Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Ngược dòng Thời gian
Chủ đề: 30-T4Đ
Tác giả: Mường Giang
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Trích đoạn...
“Ngày xưa người Lính VN,
chiến đấu trong vinh quang,
khi trở
về cũng thật hiên ngang,
giữa cảnh phu phụ trùng phùng,
nồng
ấm kết lại mối tình xưa:
‘... xin vì chàng, xếp bào cởi giáp,
xin vì chàng, giũ lớp phong sương
vì chàng tay chuốc chén vàng
vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng...’”
(Chinh Phụ Ngâm Ðặng Trần Côn và Ðoàn
Thị Ðiểm)
Ngày
nay người chiến sĩ VNCH không có cái diễm phúc trên, vì suốt cuộc
chiến hai mươi năm, ngoài mặt trận thì chống trả với kẻ thù trong
nỗi cô độc. Khi trở về lại bị kẻ thù đọa đày, tù ngục và chết
trong uất hận nghẹn ngào.
Thử hỏi giữa cõi đời này, có quân đội
nào bất hạnh hơn QLVNCH? Ngày nay, đã có không biết bao nhiêu
người, đang sống thản nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại, mà hầu
hết bản thân họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của
lính. Không biết trong tâm tư đó, có một giây phút nào do lương
tâm xao động, khiến trái tim người, chợt nghĩ tới những kẻ bất
hạnh đã VỊ QUỐC VONG THÂN?
Xưa NGƯỜI LÍNH chiến đấu anh dũng trong
khói lửa để bảo quốc an dân. Nay những người lính già còn sót lại
sau cuộc chiến và lớp hậu duệ của lính năm nào, cũng đã và đang
tiếp tục tranh đấu không ngừng, cho một ngày về QUANG PHỤC QUÊ
HƯƠNG được sống thật với tự do và no ấm, như chúng ta hiện nay
đang hưởng tại quê người.
“...
tội nghiệp, đời trai chưa thỏa chí
sa
trường dung ruổi đã phơi thây
đoàn quân
hùng liệt nay về đất
hồn vẫn quanh co
giẫm lối gầy
chiều chiều đứng ngóng ngàn
mây nổi
mà khóc quê hương khuất bến bờ
nhớ lúc hát rừng nơi chiến địa
mộng
hoàng hoa, khép giữa hư vô”
(thơ Mường Giang)
Hai mươi năm chinh chiến, QLVNCH đã có
250,000 người gục ngã trước đạn thù và nửa triệu thương binh chịu
đời bất hạnh vì một phần cơ thể đã gửi lại sa trường. Tuy nay
chính phủ cũng như QLVNCH không còn nữa, nhưng trong tâm tư của
mọi người được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, thì lý tưởng
và danh dự của Người Lính càng được sáng tỏ, trong niềm hãnh diện
chung của quân-dân Miền Nam.
Lịch sử của một quốc gia là những gì
trung thực, mà người dân của nước đó đã ghi chép không hề thêm
bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về cuộc nội chiến của Hoa Kỳ xảy ra
từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền
nước Mỹ tại Miền Bắc là kẻ thắng trận, đã không hề lên án, bỏ tù
hay trả thù những người Miền Nam bại trận. Ðã vậy, Hoa Kỳ còn ghi
ơn tất cả những chiến sĩ của hai miền vừa nằm xuống trong cuộc
chiến, vì lý tưởng riêng của họ.
Thế Chiến 2 kết thúc, Tòa Án Quốc Tế
Nuremburg chỉ kết tội những đầu sỏ trong phe Trục mà không hề bắt
bớ hay gây khó khăn cho quân nhân các nước Ðức-Ý-Nhật... Năm
1920, lãnh tụ kháng chiến quân Libya là Tướng Mukhta bị người Ý
bắt và tử hình, nhưng chính tổng tư lệnh Ý tại Bắc Phi là người
đã ở lại pháp trường để lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc
Libya, vốn là kẻ thù của người Ý lúc đó.
Tại VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba
tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867, sau đó là thành Hà Nội năm 1873.
Các tướng lãnh thủ thành đương thời là Phan Thanh Giản, Nguyễn
Tri Phương, Hoàng Diệu... đã oanh liệt tử tiết theo thành mất và
được kẻ thù là người Pháp tôn kính mặc niệm như chính các tướng
lãnh của họ. Sau rốt là số phận của 500,000 quân nhân Mỹ đã tham
chiến tại VN, trong số này hơn 50,000 người tử trận. Ngày nay các
chiến sĩ trên đã được quốc dân Hoa Kỳ trả lại công lý và danh dự,
để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc nghìn thu bên cạnh
ông cha, một đời liệt sĩ. Tất cả đã chết cho lý tưởng quốc gia,
sống vinh quang và yên nghỉ trong danh dự.
Người lính VNCH trong suốt hai mươi năm
binh lửa cũng vậy, đã phơi gan trải mật để bảo vệ cho đất nước và
mạng sống của đồng bào, bị cộng sản quốc tế Bắc Việt xâm lăng
giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có cộng sản khủng bố
cướp bóc giết hại dân lành, là ở đó có sự hiện diện của người
lính miền Nam. Ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở đó người dân
trong vùng chiến nạn, tìm đủ mọi cách trốn thoát sự kềm kẹp của
giặc cộng, để trở về vùng quốc gia nhờ che chở đùm bọc. Ai có làm
lính tác chiến hay người cán bộ áo đen Bình Ðịnh Nông Thôn, Cán
Bộ Xã Hội... mới biết được thế nào là nỗi thống khổ, trên đe dưới
búa, cá nằm giữa dao thớt, người dân tay không hứng hai lằn đạn
bạn thù, của người VN trong thời ly loạn. Có là người dân bị kẹt
trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới thấu hiểu đời người
lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn, nghèo
sống đời cay cực, mới thương xót cho “cảnh ba đồng, ba cộc” của
kiếp lính Miền Nam.
Nhức nhối và mai mỉa nhất, đó là hiện
tượg “thuyền nhân tỵ nạn” sau ngày 30-4-1975. Ngoài tuyệt đại đa
số nạn nhân đích thực của CSQT, trong số này không thiếu mặt
“những tên tuổi lớn” một thời chạy theo VC đâm sau lưng người
lính, những nhà văn, nhà báo, cha cố... kể cả thành phần suốt đời
chỉ biết sống ký sinh vào xã hội. Cũng lợi dụng “danh nghĩa người
lính” để được tỵ nạn chính trị. Ứa gan hơn là những tên VC trà
trộn trong hàng ngũ những người vượt biên, vượt biển, sau khi tới
được bờ đất hứa, chúng trở mặt ngay, để lộ diện thành công an,
cán bộ, đảng viên như ngày nào... để nạt nộ, hăm dọa đồng hương,
qua cái đòn “nếu theo Ngụy”, sẽ không được về VN để thăm nhà, như
đã thấy tới độ mù mắt khắp nơi tại hải ngoại.
Trong nỗi chịu đựng hy sinh âm thầm
nhưng thảm nhất là người lính đã không bao giờ được một lời an ủi
tử tế của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết giặc bảo
vệ cho người dân. Trái lại họ còn bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi
suốt cuộc chiến. Thật vậy, khi cầm súng thì cô đơn, nửa đường bị
hậu phương, đồng minh và lãnh đạo phản bội bán đứng. Ngày trở về
thì bị giặc trả thù đày đọa, rồi chết thầm trong đói nghèo tủi
nhục.
Tiếp tay
với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, là
bọn báo chí quốc tế bất tài, a dua, xu thời. Nhờ vậy mà cộng sản
Bắc Việt, mới có cơ hội tung hoành một mình một cõi, thao túng vẽ
vời huyền thoại, bóp mép lịch sử, để đầu độc các thế hệ VN đang
sống trong sự kềm kẹp của chế độ bạo tàn, độc đảng. Nhưng rồi
gieo gió thì phải gặt bão, chính sự khoác lác dại khờ trên, đã
đưa toàn bộ đảng cộng sản VN chìm trong cái vũng bùn ô nhục, khi
bí mật lịch sử lần lượt được mọi phe phái bật mí và hồi tưởng.
Câu chuyện tướng Nguyễn Ngọc Loan trong
trận Tết Mậu Thân 1968 ở Sài Gòn, vì không thể chịu nổi hành động
dã man, đẩy các trẻ em trong xóm ra làm lá chắn đỡ đạn cho đồng
bọn tẩu thoát. Vì quá tức giận không kềm chế được, nên tướng Loan
đã rút súng Rouleau ngắn nòng, bắn chết tên VC chỉ huy là Bảy
Lốp, tại ngã ba Vườn Lài (góc đường Vạn Hạnh, Minh Mạng và Vĩnh
Viễn), trước mặt phóng viên Mỹ là Eddie Asams, nên đã chụp được
tấm hình này, đem bán rao khắp thế giới và nhận được giải thưởng
quốc tế.
Sau
ngày 30-4-1975 Tướng Loan tới tỵ nạn tại Hoa Kỳ, đã bị bọn phản
chiến cùng với giới truyền thông Mỹ làm lớn chuyện. Thậm chí có
Elizabeth Holtzman (nữ dân biểu DC tiểu bang New York) và Dân
biểu Harold Sawyer (CH tiểu bang Michigan), đã kiện cáo, đòi
Chính phủ Mỹ trục xuất tướng Loan ra khỏi Hoa Kỳ, vì tội vi phạm
nhân quyền nhưng bị thất bại.
Trước và sau ngày tướng Loan từ trần
14-7-1998, người phóng viên chụp tấm hình năm xưa Eddic Adams, đã
viết một bài báo xin lỗi tướng Loan vì sự ray rứt hối hận của
mình, trong đó có đoạn “Ông đã làm công việc của ông, còn tôi làm
bổn phận của tôi”. Ngày tướng Loan qua đời, Eddic lại viết thêm
môt bài báo khác đăng trên tờ Times, đồng thời gởi tới một vòng
hoa phúng điếu, trên đó có đính một danh thiếp viết tay “General,
I am so, so, so... sorry”. Bao nhiêu đó, chắc cũng đủ làm nhức óc
những tên “sống nhờ người tỵ nạn” nhưng lúc nào cũng viết lách,
làm báo ca tụng VC.
Ðau đớn nhất là trận Hạ Lào 1971, cho
dù các đơn vị đã tham chiến như Sư Đoàn Nhảy Dù, Sư Đoàn TQLC, Sư
Ðoàn 1 BB, Lữ Ðoàn 1 Thiết Kỵ và Liên Ðoàn 1 BĐQ có bị tổn thất
nặng nề. Nhưng cuối cùng QLVNCH cũng đã đạt được mục đích của
cuộc hành quân, là phá hủy gần như toàn bộ các cơ sở hậu cần,
tiếp liệu tại các mật khu, binh trạm tại đây. Lúc đó, chỉ có Ðại
úy Trương Duy Hy, pháo đội trưởng PĐC/44, tham dự cuộc hành quân,
tại căn cứ Hỏa lực 30, là tác giả quyển Hồi ký “Tử thủ Căn Cứ Hỏa
Lực 30, Hạ Lào” là viết sự thật. Ngoài ra tất cả bọn phóng viên
Mỹ & Tây phương đều ở Khe Sanh, hằng ngày nhìn cảnh máy bay tải
thương xác lính và thương binh về tới tấp. Từ đó chụp hình, diễn
dịch rồi gửi về nước, nói là QLVNCH đã thảm bại tại Hạ Lào, giống
như hồi Tết Mậu Thân (1968).
Riêng làng báo Sài Gòn cũng vậy, vì
không có ai vào tận chiến trường để chứng kiện sự thật, nên chỉ
đành “chôm chỉa tin từ báo Mỹ” rồi “Mao Tôn Cương thành trận đánh
cuối cùng không có đại bàng” rằng “VC đâu có quân số đông đảo để
đánh QLVNCH, mà chỉ sử sụng hỏa pháo. Ở đây làm gì có kho tàng
như tình báo đã báo cáo láo”. Tóm lại theo họ thì QLVNCH vì sợ
hỏa lực của VC nên bỏ chạy. Có đọc những tin tức của báo chí Sài
Gòn lúc đó, mới thấy máu của người Lính Miền Nam đã đổ suốt cuộc
chiến để bảo vệ cho “đám này”, thật là uổng phí và tội nghiệp cho
những kẻ đã nằm xuống truớc ngày 30-4-1975.
Nhưng người lính VNCH từ trước tới nay
chỉ biết có cầm súng để chiến đấu giữ nước và bảo vệ sinh mạng
cho người khác, chứ không quen viết lịch sử để ca tụng một chiều.
Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn hay sự hồi phục danh dự, thì
đó cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế giới tự do khi đã biết được
sự thật cùng ý nghĩa của cuộc chiến mà người Miền Nam phải bán
mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm lăng tới giờ phút cuối cùng.
Ngoài ra còn có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng bào hậu phương,
đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân và gia đình người
dân qua cuộc đổi đời, cũng đã trở thành nạn nhân tận tuyệt, của
một chế độ bạo tàn, của những con người không có nhân tính, mà
hôm qua chính người dân coi như thần thành, nên đã công khai giúp
và theo chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng bào mình.
Trong lúc đất nước đang lâm nguy vì
giặc xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần hết thanh niên nam nữ
thuộc mọi tầng lớp của xã hội miền Nam, không phân biệt sang hèn,
kinh thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi trẻ và đời
người để lên đường ra biên cương chống giặc thù. Giữa lúc đất
nước lầm than, muôn người khốn khổ vì chiến tranh do Hồ Chí Minh
và cộng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng vào để dầy xéo non sông tổ
quốc, thì tại hậu phương Miền Nam có một số người tự nhận mình là
trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân thì, mập mạnh
nhưng lại tìm cách đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lý do để
được hoãn dịch, trốn nghĩa vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu
vì sợ chết mà trốn đi lính, thì cũng còn có thể tha thứ nhưng
những hạng người này, không bao giờ chịu để yên cho đồng bào và
đất nước mình đang trăn trở trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói
nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết, ngoài
cái lý tưởng đã thu lượm được, qua sách báo tây phương phản chiến
và các kinh điển nhật tụng của thiên đàng xã hội chủ nghĩa, trong
lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật chất, đàn bà và thời
gian để đâm thọt, phá hoại những người đang liều mạng xả thân bảo
vệ mạng sống thừa thãi ký sinh của mình.
Ngày nay ai cũng biết, cuộc chiến Ðông
Dương lần thứ hai (1955-1975) rất đa dạng, phức tạp, khó có thể
định nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo lý tưởng, ai muốn gọi
thế nào cũng đều có ý nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên
với người Miền Nam VN, thì đây là một cuộc chiến đấu chống xâm
lăng. Cuộc chiến này hoàn toàn khác biệt với cuộc phân tranh của
hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ 17, lúc đó chỉ là cuộc tương
tàn nồi da xáo thịt để tranh giành quyền lãnh đạo của đất nước.
Trái lại cuộc chiến lần này, người Miền Nam chiến đấu, vừa để tự
vệ, vừa bảo vệ phân nửa mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ
bằng chủ thuyết cộng sản. Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản
chiến nằm vùng lúc đó, lại trắng trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là
lính đánh thuê cho Mỹ.
Chính bọn trí thức thiên tả này đã lợi
dụng quyền tự do báo chí ngôn luận của VNCH, để viết lách, bôi
nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu phương, đâm sau lưng
chiến sĩ tiền tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng bào, trong đó
có cả sinh mạng ký sinh của chúng.
Cuối cùng, VNCH đã sụp đổ, kéo theo sự
mất mát toàn diện mà người Việt QG đã tốn xương máu xây dựng.
Người chạy thoát ra nước ngoài tuy không bị đau đớn thể xác nhưng
tinh thần và sự dằn vặt, cũng đã làm cho họ điên đảo suốt quãng
đời lưu vong nơi xứ người. Tội nghiệp nhất, cũng vẫn là Lính phải
còng lưng cúi đầu gánh chịu những thảm tuyệt của kẻ thù man rợ,
những điều mà chắc chắn thế giới tự do không hề nghĩ tới, vậy mà
vẫn tới trong địa ngục trần gian của các nước cộng sản, trong đó
có CSVN.
Ngoại
trừ một số rất ít khôn ngoan hay có thân nhân VC bảo lãnh, hầu
hết các cấp Quân, Công, Cán, Cảnh của Nam VN đều chịu sự hành hạ
nơi chốn lao tù. Chúng bắt tất cả sĩ quan và cán bộ, công chức,
cảnh sát VNCH vào tù, qua cái gọi là “Trại Cải Tạo” để đánh lừa
thế giới, về sự dã man tàn ác đối với tù nhân chiến tranh, trái
với công pháp quốc tế đã qui định. Hầu hết các trại tù đều lập ở
Miền Bắc và Bắc Trung Phần, phía bên kia vĩ tuyến 17. Tại Miền
Nam, trại tù nằm trong rừng núi cheo leo, ma thiêng nước độc, để
lao động khổ sai, chết dần mòn vì sự hành hạ của quản giáo và nỗi
cực khổ, đói lạnh nhưng ăn uống thì thiếu thốn với khẩu phần hằng
ngày, chỉ lưng chén cơm gạo xấu, trộn với khoai bắp, còn những
người bị biệt giam thì đói khát vì phần ăn phát rất ít. Nói chung
là không còn bút mực nào để kể cho hết nỗi hận hờn tủi nhục của
người tù dưới chế độ CS. Ðói quá nên người tù phải ăn tất cả
những gì có trước mặt như rắn, rít, ếch nhái, chuột, trùn đất,
cào cào... kể cả cỏ chai và cỏ diệu, thay cơm để đủ sức chống
chọi với tử thần, lúc nào cũng như chực chờ sẵn bên cạnh:
“Ngày
hành xác giữa núi rừng hoang vắng,
đêm
ôm đầu thương tiếc chuyện ngày xưa
bạn
bè đến đây càng lúc càng thưa
thằng nằm
xuống, thằng đày sang trại khác
thằng
chống lại thì xác thân tan nát
thằng
bệnh đau thân xác cũng không còn
đem xác
người đi phá núi dời non
đem mạng sống
để gỡ mìn tháo đạn
thay trời dẫn nước
vào sông đã cạn
thay trâu kéo cầy phá vỡ
ruộng hoang
buổi sáng gượng vui nhìn lúa
trổ bông
nửa đêm khóc thầm đời lính bất
hạnh
tôi đã sống qua những ngày đói lạnh
tôi đã nhét đầy tài liệu buồn nôn
kiểm
điểm nghìn câu cho tốt tốt hơn
để theo
đảng biến người thành khỉ vượn”.
(thơ mường giang)
Lính sống bị trả thù đã đành, cho tới
những người lính đã chết, CSQT cũng không tha, thì nói chi thành
phần Thương Phế Binh, Cô Nhi Tử Sĩ của VNCH, lại càng bị đọa đày
thê thảm. Tất cả năm tháng dù nay đã đi vào quân sử nhưng sự thật
vẵn còn nguyên trước mắt, với hai cảnh đời hiển hiện như một
chứng tích nghìn đời không phai mờ: Ðó là địa ngục VN sau 45 năm
bị giặc chiếm đóng và giá trị đích thực của QLVNCH từ 1960-1975,
đã có rất nhiều cấp chỉ huy tài ba lẫn đạo đức, văn võ vẹn toàn,
được đào tạo từ các quân trường nổi tiếng nhất vùng Ðông Nam Á
thời đó gồm các Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, Bộ Binh Thủ Ðức,
Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, Các Trung Tâm Huấn Luyện Không
Quân và Hải Quân, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và Cảnh Sát,
Trường Ðại Học Quân Sự... Chứ đâu phải chỉ có những tướng tá từ
thời Pháp thuộc?
“Ngày
xưa người Lính VN,
chiến đấu trong vinh
quang,
khi trở về cũng thật hiên ngang,
giữa cảnh phu phụ trùng phùng,
nồng ấm
kết lại mối tình xưa:
‘... xin vì chàng, xếp bào cởi giáp
xin vì chàng giũ lớp phong sương
vì
chàng tay chuốc chén vàng
vì chàng điểm
phấn đeo hương não nùng...’”
(Chinh Phụ Ngâm Ðặng Trần Côn và Ðoàn Thị Ðiểm)
Ngày nay người chiến sĩ VNCH không có
cái diễm phúc trên, vì suốt cuộc chiến hai mươi năm, ngoài mặt
trận thì chống trả với kẻ thù trong nỗi cô độc. Khi trở về lại bị
kẻ thù đọa đày, tù ngục và chết trong uất hận nghẹn ngào.
Thử hỏi giữa cõi đời này, có quân đội
nào bất hạnh hơn QLVNCH? Ngày nay, đã có không biết bao nhiêu
người, đang sống thản nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại, mà hầu
hết bản thân họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của
lính. Không biết trong tâm tư đó, có một giây phút nào do lương
tâm xao động, khiến trái tim người, chợt nghĩ tới những kẻ bất
hạnh đã VỊ QUỐC VONG THÂN?
Xưa NGƯỜI LÍNH chiến đấu anh dũng trong
khói lửa để bảo quốc an dân. Nay những người lính già còn sót lại
sau cuộc chiến và lớp hậu duệ của lính năm nào, cũng đã và đang
tiếp tục tranh đấu không ngừng, cho một ngày về QUANG PHỤC QUÊ
HƯƠNG được sống thật với tự do và no ấm, như chúng ta hiện nay
đang hưởng tại quê người.
“...
tội nghiệp, đời trai chưa thỏa chí
sa
trường dung ruổi đã phơi thây
đoàn quân
hùng liệt nay về đất
hồn vẫn quanh co
giẫm lối gầy
chiều chiều đứng ngóng ngàn
mây nổi
mà khóc quê hương khuất bến bờ
nhớ lúc hát rừng nơi chiến địa
mộng
hoàng hoa, khép giữa hư vô.”
(thơ Mường Giang)
Xin nghiêng mình trước đồng đội và đồng
bào đã hy sinh vì đại nghĩa Dân Tộc Việt. Cũng xin chân thành
biết ơn Quý Ân nhân đồng hương khắp mọi nẻo đường viễn xứ, đã và
đang hướng về những người lính cũ ngày xưa, giờ họ là Quả phụ, cô
nhi và thương phế binh VNCH... đang kẹt ở quê nhà.
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
MƯỜNG GIANG
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Trung tâm lưu trữ những buổi lễ Mừng Thánh Tổ SĐND/QLVNCH
Mùa
Quốc Hận năm nay, 2019,
đặc biệt chúng ta Tưởng Nhớ đến
những chiến sĩ của 11 SĐBB QLVNCH
đã Vị Quốc Vong Thân
Mùa
Quốc Hận năm nay, 2019, đặc biệt chúng ta Tưởng Nhớ đến
những
chiến sĩ của 11 SĐBB QLVNCH đã Vị Quốc Vong Thân
|
Hình nền: Mùa QH-30-T4Đ/2019. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by psxh chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, April 24, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang