Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề: 30-T4-Đ
Tác giả: Nguyên Nhung
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Anh
là một phóng viên chiến trường, ngoài phần lương khô và vật dụng cá
nhân trong ba-lô mang trên lưng như bao nhiêu người lính khác, anh
còn phải đeo lủng lẳng cái máy quay phim và máy chụp hình trước
ngực. Hành trang anh chỉ có thế, mũ sắt trên đầu, cuốn sổ tay trong
chiếc túi áo có nắp gắn hai chữ “Báo Chí”, hai tấm thẻ bài, một bộ
râu tua tủa vì đã mấy ngày anh theo đoàn quân tiến vào trận địa.
Người lính ra chiến trường đã có cây súng làm bạn, riêng anh, người
phóng viên chiến trường đi vào vùng lửa đạn, chỉ vỏn vẹn có chiếc
máy quay phim, đã ghi lại biết bao nhiêu hình ảnh trung thực của
người lính sống thời chiến chinh gian khổ, trên mọi nẻo đường đất
nước.
Tiếng đạn
bay líu chíu ngang đầu, anh thầm nghĩ: “Không biết sống chết lúc
nào”. Chiếc máy quay phim đã thu vào bao nhiêu thước phim giữa mặt
trận khi nóng bỏng, lúc âm ỉ đến lạnh người. Ðoàn quân lầm lũi tiến
vào rừng dừa trước mặt, phân tán mỏng theo lệnh viên sĩ quan chỉ
huy. Những bóng người lầm lũi bước, đôi giày vải ướt sũng trên thửa
ruộng xâm xấp nước, đói và mệt, chiếc ba-lô trên vai anh như nặng
trĩu xuống. Trong bóng chiều nhập nhoạng, thần chết như rập rình
chiếc lưỡi hái trên thân phận người lính, cơn mưa chiều luồn những
giọt tái tê vào lòng người chiến sĩ.
Anh nhớ lại trận đánh ở vùng Thới Lai, Cờ
Ðỏ vào mùa mưa năm trước, trong một vùng dầy đặc cỏ lác và sông
rạch. Không phải lần nào quân ta cũng thắng. Ðêm ấy, anh bị mất
phương hướng, giữa bóng đêm chập chùng và ánh trăng khuya mờ ảo, anh
lần mò ra được đường cái, ở đấy có một ngôi chùa nằm chơ vơ ven quốc
lộ. Dưới ánh trăng mờ, ngôi chùa âm u không một ánh đèn, không một
tiếng chuông tiếng mõ, chỉ có mùi dìu dịu của hoa sứ phảng phất giữa
đêm khuya. Ðã mấy ngày mà trận đánh chưa kết thúc, sự yên tĩnh tạm
thời để chờ một cuộc đụng độ tiếp theo, dân chúng hầu như đã tản cư
ra quận lỵ, hoặc chạy theo phía bên kia vào những làng mạc xa hơn.
Ngôi chùa tương đối nằm ở khu khá yên tĩnh
giữa hai lằn đạn, nhưng không có bóng dáng người dân nào ở đó. Trong
bóng tối mờ mờ và yên lặng, anh lần mò men theo mấy bụi cây thấp
trước cổng chùa, anh nhìn thấy nhiều thân người nằm la liệt trên
sân, im lặng như một bãi tha ma. Họ đang ngủ, quá mệt mỏi cho nên
anh chỉ kịp cởi ba-lô vứt xuống đất, rồi cứ thế nằm vật xuống bên
cạnh một người lính. Anh cần ngủ hơn tất cả mọi thứ trên đời, dù
chưa ăn uống gì nhưng anh không cảm thấy đói, chỉ có giấc ngủ mới
làm anh tạm quên đi tiếng đạn réo, tiếng bom rơi, tiếng đại bác rền
rĩ trong những giờ phút căng thẳng của chiến trường. Anh thiếp đi
thật mau, trong lúc ngủ mê hình như anh có đạp chân vào người lính
kế bên nhưng không nghe tiếng chửi thề, hạnh phúc nhất của người
lính có lẽ là những phút giây hiện tại, tạm quên đi nỗi nguy hiểm,
cận kề với nỗi chết.
Chưa bao giờ anh có một giấc ngủ ngon lành
đến thế. Không chiêm bao mộng mị, không giường, không chiếu, chỉ có
một mặt đất ẩm lạnh và bầu trời nhấp nháy sao đêm. Gió đêm như được
ướp mùi hương của những bông hoa sứ làm loãng đi mùi gì tanh tanh
giống như mùi máu.
Sáng ra, ánh mặt trời rọi vào mặt anh
khiến anh thức giấc, chim chóc hót líu lo chào một ngày vừa lên, sự
sống của muôn loài vẫn diễn ra bình thường dù chiến tranh và sự chết
đang hiện diện quanh quất, đó đây. Anh hoàn toàn tỉnh giấc, thèm một
ly cà-phê và điếu thuốc thơm buổi sáng, rồi lạ lùng ngó đám người
nằm ngủ trên sân chùa, chợt một cảm giác lạnh toát chạy dài trên
sống lưng người lính. Giờ thì anh đã hiểu, đêm qua anh đã ngủ một
giấc ngủ tròn trịa và yên bình bên những người lính tử trận, xác họ
ngày hôm nay sẽ được chở về nhà xác trên tỉnh lỵ, chờ thân nhân đến
nhận.
“Không phải
lúc nào ta cũng thắng”, anh nghĩ như vậy khi nhìn những tử thi nằm
lạnh lẽo suốt đêm trên sân chùa. Chiến tranh là vậy, thắng hay thua
thì bên nào cũng có người nằm xuống, có những giọt nước mắt của mẹ
già, vợ dại, con thơ, chỉ có điều thật buồn khi tất cả đều là người
Việt Nam. Anh nghe có tiếng bước chân nhẹ nhàng của một tà áo đà
lướt bên hiên chùa, và mùi nhang thoảng bay trong gió. Một vị sư già
có lẽ là người duy nhất còn lại nơi đây, đang cầm một nắm nhang ra
cắm xuống trước những thây người nằm la liệt dưới sân chùa, miệng
lâm râm niệm Phật. Ðôi mắt nhà sư thoáng một vẻ ngơ ngác và sợ hãi,
khi nhìn thấy một người sống đang ngồi thu lu giữa đám người chết,
cả hai cùng im lặng không nói được lời nào.
Năm 1969, anh theo cuộc hành quân miền
biên giới giữa Campuchia và Việt Nam, cộng quân đang cố thủ trong
vùng núi Cô-Tô, Châu Ðốc. Người phóng viên chiến trường hơn ba mươi
tuổi, đang độ chín mùi của nghề nghiệp, hăng say lao vào vùng lửa
đạn khi cộng quân dùng Campuchia làm bàn đạp thôn tính miền Nam.
Gia đình anh gốc gác miền Bắc, cả một thời
ấu thơ và thanh niên anh gắn bó với quê nhà, may mà năm 1954 anh
nhanh chân chạy thoát. Bố anh chết ngay năm đó, tất cả gia tài, sự
nghiệp bỗng dưng mất hết trong một ngày khiến người cha phẫn chí mà
chết. Mẹ anh dẫn ba đứa em dại, đầu quấn khăn tang lếch thếch lên
chuyến tàu há mồm xuôi Nam. Một cuộn phim của dĩ vãng vừa hiện về
trong trí anh, căn nhà gạch hai gian bề thế phố Cửa Tiền, rặng bàng
trước cửa, hoa gạo đỏ mùa hè, giếng nước Tiền Hùng, cái ao sau nhà
xanh um khóm chuối ngự, cả một tuổi thơ đầm ấm và mối tình đầu tuổi
thanh xuân nằm lại sau lưng cho một tất tả bỏ chạy.
Từ trên máy bay trực thăng anh nhảy xuống
theo gót chân người sĩ quan chỉ huy, máy quay phim chạy rè rè thâu
vào hình ảnh núi non chất ngất, những người lính chạy lúp xúp nép
vào những bờ đá cao tiến tới. Ðịch bắn ra như mưa, viên đạn đi ngọt
như cắt từ một hốc núi bay thẳng tới ngực anh, anh chưa thấy đau vì
tầm đạn đi nhanh quá khiến anh ê ẩm như bị một viên gạch ném tới đột
ngột. Cho đến khi anh thấy ấm ấm và rát bỏng trên ngực áo, máu đã
ướt đẫm hai chữ Báo Chí trên chiếc áo nhà binh. Anh loạng choạng ngã
xuống với thước phim đang quay dở, chỉ kịp nhìn thấy loà nhoà hình
ảnh người lính cứu thương bế anh lên chiếc trực thăng tải thương,
đang phần phật đôi cánh quạt trên một vùng cỏ xanh.
Lần ấy viên đạn đi cách tim anh khoảng hai
cm, nếu không giải phẫu kịp, máu ứ đầy phổi có lẽ anh đã nằm xuống
ngay tuổi ngoài ba mươi. Anh thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, phải
nằm trong Quân y viện mấy tháng trời, để được nhìn thấy sự hy sinh
và đau đớn tận cùng của người lính trong thời chiến. Những hình ảnh
ấy vương vấn trong hồn anh, mãi mãi về sau, tim anh vẫn thắt lại khi
bất chợt hôm nào nhìn thấy trên vỉa hè, người thương binh lê đôi
nạng gỗ, khập khễnh bước khi đôi mắt chất chứa nỗi bất hạnh cho cả
một tương lai.
Năm 1972, mặt trận lại sôi động ở vùng biển Long Toàn, Trà Vinh. Bom
đạn rền rền át cả tiếng sóng biển rì rào, người dân Khờ-me sống ở
những làng mạc hiền hòa với chùa chiền cổ kính, lại vội vã bỏ vùng
quê đi lánh bom đạn. Nhà cửa đổ nát, vườn tược tan hoang, anh ứa lệ
nhìn hai đứa bé lạc mẹ, mặt mày nhem nhuốc nước mắt, nước mũi giữa
cảnh khói lửa tơi bời. Giữa vùng giao tranh, chỉ có lằn đạn líu chíu
trên đầu người thường dân vô tội, quê hương mình sao khốn khổ đến
thế.
Anh nhớ lại
một ngày năm 54, năm ấy anh mới mười tám tuổi và đứa em út mới lên
sáu, mẹ anh trắng hai bàn tay làm lại cuộc đời trên miền Nam tự do.
Những buổi chiều gió mưa, mẹ con ngậm ngùi nhớ về quê nhà. Khu phố
êm ả có rặng bàng trở màu khi mùa thu đến, những buổi chợ phiên
người trong các làng quê kĩu kịt gánh hàng ra chợ Nghệ.
Người phóng viên chiến trường đâu phải lúc
nào cũng ngồi trên máy bay, đâu phải lúc nào cũng theo đuôi Tư lệnh
để quay cảnh chiến thắng, gắn huy chương lên ngực áo người chiến sĩ.
Anh đã phải ngắm nhìn chiến tranh như phải xem một bức tranh vẽ bằng
máu, thâu vào hình ảnh và sự chiến đấu cam go của người lính nơi
vùng lửa đạn. Trong khi ấy, chiến tranh quả là khó hiểu, những bàn
tay giấu mặt như mụ phù thủy đang vẽ vời những lời nguyền rủa sấm
sét xuống quê hương anh. Chiến trường này tiếp nối đến chiến trường
khác, những cuộc hành quân liên miên từ tháng này qua tháng nọ, nghĩ
đến đời sống gian khổ của người lính trong vùng đóng quân đầy những
rủi ro bất trắc, anh chỉ ao ước một ngày nào chiến tranh chấm dứt.
Một ngày nào đó những thước phim của anh chỉ là hình ảnh nụ cười dễ
thương của trẻ thơ, là nét mặt vui tươi của người lính giữa khung
cảnh ấm cúng của gia đình, là đôi mắt hấp háy của mẹ già không ứa
lệ, khi đêm đêm vẫn thì thầm cầu nguyện sự an bình cho những đứa
con.
Anh phóng
viên chiến trường giơ ống kính lên, thâu bằng cận ảnh hai khuôn mặt
ngây thơ, bốn con mắt ngơ ngác giữa khói lửa mịt mù của hai đứa trẻ
thơ mà anh bắt gặp, khi cuộc chiến không bao giờ tính toán được sự
bi thảm của nó. Những đôi mắt trẻ thơ sợ hãi, ngác ngơ khi địch quân
dùng khu vực nhà dân làm bàn đạp để tiến quân, hai đứa bé còn lại
khi cha mẹ chúng có thể đã ngã xuống bởi những lằn đạn vô tình.
Tình cảm giữa người và người bắt anh phải
quên đi những thước phim, những tấm hình giá trị khi lọt vào tay bọn
thông tấn nước ngoài. Hai tay bế hai đứa bé anh băng ra khỏi khu nhà
đang hừng hực cháy, giờ phút ấy anh chỉ có một ý nghĩ phải mang hai
đứa bé ra khỏi vùng giao tranh, dù có thể lãnh một viên đạn của đối
phương.
Suốt một
đời làm lính và xông pha nơi những chiến trường nóng bỏng, anh phóng
viên chiến trường đã bao phen đối mặt với tử thần. Anh còn bị thương
một lần nữa trước khi chiến tranh kết thúc, chiếc máy bay trực thăng
bị hỏa tiễn tầm nhiệt bắn trúng đằng sau đuôi, như một khối sắt
khổng lồ rớt xuống cánh đồng ngập nước vùng Ðồng Tháp Mười. May là
Thượng Đế đã che chở anh, đã cho anh trở về với một xác thân lành
lặn.
Ngày chiến
tranh kết thúc, một kết thúc bi thảm khiến anh hụt hẫng. Người lính
bại trận trở về miền quê với những vết đau âm ỉ mỗi lần nhớ đến bạn
đồng đội cũ. Trong những chiều gió mưa, lòng anh bùi ngùi khi hồi
tưởng đến một khoảnh khắc nào đó, bóng dáng những người lính năm xưa
giờ như những bóng ma buồn bã trong dĩ vãng, và anh lặng lẽ nghe
những giọt nước mắt buồn tủi chảy ngược vào tim buốt lạnh.
Từ đây cuộc đời bắt đầu là những chia xa,
bạn bè anh tan tác mỗi người mỗi nơi mỗi ngả. Có những người nằm
xuống trong giờ thứ 25 của cuộc chiến, đã bị quên lãng với mồ hoang
mả lạc. Có những người ra đi làm cánh chim cô đơn, gậm nhấm nỗi sầu
vong quốc. Có những người đi vào chốn lao tù với đói khát triền
miên, khi trở về chỉ là những chiếc bóng ngác ngơ, sợ hãi cả tiếng
bước chân của chính mình.
Sau ba mươi năm ngày chiến tranh kết thúc,
người phóng viên chiến trường năm xưa nay đã già, ngồi bán cá kiểng,
cá đá cho trẻ con trước khuôn viên một trường tiểu học, cạnh ngôi
giáo đường cổ kính. Mỗi lần nghe tiếng chuông ngân ban chiều, anh
lại thì thầm đọc mấy câu kinh cho những linh hồn đã khuất.
Gia tài của anh chỉ có một hồ cá bằng thủy
tinh với những con cá đủ màu bơi lội nhởn nhơ. Cả một xã hội cá quây
quần bên nhau lượn lờ tranh sống, những cọng rong xanh, vài con lăng
quăng sót lại từ bữa ăn chiều. Anh chép miệng, bầy cá đã no rồi, chứ
lúc đói chúng nó cũng tranh nhau đớp mồi như đám người khốn khổ chen
nhau chờ phát chẩn. Lúc này anh đâm lẩn thẩn như thế, chuyện cá
chuyện người cứ lẫn lộn trong con mắt người phóng viên đã hết thời.
Lúc ấy trời đã về chiều, hai đứa bé đánh
giày độ trên mười tuổi vào hàng, ngắm nghía mấy con cá lia thia được
rọng riêng trong những chiếc keo thủy tinh trên bệ gỗ, giữa mỗi cái
keo đều có một tấm giấy cứng để che cho chúng khỏi nhìn thấy mặt
nhau. Mỗi đứa chọn một con, chúng thò tay vào túi lôi ra những đồng
tiền nhàu nát, đưa cho người bán cá. Hai thằng nhỏ bày ra cuộc đá cá
ngay cửa hàng của người bán cá, tự nhiên anh cũng cảm thấy hào hứng
muốn theo dõi trận đá cá của hai đứa trẻ con. Không biết ở đâu lố
nhố mấy đứa trẻ nữa quần áo bẩn thỉu, chân đi đất, xúm vào bu xung
quanh hai thằng nhỏ đánh giày, khiến anh tự nhiên hồi hộp như ngày
xưa mỗi lần theo đoàn quân vào vùng lửa đạn.
Hai con cá trong một cái keo, không biết
thù nhau tự kiếp nào xông vào nhau, hai cái thân cá mình xanh vây đỏ
lúc ấy phồng lên những chiếc vảy óng ánh, mình chúng như to ra qua
thành thủy tinh, xoắn lấy nhau đẩy ra những cú húc tơi tả. Lũ trẻ
vây xung quanh nín thở, hai con cá lia thia mê mải tấn công nhau,
thỉnh thoảng chiếc mỏ cá lại va vào thành keo đau điếng. Sau một lúc
quần nhau dữ dội, một con như ngộp thở ngoi lên mặt nước hớp không
khí, cái mình cá vảy óng ánh màu xanh nay đã nhợt nhạt như màu miếng
vỏ dưa cố chạy thoát thân, lũ trẻ đứng bên ngoài vỗ tay hét rộ lên
những tràng cười khoái chí.
Tan cuộc, hai thằng nhỏ đánh giày bỏ hai
con cá cho người bán cá, bưng hộp đồ nghề đi về ngả thành phố, chỗ
“hotel” và mấy quán rượu có đông người ngoại quốc và đám Việt kiều
về thăm quê. Trời giăng giăng những đám mây đen khiến phố xá chừng
như tối xầm lại, bất giác anh chợt nhớ đến cơn mưa đầu mùa của tháng
tư năm nào làm lòng quặn lên một nỗi buồn. Tự nhiên, người phóng
viên chiến trường năm xưa cảm thấy bùi ngùi, tưởng mình như con cá
bại trận manh giáp tả tơi, bị vứt lại bên lề đường một cách thảm
thương.
Tội
nghiệp anh, những cuộn phim của dĩ vãng như run rẩy theo làn khói
thuốc, anh bập hoài điếu thuốc đen trên môi, những móng tay cáu vàng
ám khói. Cơn mưa chiều đột ngột đổ xuống rơi lộp độp trên tấm poncho
nhà binh che trên vỉa hè, gõ những nhịp trống vào đầu khiến anh nghĩ
đến những cơn mưa nơi vùng hành quân năm xưa, khi anh còn là một
người lính. Anh tưởng tượng lát nữa đây khi về nhà, với âm thanh
hùng hồn của một ngày nào rất xa, anh sẽ tường thuật cho đứa cháu
ngoại nghe trận đá cá chiều hôm nay trước cửa trường học. Hai con cá
cùng một loại đá nhau chí tử, một con thắng nhưng cũng ê ẩm, lòng
vòng trong chiếc keo thủy tinh chật hẹp, không hy vọng đá nổi một
trận nữa, một con bại anh quăng ra mặt đường, đã nát mình dưới những
vòng xe lăn.
Phố
đã lên đèn, anh thu dọn cửa hàng để về nhà mà lòng nặng trĩu một nỗi
buồn không tên tuổi. Anh phóng viên chiến trường năm xưa thì thầm
nói với mình, “Hơn ba mươi năm rồi, chẳng biết còn ai nhớ đến mình
không nhỉ?”
Nguyên Nhung
Viết cho anh tôi, người phóng viên chiến trường
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Mùa QH 30-T4-Đ/2018. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by đặc san lâm viên chuyển
http://www.dslamvien.com/2018/04/mot-thoi-chinh-chien-dieu-linh.html
Đăng ngày Thứ Sáu, April 27, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang