|
Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
CSVN
Tác giả:
Nguyễn Văn Luận
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
LTS: Trời ơi! nếu
năm 1954 tôi không được tầu “há mồm” chở vào miền Nam tìm Tự Do,
thì con người tôi sẽ giống như ông Nguyễn Văn Luận, tôi sẽ trở
thành “kịch sĩ” nói dối trơn chu, “một tấc đến trời”. Thúc phụ
tôi bị tuyên truyền, nếu đẻ con trên tầu thuỷ, thì bị vứt cả mẹ
lẫn con xuống biển vì lúc đó thím tôi có bầu đứa em thứ tư gần
đến ngày sinh, đến lúc chúng phát động chiến dịch “cải cách ruộng
đất”, thúc phụ tôi đã bị “đấu tố” đến chết. Thật là oan nghiệt,
sau ngày 30/04/1975, cô ruột tôi vào Sài Gòn đã kể lại chi tiết
cuộc sống sau di cư nó thê lương như thế nào!
Mời quý độc
giả, nhất là quý vị nào còn “mơ hồ” về cái xã hội do bọn “răng
đen mã tấu” cai trị, đọc đoản văn này để “bừng tỉnh”, sáng mắt,
sáng lòng.
Tôi lớn lên tại Sài Gòn, được hấp thụ một nền
giáo dục trong sáng và nhân bản, lúc nào cũng nhớ ơn Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, chỉ vài tháng sau, cuộc sống của gần một triệu
người di cư đã ổn định, mọi người sống trong một thể chế tự do,
an lạc...
Germany, 25/10/2022–04/11/2022
– Điều Hợp
Viên DĐ Ngôn–Ngữ–Việt,
– Chủ Nhiệm TCDV.
LÝ TRUNG TÍN
Lời giới thiệu: Với bút hiệu tựdo – chữ
thường, viết liền – ông Nguyễn Văn Luận là tác giả bài “Người tìm
tự do và tượng thần tự do” đã được bình chọn trúng giải chính
thức trong giải sơ kết 3 tháng Giải Thưởng Việt Báo Viết Về Nước
Mỹ.
Tác giả sinh năm 1937, hiện cư ngụ tại Worcester,
Massachusetts. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
–LÝ TRUNG TÍN.
Ông Hòa là cựu sĩ quan Việt
Nam Cộng Hòa, bị Cộng sản bắt đi tù năm 1975, sang Mỹ theo diện
HO. Tôi gặp ông tại một tiệc cưới, trở thành bạn, thường gặp nhau
bởi cùng sở thích, nói chuyện văn chương, thời thế, dù trong quá
khứ ông sống tại miền Nam, tôi ở xứ Bắc.
Một lần tới thăm,
cháu Thu Lan, con ông Hòa, hỏi tôi:
– “Bác
ở Hà Nội mà cũng đi ty nạn à...?”
Nghe hỏi tự nhiên nên tôi chỉ cười:
– “Cái
cột đèn mà biết đi, nó cũng đi... nữa là bác!”
Thực ra tôi đã không trốn thoát được từ lần đầu “vượt tuyến”
vào miền Nam. Rồi thêm nhiều lần nữa và 2 lần “vượt biển”, vẫn
không thoát.
Chịu đủ các “nạn” của chế độ cộng sản trong
27 năm ở lại miền Bắc, tôi không tị nạn, mà đi tìm Tự Do, trở
thành thuyền nhân, đến nước Mỹ năm 1982.
Sinh trưởng tại
Hà Nội, những năm đầu sống ở Mỹ, tôi đã gặp nhiều câu hỏi như
cháu Thu Lan, có người vì tò mò, có người giễu cợt. Thời gian rồi
cũng hiểu nhau.
Tôi hằng suy nghĩ và muốn viết những dòng
hồi tưởng, vẽ lại bức tranh Hà Nội xưa, tặng thế hệ trẻ, và riêng
cho những người Hà Nội di cư.
Người dân sống ở miền Nam
trù phú, kể cả hàng triệu người di cư từ miền Bắc, đã không biết
được những gì xảy ra tại Hà Nội, thời người cộng sản chưa vận
com–lê, đeo cà–vạt, phụ nữ không mặc áo dài.
Hiệp định
Geneva chia đôi nước Việt. Cộng sản, chưa lộ mặt là Cộng sản,
tràn vào miền Bắc tháng 10 năm 1954. Người Hà Nội đã “di cư” vào
miền Nam, bỏ lại Hà Nội hoang vắng, tiêu điều, với chính quyền
mới là Việt Minh, đọc tắt lại thành Vẹm. Vì chưa trưởng thành,
tôi đã không hiểu thế nào là... Vẹm! Khi họ tiếp quản Hà Nội, tôi
đang ở Hải Phòng.
Dân đông nghịt thành phố, chờ tầu há mồm
để di cư. Trước Nhà Hát Lớn, vali, hòm gỗ, bao gói xếp la liệt.
Lang thang chợ trời, tôi chờ cha tôi quyết định đi Nam hay ở
lại. Hiệp định Geneva ghi nước Việt Nam chỉ tạm thời chia cắt,
hai năm sau sẽ “Tổng tuyển cử” thống nhất.
Ai ngờ cộng sản
miền Bắc “tổng tấn công” miền Nam!
Gia đình lớn của tôi,
không ai làm cho Pháp, cũng không ai theo Việt Minh. Cha tôi làm
chủ một hãng thầu, nghĩ đơn giản là dân thường nên ở lại. Tôi
phải về Hà Nội học.
Chuyến xe lửa Hà Nội “tăng bo” tại ga
Phạm Xá, nghĩa là hai chính quyền, hai chế độ, ngăn cách bởi một
đoạn đường vài trăm mét, phải đi bộ hoặc xe ngựa. Người xuống Hải
phòng ùn ùn với hành lý để đi Nam, người đi Hà Nội là con buôn,
mang xăng về bán. Những toa tầu chật cứng người và chất cháy, từ
chai lọ đến can chứa nhà binh, leo lên nóc tầu, bíu vào thành
toa, liều lĩnh, hỗn loạn.
Tới cầu Long Biên tức là vào Hà
Nội. Tầu lắc lư, người va chạm người.
Thằng bé ù chạc 15
tuổi, quắc mắt nhìn tôi:
“Ðề nghị đồng chí xác định lại
thái độ, lập trường tư tưởng!”
Tôi bàng hoàng vì thứ ngoại
ngữ Trung quốc, phiên âm thành tiếng Việt, nghe lần đầu không
hiểu, để rồi phải “học tập” suốt 20 năm, “ngoại ngữ cộng sản”:
“đấu tranh”, “cảnh giác”, “căm thù” và... “tiêu diệt giai cấp”!
(Thứ ngôn ngữ này ghi trong ngoặc kép.)
Hà Nội im lìm
trong tiết đông lạnh giá, người Hà Nội e dè nghe ngóng từng
“chính sách” mới ban hành. “Cán bộ” và “bộ đội” chỉ khác nhau có
ngôi sao trên mũ bằng nan tre, phủ lớp vải mầu cỏ úa, gọi là “mũ
bộ đội”, sau này có tên là “nón cối”. Hà Nội “xuất hiện” đôi dép
“Bình Trị Thiên”, người Bắc gọi là “dép lốp”, ghi vào lịch sử
thành “dép râu”.
Chiếc áo dài duyên dáng, thướt tha của
thiếu nữ Hà Nội được coi là “biểu hiện” của “tư sản, phong kiến”,
biến mất trong mười mấy năm sau, vì “triệt để cách mạng”. Lần đầu
tiên, “toàn thể chị em phụ nữ” đều mặc giống nhau: áo “sơ mi”,
quần đen. Hãn hữu, như đám cưới mới mặc sơ mi trắng vì “cả nước”
không có xà phòng.
Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy
xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú
tài 2, cùng một số “lớp Chín hậu phương”, năm sau sẽ sáp nhập
thành “hệ mười năm”. Số học sinh “lớp Chín” này vào lớp không
phải để học, mà là “tổ chức Hiệu đoàn”, nhận “chỉ thị của Thành
đoàn” rồi “phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!”
Họ
truy lùng... đốt sách! Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu
đoàn “kiểm tra”, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu
thuyết và sách quý, mang “tập trung” tại Thư viện phố Tràng Thi,
để đốt.
Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm “phấn
khởi”, lời hô khẩu hiệu “quyết tâm”, và “phát biểu của bí thư
Thành đoàn”: tiểu thuyết của Tự Lực Văn Ðoàn là ... “cực kỳ phản
động!” Vào lớp học với những “phê bình, kiểm thảo... cảnh giác,
lập trường”, tôi đành bỏ học.
Chiếc radio Philip, “tự
nguyện”, mang ra “đồn công an”, thế là hết, gia tài của tôi!
Mất đời học sinh, tôi bắt đầu cuộc sống đọa đày vì “thành
phần giai cấp”, “sổ hộ khẩu”, “tem, phiếu thực phẩm”, “lao động
nghĩa vụ hàng tháng”.
Ðây là chính sách dồn ép thanh niên
Hà Nội đi “lao động công trường”, miền rừng núi xa xôi. Tôi chỉ
bám Hà Nội được 2 năm là bị “cắt hộ khẩu”... đi tù!
Tết
đầu tiên sau “tiếp quản”, còn được gọi là “sau hòa bình lập lại”,
Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ, áo quần nhàu nát, xám xịt,
thái độ “ít cởi mở”, từ “nông thôn” kéo về tiếp quản chiếm nhà
người Hà Nội di cư. Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì
những tin đồn và “chỉ thị”: ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm”. Hàng
hóa hiếm dần, “hàng nội” thay cho “hàng ngoại”.
Âm thầm,
tôi dạo bước bên bờ Hồ Gươm, tối 30 Tết. Tháp Rùa, Cầu Thê Húc
nhạt nhòa, ảm đạm, đền Ngọc Sơn vắng lặng. Chỉ có Nhà Thủy Tạ,
đêm nay có ca nhạc, lần cuối cùng của nghệ sĩ Hà Nội.
Ðoàn
Chuẩn nhớ thương hát “Gửi người em gái miền Nam”, để rồi bị đấu
tố là phong cách tiểu tư sản, rạp xi–nê Ðại Ðồng phố Hàng Cót bị
“tịch thu”. Hoàng Giác ca bài “Bóng ngày qua”, bị kết tội thành
“tề ngụy”, hiệu đàn nhỏ phố Cầu Gỗ phải dẹp, vào tổ đan mũ nan,
làn mây, sống “tiêu cực” hết đời trong đói nghèo, khốn khổ.
Danh ca Minh Ðỗ, Ngọc Bảo, nhạc sĩ Tạ Tấn, sau này làm gì,
sống ra sao, “phân tán”, chẳng ai còn dám gặp nhau, sợ thành
“phản động tụ tập”.
“Chỉ thị Ðảng và Ủy ban Thành” “phổ
biến rộng rãi trong quần chúng” là diệt chó. “Toàn dân diệt chó”,
từ thành thị đến “nông thôn”. Gậy gộc, giây thừng, đòn gánh, nện
chết hoặc bắt trói, rồi đầu làng, góc phố “liên hoan tập thể”.
Lý do giết chó, nói là trừ bệnh chó dại, nhưng đó là “chủ
trương”, chuẩn bị cho đấu tố “cải tạo tư sản” và “cải cách ruộng
đất”. Du kích, công an rình mò, “theo dõi”, “nắm vững tình hình”
không bị lộ bởi chó sủa. Mọi nơi im phăng phắc ban đêm, mọi người
nín thở đợi chờ thảm họa.
Hà Nội đói và rách, khoai sắn
chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung cấp” một năm theo “từng
người trong hộ”. Mẹ may thêm chiếc quần “đi lao động” thì con nít
cởi truồng.
Người thành thị, làm cật lực, xây dựng cơ
ngơi, có ai ngờ bị quy là “tư sản bóc lột”? nhẹ hơn là “tiểu tư
sản”, vẫn là “đối tượng của cách mạng”.
Nông dân có dăm
sào ruộng đất gia truyền vẫn bị quy là “địa chủ bóc lột, cường
hào ác bá”!
Giáo sư Trương văn Minh, hiệu trưởng trường
Tây Sơn, ngày đầu “học tập”, đã nhẩy lầu, tự tử.
“Tư sản
Hà Nội” di cư vào Nam hết, chẳng còn bao nhiêu nên “công tác cải
tạo” được làm “gọn nhẹ” và “thành công vượt mức”, nghĩa là mang
bắn một, hai người “điển hình”, coi là “bọn đầu xỏ” “đầu cơ tích
trữ”, còn thì “kiểm kê”, đánh “thuế hàng hóa”, “truy thu”, rồi
“tịch thu” vì “ngoan cố, chống lại cách mạng!”
Báo, đài
hàng ngày tường thuật chuyện đấu tố, kể tội ác địa chủ, theo bài
bản của “đội cải cách” về làng, “bắt rễ” “bần cố nông”, “chuẩn bị
thật tốt”, nghĩa là bắt học thuộc lòng “từng điểm”: tội ác địa
chủ thì phải có hiếp dâm, đánh đập, bắt con ở đợ, “điển hình” thì
mang thai nhi cho vào cối giã, nấu cho lợn ăn, đánh chết tá điền,
hiếp vợ sặc máu...!
Một vài vụ, do “Ðảng lãnh đạo”, “vận
động tốt”, con gái, con dâu địa chủ, “thoát ly giai cấp”, “tích
cực” “tố cáo tội ác” của cha mẹ.
Cảnh tượng này thật não
nùng! Lời Bác dạy suốt mấy mươi năm: “Trung với Ðảng, hiếu với
dân...” là vậy!
“Bần cố nông” cắm biển nhận ruộng được
chia, chưa cấy xong hai vụ thì phải “vào hợp tác”, “làm ăn tập
thể”, ruộng đất lại thu hồi về “cộng sản”.
“Toàn miền Bắc”
biết được điều “cơ bản” về Xã hội chủ nghĩa là... NÓI DỐI!
Mọi người, mọi nhà “THI ĐUA NÓI DỐI”, nói những gì Ðảng nói.
Nói dối để sống còn, tránh bị “đàn áp”, lâu rồi thành “nếp sống”,
cả một thế hệ hoặc lặng câm, hoặc nói dối, vì được “rèn luyện”
trong xã hội ngục tù, lấy “công an” làm “nòng cốt” chế độ.
Ở Mỹ, ai hỏi bạn: “How are you?”, bạn trả lời: “I’m fine,
thank you.”
Ở miền Bắc VN thời đại Hồ chí Minh, “cán bộ”
hỏi: “Công tác thế nào?”
Dù làm nghề bơm xe, vá lốp, người
ta trả lời, “... rất phấn khởi, ra sức thi đua, lập thành tích
chào mừng... các nước anh em!”
Bị bắt bên bờ sông Bến Hải,
giới tuyến chia hai miền Nam Bắc, năm 19 tuổi, tôi bị “bộ đội
biên phòng” giong về Lệ Thủy, được “tự do” ở trong nhà chị “du
kích” hai ngày, đợi đò về Ðồng Hới. Trải 9 trại giam nữa thì về
tới Hỏa Lò Hà Nội, vào xà lim. Cảnh tù tội chẳng có gì tươi đẹp,
xã hội cũng là một nhà tù, không như báo, đài hằng ngày kêu to
“Chế độ ta tươi đẹp”.
Cơ hàn thiết thân, bất cố liêm sỉ,
người tù “biến chất”, người tứ chiến kéo về, nhận là người Hà
Nội, đói rét triền miên nên cũng “biến chất”!
Ðối xử lọc
lừa, gia đình, bè bạn, họ hàng, “tiếp xúc” với nhau phải “luôn
luôn cảnh giác”.
Hà Nội đã mất nền lễ giáo cổ xưa, Hà Nội
suy sụp tinh thần vì danh từ “đồng chí”!
Nằm trong xà lim,
không có ngày đêm, giờ giấc, nghe tiếng động mà suy đoán “tình
hình”. Ánh điện tù mù chiếu ô cửa sổ nhỏ song sắt, cao quá đầu,
tôi đứng trên xà lim, dùng ngón tay vẽ chữ lên tường, “liên lạc”
được với Thụy An ở xà lim phía trước.
Thụy An là người Hà
Nội ở lại tham gia hoạt động “Nhân Văn Giai Phẩm”, đòi tự do cho
văn nghệ sĩ, sau chuyển lên rừng, không có ngày về Hà Nội. Bà
phẫn uất, đã dùng đũa tre chọc mù một mắt, nói câu khí phách
truyền tụng: “Chế độ này chỉ đáng nhìn bằng nửa con mắt!”
Người du lịch Việt Nam, ít có ai lên vùng Thượng Du xứ Bắc, tỉnh
Lào Cai, có trại tù Phong Quang hà khắc, có thung lũng sâu heo
hút, có tù chính trị chặt tre vầu theo “định mức chỉ tiêu”. Rừng
núi bao la, tiếng chim “bắt cô trói cột”, nấc lên nức nở, tiếng
gà gô, thức giấc, sương mù quanh năm.
Phố Hàng Ðào Hà Nội,
vốn là “con đường tư sản”, có người trai trẻ tên Kim, học sinh
Albert Sarraut. Học trường Tây thì phải chịu sự “căm thù đế quốc”
của Ðảng, “đế quốc Pháp” trước kia và “đế quốc Mỹ” sau này.
Tù chính trị nhốt lẫn với lưu manh, chưa đủ một năm, Kim Hàng
Ðào “bất mãn” trở thành Kim Cụt, bị chặt đứt cánh tay đến vai,
không thuốc, không “nhà thương” mà vẫn không chết.
Phố
Nguyễn công Trứ gần Nhà Rượu, phía Nam Hà Nội, người thanh niên
đẹp trai, có biệt danh Phan Sữa, giỏi đàn guitar, mê nhạc Ðoàn
Chuẩn, đi tù Phong Quang vì “lãng mạn tiểu tư sản”. Không hành lý
nhưng vẫn ôm theo cây đàn guitar. Chỉ vì “tiểu tư sản”, không
“tiến bộ”, không có ngày về...! Ba tháng “kỷ luật”, Phan Sữa hấp
hối, khiêng ra khỏi Cổng Trời cao vút, gió núi mây ngàn, thì tiêu
tan giấc mơ Tình Nghệ Sĩ!
Người già Hà Nội chết dần, thế
hệ thứ hai, “xung phong”, “tình nguyện” hoặc bị “tập trung” xa
rời Hà Nội. Bộ công an “quyết tâm quét sạch tàn dư đế quốc, phản
động”, nên chỉ còn người Hà Nội từ “kháng chiến” về, “nhất trí
tán thành” những gì Ðảng ... NÓI DỐI!
Tôi may mắn sống
sót, dù mang lý lịch “bôi đen chế độ”, “âm mưu lật đổ chính
quyền”, trở thành người “Hà Nội di cư”, 10 năm về Hà Nội đôi lần,
khó khăn vì “trình báo hộ khẩu”, “tạm trú tạm vắng”. “Kinh nghiệm
bản thân”, “phấn đấu vượt qua bao khó khăn, gian khổ”, số lần tù
đã quên trong trí nhớ, tôi sống tại Hải Phòng, vùng biển. Hải
Phòng là cơ hội “ngàn năm một thuở” cho người Hà Nội “vượt biên”
khi chính quyền Hà Nội chống Tầu, xua đuổi “người Hoa” ra biển,
khi nước Mỹ và thế giới đón nhận “thuyền nhân” tị nạn.
Năm
1980, tôi vào Sài Gòn, thành phố đã mất tên sau “ngày giải phóng
miền Nam”. Vào Nam, tuy phải lén lút mà đi, nhưng vẫn còn dễ hơn
“di chuyển” trong các tỉnh miền Bắc trước đây. Tôi bước trên
đường Tự Do, hưởng chút dư hương của Sài Gòn cũ, cảnh tượng rồi
cũng đổi thay như Hà Nội đã đổi thay sau 1954 vì “cán ngố” cai
trị.
Dân chúng miền Nam “vượt biển” ào ạt, nghe nói dễ hơn
nên tôi vào Sài Gòn, tìm manh mối. Gặp cha mẹ ca sĩ Thanh Lan tại
nhà, đường Hồ Xuân Hương, gặp cựu sĩ quan Cộng Hòa, anh Minh, anh
Ngọc, đường Trần Quốc Toản, tù từ miền Bắc trở về. Ðường ra biển
tính theo “cây”, bảy, tám cây mà dễ bị lừa. Chị Thanh Chi (mẹ
Thanh Lan) nhìn “nón cối” “ngụy trang” của tôi, mỉm cười: “Trông
anh như cán ngố, mà chẳng ngố chút nào!”
“Hà Nội, trí thức
thời Tây, chứ bộ...!
Cả nước Việt Nam, ai cũng sẽ trở
thành diễn viên, kịch sĩ giỏi!”
Về lại Hải Phòng với “giấy
giới thiệu” của “Sở giao thông” do “móc ngoặc” với “cán bộ miền
Nam” ở Sài Gòn, tôi đã tìm ra “biện pháp tốt nhất” là những dân
chài miền Bắc vùng ven biển. Ðã đến lúc câu truyền tụng “Nếu cái
cột điện mà biết đi nó cũng chạy thoát chế độ Cộng Sản”, dân Bắc
“thấm nhuần” nên “nỗ lực” vượt biên.
Năm bốn mươi tư tuổi,
tôi tìm được Tự Do, định cư tại Mỹ, học tiếng Anh ngày càng khá,
nhưng nói tiếng Việt với đồng hương, vẫn còn pha chút “ngoại ngữ
Việt cộng” năm xưa.
Cuộc sống của tôi ở Việt Nam đã đến
“mức độ” khốn cùng, nên tan nát, thương đau. Khi đã lang thang
“đầu đường xó chợ” thì mới đủ “tiêu chuẩn” “xuống thành phần”, lý
lịch có thể ghi là “dân nghèo thành thị”, nhưng vẫn không bao giờ
được vào “công nhân biên chế nhà nước”.
Tôi mang nhẫn
nhục, “kiên trì” sang Mỹ, làm lại cuộc đời nên “đạt kết quả vô
cùng tốt đẹp”, “đạt được nguyện vọng” hằng ước mơ!
Có
người “kêu ca” về “chế độ tư bản” Mỹ tạo nên cuộc sống lo âu, tất
bật hàng ngày, thì xin “thông cảm” với tôi, ngợi ca nước Mỹ đã
cho tôi nhân quyền, dân chủ, trở thành công dân Hoa kỳ gốc Việt,
hưởng đầy đủ “phúc lợi xã hội”, còn đẹp hơn tả trong sách Mác Lê
về giấc mơ Cộng sản.
Chủ nghĩa cộng sản sụp đổ rồi. Cộng
sản Việt Nam bây giờ “đổi mới”.
Tiếng “đổi” và “đổ” chỉ
khác một chữ “i”. Người Việt Nam sẽ cắt đứt chữ “i”, dù phải từ
từ, bằng “diễn biến hòa bình”. Chế độ Việt cộng “nhất định phải
đổ”, đó là “quy luật tất yếu của lịch sử nhân loại”.
Ôi!
“đỉnh cao trí tuệ”, một mớ danh từ...!
Nguyễn Văn Luận
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
|
Hình nền: Đêm Thánh với muôn muôn vàn vì tinh tú... Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Trung Tin Ly chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, November 27, 2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang