của Việt cộng lập lên để thành “đạo
quân thư 5” của cộng sản Bắc Việt tại Miền Nam. Tất cả những ai
nói Thích Trí Quang tranh đấu cho tôn giáo là vô cùng sai lầm, vì
không nhìn thấy vị sư này chính là người cầm đầu “đạo quân thứ
5”, có nghĩa là bàn tay của Thích Trí Quang có ở khắp mọi nơi,
không chỉ có tổ chức Phật giáo. Tất cả quyền lực và quyền hành
chính trị chưa bao giờ và không bao giờ nằm trong tay các tướng
lãnh đảo chánh, mà nằm hoàn toàn trong tay Thích Trí Quang. Quyền
lực lớn nhất của ông là quyền chọn hay truất phế chức vị thủ
tướng chính phủ. Chỉ trong chưa đầy hai năm ông ta đã đưa lên rồi
lật đổ 5 chính quyền. Chính quyền nào không nghe, ông chỉ cần dọa
cho tự thiêu và biểu tình là thủ tướng mất hồn nên phải làm theo
lời ông. Dương Văn Minh, Trần Văn Hương, Nguyễn Khánh hay Phan
Huy Quát đều là nạn nhân của Thích Trí Quang. Thích Trí Quang đưa
cho các thủ tướng chính phủ một danh sách những [người] nào phải
loại ra khỏi chính quyền nên hầu hết các viên chức chính quyền
của chính quyền Diệm đều bị loại trừ để đưa những người của Thích
Trí Quang vào.
Ông Đại Sứ Hoa Kỳ là Henry Cabot Lodge
đứng hoàn toàn về phe Phật giáo và tướng lãnh đảo chánh và đã cho
Thích Trí Quang tỵ nạn chính trị tại Tòa Đại Sứ. Khi ra khỏi đó
không bao lâu là ông cho biểu tình xuống đường đuổi Mỹ cút khỏi
Việt Nam. Thích Trí Quang là mội nhà độc tài gấp trăm lần hơn
Tổng Thống Diệm, nhưng vì ông khoác áo già lam và luôn luôn hành
động cực kỳ bí mật nên chỉ những ai đã chết vì tay ông mới biết
ông là ai. Tất cả các tướng lãnh đảo chánh, và các thủ tướng sau
1963 biết rõ, nhưng không ai dám chống ông hay có đủ sức chống vị
sư này. Chính Thích Trí Quang ra lệnh cho Dương Văn Minh phá ấp
chiến lược để cho cộng sản tràn ngập các vùng nông thôn như đã
nói ở phần trên. Tất cả 6 vị tướng và hai đại tá đều bị đưa đi
đày, loại ra khỏi quân đội hay bị giam lỏng - sự thật ấy cho thấy
Thích Trí Quang là thứ “siêu quyền lực” sau 1963. Thích Trí Quang
nắm trọn vẹn quyền lực trong bóng tối (black power) để phá nát
Miền Nam Việt Nam, dọn đường cho cộng sản Bắc Việt chiếm Miền Nam
1975, chứ không phải nắm để xây dựng quốc gia như Tổng Thống Diệm
và ông Nhu trong 9 năm cầm quyền (1954-1963).
10 - SỰ THÙ NGHỊCH CỦA TRUYỀN
THÔNG BÁO CHÍ VỚI CHÍNH QUYỀN HOA KỲ VÀ CHÍNH QUYỀN MIỀN NAM ĐÃ
LÀM CHO SỰ CHIẾN THẮNG CỦA MIỀN NAM THÀNH THẢM BẠI TRƯỚC LÀN SÓNG
ĐỎ.
Trong chiến tranh Việt Nam truyền thông báo chí Hoa Kỳ và Tây
Phương có một thứ siêu quyền lực xuất phát từ những ngòi viết của
họ. Nếu những nhà báo không có lương tâm (journalists without
conscience) thì họ sẽ đứng về phía những kẻ gây ra chiến tranh
gây đau khổ tột cùng cho bao triệu con người. Nếu họ là những nhà
báo có lương tâm (journalists with conscience) thì họ phải đứng
về phía những nạn nhận của chiến tranh để chống lại những kẻ gây
ra chiến tranh. Maggie Higgins cho biết có khoảng 70% đến 80%
truyền thông báo chí đứng về phe cộng sản là những kẻ gây ra
chiến tranh xâm lăng Miền Nam Việt Nam. Và phong trào phản chiến
và trí thức cũng đứng luôn về phía cộng sản để ca tụng và vinh
danh đoàn quân xâm lăng Miền Nam Việt Nam với những ngọn cờ đỏ và
những lưỡi gươm đỏ. Sự thật là giới truyền thông báo chí đa số đã
biến đệ tứ quyền của họ thành thứ quyền lực đen (black power) để
bóp méo và đánh tráo 22 sự thật mà Tổng Thống Nixon đã nêu ra.
Tuy nhiên vẫn có 20% đến 30% nhà báo và học giả đứng về phía
những nạn nhân của chiến tranh. Nếu những nhà truyền thông tung
ra cho dư luận toàn tin tức giả (fake news) thì cũng có những nhà
truyền thông và học giả, dù chỉ là thiểu số, đưa cho dư luận
những sự thật; đặc biệt trong số đó chúng ta còn may mắn có
Harrison Salisbury và Maggie Higgie, cùng một số học giả rất khả
kính tại Hoa Kỳ là những người có lương tâm và đạo đức liêm chính
cũng như công bình của những người cầm bút khi viết về chiến
tranh Việt Nam tại Hoa Kỳ. Nhưng những tiếng nói của những người
này ít được dư luận lắng nghe nên tất cả sự thật bị che khuất.
Trên thực tế, dư luận không hiểu gì về
thực tế tại Việt Nam nên thường nghĩ thật đơn giản: “nếu không có
sao báo chí truyền thông nói?” Vì thế dư luận đã tin theo toàn
những tin tức bịa đặt về chiến tranh Việt Nam do báo chí truyền
thông thiên tả và thiên cộng của Hoa Kỳ và Tây Phương đưa ra.
Trong 22 tin tức giả dối bịa đặt trên
có một số sự kiện vô cùng quan trọng cần làm cho thật sáng tỏ sự
thật như:
1.
Tất cả người dân Việt Việt Nam đều biết cộng sản Bắc Việt xâm
lăng để nhuộm đỏ Miền Nam; chỉ có báo chí truyền thông Hoa và Tây
Phương cho đó là “cuộc nội chiến”
2. Tất cả người dân Việt Nam biết đều
Hồ Chí Minh là một người cộng sản, nhưng truyền thông báo chí Hoa
Kỳ và Tây Phương lại cho ông ấy là một người quốc gia yêu nước.
Tại Miền Nam bất cứ nơi nào có mặt cộng sản là người dân đều bỏ
đi hay trốn chạy về vùng quốc gia; chỉ có báo chí truyền thông
Hoa Kỳ và Tây Phương tưởng cộng sản chiếm được nhân tâm cùa người
dân hai miền Nam Bắc
3. Tất cả người dân Việt Nam đều biết
cụ Diệm suốt đời chống Pháp nên Pháp rất thù ghét cụ Diệm; chỉ có
báo chí truyền thông Hoa và Tây Phương tưởng cụ Diệm là bù nhìn
của Pháp
4.
Tất cả người dân Việt Nam đều biết Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
là do cộng sản Hà Nội dựng lên để phát động chiến tranh du kích
khắp Miền Nam; chỉ có báo chí truyền thông Hoa Kỳ và Tây Phương
tưởng là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam độc lập với Hà Nội
5. Tất cả người dân Việt Nam đều biết
Việt cộng độc ác và tàn bạo hơn thú dữ; chỉ có báo chí truyền
thông Hoa Kỳ và Tây tưởng là chính sách của Việt cộng rất nhân
đạo
6. Tất cả
người dân Việt Nam đều biết Tổng Thống Diệm chống lại Hiệp Định
Geneve và không bao giờ ký vào Hiệp Định này; tại sao báo chí
truyền thông Hoa Kỳ và Tây Phương lại nói là Hoa Kỳ và Cụ Diệm
phải chịu trách nhiệm pháp lý về tổng tuyển cử vào 1956 để thống
nhất đất nước
7. Tất cả người dân Việt Nam đều biết cộng sản Bắc Việt đem quân
ẩn núp tại Lào; chỉ có báo chí truyền thông Hoa Kỳ và Tây Phương
tưởng là “trung lập” Lào đã ngăn chận được sự bành trướng của
chiến tranh
8.
Tất cả người dân Việt đều biết những cuộc biểu tình chống Tổng
Thống Diệm bắt nguồn từ chính trị do cộng sản tổ chức để gây hỗn
loạn tại Miền Nam; chỉ có báo chí truyền thông Hoa Kỳ và Tây
Phương tưởng là vì lý do tôn giáo
12. Thực tế của lịch sử đang để lại cho
thấy Miền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ đã thắng oanh liệt về quân sự
tại Miền Nam, kể cả Đệ I và Đệ II Cộng Hòa đều thắng oanh liệt
(chính Hà Nội cũng thú nhận họ thua Miền Nam vào 1959-1960); chỉ
có báo chí truyển thông Hoa Kỳ và Tây Phương tưởng Miền Nam và
Hoa Kỳ là thua cộng sản
13. Hoa Kỳ và Miền Nam Việt Nam đã toàn
thắng và cả Hồ Chí Minh và Hà Nội đau đớn tột cùng vì sự thảm bại
của họ trong Tết Mâu Thân; chỉ có báo chí truyền thông Hoa Kỳ và
Tây Phương tưởng là Hoa Kỳ thảm bại
15. Những cuộc dội bom của Hoa Kỳ nhắm
vào thường dân không có bằng chứng nào cả, hoàn toàn bịa đặt
17. Chính các tù nhân Hoa Kỳ sau khi ra
khỏi nhà tù cộng sản đều nói họ bị đối xử rất tàn bạo; chỉ có báo
chí truyền thông Hoa Kỳ và Tây Phương tưởng là cộng sản Bắc Việt
đối xử với các tù nhân Hoa Kỳ rất nhân đạo
22. Tất cả 40 triệu dân Đông Dương và
Miền Nam Việt Nam đều sống và đều là nạn nhân thê thảm trước
chính sách cực kỳ tàn bạo và chính sách diệt chủng kinh hoàng của
Polpot; chỉ có báo chí truyền thông Hoa Kỳ và Tây Phương tưởng là
cuộc sống người dân Đông Dương sống sung sướng và hạnh phúc hơn
nhiều từ khi Hoa Kỳ rút quân.
Người dân Việt Nam cả hai miền Nam-Bắc
phần đông đều sinh ra trong chiến tranh, lớn lên trong bom đạn và
băn khoăn ray rứt trong hòa bình suốt 60 năm qua - một nền hòa
bình không có quyền sống, quyền tự do, và quyền tìm kiếm hạnh
phúc. Tất cả vẫn sống trong câm nín, lặng lẽ với một quá khứ đầy
mất mát, đổ vỡ và đau khổ để nghe báo chí truyền thông Hoa Kỳ và
Tây Phương vinh danh và ca tụng những kẻ đã gây chiến tranh,
những kẻ đã tước đoạt phũ phàng quyền sống của 92 triệu con người
trong hòa bình. Họ đều có những tra vấn trong âm thầm, lặng lẽ và
câm nín như Harrison Salishbury đã hỏi thay cho họ:
LƯƠNG TÂM CỦA THẾ GIỚI BÂY GIỜ Ở ĐÂU?
LƯƠNG TÂM CỦA NƯỚC MỸ VẤT VƯỞNG NƠI NÀO? VÀ TẠI SAO LƯƠNG TÂM CỦA
CON NGƯỜI TĂM TỐI VÀ U ÁM NHƯ THẾ?
Roger Hilsman, Averell Harriman, George
Ball, Rush và Henry Cabot Lodge và những người cầm bút trong hàng
ngũ báo chí, truyền thông, trí thức và những người phản chiến Hoa
Kỳ và Tây Phương chống Tổng Thống Diệm, chính quyền Miền Nam Việt
Nam và chính quyền Hoa Kỳ là ai và bây giờ các ngài ở đâu? Lương
tâm của các ngài ở đâu, vất vưởng nơi nào và tại sao lương tâm
của các ngài tăm tối và u ám như thế? Các ngài đến mảnh đất nghèo
khó và bất hạnh nhất thế giới đang quằn quại rên xiết trong lò
lửa chiến tranh xâm lăng của làn sóng đỏ từ Đông qua Tây với
những cây bút trên tay với thái độ như Henry Cabot Lodge - trịch
thượng, phách lối, ngạo mạn, nghênh ngang và khinh bạc trước
những con người đau khổ bất hạnh trong cô đơn.
Các ngài viết để tôn vinh cộng sản và
viết cho thế giới biết Diệm “bất lực, thoái hóa và đồi trụy” để
cho 5 tên ác ôn côn đồ trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ có lý do để bật
đèn xanh cho 8 tướng tá trong quân đội Miền Nam Việt Nam lật đổ
và giết con người “bất lực, thoái hóa và đồi trụy đó?” Trong lúc
14 triệu dân Miền Nam sống bên ông, sống gần ông và sống với ông
như cá với nước từng ngày trong suốt 9 năm chiến tranh sôi bỏng
từng giờ, những người Việt Nam đó không biết Diệm là ai hay sao
mà phải cần những con người ở xa vạn dặm như các ngài chỉ bảo cho
họ biết về Diệm là ai? 14 triệu con người Việt Nam đó biết Diệm
là ai và họ biết tất cả bộ mặt thật của cộng sản và sự thật về
cuộc chiến đó, nhưng không bao giờ có tiếng nói (voiceless
people) nên đành chịu sống trong câm nín và uất hận ngập tràn;
chỉ có truyền thông báo chí Hoa Kỳ và dư luận không biết gì cả.
Khi các ngài nói con người đó “bất lực, thoái hóa và đồi trụy”...
Nhưng bất lực như thế nào... thoái hóa như thế nào... và đồi trụy
như thế nào, các ngài có bằng chứng vững chắc nào không để chứng
minh về những lời cáo buộc quá độc ác và độc địa của các ngài?
14 triệu dân Miền Nam chỉ thấy nhờ Diệm
mà họ chưa bị “làn sóng đỏ” nuốt chửng và nhờ Diệm 14 triệu dân
có được đời sống sung túc, ấm no và hạnh phúc, dù đang sống trong
chiến tranh. Công lao lớn lao như thế mà truyền thông báo chí các
ngài nói là Diệm “bất lực, đồi trụy và thoái hóa” là sự thật hay
gian dối bịa đặt? Các ngài đã bịa đặt gian dối 22 lần; bây giờ
vẫn tiếp tục bịa đặt nữa hay sao?
Các ngài hùa theo những người Bolshevik
Việt Nam và quốc tế cộng sản để lên án mạt sát nước Mỹ là “tân đế
quốc thực dân”, và trong cuộc biểu tình hàng triệu người tại
Washington, D.C. để chống chiến tranh Việt Nam, đám biểu tình đã
phất cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và tung hô Hồ Chí Minh; đồng
thời nguyền rủa nước Mỹ và gọi quốc gia của mình là một quốc gia
con heo (pig nation). Trong lúc hàng triệu công dân Hoa Kỳ gốc
nạn nhân cộng sản đến Hoa Kỳ tỵ nạn cộng sản tại Hoa Kỳ gần nửa
thế kỷ qua (1975-2017) đến nay đã gần 3-4 thế hệ sinh ra và lớn
lên tại Hoa Kỳ. NHỮNG CÔNG DÂN HOA KỲ GỐC NẠN NHÂN CỦA NHỮNG
NGƯỜI BOLSHEVIK VIỆT NAM VÀ NẠN NHÂN CỦA QUỐC TẾ CỘNG SẢN. NHỮNG
NGƯỜI CÔNG DÂN HOA KỲ NÀY, SỐ NGƯỜI TỐT NGHIỆP TẠI CÁC ĐẠI HỌC
DANH TIẾNG TẠI MỸ ĐẾM KHÔNG HẾT. TRONG ĐÁM CÔNG DÂN GỐC NẠN NHÂN
CỘNG SẢN CÓ MỘT SỐ NGƯỜI BỎ CẢ ĐỜI ĐỂ HỌC LẠI BÀI HỌC CHIẾN TRANH
VIỆT NAM VỚI CÁI CHẾT HÃI HÙNG CỦA MỘT QUỐC GIA VÀ HỌC LUÔN LỊCH
SỬ NƯỚC MỸ TỪ THỜI THUỘC ĐỊA, THỜI CÁCH MẠNG. THỜI THÀNH LẬP LIÊN
BANG, NỘI CHIẾN, THỜI HOÀNG KIM, THỜI KỸ NGHỆ VÀ THỜI HIỆN ĐẠI ĐỂ
THẤY NƯỚC MỸ VĨ ĐẠI VÀ NHÂN TỪ, ĐÁNG YÊU ĐÁNG KÍNH BIẾT BAO. THẾ
GIỚI KHÔNG CÓ HOA KỲ SẼ LÀ MỘT THẾ GIỚI CỦA BÓNG TỐI VÀ ÁC MỘNG
TRƯỚC NANH VUỐT CỦA NHỮNG KẺ ĐỘC TÀI. TỪ NHỮNG BÀI HỌC LỊCH SỬ
LỚN LAO ĐÓ, NHỮNG CÔNG DÂN HOA KỲ GỐC NẠN NHÂN CỘNG SẢN MỚI NHẬN
RA NHỮNG THÀNH PHẦN CÔNG DÂN HOA KỲ TRONG NHÓM THIÊN TẢ VÀ THIÊN
CỘNG - GỌI HOA KỲ LÀ TÂN ĐẾ QUỐC THỰC DÂN VÀ HOA KỲ LÀ QUỐC GIA
CON HEO - ĐÚNG LÀ MỘT LŨ ĐIÊN... HAY BỆNH TÂM THẦN THỜI KỲ HẾT
THUỐC CHỮA.
WHAT WE WANT TO TELL YOU IS... YOU REALLY ARE CRAZY, BUT YOU HAVE
RIGHT TO BE WHATEVER YOU HAVE CHOSEN TO BE, NOT OUR BUSINESS. LET
IT BE. BUT NO ONE OF US HAS FORGOTTEN THAT YOU KILLED OUR NATION
AND DEGRADED OUR AMERICA - THAT WE LOVE SO MUCH AS OURSELVE - ONE
NATION UNDER GOD AND IN GOD WE TRUST. SO, HELP US GOD.
Những người Việt Nam, Lào và Cambodia
đều sống trong tiếng gầm thét của bom đạn trong cách mạng giải
phóng của cộng sản 20 năm và sống trong vòng tay của những người
Bolshevik Á Châu hơn 40 năm trong hòa bình mà số người chết nhiều
hơn trong chiến tranh, những con người khốn khổ này có cần các
ngài là những con người cực kỳ may mắn sinh ra và lớn lên tại Mỹ,
chưa có một ngày sống trong các xã hội cộng sản - thuyết minh cho
họ nghe về chủ nghĩa Xã hội, về Marx và lý tưởng của cộng sản
không? Các ngài là những người thiên tả thiên cộng nên các ngài
đã chống Tổng Thống Diệm và chống chính quyền Hoa Kỳ, vì những
người này chống cộng sản trong khi các ngài không có một sự hiểu
biết thực tế nào về cộng sản, cả cộng sản Việt Nam và quốc tế
cộng sản. Những công dân Hoa Kỳ gốc nạn nhân cộng sản không thể
nào hiểu được (not understandable) tại sao các ngài lại lạnh lùng
quay lưng và nguyền rủa nước Mỹ - dù quốc gia này vẫn còn nhiều
lỗi lầm, nhưng nước Mỹ là quốc gia có lý tưởng cao quý nhất khi
quốc gia này được Thiên Chúa chọn để soi sáng và dẫn dắt cho tất
cả nhân loại từ Đông qua Tây làm sao xây dựng được một cuộc sống
tự do tốt đẹp như Hoa Kỳ. Một mặt các ngài lạnh lùng quay lưng
với nước Mỹ, mặt khác hướng trái tim và trí tuệ của các ngài về
các “thiên đường cộng sản” - là những quốc gia - trên thực tế,
chỉ thấy có ẢO TƯỞNG VÀ TỘI ÁC. Các ngài hãy chỉ cho mọi người
thấy các quốc gia cộng sản ngoài ẢO TƯỞNG VÀ TỘI ÁC (như cuốn
Black Book of Communism đã viết) - thì còn có cái gì khác nữa
không? Các ngài chưa một lần biết bộ mặt thật của những người
cộng sản nên các ngài đã tôn vinh họ, nhưng tất cả người dân Việt
Nam, Lào và Cambogia sống với 20 năm chiến tranh do cộng sản gây
ra và sống với cộng sản trong 42 năm hòa bình... mỗi lần nghe
thấy hai chữ cộng sản là họ toát mồ hôi, run rẩy, hồn vía bay lên
mây, buồn nôn, buồn mửa và muốn ói không chịu được. Tai sao cách
mạng cộng sản lại sản sinh ra những con người nhơ nhớp thấp hèn
như thế? Đó là thực tế lịch sử của cộng sản Việt Nam và Á Châu.
Sau khi đọc cuốn Black Book, các ngài cũng cần nhìn lại thực tế
trong chính sách của những người Bolshevik Việt Nam đã áp dụng
triệt để trong suốt 42 năm hòa bình tại Việt Nam, đặc biệt đối
với Miền Nam. Dưới đây là lời tuyến bố của Đỗ Mười, sau này là
Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam sau khi chiếm được Miền Nam:
“Giải phóng Miền Nam xong, chúng ta có
quyền tịch thu tài sản, trưng thu nhà cửa, hãng xưởng ruộng đất.
Xe hơi của chúng nó ta lái, vợ của chúng nó ta cứ đè ngửa ra mà
hãm hiếp, con cái chúng nó ta bắt làm nô lệ cho chúng ta. Còn tất
cả các viên chức chính quyền, các sĩ quan trong quân đội chúng ta
sẽ đưa chúng về vùng kinh tế mới trong rừng sâu nước độc, rồi
chúng nó sẽ bị hủy diệt lần mòn mà không sao thoát được.”
Thưa các ngài trong giới truyền thông
báo chí Hoa Kỳ và Tây Phương, những “thần tượng đỏ” mà các ngài
tôn vinh trong chiến tranh Việt Nam là như thế sao? Cái chủ nghĩa
xã hội mà các ngài thuyết minh như một lý tưởng trên thực tế của
lịch sử nó đã đem đến những cái chết kinh hoàng cho 100 triệu
người hoàn toàn vô tội trên khắp thế và đưa đến cái chết cho Miền
Nam Việt Nam như một quốc gia, và xô đẩy cả vùng Đông Nam Á vào
tình trạng bất ổn nhất và nguy hiểm nhất thế giới như hiện nay
mọi người đang thấy. Rồi đây cả vùng Đông Nam Á Châu và thế giới
sẽ đi về đâu khi chiến tranh nguyên tử xảy ra?
Trong khi đó các chính quyền Hoa Kỳ và
các chiến lược gia quân sự và dân sự của Hoa Kỳ biết rất rõ là
Tổng Thống Diệm và Miền Nam Việt Nam đang chiến thắng cộng sản từ
năm 1954-1963. SỰ CHIẾN THẮNG NÀY RẤT QUAN TRỌNG - BỞI VÌ NHỜ ĐÓ
SỰ THĂNG BẰNG QUYỀN LỰC GIỮA TỰ DO VÀ LÀN SÓNG ĐỘC TÀI TẠI Á CHÂU
ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC. NGHĨA LÀ LÀN SÓNG ĐỎ PHẢI NGĂN CHẬN ĐƯỢC THÌ MỚI CÓ
SỰ THẰNG BẰNG QUYỀN LỰC ĐỂ DUY TRÌ SỰ ỔN ĐỊNH VÀ HÒA BÌNH TẠI Á
CHÂU. HOA KỲ LÀM MẤT MIỀN NAM VIỆT NAM LÀ MẤT ĐI SỰ THĂNG BẰNG
QUYỀN LỰC CẦN THIẾT ĐÓ. VÀ VÌ MẤT MIỀN NAM VIỆT NAM VÀO TAY CỘNG
SẢN NÊN KHÔNG CHỈ MẤT SỰ ỔN ĐỊNH MÀ HÒA BÌNH TẠI Á CHÂU SẼ BỊ ĐE
DỌA NGHIÊM TRONG TỪ ĐÓ TỚI NAY.
Đó là lý do chính mà Mike Mansfield
nhìn Tổng Thống Diệm là “cứu tinh của vùng Á Châu” và Jacob
Javits nhìn ông là “anh hùng của thế giới tự do”. Vì Tổng Thống
Diệm và Miền Nam Việt Nam đã ngăn chận được làn sóng đỏ để tạo
được sự thăng bằng quyền lực với chiến tuyến chung quanh làn sóng
độc tài để duy trì được sự ổn định và hòa bình Á Châu. Vì thế
Tổng Thống Kennedy mới gọi Miền Nam Việt Nam là “tiền đồn của thế
giới tự do” là vì vậy. Khi truyền thông báo chí, trí thức, phong
trào phản chiến và 5 tên “ác ôn côn đồ” thuộc phe bồ câu trong Bộ
Ngoại Giao Hoa Kỳ cổ súy lật đổ Tổng Thống Diệm, không một người
lường trước được hậu quả tai hại khủng khiếp sẽ đưa đến cho Miền
Nam Việt Nam, cho Á Châu và cho nước Mỹ cũng như thế giới sau đó
như đã phân tích ở trên. Trong lúc Tổng Thống Diệm và Miền Nam
Việt Nam đang chiến thắng làn sóng đỏ và đã ngăn chận được cuộc
xâm lăng Á Châu của làn sóng đó. Dưới đây là những bằng chứng
vững chắc nhất nói về sự chiến thắng không thể nào tin được,
nhưng lại là sự thật của lịch sử trong chiến tranh Việt Nam:
Theo bài viết đăng trong cuốn the
Vietnam War and American Foreign Policy, Giáo Sư Robert
Scalapino, khoa trưởng phân khoa khoa học chính trị tại Berkeley
có viết một đoạn như sau:
“Một số nhà quan sát cho biết hiện nay
cộng sản Việt Nam bị cưỡng bách phải cân nhắc thật kỹ lại chính
sách của họ lần đầu tiên vào năm 1959-1960 vì sự tổn thất quá
nặng nề của họ tại Miền Nam Việt Nam, trước sự thờ ơ của cộng sản
Bắc Kinh, cùng với sự gia tăng ảnh hưởng của Sô Viết tại Việt
Nam, và sự tiêu tan trong chiến tranh giải phóng Miền Nam của
Miền Bắc là lý do chính yếu phải xét lại chính sách. Bằng chứng
đó cho thấy Miền Bắc đang rơi vào tình thế như hụt cẳng. Những
viên chức thẩm quyền của Pháp tại Việt Nam tiết lộ rằng, Hà Nội
không còn tin tưởng gì về chiến thắng quân sự nữa. Những sửa soạn
của họ là làm sao kềm giữ được hiện trạng vẫn còn hơn là thương
thuyết trong khi yếu thế như thế này.”
Bên cạnh sự tuyệt vọng não nề của cộng
sản Bắc Việt về chiến tranh giải phóng Miền Nam, các viên chức
cao cấp quân sự và dân sự của Hoa Kỳ cũng nhận thấy Tổng Thống
Diệm và Miền Nam Việt Nam đang chiến thắng cộng sản Bắc Việt.
* Vào 1962, McNamara nói với Tổng Thống
Kennedy rằng, “Việt Nam chỉ cho chúng ta thấy là chúng ta đang
thắng trong cuộc chiến tranh này.”
* Tướng Maxwell Tailor thì tuyên bố:
“Một phong trào quốc gia đang lớn mạnh tại Miền Nam để tiến lên
tiêu diệt cộng sản. Đây là điều khó tin, nhưng lại là sự thật -
đó chính là sự cải tiến sâu xa và rộng về tình hình quân sự tại
Việt Nam.”
*
Vào 1963 Tổng Thống Kennedy tuyên bố tại Mỹ: “ngọn giáo hiếu
chiến của cộng sản đã cùn lụt tại Việt nam.”
* Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ là Dean
Rusk thì cho biết, “chiến tranh đang có những chuyển điểm quan
trọng... Những lực lượng của Tổng Thống Diệm đã kiểm soát được
phần lớn lãnh thổ của đất nước ông.” Dean Rusk còn cho biết thêm,
“một phong trào rầm rộ đang tiến tới để xây dựng một hệ thống
hiến pháp với sự ưng thuận của toàn dân.” Khi nói về an ninh nông
thôn, Dean Rusk đưa ra nhận xét: “chương trình ấp chiến lược đã
đưa đến những kết quả quá tuyệt vời. Tinh thần người nông dân lên
rất cao.” Cuối cùng Dean Rusk kết luận: “Miền Nam đang bước trên
con đường chiến thắng cộng sản.”
* Vào tháng 5, Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa
Kỳ tuyên bố: “Chiều hướng đang biến chuyển để đi đến chiến thắng
tại Việt nam.”
* Tướng Harkins, tư lệnh phái bộ quân
sự Mỹ tại Việt Nam thì cũng nhận thấy: “chiến thắng cuộc chiến
tranh này sẽ đến trong vòng 1 năm nữa.”
* Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam là Nolting
thì đầy lạc quan cho biết: “Miền Nam đang đi trên đường chiến
thắng du kích cộng sản.”
* Robert Thompson thì quả quyết: “Ông
cảm thấy chúng ta không thể thất bại được.”
* Tướng Harkins thì tiên đoán: “nhiều
dấu hiệu cho thấy là chiến tranh sẽ chấm dứt trong chiến thắng.”
Từ những chứng liệu lịch sử kể trên cho
người ta thấy rõ bộ mặt thâm hiểm và bỉ ổi của giới truyền thông
tả phái tại Hoa Kỳ khi họ... “viết cho thế giới biết Diệm bất
lực, thoái hóa và đồi trụy” là sự thật hay sao? Nếu những ngưới
cầm bút sáng suốt thành thật và lương thiện, họ phải thấy chính
Hồ Chí Minh và cộng sản Bắc Việt mới chính là những kẻ... bất
lực, thoái hóa và đồi trụy, chứ không phải Diệm.
Trong 6 vị Tổng Thống Hoa Kỳ có dính
líu vào chiến tranh Việt Nam, Tổng Thống Richard Nixon khi mới
nhậm chức, ông đã ngồi để duyệt xét thật kỹ trong 23 năm Hoa Kỳ
dính líu vào Việt Nam, vì thế ông là người hiểu rõ về chiến tranh
Việt Nam hơn bất cứ người Mỹ nào khác. Khi nhìn vào giới truyền
thông và phong trao phản chiến, ông nói rằng:
“Giới truyền thông báo chí Tây Phương
và Hoa Kỳ đã công khai xưng tụng Hồ Chí Minh và cộng sản Bắc
Việt, họ nhìn quân đội Hoa Kỳ, nhìn chính quền và các lãnh tụ
Miền Nam, nhìn quân đội Miền Nam và người dân Miền Nam bằng những
cái nhìn thù nghịch nên đã tìm mọi cách để bóp méo tất cả sự thật
và cố tình hướng dẫn dư luận quần chúng Hoa Kỳ tin theo sự dối
trá và lừa đảo của giới truyền thông báo chí.
Các phong trào phản chiến đã rơi vào
cái bẫy dối trá và lừa đảo thật tinh vi của quốc tế cộng sản, của
Hồ Chí Minh và cộng sản Bắc Việt nên trong các cuộc xuống đường
chống chiến tranh Việt Nam, họ đã phất cờ Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam và tung hô Hồ Chí Minh như một vị anh hùng cách mạng thế
giới và là George Wsahington của dân tộc Việt Nam.
Một số trí thức Hoa Kỳ cũng mù quáng
tin vào chính nghĩa cộng sản nên tìm mọi cách để hạ nhục các lãnh
tụ Hoa Kỳ đã tham dự vào chiến tranh Việt Nam, và hạ nhục luôn
quân đội Hoa Kỳ và quân đội Miền Nam Việt nam.”
Tổng Thống Nixon kết luận: “Đa số giới
truyền thông báo chí và phong trào phản chiến phải chịu trách
nhiệm về cái chết của Miền Nam Việt Nam.” Trên thực tế, cái chết
của Miền Nam Việt Nam khó mà tránh được - bởi vì con thuyền quốc
gia của Miền nam đã bị đục thủng bởi những người hướng dẫn dư
luận ở Hoa Kỳ đã đưa cho họ toàn những tin tức và sự kiện giả
dối, bịa đặt và dư luận cũng mù quáng tin theo và tưởng đó là sự
thật. Vì thế mà Tổng Thống Diệm mới bị lật đổ và bị giết, sau ông
không có ai đủ sức đưa con thuyền quốc gia vượt qua bao giông bão
nên chiếc thuyển đã bị đắm. Đưa những chiến thắng cộng sản trong
suốt 9 năm dưới quyền lãnh đạo của Tổng Thống Diệm biến thành cái
chết não nề cho chính ông và cho nền Cộng Hòa Việt Nam 1975. Từ
đó cán cân thăng bằng quyền lực (balance of power) giữa khối tự
do và cộng sản tại vùng Á Châu sụp đổ để biến Á Châu thành một
vùng bất ổn, nguy hiểm nhất cho hòa bình của Á Châu và thế giới
như tất cả đã thấy. Giới truyền thông báo chí, trí thức và phản
chiến tại Tây Phương và Hoa Kỳ khi... “viết cho thế giới biết
Diệm bất lực, thoái hóa và đồi trụy”... khi sự thật không phải
như thế. Tất cả chỉ là bịa đặt, dối trá và lừa đảo để có cớ giết
đi thật tàn bạo một vị anh hùng của dân tộc Việt Nam, giết đi một
vị cứu tinh của vùng Á Châu và giết luôn một vị anh hùng của thế
giới tự do - mà ngày nay Á Châu và thế giới phải lãnh đủ một
tương lai quá đen tối và đầy bất trắc không biết đi về đâu?
KẾT LUẬN
Chiến tranh Việt Nam diễn ra sau đệ II
Thế Chiến. Trong Chiến Tranh Lạnh toàn cầu, chiến tranh Việt Nam
là một cuộc chiến nóng bỏng nhất, tàn bạo nhất, kinh hoàng nhất,
nhiều hỏa mù nhất, vì nhiều lừa đảo, dối trá và bịp bợm nhất -
nên nhiều hiểu lầm, ngộ nhận nhất, nhiều sự thật bị che dấu, bóp
méo hay đánh tráo nhất nên Tổng Thống Lyndon Johnson, vì lẽ đó,
mới nói: “Việt Nam là mảnh đất khó khăn nhất thế giới”. Làm sao
để tìm ra đâu là sự thật khi chưa tìm ra manh mối rối bời của một
lóng chỉ rối như thế? Mấu chốt chính của chiến tranh Việt Nam là
CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG CŨNG NHƯ LÀ CHIẾN TRANH Ý THỨC HỆ GIỮA VÔ
THẦN VÀ HỮU THẦN. CUỘC XUNG ĐỘT NÀY LÀ SỰ XUNG ĐỘT CỦA HAI DÒNG
THÁC CÁCH MẠNG CỦA THẾ GIỚI ĐỂ XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI TỰ DO HAY MỘT
XÃ HỘI ĐỘC TÀI. Đây là cái nhìn “tổng thể”. Không có cái nhìn
tổng thể con người sẽ lạc vào một thứ “mê hồn trận” của chiến
tranh cách mạng tại Việt Nam. Và con người khi đã lọt vào mê hồn
trận thì dễ trở nên mù quáng và mê sảng. Đó là tình cảnh của phần
đông giới truyền thông báo chí, trí thức thực nghiệm và những
người phản chiến Tây Phương và Hoa Kỳ. Họ có khuynh hướng vô thần
nên thiên tả và thiên cộng như một thứ “đồng thanh tương ứng hay
cá mè một lứa với cộng sản vô thần”. Trong thế giới của những con
người vô thần; cái mất mát lớn lao nhất không thể nào bù đắp được
- đó là sự minh triết và viễn kiến (wisdom and vision) chưa bao
giờ và không bao giờ những người vô thần có thể có được dù người
đó là Marx-Engels hay các lãnh tự lừng lẫy nhất thế giới cộng
sản. Không ai có MINH TRIẾT VÀ VIỄN KIẾN - dù chỉ là một cũng
không có được trong thế giới cộng sản. Cho đến nay chưa biết có
người vô thần nào nhận ra sự mất mát vĩ đại của họ không?
Trong khi ấy những người hữu thần
thường có MINH TRIẾT VÀ CÓ VIỄN KIẾN. Những người hữu thần có một
đức tin mạnh mẽ vào ĐẠO LÝ VÀ ĐẤNG TẠO HÓA và con người chỉ tìm
thấy MINH TRIẾT VÀ VIỄN KIẾN trong ĐẠO LÝ VÀ ĐẤNG TẠO HÓA mà
thôi. Con người không thể tìm kiến ánh sáng trí tuệ trong thế
giới trần tục của con người. Ánh sáng của trí tuệ chỉ phản chiếu
từ ĐẠO LÝ VÀ ĐẤNG TẠO HÓA mà thôi. So, help us, God.
Nước Mỹ được sản sinh từ những con
người MINH TRIẾT VÀ VIỄN KIẾN nên chỉ mới thành lập 300 năm mà
quốc gia này đã lãnh đạo thế giới. Nhưng tại sao Mỹ thua trận tại
Việt Nam? Thực ra thì Hoa Kỳ đang chiến thắng nhưng bị dư luận mù
quáng áp lực buộc họ phải triệt thoái khỏi Việt Nam. Nhưng cũng
chính Mỹ, dưới thời Tổng Thống Reagan, là quốc gia đã làm trung
tâm quyền lực của cả thế giới vô sản là Liên Bang Sô Viết dẫy
đành đạch mà chết. Chiến tranh cách mạng thế giới kỳ bí là ở chỗ
đó. Bài học chiến tranh Việt Nam là bài học lịch sử thế giới.
Không hiểu được lịch sử thế giới thì khó mà hiểu được bài học
chiến tranh cách mạng Việt Nam.
Chiến tranh Việt Nam là “chiến tranh
cách mạng”, vì thế cuộc chiến đó đã để lại những kinh hoàng, và
cách mạng đã để lại những ảo tưởng và tội ác vĩ đại. Chiến tranh
Việt Nam là một đấu trường xung đột của ý thức hệ và chiến tranh
đã chấm dứt với sự chiến thắng của những con người vô thần. Nhưng
sự chiến thắng này chẳng vẻ vang gì so với sự chiến thắng của
Miền Nam trong 9 năm (1954-1963) trước đó. Sự chiến thắng của
những người vô thần vào 1975 hoàn toàn dựa trên lừa đảo và bịp
bợm thật nhơ nhớp và bỉ ổi. Cách mạng tự do dân chủ hữu thần của
Miền Nam đã xây nên hòn ngọc Viễn Đông; cách mạng vô thần chỉ sản
sinh ra ảo tưởng và tội cũng như vơ vét tài sản của dân và tài
sản quốc gia trong suốt 42 năm hòa bình như Đỗ Mười đã nói. Trên
thực tế, trong 20 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam (1954-1975).
Cách mạng hữu thần Miền Nam đã thắng trong chiến tranh và thắng
luôn trong cách mạng xây dựng quốc gia.
Ngược lại, nếu không có sự lừa đảo, dối
trá và bịp bợm của giới truyền thông, trí thức và phản chiến phản
trắc Hoa Kỳ cổ súy cho những tên “ác ôn côn đồ” thuộc phe bồ câu
Hoa Kỳ bật đèn xanh cho đám tướng lãnh Việt Nam lật đổ và sát hại
Tổng Thống Diệm vào 1963 thì chắc chắn chiến tranh cách mạng của
hàng ngũ vô thần đã thảm bại tại Việt Nam. Và chính Hà Nội đã tự
nhận “không còn tin tưởng gì về chiến thắng nữa”. Trong cuộc xung
đột giữa làn sóng cách mạng vô thần và hữu thần, cách mạng hữu
thần đã đè bẹp phe vô thần trên cả hai mặt: chiến tranh và cách
mạng. Miền Nam đã chiến thắng trong chiến tranh để ngăn chận làn
sóng xâm lăng của cộng sản (1954-1963) và thắng oanh liệt trong
cách mạng xây dựng quốc gia. Lịch sử sẽ không phủ nhận được là
Tổng Thống Diệm và ông Nhu có đức tin mãnh liệt vào ĐẠO LÝ VÀ
ĐẤNG TẠO HÓA, vì nhờ thế các ông mới có MINH TRIẾT VÀ VIỄN KIẾN
để đạt được sự thành công vẻ vang trong suốt 20 năm chiến tranh
cách mạng tại Việt Nam.
Trong lúc chiến tranh đang diễn ra,
giới truyền thông báo chí, trí thức và phản chiến Tây Phương và
Hoa Kỳ tìm mọi cách để phá tan tành chính nghĩa của Hoa Kỳ và
chính nghĩa của Miền Nam Việt Nam, và tìm mọi cách để đưa chính
nghĩa cho phe cộng sản Bắc Việt. Chính nghĩa đó là “tranh đấu
giành độc lập cho dân tộc Việt Nam”. Trong khi đó, số phận của
Việt Nam đã được quyết định được độc lập từ 1920-1930 do Phong
Trào Giải Thực đưa đến, trễ nhất là 1945-1949. Vào 1941 khi Tổng
Thống Roosevelt đưa bốn quyền tự do, buộc tất cả các chính quyền
phải tôn trọng bốn quyền tự do của dân và 7 đế quốc thực dân phải
trao trả độc lập cho 70 quốc gia, trong đó có Đông Dương -
Việt-Miên-Lào. Cũng vào 1941 Hồ Chí Minh đưa ra phong trào Việt
Minh, vì những người Việt Nam không biết gì phong trào giải thực
trên toàn thế giới đang tranh đấu độc lập cho Việt Nam và 70 quốc
gia khác nên họ đã gia nhập phong trao tranh đấu cho độc lập của
Việt Minh do Hồ lãnh đạo mà không ai biết đây là cái bẫy lừa đảo
của quốc tế cộng sản. Hồ và các đồng chí Bolshevik Việt Nam của
ông vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo nên gây ra chiến tranh
để nhuộm đỏ Việt Nam, Á Châu và thế giới; tranh đấu giành độc lập
cho dân tộc Việt Nam hoàn toàn bịa đặt và tưởng tượng, không phải
sự thật. Sự thật là những người Việt Nam theo Hồ đều bị ông ta
lừa đảo và bịp bợm, mà họ không biết hay chưa biết. Chúng tôi hy
vọng sau bài học lịch sử lớn lao này, sự thật lịch sử sẽ sáng tỏ,
và sự thật ấy sẽ giải phóng những con người bị Hồ lừa đảo trong
quá khứ.
Sau
Đệ I Thế Chiến, Hoa Kỳ đã phát dộng phong trào giải thực để tranh
đấu giành độc lập cho 70 quốc gia đang bị 7 đế quốc thực dân
chiếm đóng và đô hộ. Hoa Kỳ theo đuổi hai mục đích:
1. Chiến tranh tranh đấu với các chế độ
độc tài và thực dân để đòi độc lập cho 70 quốc gia đang bị thực
dân đô hộ
2.
Tranh đấu đòi quyền sống cho con người dưới các chế dộ độc tài.
Từ những sự thật lịch sử thế giới đó
cho thấy, hàng ngũ Bolshevik Việt Nam dương ngọn cờ tranh đấu tự
do và độc lập cho dân tộc Việt Nam có phải sự thật không? Những
người Việt Nam từng đi theo cộng sản cần học kỹ bài học quốc tế
cộng sản để nhìn ra những ảo tưởng và tội ác vĩ đại của phong
trào này. Đồng thời học luôn bài học từ phong trào giải thực khởi
đi từ Đệ I Thế Chiến để thấy Hoa Kỳ có phải thực sự là “đế quốc
tân thực dân” hay khối quốc tế mới chính là những “tân đế quốc
thực dân”? Ai chiếm Đông Đức, Ba Lan và các quốc gia Đông Âu. Ai
xuất cảng và điều động “chiến tranh nhân dân” tại Việt Nam và
khắp vùng Đông Nam Á Châu? Ai tranh đấu cho nền độc lập của 70
quốc gia? Ai cứu Âu Châu thoát khỏi nanh vuốt của nước Đức và
Hitler? Ai giúp xây dựng dân chủ cho nước Đức, Âu Châu và Nhật
Bản? Ai xây dựng Hội Quốc Liên, Liên Hiệp Quốc và tranh đấu cho
quyền sống của con người từ Đông qua Tây? Ai đi truyền bá văn
minh dân chủ và cổ súy đem tự do và công lý cho tất cả con người?
Ai tranh đấu cho nhân quyền trong suốt thế kỳ XX đến nay? Ai hô
hào các nước độc tài tôn trọng tự do và công lý với người dân của
họ? Ai đi xây trật tự mới, xây dựng hòa bình và ổn định cũng như
giúp tất cả các nước nghèo phát triển? Ai đã giúp để tái thiết Âu
Châu và nước Nhật? Thực tế của lịch sử thế giới cho thấy Hoa Kỳ
là một quốc đại ân nhân đối với thế giới, nhưng phong trào cộng
sản tại sao lại gọi Hoa Ký là “đế quốc tân thực dân” khi quốc gia
này không chiếm đất của ai và cũng không đô hộ quốc gia nào trên
thế giới như Liên Bang Sô Viết và Bắc Kinh?
Nhất định phải hiểu được những bài học
lịch sử thế giới thì mới mong hiểu được tại sao dân tộc Việt Nam
quá đau khổ và đổ vỡ suốt một thế kỷ qua bắt nguồn từ đâu? Hồ và
những người Bolshevik Việt Nam tranh đấu giành độc lập cho dân
tộc Việt Nam mà tại sao đến hôm nay (2017) lại mất độc lập trong
tay người Hán? Thật khôi hài và vớ vẩn như thế làm sao ai chịu
được? Những sử gia ngồi viết 10,000 trang sử để vinh danh cuộc
tranh đấu giành độc lập cho dân tộc Việt Nam của những người
Bolshevik Việt Nam mà chẳng có sự hiểu biết thực tế gì về lịch sử
quốc tế cộng sản, cũng như lịch sử thế giới, đặc biệt phong trào
giải thực của khối tự do; bỏ mất tất cả những sự thật quan trọng
nhất của lịch sử thế giới vào thế kỷ XX. Viết sử như thế có trung
thực không? Hay chỉ là những con ếch ngồi dưới đáy giếng tưởng cả
bầu trời chỉ có thế hay sao? Hãy mau mau đốt ngay những trang sử
chỉ có dối trá, bịa đặt và tưởng tượng đó đi. Giữ những trang sử
đó là để lại cho đời sau chỉ để lại sự ghê tởm và chán ghét cho
các thế hệ sắp tới, tại sao? Tại vì chính sử của thế giới đã được
cuốn Black Book viết ra rồi. Trong đó cách mạng cộng sản chỉ sản
sinh được ảo tưởng và tội ác. TỘI ÁC PHÁT XUẤT TỪ TINH THẦN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA CỦA CÁC QUỐC GIA CỘNG SẢN - VÀ LÀ NGUỒN GỐC CỦA MỌI
TỘI ÁC. Ngoài ảo tưởng và tội ác không có gì khác thì viết 10,000
trang sử như thế có rửa sạch được vết tanh nhơ hay không mà viết?
Bài học quan trọng nhất trong chiến
tranh Việt Nam là bài học về bạo lực cách mạng cộng sản và cách
mạng dân chủ phi bạo lực là cách mạng xây dựng quốc gia. Nếu cách
mạng bạo lực của cộng sản đã đưa đến muôn vàn cái chết đắng cay
cho 17 triệu dân Miền Bắc Việt Nam - thì cách mạng dân chủ tại
Miền Nam do Tổng Thống Diệm và ông Nhu đã đem lại ấm no và hạnh
phúc cho 14 triệu dân Miền Nam Việt nam. Trên tầm mức quốc tế,
khối quốc tế cộng sản đã đưa đến những cái chết rùng rợn cho 100
triệu người vô tội trên khắp thế giới. Trong khi đó khối tự do do
Hoa Kỳ Lãnh đạo đã đưa lại độc lập thật sự cho 70 quốc gia và
cuộc cách mạng dân chủ đã đưa đến tự do và dân chủ cho 122 quốc
gia trên toàn thế giới.
Chỉ vì những
người Việt Nam chạy theo Hồ và những người Bolshevik Việt Nam nên
đã phải gánh chịu hết thảm họa này đến thảm họa khác trong chiến
tranh và trong hòa bình và đến hôm nay vẫn không có độc lập thật
sự. Trong khi 70 quốc gia khác không phải đổ một giọt máu nào mà
tất cả đều có độc lập tối thiểu là trên nửa thế kỷ qua.
Trước những sự thật hiển nhiên và thê
thảm như thế mà những người Việt Nam đi theo cộng sản vẫn chưa
thức tỉnh hay sao? Viết 10,000 trang sử như thế thì có khác gì tự
“vạch áo cho người xem lưng” hay “ông ơi tôi ở bụi này” - bởi vì,
những thế hệ sắp tới là thế hệ của toàn cầu hóa nên sự hiểu biết
và kiến thức lịch sử của họ sẽ mang tầm mức toàn cầu. Lúc đó họ
nhìn lại 10,000 trang sử do những người cộng sản viết ra như thế
sẽ làm cho họ ghê tởm và chán ghét vì không có gì là sự thật.
Hồ và những ai gây ra chiến tranh xâm
lăng Miền Nam là một sự ô nhục và tội ác sẽ còn mãi mãi với lịch
sử. Năm tên ác ôn côn đồ tả phái trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ như
Averell Harriman, Roger Hilsman, George Ball, Rush và Henry Cabot
Lodge đã lợi dụng khi Kennedy vắng mặt đi nghỉ hè, toa rập với
nhau để bật đèn xanh cho nhóm tướng lãnh Miền Nam đảo chánh. Khi
Kennedy biết thì chuyện đã rồi. Những ai đã gián tiếp hay trực
tiếp hỗ trợ cho nhóm tướng lãnh trong quân đội Miền Nam như nhóm
Ấn Quang và 14 tổ chức ngoại vi của cộng sản tại Miền Nam lật đổ
và giết Tổng Thống Diệm và ông Nhu không có ai biết trước được
những hậu quả khủng khiếp như thế nào cho cả đất nước của họ sau
khi Tổng Thống Diệm và ông Nhu Nằm xuống.
Kết quả là Miền Nam Việt Nam đã rơi vào
tay cộng sản. Cán cân thăng bằng quyền lực tại Á Châu sụp đổ
luôn, vì không còn ai đủ sức để bảo vệ tiền đồn của thế giới tự
do nên cả vùng Đông Nam Á Châu và vùng Biển Đông rơi vào bất ổn
và trở thành một vùng đất nguy hiểm nhất, đe dọa nghiêm trọng hòa
bình và ổn định tại Á Châu. Lật đổ và giết Tổng Thống Diệm, không
chỉ giết một vị anh hùng của dân tộc Việt Nam mà còn giết một vị
cứu tinh của vùng Động Nam Á và giết luôn một vị anh hùng của thế
giới tự do. Tuy nhiên, con người và những kẻ thù có thể hủy diệt
được xác thân của Tổng Thống Diệm, nhưng TINH THẦN CỦA NGÔ ĐÌNH
DIỆM thì bất khả hủy diệt. Tinh thần ấy chưa bao giờ và không bao
giờ chết được; trái lại tinh thần ấy sẽ muôn đời sống trong lòng
người dân Việt như ánh sáng của minh triết và viễn kiến mà Trời
cao đã ban xuống cho Tổng Thống Diệm để ông lèo lái con thuyền
Việt Nam băng qua bão tố của chiến tranh và hận thù để được sống
trong Hòn Ngọc của Viễn Đông trong suốt 9 năm, trước khi bị xô
đẩy vào địa ngục trần gian do những người cộng sản dựng lên 42
năm qua.
Đau
đớn và ô nhục hơn cả là hàng ngũ cộng sản Việt Nam đã đem bạo
lực, dối trá và lừa đảo để gây chiến tranh tàn khốc tiến chiếm
Miền Nam, đưa hai miền Nam-Bắc thống nhất, nhưng bất lực không đủ
sức bảo vệ nền độc lập để cho nền độc lập rơi vào tay kẻ thù
truyền kiếp là giặc Đại Hán. Chính hàng ngũ của những con người
này mới là: bất lực, thoái hóa và đồi trụy, đó là sự thật trong
lịch sử. Những người này KHÔNG CHỈ LÀ TỘI ĐỒ CỦA DÂN TỘC VIỆT
NAM, MÀ CÒN LÀ TỘI ĐỒ CỦA CẢ CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI NHƯ CHÍNH SỬ CỦA
THẾ GIỚI ĐÃ XÁC QUYẾT TRƯỚC TÒA ÁN Ở NUREMBERG từ khi cuốn Black
Book ra đời vào 2001. Trước chính sử của Việt Nam và thế giới,
ngày nay người ta mới thấy DÂN QUÂN MIỀN NAM VIỆT NAM mới là
những anh hùng của dân tộc Việt Nam, của Đông Nam Á và của thế
giới tự do; bởi vì họ đã xả thân tranh đấu để ngăn chận làn sóng
đỏ để cứu Á Châu và Bảo vệ Tiền Đồn của Thế giới Tự Do. Vì thế,
chính sử của Việt Nam và thế giới cho biết chính Hồ và những
người Bolshevik Việt Nam mới đúng là “ngụy quân ngụy quyền”. Hãy
trả những gì của Caesar về cho Caesar. Hãy trả những gì của Thiên
Chúa về cho Thiên Chúa, và hãy trả lại sự thật cho lịch sử. Đây
là chủ đề chính trong công trình nghiên cứu này. Đúng là chiến
tranh Việt Nam quá khủng khiếp, chỉ vì cách mạng cộng sản có quá
nhiều ảo tưởng và tội ác. Bài học lịch sử này quá cần thiết vì có
những cái đúng và những cái sai. Hãy tiếp tục duy trì, bảo vệ và
phát huy những gì là lẽ phải, những gì là công chính và những gì
tốt đẹp cho cuộc sống của chính mình và của những người đồng loại
anh em. Đừng lập lại những ảo tưởng và tội ác như những người
cộng sản đã làm trong suốt một thế kỷ qua.
Đó là lý do Tổng Thống Johnson phải
nói: “lật đổ Tổng Thống Diệm là một lỗi lầm vĩ đại nhất của Hoa
Kỳ trong chiến tranh Việt Nam”... BIẾN NHỮNG CHIẾN THẮNG CỘNG SẢN
CỦA MIỀN NAM VIỆT NAM VÀO NĂM 1954-1963 THÀNH CÁI CHẾT CHO NỀN
CỘNG HÒA NAM VIỆT NAM. Sự lầm lỗi đó khiến cả Á Châu và thế giới
lãnh đủ một tương lai đen tối không biết đi về đâu?
Hawaii ngày 23 tháng 9-2017
công dân Nguyễn Anh Tuấn
Political scientist.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by Nguyễn Quốc Đống, K13-VBQGĐL chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, November 24, 2017
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang