Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề: 30-T4-Đ
Tác giả: Nguyễn đại Thuật
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
(Chuyện đọc của mùa Tháng Tư. Đọc mà không thể cầm nước mắt. Đây là những bi thảm của chiến tranh. Đây là tội ác ngất trời của những kẻ bất lương, tàn ác chỉ vì tham vọng mà gây chiến tranh, gây nên biết bao đại họa cho dân tộc và Tổ Quốc)
Tôi
nhớ rất rõ chuyện xảy ra rất lâu khi tôi gần tròn bốn tuổi. Hồi
đó, gia đình tôi sống gần một làng chài ở Mỹ Khê, Đông Giang
thuộc quận ba thành phố Đà Nẵng.
Ba tôi phục vụ trong quân đội VNCH, đơn
vị đóng ngoài Quảng Trị, cấp bậc hạ sĩ. Mẹ tôi bán cá ngoài chợ
Sơn Trà. Mẹ tôi mua cá của những ghe chài cập bến vào sáng sớm để
đem ra chợ bán.
Một buổi trưa, hai anh em tôi chơi banh
ngoài sân cỏ bên cạnh nhà, chờ mẹ về cho ăn cơm. Ngày Chúa nhật,
hai anh em tôi không đi học. Anh tôi học lớp đệ thất trường Trung
học Đông Giang, tôi học lớp mẫu giáo của một trường tư trong
phường. Đang chơi banh, vô tình trái banh do anh tôi đá quá mạnh,
tôi đỡ không nổi nên bị trái banh trúng vào mặt. Đau quá tôi khóc
ầm lên, anh tôi chạy đến dỗ dành tôi, lấy tay lau nước mắt cho
tôi, xoa nhẹ vào má tôi, nơi bị đau. Vừa lúc đó mẹ tôi từ chợ
về.Thấy mẹ tôi càng khóc lớn thêm, khi biết được sự việc, mẹ tôi
quơ tay đập nhẹ mấy cái vào đầu anh tôi mắng :”cha mi, làm em
đau” rồi vội dẫn tôi vào nhà, lấy khăn ướt lau mặt cho tôi, để
tôi vào võng đưa qua đưa lại: “nín đi con, sau này đừng chơi banh
nữa, tháng tới sinh nhật, ba về mẹ nói ba mua cho con chiếc xe
đạp nhỏ, con đạp đi học giống như anh Hai của con.” Nói xong, mẹ
tôi đi vào bên trong nhà rồi trở ra, một lá thơ trên tay. “Đây là
thơ của ba con gởi về hôm tháng rồi” mẹ tôi đọc: “Tháng tới, ngày
27 tháng 4 sinh nhật của cu Tấn, anh sẽ xin phép về vài ngày.
Em xem mấy cửa hàng bên chợ Hàn nơi nào
bán xe đạp vừa tầm cỡ cu Tấn, anh về sẽ mua cho con một chiếc”.
Nghe vậy, tôi ngừng khóc. Mẹ tôi ngồi vào võng, ôm tôi nằm sấp
vào lòng, vừa đưa võng vừa nói: “Bữa ni mới 10 tây tháng hai, còn
hơn hai tháng nữa ba mới về. Từ đây đến ngày đó, nếu con còn
nhõng nhẽo không nghe lời của mẹ và anh hai thì mẹ nói ba không
mua xe đạp cho con đâu.”
Tiếng mẹ tôi nghe nhỏ dần, trong mơ tôi
nghe tiếng ba tôi khen “Cu Tấn đạp xe giỏi quá”, tiếng mẹ và anh
Hai: “coi chừng té, coi chừng té”, và tiễng vỗ tay của ba người.
oOo
Một buổi sáng, tôi thức dậy nhưng còn
nằm trên giường với mẹ. Hôm đó biển động nên không có cá bán, mẹ
ở nhà. Mẹ tôi ôm tôi: “Còn gần một tháng nữa, ba con về phép mua
xe cho con, con lớn rồi, bốn tuổi đâu còn nhỏ nữa mà hở đâu khóc
đó.” Tôi mắc cở, dụi đầu vào lòng me thì nghe có tiếng đập cửa
rất mạnh. Tiếng bác Hội hỏi lớn: “Thiếm Tiếng có nhà không? Thiếm
Tiếng có ở nhà không? “Mẹ tôi vùng ngồi dậy, trả lời: Dạ, có tôi
ở nhà, hôm nay biển động nên không có cá. Có chuyện gì không
anh?”
Mẹ tôi
mở cửa. Tôi nghe tiếng bác Hội:
-Tụi Việt cộng đang tấn công vào Quảng
Trị. Kỳ này nghe đâu bọn nó tấn công khắp nơi. Đơn vị của chồng
thiếm bị tan hàng, một số bị bắt, một số bỏ chạy, một số bị
thương trước đó được đưa vào bịnh viện Huế. Chú Tiếng, chồng
thiếm nghe nói bị thương, đang nằm ở bịnh viện Huế.Tin này do
thằng Báu vừa chạy về cho biết. Hai đứa nó cùng đơn vị.”
Mẹ tôi khóc. Tôi thấy mẹ tôi như tàu
chuối héo, rũ người trên ghế. Tôi và anh Hai tôi chạy vội đến bên
mẹ, cũng khóc. Nghe tiếng ồn, bà con hàng xóm chạy qua, mỗi người
một tiếng khuyên mẹ tôi bình tĩnh nhưng mẹ tôi vẫn khóc.
Hai ngày sau mẹ tôi đi Huế để tìm ba.
Hai anh em tôi được mẹ nhờ bác Hội trông nom săn sóc. Mẹ tôi mua
một bao gạo và kho sẵn mấy nồi cá dành cho hai anh em tôi ăn dần
khi bà đi Huế.
Bác Hội là bạn cùng xóm với ba tôi. Nhà
hai gia đình sát vách nhau. Hai người chơi với nhau khi cả hai
còn chưa biết hổ thẹn khi chỉ mặc áo. Bác hơn ba tôi năm tuổi. Ba
tôi rất thương bác Hội vì ba là con duy nhất của ông bà nội. Bác
cũng thương ba tôi như em. Sau này tôi được biết bác đã muốn gả
em gái cho ba tôi, nhưng chuyện hôn nhân không thành. Bác Hội thi
tú tài không đậu nên bác tình nguyện xin đi học trung sĩ để khỏi
bị bắt làm lính khi đến tuổi thi hành quân dịch. Bác phục vụ tại
Sư đoàn 2 bộ binh đóng tại Quảng Ngãi. Năm 1972, bác bị thương,
mất một chân và được giải ngũ. Ngày bác cưới vợ, ba tôi dự tiệc,
uống rượu rồi gây gỗ ồn ào với một ông khách tham dự lễ cưới.
Cảnh sát quốc gia can thiệp, bắt và chuyển ba qua Quân cảnh tư
pháp vì tội trốn thi hành nghĩa vụ quân sự. Ra tòa án quân sự, ba
tôi bị xử đi thi hành nghĩa vụ quân sự. Ba tôi được đưa đi huấn
luyện tại Trung tâm huấn luyện Hòa Cầm ở quận Hiếu Đức, Tỉnh
Quảng Nam. Lúc đó ba tôi đã có vợ và anh Hai tôi độ chừng bảy
tuổi. Ba tôi đóng quân tại tỉnh Quảng Trị và hai lần được thưởng
Anh dũng bội tinh tại mặt trận. Bác Hội thường nói với anh Hai
tôi: “Ba mầy hiền lành như con gái nhưng ra ngoài mặt trận với
địch quân, ba mầy gan dạ, không biết sợ chết là gì, được gắn huy
chương, được thăng cấp ngoài mặt trận, còn bác chẳng được gì ráo,
lúc nào cũng chỉ mang lon trung sĩ quèn”.
Mẹ tôi đi Huế tìm thăm ba đã mấy tuần
mà chưa thấy về. Ba nồi cá kho ăn đã gần hết. Hai anh em tôi ngày
nào cũng khóc vì nhớ mẹ. Buổi tối bác Hội thường qua nhà ngồi an
ủi hai anh em tôi đến khuya mới về lại nhà bác. Và từ đó hai anh
em tôi không còn gặp lại ba và mẹ.
oOo
Một hôm, trong xóm bỗng nhiên tiếng
chó sủa vang, tiếng người gọi nhau inh ỏi, tiếng súng nổ, lính
tráng từ đâu đổ về đầy xóm, đầy bãi biển. Xe cộ nối đuôi nhau nằm
ụ hai bên vệ đường. Người dân đủ cỡ, đàn bà con nít, ông già bà
cả dìu dắt nhau đi, vừa hớt hãi chạy, vừa khóc, tất cả đều theo
huớng ra bờ biển. Trong xóm tôi, vài gia đình cũng bồng bế nhau
chạy ra bãi biển. Vài người gọi với vào nhà tôi: “Chạy đi, cộng
sản sắp vào tới rồi! “. Hai anh em tôi đứng trong nhà nhìn đoàn
người lũ lượt đi, và nhớ đến ba mẹ, chỉ biết khóc. Tôi nghe tiếng
bác Hội nói với những người cùng xóm rủ bác đi lánh nạn: “Tôi chỉ
còn có một chân mà đi đâu?” Tối hôm đó bác qua nhà tôi bảo anh
Hai tôi hạ cây cờ vàng ba sọc đỏ xuống. Bác nói: “thằng Tấn anh,
mày leo lên đem lá cờ xuống dấu kỹ một chỗ nào đó, sau này dùng
lại, nếu không lũ khốn nạn đó vào mà thấy được, chúng sẽ không để
yên cho sống đâu.” Anh hai tôi đem lá cờ xuống xếp nhỏ lại, rồi
thoăn thoắt leo lên cột nhà để vào chỗ nứt của đầu kèo nhà, nơi
mà anh tôi dấu những đồ chơi quý mà anh không muốn cho tôi phá vì
sợ bị làm hư.
Rồi một ngày, đồng loạt tất cả nhà nhà trong xóm đều treo cờ đỏ
sao vàng. Anh em tôi được phát mỗi đứa một khăn quàng đỏ và ngày
nào cũng đi sinh hoạt thiếu nhi, có ngày mệt quá hai anh em tôi
không ăn uống gì hết, tối về đến nhà là lăn ra ngủ, quên cả khóc
nhớ ba mẹ.
Ông
thợ may đầu xóm thành ông tổ trưởng dân phố. Mấy con ông, cả trai
và gái đứa nào cũng có súng, đi lục soát từng nhà tìm bắt những
người đã làm việc cho “ngụy”. Tôi nghe bác Hội gọi lén lũ này là
bọn “ôn dịch”, “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”. Cá kho hết, anh
em tôi ăn cơm với nước mắm. Hết nước mắm, anh em tôi ăn cơm với
muối. Đến khi hết gạo thì bác Hội cho ăn cơm độn khoai mì. Nhà
bác Hội nghèo, có bác gái và đứa con nên phần cơm chia sẻ cho anh
em tôi không đủ no bụng. Bác Hội giúp anh Hai tôi bán cái Radio,
rồi đến chiếc xe đạp... rồi đến một ngày trong nhà không còn gì
để bán. Nhà bác Hội cũng không còn gì để bán. Bắt chước mấy người
trong xóm, hai anh em tôi đi khắp nơi lượm bao nylon đem ra biển
rửa sạch, phơi khô, vài ba ngày gom lại đem bán lấy tiền mua gạo.
Những lúc phơi bao nylon trên bãi biển, tôi phải ngồi canh chừng,
nếu không kẻ khác lấy mất. Có lúc canh chừng mà tôi ngủ quên, kẻ
gian lấy hết. Anh Hai tôi không nói gì, nhưng nhìn thấy mặt anh
buồn thiu.
oOo
Bác Hội gái không còn đuợc cho đi dạy
học. Bác chuyển sang mua cá ngoài bến ghe chài đem bán dạo trong
xóm. Nhớ trước đây mẹ tôi bán cá trong chợ, tôi hỏi tại sao bác
không bán trong chợ như mẹ tôi trước đây? Bác nói “Bác không vào
hợp tác xã nên không bán ngoài chợ đươc.” Bác phải mua cá của
những ghe chài bán lậu trước khi cập bến. Để tránh sự giành giật
nhau khi mua cá lậu, bác rủ anh tôi cùng phụ bác đi mua bán cá.
Khi ghe bán lậu cá còn xa bờ, anh hai tôi bơi ra ghe mua cá rồi
đem vào. Cá được cho vào một sô nhựa, bác Hội gái và anh tôi thay
nhau xách đi bán khắp nơi trong phường, khóm, có khi đi qua trung
tâm thành phố. Công việc kéo dài được vài tháng thì bị công an
phường cấm. Anh em tôi không còn gì để ăn, tôi đói nên lúc nào
cũng đòi ăn. Hàng xóm thương tình, người cho củ khoai, người cho
củ sắn nhưng không làm sao hết đói.
Rồi một buổi sáng sớm, anh hai tôi dắt
tôi đến bịnh viện, anh tôi bảo tôi ngồi chờ anh trước cổng, anh
đi vào bên trong.Tôi ngồi chờ lâu quá nên tựa lưng vào tường ngủ
gật. Khi anh đánh thức tôi dậy thì mặt trời đã chiếu ngay trên
đầu. Anh kéo tôi đi nhanh khỏi bịnh viên, anh nói: “Tấn em chắc
đói nhiều lắm rồi phải không?”
Tôi chưa kịp trả lời anh rẳng “từ hôm
qua đến giờ em có gì để ăn đâu” thì anh nói tiếp: “Anh cũng đói
lắm, hai ngày ni anh cũng chẳng có gì để ăn hết... bây giờ anh em
mình tìm gì để ăn.” Anh đi vào con hẻm bên kia đường.Tự nhiên tôi
đứng lại không chịu đi theo anh. Kéo mạnh tay tôi, anh nói: “Vào
đây anh em mình ăn bún.” Tôi lắc đầu: “Mình không có tiền mà!”.
Anh khựng lại nhìn tôi, hai mắt anh sáng lên, giọng anh như reo
vui: “Hôm nay anh có tiền!” Anh cho tay vào túi rút ra mấy tờ
giấy bạc cho tôi thấy, lúc đó tôi mới chịu đi theo anh. Gánh bún
bên lề đường đông người, hai anh em phải chờ khá lâu. Bụng tôi cứ
vang lên tiếng rột... rột... nước miếng cứ chảy ra. Hôm đó anh
mua ba tô bún, mỗi người một tô, tô thứ ba được chia làm hai,
nhưng anh dồn hết phần thịt cho tôi, anh chỉ lấy phần bún.
Ăn xong tôi theo anh vào chợ mua gạo
khoai mì và nước mắm. Ngày hôm sau anh thức dậy sóm, nấu cơm ghế
khoai mì. Hai anh em ăn cơm ghế khoai với nước mắm.
Bắt đầu một ngày mới; hai anh em tiếp
tục đi nhặt bao nylon. Hai tuần sau, anh lại đưa tôi đến trước
bịnh viện, tôi đứng chờ trước cổng, anh đi vào trong và khi anh
trở ra anh lại đưa tôi đi ăn bún. Anh cũng mua ba tô, mỗi người
một tô, tô thứ ba chia hai, anh dành hết phần thịt cho tôi.Từ hôm
đó tôi cứ trông đến ngày anh hai tôi dẫn tôi đến trước bịnh viện,
tôi sẽ đứng bên ngoài chờ, anh đi vào bên trong, lúc trở ra anh
lại đưa tôi đi ăn bún.
Lần thứ ba, anh hai tôi dẫn tôi đến
bịnh viện, tôi cũng đứng trước cổng chờ. Lần này tôi nhìn thấy
bác Hội từ bên trong bịnh viện đi ra, cùng lúc ấy bác cũng nhìn
thấy tôi, bác hỏi: “Tấn em làm gì đứng đó?”.Tôi trả lời: “Con đợi
anh hai con, anh ấy vào trong đó” tôi vừa nói, vừa chỉ tay vào
bịnh viện.
Bác
nói: “Anh hai con vào trong đó làm gì vậy kìa? Nó có nói với con
không?”.Tôi lắc đầu. Bác đứng lại với tôi, lấy thuốc ra hút...
Anh hai tôi từ trong bịnh viện đi ra. Bỗng nhiên anh đứng khựng
lai, vẻ mặt sợ hãi, có lẽ vì nhìn thấy bác Hội? Cùng lúc ấy, bác
Hội hỏi: “-Con vô đây làm chi rứa?”
Anh hai tôi không trả lời, mặt nhìn
xuống đất, tôi nhìn thấy trong mắt anh chớp chớp, như có những
giọt nước. Bác Hội sẵng giọng: “Con vào đó bán máu phải không?”
Anh tôi không trả lời, hai vai anh run nhẹ, những tờ giấy bạc rơi
lả tả xuống đất. Bác Hội lê bước tới nắm tay anh kéo đi.Tôi lượm
lại mấy tờ giấy bạc chạy theo. Đến một khoảng vắng, bác vứt cây
nạng gỗ xuống đất, bác kéo anh tôi vào lòng, bác khóc, anh hai
tôi khóc và tôi cũng khóc.
Về đến nhà, bác hỏi anh hai tôi ai chỉ
vẽ cho anh đi bán máu, anh nói: “Trong xóm mình nhiều người đi
bán máu lắm, họ rủ con đi”. Bác thở dài, lẩm bẩm: “Khốn nạn cho
cái xã hội mới này”!
oOo
Một hôm trời mưa, hai anh em tôi
không đi lượm bao nylon. Tôi qua chơi với hai đứa con của bác
Hội. Buổi trưa về, vừa mở cửa vào phòng, tôi thấy tên công an
Được đang ở trong nhà. Nó vứt mấy đồng bạc trên giường và nói:
“Giữ lấy mà mua gạo ăn!”. Tôi nhìn anh tôi dò hỏi nhưng anh im
lặng.
Từ đó,
anh tôi không còn vui cười, mặt lầm lì, hay tránh mặt tôi. Vài
ngày sau, bác Hội đưa anh vào bịnh viện vì anh bị đi cầu ra máu.
Về nhà, bác lẩm bẩm suốt ngày:”Tên khốn khiếp! có súng, tau bắn
nát đầu mầy”.
Bác Hội xin được cho anh hai tôi công việc gỡ lưới bắt cá trên
một ghe chài của một người bà con bên vợ. Hàng ngày tôi đi lượm
bao nylon một mình. Buổi tối tôi ngủ một mình. Anh hai tôi theo
ghe chài hai ngày mới về bến một lần. Tôi ăn uống bên nhà bác
Lộc.
Một đêm,
tôi đang ngủ, có cảm giác như có ai ôm mình vào lòng. Tôi nghĩ
chắc anh hai tôi đã đi biển về, tôi quay người lại nhưng cái cảm
giác chạm vào da thịt của anh hai tôi không giống như thuờng
ngày, tôi mở mắt, qua ánh sáng đèn từ ngoài đường chiếu vào, tên
Được đang nằm bên tôi. Tôi hoảng sợ, dùng hết sức mạnh hai chân
đạp vào bụng tên Được rồi nhảy xuống guờng chạy ra khỏi nhà.
Tiếng tên Được gọi theo: “Đừng chạy, tau bắt đưa về công an
phường bây giờ”. Nhưng tôi vẫn chạy, chạy qua bao nhiêu con hẻm
trong xóm, chạy ra huớng biển và thẳng đến bến ghe chài.
Tôi ngồi tựa lưng vào cái thúng chài
trên bờ. Trước mặt tôi một màu đen mênh mông, tiếng gió hòa cùng
tiếng sóng biển tạo ra một âm thanh kỳ lạ làm tôi sợ hãi. Tôi
ngồi chờ anh hai tôi trở về bến. Tôi không dám quay trở về nhà,
tôi phải trốn tên công an Được.
Bỗng có tiếng chân người đi ven mé biển
trước mặt tôi, càng lúc càng nhiều.Tiếng thì thầm thúc dục mà
mang âm điệu sợ hãi. Tiếng trẻ con khóc, tiếng “xụyt xụyt “ bảo
im lặng. Tiếng gọi tên nhau thì thầm. Tôi nghe tiếng máy nổ của
một chiếc ghe từ xa càng lúc càng gần. Ở quanh tôi đám đông đã
lên hết trên cầu tàu.
Chiếc ghe đã cập cầu bến cá. Mọi người
lần lượt lên ghe... Tôi nghe tiếng một người đàn ông hỏi:
-Bà con lên hết chưa? Đếm xem đủ người
của mình chưa? Nhanh lên! để ghe rời bến, nhanh lên! nhanh lên!
công an nó đuổi tới nơi bây giờ!”
Tôi nghe mấy tiếng “công an đuổi đến
bây giờ”, tôi nhớ đến lời của tên Được: “Tau bắt đưa về công an
phường bây giờ!
“Sợ hãi, tôi chạy nhanh lên cầu tàu.
Một người chạy đến túm lấy tôi ném lên ghe: “Còn một đứa nhỏ, con
ai đây? xong rồi! mở máy cho ghe chạy đi, trời bắt đầu sáng rồi.”
Trong ghe tối đen, tôi không nhìn thấy
ai là ai. Một người lay tôi dậy.Trời đã sáng. Mọi người ngồi ép
vào nhau. Vài người lao nhao hỏi tôi: “Cháu là con ai vậy? Tên là
gì? Đi với ai?
Tôi bật khóc, không biết trả lời như
thế nào. Một bà dang tay ra ôm và an ủi tôi. Tôi nói với bà: “Con
chờ anh con đi theo ghe đánh cá trở về, rồi một người nào đó ném
con lên ghe này khi ghe bắt đầu chạy”.
Buổi chiều hôm đó, mọi người được phép
lần lượt ra khỏi lòng ghe để thở chút gió mát. Quanh tôi, biển
mông mênh không thấy đâu là bờ. Tôi nhớ đến anh hai tôi, nhớ ba
mẹ tôi, nhớ gia đình bác Hội, nhớ mọi người trong xóm.
Tôi nghe hai người đàn ông nói chuyện
với nhau:
-Chuyến này như vậy là thành công, hai lần truớc bị bắt khi ghe
vừa rời bến, nhưng lần này thì ghe mình thoát, đang chạy trong
hải phận quốc tế rồi...”
Hai ngày sau ghe chết máy, thả bồng
bềnh trên biển. Trong lúc nguy khổn, may sao ghe được một tàu
hàng Do Thái đi ngang cứu và chúng tôi được đưa đến trại tỵ nạn
cộng sản ở đảo Galang của nước Nam Dương.
oOo
Tôi được một gia đình người Pháp gốc
Do Thái nhận làm con nuôi, định cư tại Tel Aviv, sau mấy tháng
sống tại tỵ nạn Galang.
Hôm xuống tàu để sang Singapour, những
người tỵ nạn còn đang bị tạm lưu lại đảo, tụ tập ngoài cầu tàu để
tiễn những người được đi định cư đến các nước đã nhận cưu mang
họ. Con tàu xa dần bến, người đưa tiễn khuất dần trong tầm nhìn.
Nỗi cô đơn ngập trong tôi, tôi cảm nhận kể từ phút đó, tôi mất
tất cả những gì gọi là hình bóng Viêt Nam.Tôi gục đầu vào thành
tàu, nghe những thổn thức tràn ngập trong lòng.Tôi khóc.
oOo
Ba mẹ Do Thái của tôi không có con.
Bà đã có hai người con nuôi trước khi nhận tôi. Ba nuôi tôi có
một nông trại trồng cam còn mẹ nuôi tôi là một giáo sư ngôn ngữ
học. Hai người anh của tôi là một người da màu, gốc Madagascar
còn nguời anh kia gốc Ai-cập. Trong ba người, tôi nhỏ tuổi nhất,
kém người anh cả tám tuổi, kém người thứ hai năm tuổi.
Chúng tôi được nuôi ăn học đàng hoàng,
sống rất hòa thuận và đều theo Do Thái giáo. Bà mẹ nuôi tôi hay
than với tôi: “Đất nước của con sao mà nhiều thống khổ quá! Chỉ
tội cho người dân. Con cố học và đừng quên tiếng Việt; sẽ cần cho
con sau này khi con muốn tìm về cội nguồn. Khi tôi bắt đầu lên
trung học, mẹ nuôi tôi bắt đầu dạy tôi học tiếng Việt. Trong
những giờ dạy tiếng Việt, bà yêu cầu tôi kể những gì liên quan
đến gia đình tôi mà tôi còn nhớ được. Tôi kể bằng tiếng Việt
những gì tôi còn nhớ được về hoàn cảnh của tôi. Mẹ tôi đã ghi lại
trên giấy và vào buổi cơm tối ngày hôm sau bà đọc lại cho mọi
người trong gia đình cùng nghe bằng tiếng Do Thái. Sự việc này
kéo dài hàng năm cho đến lúc tôi không còn nhớ gì để kể lại. Sau
này những lúc chỉ có hai người, mẹ nuôi tôi thường nói tiếng Việt
với tôi. Bà bảo đã hai lần đi Việt Nam, tìm đến những nơi mà tôi
đã kể cho bà nghe để tìm tin tức gia đình tôi nhưng vô hiệu. Có
lẽ trí nhớ và số tuổi nhỏ của tôi đã không kể lại đủ chuyện gia
đình tôi cũng như nơi chốn gia đình tôi sinh sống trước đây cho
bà nghe.
Sau
khi tốt nghiệp đại học, tôi được học bổng của trường đại học
Sorbonne Pháp để học tiếng Pháp tại Paris. Một hôm đang ăn trưa
tại một tiêm phở thuộc khu phố người Việt quận 13, một bác phục
vụ nhà hàng lại bàn nói chuyện với tôi. Bác hỏi thăm và cho biết
bác cũng là người gốc quận ba Đà Nẵng trước đây. Bác và gia đình
vượt biển sau khi thành phố Đà Nẵng bị mất vào tay cộng sản. Bác
có trở về Đà Nẵng vài lần, nên bác cho biết các sự đổi thay và
chỉ dẫn tôi cách tìm đường về nơi tôi đã đuợc sinh ra và lớn lên
sau khi khuyên tôi nên về Đà Nẵng một chuyến để tìm lại gốc gác
gia đình.
oOo
Tôi đi dạy được hai năm thì cưới vợ
và có hai con, một trai một gái. Khi con trai đầu của tôi được
tròn bốn tuổi, tôi mua cho nó một chiếc xe đạp nhân ngày sinh
nhật của nó. Khi đem chiếc xe về nhà, tôi nhớ đến ngày còn ở quê
nhà mẹ tôi đọc thơ của ba tôi viết từ chiến trường hứa về mua cho
tôi chiếc xe đạp nhân ngày sinh nhật nhưng rồi điều đó không xảy
ra. Nhìn con trai tập đạp xe, tôi ứa nước mắt, bùi ngùi nhớ lại
tuổi thơ của mình, tội nghiệp cho thằng bé là mình hai chục năm
trước. Nếu ngày đó tôi có được chiếc xe, không biết tôi có những
cử chỉ vụng về, loạng quạng khi tập đạp xe như con tôi bây giờ?
Tôi hay nói với vợ tôi, “Cho đến tuổi này, anh chưa bao giờ bước
lên yên xe đạp”. Vợ tôi an ủi: “Anh lại trở về với quá khứ rồi,
hãy quên đi!”
Tôi chỉ biết thở dài... làm sao mà quên được!
oOo
Mùa hè năm 2010, mẹ nuôi tôi khuyên
tôi nên trở về Đà Nẵng tìm thăm tin tức gia đình; nếu tôi tìm
được bà định sẽ đem hết đại gia đình cùng đi với tôi trong một
chuyến đi sau.
Tôi về đến Đà Nẵng, theo lời hướng dẫn
của cô tiếp viên khách sạn và những chi tiết bác đồng hương tại
một nhà hàng bên Pháp cho biết năm nào. Tôi tìm đuờng ra bờ sông
Hàn rồi tìm phà qua sông. Bến phà này mấy mươi năm trước anh hai
đã đưa tôi qua lại mấy lần để đến bịnh viện bán máu lấy tiền mua
gạo.
Mọi vật
đã đổi thay, phà đã ngừng đưa khách, những chiếc cầu mới đã được
bắc ngang hai bờ sông. Bác xe ôm lớn tuổi chở tôi chạy vòng qua
bao nhiêu khu phố mà ở cái tuổi tôi thời ấy chưa có, bây giờ các
khu phố đã mọc lên che lấp những bờ dương và bãi cát cùng sóng
biển.Tôi ra đi ở cái tuổi lên năm, chưa có ý niệm gì về tên làng,
tên xóm, tên phường, tên con đường hẻm chạy qua trước nhà... nên
bao nhiêu năm qua tôi không thể nào liên lạc về nhà cũ; quê hương
dường như đã chết trong tôi.Tôi nhờ bác lái xe ôm hỏi thăm và đưa
tôi đến bến ghe cá mấy mươi năm trước. Tôi hy vọng từ đó tôi sẽ
tìm ra nhà cũ của ba mẹ tôi. Bác lái xe ôm đã đưa tôi đến bến ghe
cá cũ, nay chỉ còn cái danh của ngày trước vì bến đã dời đi nơi
khác, thay vào đó là một khách sạn đã được xây lên cùng những
ngôi nhà cao tầng.Tôi hỏi thăm nhà ba mẹ tôi, hỏi thăm nhà bác
Hội, hỏi thăm tên anh hai tôi, mọi người đều lắc đầu, trả lời với
một giọng nói có âm sắc mà tôi chưa hề được nghe khi còn thuở thơ
ấu.
Lòng nặng
trĩu và thấy lạc lõng, tôi rưng rưng muốn khóc. Cả một buổi trưa
tôi lang thang, từ khu này qua khu khác, áo đẫm mồ hôi, tôi đứng
tựa vào một tường nhà có bóng mát tránh nắng.Tôi định quay trở về
khách sạn để tiếp tục trở lại khu này ngày hôm sau. Bỗng tôi nghe
có tiếng ve sầu vang lên đâu đây, buồn não. Ngày xưa trong xóm
chỉ có nhà tôi có cây phượng vĩ.
Mùa hè hoa nở đỏ rực, lũ ve sầu từ đâu
đến buông tiếng kêu râm ran và rầu rĩ, như ru tôi ngủ vào những
buổi trưa nóng bức. Khi có cơn gió mạnh, những cánh phượng rơi lả
tả xuống sân nhà, mẹ tôi cầm chổi quét. Một lần tôi nghe mẹ tôi
phàn nàn với ba tôi: “Anh ơi, hãy đốn cây phượng làm củi cho rồi.
Ngày nào cũng quét hoa rụng, mệt quá”. Ba tôi cười trả lời: “Cây
phượng này do ông nội trồng để tưởng nhớ bà nội sau khi bà nội
chết, bà nội mấy đứa nhỏ tên Phượng, mình không đốn cây được
đâu.”
Tôi lần
đi về hướng có tiếng ve rên rỉ... màu đỏ của hoa phượng chan hòa
trước mắt tôi: một cây phượng to lớn im lìm dưới nắng chói
chang... Tôi dừng chân bên cây phượng mọc ngay bên cổng vào một
căn nhà... tôi nhìn kỹ, hình ảnh ngôi nhà xa xưa của tôi hiện ra
rõ ràng trong trí nhớ. Tôi đã tìm ra được nhà tôi. Hàng hiên
không có gì đổi thay, tất cả còn nguyên như cũ.Tôi lặng nguời vì
vui mừng. Lòng hồi hộp nhưng cố giữ bình tĩnh, một hồi lâu tôi
gọi vọng vào bên trong:
-Có ai trong nhà không, cho tôi hỏi
thăm? Tôi gọi đến lần thứ ba thì cánh cửa nhà hé mở, một đứa bé
trai bước ra nhìn tôi rồi vội quay vào đóng cửa lại.Tôi kiên nhẫn
chờ. Cánh cửa lại mở, một người đàn ông râu tóc bạc phơ chống
nạng bước ra. Tôi nhận ra ngay bác Hội ngày xưa của tôi. Bác già
quá nhiều. Bác chống cây nạng gỗ mà người cứ run run. Bác lấy tay
che trán nhìn tôi. Tôi bồi hồi, xúc động nói lớn:
-Bác Hội còn nhớ con không? Con là Tấn
em đây. Bác đi khập khiễng ra cổng, giọng lắp bắp:
-Tấn em hả? Con còn sống hả? Trời ơi!
Con còn sống hả? Vào đi, vào đi con. Hai bác cháu loạng choạng ôm
nhau, cả hai cùng khóc, khóc vì mừng gặp lại nhau và khóc cho
thân phận của mỗi người và thân phận của nhau. Tôi theo bác vào
nhà, đưa mắt nhìn quanh, vội hỏi bác:
-Ba mẹ cháu đâu? Anh hai cháu đâu bác?”
Bác khựng lại rồi nói:
-Chuyện còn dài, rồi bác sẽ kể lại cho
con nghe. Con ngồi nghỉ cho khỏe đã!
oOo
Và bác kể:
“Ngày mẹ con đi Huế tìm thăm ba con bị
thương ở Quảng Trị và được đưa vào điều trị tại bịnh viện Huế đến
nay, bác chỉ nghe bạn đồng đội của ba con kể lại. Khi mẹ con ra
đến bịnh viện thì ba con đã bị chính quyền mới của cộng sản đuổi
ra khỏi bịnh viên cùng với các đồng đội khác cũng bị thương.
Những người thương binh và các nguời nuôi bệnh cùng cảnh này tụ
tập sống dưới chân cầu Tràng Tiền, nhờ vào sự giúp đỡ của dân
chúng. Sau đó họ dìu dắt nhau theo quốc lộ 1 trở về Đà Nẵng, ngày
xin ăn, tối ngủ bờ ngủ bụi. Khi đến Cầu Hai thì ba con kiệt sức
vì vết thương làm độc nên chết tại đây. Sau khi được dân Cầu Hai
giúp chôn cất ba con xong thì ngày hôm sau mẹ con, lúc đó cũng
đau yếu, thất thểu đi một mình trên đuờng vào Đà Nẵng. Rồi từ
ngày ấy đến nay, không ai biết tăm tích của mẹ con ở đâu nữa.
Chắc là chết ở đâu rồi, vì nếu còn sống mẹ con thế nào cũng tìm
về nhà ở Đà Nẵng với hai anh em con.”
Tôi gục đầu xuống bàn, thổn thức. Giọng
bác đều đều:
“Khi con mất tích, anh hai con, gia đình bác cùng bà con lối xóm
ngày đêm tìm kiếm hoài không ra. Anh hai con buồn lắm, sống như
một cái bóng thui thủi trong căn nhà này - bác nhìn quanh nơi bác
và tôi đang ngồi. Ba năm sau, anh hai con đến tuổi “thi hành
nghĩa vụ quân sự” thì bị đưa qua chiến trường Campuchia. Chỉ sáu
tháng sau, địa phương báo cho bác biết anh hai con đã tử thương.
Người ta hứa sẽ đưa xác về, nhưng đó chỉ là lời hứa suông thôi,
không bao giờ có xác về. Bác đã lấy một mảnh đất sau vườn nhà con
xây một ngôi mộ nhỏ, lập bia chung cho cả ba người, ba mẹ con và
thằng Tấn anh của con. Hằng ngày bác thắp nhang cho linh hồn ba
mẹ con và anh hai con khỏi lạnh lẽo. Còn riêng phần con, bác nghĩ
là con không chết, có lẽ con đã đi lạc đến một nơi nào đó, có
người đem về nuôi, một mai khôn lớn con sẽ tìm ra gốc gác gia
đình để trở về. Anh hai con cũng có ý nghĩ như bác nên trước ngày
bị đưa đi Campuchia, anh con đã giao hết giấy tờ nhà đất cho bác
giữ hộ và dặn: “Nếu con có mệnh hệ nào thì xin bác giao lại cho
thằng Tấn em con.” Bác giữ đã lâu mà vẫn không có tin tức gì của
con, bác sợ chính quyền sẽ tịch thu căn nhà nên bác đã xoay sở
sang tên ngôi nhà cho bác, nhờ vậy, cái nhà vẫn còn. Nay con trở
về, bác sẽ giao nhà lại cho con.
Tôi theo bác ra sau vườn, ngôi mộ nằm
bên một góc vườn. Mộ bằng xi-măng, sạch sẽ. Tôi đọc tên ba, mẹ và
anh hai tôi ghi trên mộ bia.
Tôi qụy người xuống, gục đầu vào thành
bia, nước mắt trào ra. Lòng tê tái, tôi đau đớn nghĩ đến cha mẹ,
đến anh hai tôi và tự xót thuơng cho thân phận mình mồ côi, cô
độc, tìm ra gốc gác gia đình chỉ để nhận thêm một sự thực rằng
trước sau gì tôi vẫn không còn cha mẹ, anh em, không có ai là
người ruột thịt... đến lúc bác Hội nắm tay kéo tôi đứng lên, đèn
trong nhà bác đã thắp sáng.
Ngày hôm sau, tôi vẫn giữ căn phòng ở
khách sạn nhưng về sống với gia đình bác Hội. Một hôm bác đưa tôi
dạo quanh xóm cũ, phần lớn dân cư từ nơi khác đến. Tình cờ ngang
qua một tiệm sửa xe, tôi gặp Hiền, người bạn cùng học lớp mẫu
giáo với tôi ngày xưa. Hai đứa nhận ra nhau. Cả hai bồi hồi, xúc
động. Bằng tuổi tôi nhưng Hiền mang dáng dấp của một ông lão. Ba
của Hiền, ngày xưa là Trung úy của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, bị
chính quyền mới bắt đi tù cải tạo ở Trung Phước rồi chết tại đó.
Vì có lý lịch con của “ngụy” nên Hiền không tìm được công ăn việc
làm, nên đành lấy hiên nhà làm tiệm sửa xe từ mấy chục năm nay.
Con cái học hành không tới đâu, nhà quá nghèo. Vợ cũng phải phụ
chồng sửa xe. Bất chợt cơn mưa rào chợt đến. Hiền vội vã tìm thau
và chậu đề hứng nhưng cả tiệm sửa xe vẫn tràn đầy nước từ trên
mái đổ xuống. Hiền nói: “Cái nhà đã “rệu” từ chục năm nay, không
tiền để sửa, bây giờ lo cái ăn cho gia đình khỏi đói là đủ mệt
rồi”. Tôi nghe mà lòng bỗng dưng cồn cào như bị cái đói ngày xưa
hành hạ, cái đói mà anh Hai tôi phải bán máu, chất dinh dưỡng cơ
thể để đổi lấy cái ăn mà sự dinh dưỡng cơ thể đang cần... một cái
vòng lẩn quẩn khốn nạn của nhu cầu sinh tồn.
Buổi chiều truớc ngày từ giã gia đình
bác Hội để về lại Do Thái, bác cùng tôi ngồi tâm sự trong phòng
khách. Bác kể lại tình bạn giữa bác và ba tôi, kể đến đâu, bác
thở dài đến đó, bác ngậm ngùi nhớ đến kỷ niệm của một thời đã
qua. Tôi tựa đầu vào thành ghế, tai chăm chú nghe nhưng mắt lơ
đãng nhìn lên trần nhà. Tôi hướng mắt về phía cái kèo nhà có cái
khe nứt, sực nhớ lại chuyện ngày trước bác Hội đã thúc hối anh
hai tôi tháo cờ ba sọc đỏ dấu đi... anh hai tôi đã leo cột nhà
đem dấu vào chỗ khe nứt đó... bỗng nhiên tôi đứng lên đi vòng
vòng trong phòng khách, mắt cứ nhìn chăm chăm vào khe nứt trên
kèo nhà. Có lẽ bác Hội ngạc nhiên nên hỏi tôi:
-Con tìm cái chi rứa?
Tôi trả lời:
-Bác còn nhớ, ngày xưa khi cộng sản vào
thành phố, bác thúc anh hai con đem cây cờ ba sọc đỏ giấu đi và
anh Hai con đã đem lá cờ giấu vào “cái lỗ đó”, tôi vừa nói vừa
chỉ tay lên lỗ nứt trên kèo nhà. Bác Hội “ờ” lên một tiếng rồi
nói “thằng ni nhớ dai ghê, như vậy thì nó còn ở đó; từ đó cho tới
ni, chỗ đó không ai động đến, mà lâu quá không biết lá cờ có mục
có nát không?”
Nói xong bác tiến đến cửa lớn nhìn ra
ngoài và nói với vẻ thận trọng:
-Sắp nhỏ chạy chơi đâu hết rồi, con
muốn xem cái đó thì leo lên xem thử.
Nói xong bác khép cửa lại, gài chốt
ngang.Tôi đã định xin phép bác leo lên xem thử lá cờ còn đó
không, thì nghe bác khuyến khích làm tôi vừa sung sướng vừa hồi
hộp. Tôi đang loay hoay tìm cách leo lên cây cột (nhà xây theo
kiểu xưa, có nhiều cột) thì bác đẩy cái bàn đến sát cây cột nhà
rồi để thêm cái ghế lên trên bàn, bác nói:
-Làm như thế ni leo dễ hơn!
Tôi thận trọng bước lên bàn, bước lên
ghế, dùng hai tay đu lên sà nhà. Tôi chợt nhớ đến anh hai tôi,
hồi đó anh leo lên cột sao dễ dàng và nhanh nhẹn như sóc vậy.
Tôi thọc tay vào khe hở bên kèo nhà,
tay chạm vào một vật mềm mềm, kéo ra, một cuộn vải màu vàng đã
phai màu. Tôi nói với bác Hội:
-Nó còn đây bác ơi!. Tôi ném cuộn vải
màu vàng xuống cho bác. Bác nhặt cuộn vải lên, mở ra, tay giũ giũ
mấy lần, lá cờ ba sọc đỏ hiện ra trước mắt tôi... tôi nghe bác
nói:
-Còn
nguyên si, chỉ bạc màu chút thôi. Tôi tuột xuống đứng bên bác.
Bác trùm lá cờ lên đầu bác. Tôi nghe
bác hít... mấy cái rồi bác lặng yên, chừng một phút sau bác lấy
lá cờ ra khỏi đầu. Tôi nhìn thấy hai mắt bác đỏ và long lanh
nước. Bác trao lá cờ cho tôi giữ và mở cửa đi ra ngoài rồi quay
lại với một lọ thủy tinh trên tay, bác nói với tôi:
-Con cuộn lá cờ lại bỏ vài cái lọ ni,
đem ra chôn bên mộ của ba con, ba con chết không có ai phủ cờ,
mình nay đem chôn cạnh ba con như rứa ba con cũng ấm lòng.
Tôi cuộn lá cờ cho vào lọ, đậy nắp lại.
Bác và tôi cùng đi ra ngôi mộ sau vườn. Bác dùng con dao chẻ củi
đào một cái lỗ trên đầu mộ, tôi để cái lọ vào đó và bác lấp đất
lại.Tôi nghe giọng bác thì thào như nguời tâm sự:
-Tổ quốc chưa kịp ghi ơn em thì Tổ quốc
đã mất. Tổ quốc chỉ còn một chút này, em mang theo để sống với kỷ
niệm của một giai đoạn lịch sử... và biết đâu Tổ quốc sẽ sống lại
với con cháu của chúng ta sau này.
Chiều hôm đó tôi từ giã gia đình bác
Hội. Trên đường đi từ trong nhà bác ra đường lớn đón xe để về
khách sạn, bác nhắc tôi:
-Con nhớ đừng quên giúp đỡ Hiền, thằng
bạn của con. Nó cần sửa lại căn nhà dột nát của nó, không biết cả
đời nó có tiền sửa được không.
Tôi nói:
-Bác yên tâm, con sẽ giúp tận tình, con
sẽ chuyển tiền về cho bác để bác đưa cho Hiền. Nếu không đủ con
sẽ chuyển thêm cho đủ.
Tôi lại nói với bác:
-Dường như cả đời, bác đã lo hết cho
gia đình ba mẹ con và anh em con, con nhớ ơn bác vô cùng. Nay bác
có tuổi rồi, bác nên quan tâm cho sức khỏe bác nhiều hơn.
Bác nắm chặt tay tôi hỏi:
-Còn ngôi nhà của ba mẹ con, con tính
sao đây? Nay con còn đó, bác tiếp tục giữ nhà thì lòng bác ngại
quá! Tôi trả lời trong nghẹn ngào:
-Tình cảm và công ơn bác dành cho gia
đình con như trời biển, có một trăm ngôi nhà như vậy cũng không
thấm vào đâu đối với tấm lòng của bác... Con chưa bao giờ có một
ý nghĩ nào về ngôi nhà đó là của ba mẹ con hay của con. Nó là của
bác... nó là của bác. Bác nên lo cho Bác nhiều hơn!
oOo
Thay vì đi máy bay từ Hà Nội thẳng về
Do Thái, tôi đổi vé đi Paris. Nước Pháp có vài ngôi chùa Việt Nam
còn bên Do Thái không có. Tôi tìm đến một ngôi chùa ở ngoại ô
Paris để xin lập bài vị thờ ba mẹ và anh hai tôi theo như lời bác
Hội khuyên.
Vị
sư trụ trì chùa tiếp tôi sau chánh điện, hỏi:
Anh cho biết tên thân sinh của anh. Tên
cha? Đoàn minh Tiếng.
Ngày và năm sinh?
Dạ, thưa thầy con không biết.
Ngày và
năm chết? Dạ, thưa thầy con không biết.
Pháp danh? Dạ, thưa thầy con không biết.
Vị sư trụ trì nhìn tôi với đôi mắt khác
thường, rồi lắc đầu: Ngày sinh, tháng đẻ của cha anh mà anh không
biết, lạ thật!
Vậy tên của mẹ anh là gì?
Nguyễn thị kim Ngân.
Ngày và năm sinh?
Dạ, thưa thầy con không biết.
Ngày và
năm chết? Dạ, thưa thầy con không biết.
Pháp danh? Dạ, thưa thầy con không biết.
Vị sư trụ trì đứng dậy đi tới đi lui
rồi nhìn tôi với đôi mắt nheo lạỉ, như nghi ngờ như tôi đang đùa
với ông một cách không nghiêm chỉnh.
Sư lại ngồi xuống, hỏi tiếp: Anh còn
muốn lập bài vị cho ai nữa không?
Dạ, còn người anh.
Tên gì? Đoàn tấn Anh.
Ngày sinh và năm sinh? Da, thưa thầy con không biết.
Ngày chết và năm chết? Dạ, thưa thầy con không biết.
Pháp danh? Da, thưa thầy con không biết.
Thầy trụ trì ném cây bút xuống bàn rồi
niệm Phật: “Nam mô A-di-đà-phật”
Thầy thở dài hỏi tôi: Anh muốn lập bài
vị để thờ người thân trong chùa mà không nhớ ngày sinh tháng đẻ,
ngày chết, Pháp danh thì chùa làm sao cúng kiến cầu siêu được?
Dạ thưa thầy, con lạc gia đình cha mẹ
và anh con từ lúc năm tuổi nên con không biết ngày sinh tháng đẻ,
ngày chết cũng như Pháp danh của họ.
Sư trù trì nhìn tôi, chấp hai tay lại
niệm: “Nam mô A-di-đà-phật.”
Tôi gục đầu xuống bàn.
Một bàn tay của thầy để trên vai tôi.
Nguyễn đại Thuật
Viết trong tháng tư buồn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Mùa QH 30-T4-Đ/2018. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Đoàn Hữu Định chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, May 19, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang