Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Ngược dòng thời gian
Chủ đề: 30-T4-Đ
Tác giả: Duy Nhân
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời giới thiệu:
xin chuyển đến quý Thụ Nhân và thân hữu câu chuyện có thật về một
Thụ Nhân Khóa 1, như là một tưởng niệm đến người chiến hữu rất
anh hùng của trường Bộ Binh Thủ Đức, của QLVNCH, và cũng là một
hình ảnh ngời sáng của Thụ Nhân.
NLG73 Lê Phú Nhuận.
Tôi
biết anh khi cùng đến trình diện “học tập” tại trường Pétrus Ký
ngày 24 tháng 6 năm 1975. Anh sinh năm 1942, tốt nghiệp khóa 1
Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt. Sau khi ra trường anh theo học Khóa
9/68 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức theo chương trình động viên của chính
phủ miền Nam Việt Nam, rồi được biệt phái làm việc ở Kỹ Thương
Ngân Hàng, tức Ngân hàng Quân Đội ở đường Nguyễn Huệ, Sài Gòn.
Anh là một thanh niên khỏe mạnh, to cao, chưa lập gia đình. Vì
cận thị nên lúc nào cũng mang kính trắng. Trông anh ai cũng dễ
nhận ra anh là một trí thức giàu tiềm năng, nhiều nghị lực. Anh
có người chú ruột là kỹ sư làm Bộ trưởng Bộ Công Nghiệp nhẹ của
chế độ cộng sản Bắc Việt. Sở dĩ tôi biết nhiều về anh là do khi
bị đưa vào trại tập trung ở Thành Ông Năm, Hốc Môn, cũng như khi
ra Phú Quốc tôi lúc nào cũng được “biên chế” cùng tổ, đội với
anh, chỗ nằm cũng sát bên anh, vì người ta căn cứ theo thứ tự A,
B, C của tên mỗi người khi lập danh sách. Tên anh rất lạ và dễ
nhớ: “KHA TƯ GIÁO” (KTG).
Khi mới vào trại tập trung, ngoài giờ
lao động khổ nhọc, các “cải tạo viên” còn phải học mười (10) bài
chính trị. Sau mỗi bài học là những buổi thảo luận trong tổ, đội.
Mỗi người phải viết “bài thu họach” những gì mình “tiếp thu” được
sau những bài giảng của cán bộ tuyên truyền, được gọi là giáo
viên. Sau bài học đầu tiên đề tài thảo luận đưa ra là mọi người
phải “liên hệ bản thân”, xác định mình là người có tội với nhân
dân, với “cách mạng”. Người cầm súng thì giết bao nhiêu cách mạng
trong từng trận đánh. Bác sĩ thì chữa trị cho binh sĩ lành bệnh
để đánh phá cách mạng như thế nào. Người làm ngân hàng (như tôi
và anh Kha Tư Giáo) thì có tội phục vụ cho nền tài chánh, dùng
tiền nuôi dưỡng chiến tranh. Cảnh sát thì đàn áp nhân dân ra làm
sao, vân vân. Trại của chúng tôi đa số là sĩ quan biệt phái. Họ
nói biệt phái là phái làm công tác đặc biệt. Thí dụ giáo viên
biệt phái là những người lãnh lương hai đầu, một bên là quân đội,
một bên là giáo dục, được phái về dạy học để đánh rớt học sinh,
buộc học sinh phải đi lính, biệt phái ngân hàng là sĩ quan được
đưa về làm công tác ngân hàng, kiếm thêm thu nhập cho người lính
để có thêm sức cầm súng. Do đó, sĩ quan biệt phái là những người
có tội rất nặng với cách mạng và nhân dân hơn những người khác.
Anh KTG thì cho rằng anh và các bạn anh không ai là người có tội.
Các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa cầm súng chống lại bộ đội Bắc Việt
và quân nằm vùng là để tự vệ mà không hề chống lại nhân dân, đồng
bào ruột thịt trong Nam cũng như ngoài Bắc. Riêng bản thân anh,
sinh ra và lớn lên ở miền Nam, học hành và làm công tác chuyên
môn ngân hàng để sống và phục vụ cho đất nước thì sao gọi là có
tội. Lập trường anh Giáo không đáp ứng yêu cầu của Việt cộng. Đó
là tấn thảm kịch của anh. Anh bị bắt làm kiểm điểm liên tục còn
những người khác thì cũng bị bắt phải “giúp đỡ” anh nhìn thấy
được tội lỗi của mình để được cách mạng và nhân dân khoan hồng.
Càng kiểm điểm anh càng thấy mình là người vô tội. Bài viết lúc
đầu thì dài, về sau chỉ còn bốn chữ thật to chiếm hết trang giấy:
“TÔI KHÔNG CÓ TỘI”.
Việt cộng hỏi, anh trả lời những gì cần
phải nói anh [đã] nói hết rồi. Bạn bè trong đội thấy anh giữ lập
trường như thế thì rất nguy hiểm cho anh mà bạn bè cũng khổ. Vì
sau giờ lao động cực nhọc đáng lẽ được nghỉ ngơi, lại phải ngồi
kiểm điểm với anh đến mỏi mệt, chán chường. Nhiều người trách anh
sao không biết “nín thở qua sông”, họ khuyên anh cứ viết đại vào
giấy là mình có tội một cách chung chung, miễn là thực tế không
làm gì hại nước, hại dân là được. Anh bảo như vậy là mắc lừa cộng
sản và lương tâm không cho phép.
Khi tất cả cán bộ ở trại đều bất lực
thì cán bộ cao cấp từ Sài Gòn được cử xuống. Những người này tỏ
ta có tay nghề hơn. Nghe đâu là sư trưởng VĐG (Võ Đông Giang?)
từng là thành viên của phái đoàn đàm phán Bắc Việt tham dự hội
nghị Paris năm 1973, cùng với một đại tá chính ủy sư đoàn (?). Họ
không trấn áp anh mà tỏ ra lắng nghe và chịu đối thọai. Anh Giáo
đã chứng tỏ bản lĩnh của mình bằng những câu hỏi đặt ra mà họ
không trả lời được. Ngược lại, anh còn phản công, vạch trần tội
ác của họ. Từ vai một người tù, một tội nhân anh trờ thành một
công tố viên trước tòa, luận tội Việt cộng. Bằng một giọng đầm ấm
và trầm tĩnh, anh Giáo nói:
- Chúng tôi là những người sinh ra và
lớn lên ở miền Nam. Nhờ hạt gạo của đồng bào miền Nam nuôi lớn và
trưởng thành từ nền văn hóa và giáo dục khoa học, nhân bản và
khai phóng. Chúng tôi có lý tưởng của chúng tôi cũng như các anh
có lý tưởng của các anh. Lý tưởng của các anh là dùng bạo lực để
lật đổ chính phủ hợp hiến, hợp pháp Việt Nam Cộng Hòa để bành
trướng chủ nghĩa cộng sản. Lý tưởng của chúng tôi là bảo vệ Tự
Do, Dân Chủ. Các anh từ miền Bắc vào xâm lăng miền Nam, buộc lòng
dân quân miền Nam phải cầm súng tự vệ. Chúng tôi có câu “giặc đến
nhà đàn bà phải đánh”. Chẳng lẽ một công dân cầm súng chống lại
kẻ thù để bảo vệ bà con mình, gia đình mình, tổ quốc mình thì có
tội?
Hai cán
bộ Việt cộng im lặng, chỉ gật gật cái đầu. Một lúc sau, viên đại
tá chính ủy lên tiếng:
- Các anh chỉ là tay sai đế quốc Mỹ. Ở
đâu có Mỹ, có bom đạn Mỹ thì chúng tôi đánh. Đất nước Việt Nam là
một, dân tộc Việt Nam là một....
Anh Giáo ngắt lời:
- Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song
chân lý đó không bao giờ thay đổi, chớ gì? Các anh chỉ biết lặp
lại mà không biết gì về quốc tế công pháp. Tôi nhắc lại, hiệp
định Genève năm 1954 mà các anh đã ký ngày 20/7/1954 quy định từ
vĩ tuyến 17 trở ra là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, từ vĩ tuyến
17 trở vào là nước Việt Nam Cộng Hòa của chúng tôi, được Liên
Hiệp Quốc và quốc tế công nhận.
Tên sư trưởng phản ứng:
- Các anh là công cụ Đế quốc Mỹ âm mưu
chia cắt vĩnh viễn đất nước. Còn chúng tôi đánh Mỹ là để thống
nhất đất nước, mang lại Độc Lập cho Tổ Quốc, Tự Do, Hạnh Phúc cho
đồng bào.
Anh
Kha Tư Giáo (KTG):
- Nên nhớ, các anh mới là người âm mưu
cùng thực dân Pháp chia cắt đất nước bằng hiệp định Genève năm
1954. Chúng tôi không hề ký vào hiệp định đó. Đồng minh chúng tôi
không phải chỉ có Mỹ mà có Đại Hàn, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Úc
Đại Lợi, và tất cả [những] quốc gia yêu chuộng hòa bình trên thế
giới. Các anh mới là tay sai Liên Xô và Trung cộng. Chủ nghĩa
cộng sản chủ trương bành trướng, xâm lược, nhuộm đỏ toàn thế giới
chớ không riêng gì Việt Nam.
Tên sư trưởng:
- Người cộng sản làm cách mạng là để
giải phóng các dân tộc khỏi áp bức, bóc lột mà đầu sỏ là đế quốc
Mỹ để mang lại công bằng xã hội, ấm no, hạnh phúc cho mọi người.
- Tôi thiết nghĩ những người cần được
giải phóng là nhân dân miền Bắc đang thiếu Tự Do, Dân Chủ, đang
sống đời lầm than cơ cực. Chúng tôi không cần các anh giải phóng.
Bất ngờ, tên đại tá chính ủy đập tay
xuống bàn cái rầm. Ly nước trước mặt hắn ngã đổ tung tóe:
- Quân phản động!
Anh KTG vẫn giữ điềm tĩnh và im lặng.
Thời gian trôi qua nặng nề. Tên sư trưởng dịu giọng:
- Các anh ôm chân đế quốc, bị đầu độc
bởi vật chất xa hoa và văn hóa đồi trụy của chủ nghĩa tư bản thối
tha nên không nhìn thấy tội lỗi của mình.
Bằng một giọng ôn tồn mà cương quyết,
anh Giáo trả lời:
- Chúng tôi là người Việt quốc gia,
không theo chủ nghĩa nào cả. Chủ nghĩa chỉ là lý thuyết, là giáo
điều do con người đặt ra để phục vụ cho những mục tiêu chính trị
nhất định trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Đến lúc nào đó
nó sẽ bị đào thải do không theo kịp sự tiến hóa không ngừng của
xã hội. Còn chủ nghĩa cộng sản chỉ là chủ nghĩa ngoại lai, duy
vật, và sai lầm khi chủ trương vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ
quốc đi ngược lại bản chất con người, ngược lại truyền thống duy
tâm, trọng đạo, và nền văn hóa cổ truyền của người Việt. Nó quá
tàn nhẫn và sai lầm khi chủ trương đấu tranh giai cấp bằng chuyên
chính vô sản. Tôi cho rằng nó sẽ không tồn tại lâu dài.
Thấy hai tên Việt cộng vẫn im lặng, anh
Giáo nói tiếp:
- Trong thời gian Tết Mậu Thân năm 1968
các anh đã đồng ý hưu chiến để đồng bào an tâm vui đón ba ngày lễ
cổ truyền của dân tộc. Vậy mà các anh lại tấn công vào các đô thị
miền Nam, gieo rắc kinh hoàng, chết chóc cho người dân vô tội.
Khi các anh rút lui khỏi Huế lại nhẫn tâm sát hại, chôn sống hàng
ngàn dân lành. Các anh ký hiệp định Paris năm 1973 để chấm dứt
chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam. Lúc nào các anh cũng
giương cao ngọn cờ chống Mỹ cứu nước như chính nghĩa đấu tranh
của mình, nhưng khi Mỹ rút đi rồi thì các anh dốc toàn lực đánh
chiếm miền Nam. Vậy mà các anh nói được là hòa bình, hòa giải dân
tộc... !!!...???
Nói tới đây anh Giáo ngừng lại trong
giây phút, rồi bất ngờ anh chỉ tay về phía hai cán bộ Việt cộng:
- Vậy thì giữa chúng tôi và các anh, ai
mới là người có tội?
Bấy giờ thì hai tên Việt cộng giận run,
nét mặt đanh lại, xám ngắt. Chúng không trả lời câu hỏi của anh
Giáo mà đuổi anh ra khỏi phòng.
Bằng đủ mọi cách đấu tranh buộc anh
Giáo nhận tội không kết quả, bọn Việt cộng để cho phong trào lắng
xuống. Ai cũng hồi hộp, lo lắng, không biết điều gì sẽ xảy đến
cho anh KTG. Việt cộng có thể mang anh ra bắn công khai về tội
phản động như họ đã từng làm ở trại này mà anh Giáo cũng như mọi
người trong trại đều biết. Thời gian này anh Giáo cho biết các em
của anh đi học tập cùng đợt đã được ông chú bảo lãnh về hết,
trong đó có người em ở trại kế bên, chỉ cách nhau một hàng rào
dây thép gai. Ngày hai anh em chia tay nhau bên hàng rào, anh
Giáo dặn em hãy về lo cho mẹ và gia đình và đừng lo gì cho anh,
chắc là lâu lắm anh mới được về. Phần anh vẫn vui vẻ sống cùng
anh em với tinh thần bình thản, một đôi khi còn tiếu lâm, khôi
hài nữa. Anh thường hay hát những bài như “Hà Nội, Niềm tin và Hy
vọng”, “Anh lính quân bưu vui tính”.... Tôi hỏi sao không hát
những bản nhạc của mình, anh nói hãy cố giữ nội quy của họ để họ
không nói được mình. Anh Giáo là thế, lúc nào cũng tự trọng. Mười
bài học chính trị rồi cũng qua. Chúng tôi có nhiều giờ rảnh hơn
vì lúc này không còn phải ngồi hàng giờ để thảo luận và “giúp đỡ”
anh Giáo nữa. Nghĩ lại,Việt cộng dùng từ cũng ngộ, như từ “giúp
đỡ” được dùng trong trường hợp này. Chúng tôi xét thấy chẳng có
ai đủ tư cách để giúp đỡ anh Giáo, ngược lại rất nể trọng anh và
được anh giúp đỡ rất nhiều.
Vào những buổi chiều sau khi cơm nước
xong, anh và tôi thường hay đi bách bộ dưới tàng những cây sứ có
hoa màu trắng, tỏa hương thơm ngát. Chúng tôi thường trao đổi với
nhau về chuyện ngân hàng và những vấn đề mà cả hai cùng quan tâm.
Thấy anh nhặt rất nhiều bông sứ, tôi hỏi:
- Chi vậy?
-
Mai mốt về tặng người yêu - Anh trả lời.
- Chắc là cô bạn rất thích hoa này?
- Vì
nó trắng tinh khiết và thơm dịu dàng.
-
Sợ tới chừng đó nó sẽ phai màu đi – Tôi e ngại.
- Không sao. Dù hoa có phai màu nhưng chắc sẽ giữ được tình cảm
của mình trong đó!
- Anh lãng mạn quá –
Tôi nhận xét.
Anh Giáo cười để lộ hai cái răng khểnh và một đồng tiền dưới khóe
miệng bên phải. Trông anh dễ thương hơn bao giờ hết!
Có lần trong lúc trò chuyện anh nói
hiện nay anh ghét nhất là cái khẩu hiệu “Yêu nước là yêu chủ
nghĩa xã hội”. Bản thân chủ nghĩa xã hội không ra gì thì làm sao
mà yêu cho được. Theo anh Giáo, yêu nước là yêu nước. Không thể
và không nên gán ghép nước Việt Nam với bất cứ một chủ nghĩa nào,
dù là Chủ Nghĩa Xã Hội, cộng sản hay tư bản. Nếu những chủ nghĩa
này sụp đổ thì không yêu nước nữa hay sao?
Đêm 21 tháng 6 năm 1976 chúng tôi được
chở bằng Motolova đến Tân Cảng xuống tàu há mồm 503 ra Phú Quốc.
Chuyến đi thật kinh hoàng như địa ngục trần gian mà con người có
thể tưởng tượng được. Hàng ngàn người bị dồn trên con tàu đóng
kín cửa. Ăn uống, ói mửa, tiểu tiện chỉ có một chỗ, cho vào thùng
phuy. Khi tàu cập bến Phú Quốc có nhiều tù nhân bị xỉu, những
người còn lại đều kiệt sức. Tù nhân phải dùng chính những thùng
phuy này để nấu cháo ăn ngay trong đêm. Cho tới hôm nay là ba
muơi bốn năm, hình ảnh hãi hùng này vẫn còn ám ảnh tôi. Tôi ghi
vào nhật ký:
Đau đớn thay những linh hồn cháy
lửa
Suốt đêm ngày tắm rửa với mồ hôi
Với cao tay quờ quạng chút hơi người
Miệng gào thét những âm thanh khiếp đảm
Ở Phú Quốc ngoài việc trồng rau để “cải
thiện” bữa ăn, việc lên rừng đốn củi là công tác thường xuyên và
cực nhọc nhất. Nhiều anh em nghe lời Việt cộng, đi tìm vác những
cây to để chứng tỏ mình là người “tiến bộ”. Anh Giáo thì không.
Lúc nào anh cũng ung dung, tự tại. Anh chỉ tìm vác những cây vừa
sức mình. Khi thấy cần phải nghỉ thì anh dừng lại nghỉ, mặc cho
bọn vệ binh ôm súng canh giữ cho tới lúc hết mệt anh mới đứng lên
đi tiếp. Anh khuyên anh em phải biết giữ gìn sức khỏe vì thời
gian “học tập” hãy còn dài. Giờ đây ngồi ghi lại những dòng này,
cảnh tượng của năm nào lại hiện ra trước mặt: trong một buổi
chiều ảm đạm, gió thổi ào ào. Một bên là biển, một bên là rừng.
Đoàn tù cả trăm người, dài hơn cây số, xếp hàng đôi, áo quần lôi
thôi lếch thếch, vai vác những thân cây nặng nề, mồ hôi lã chã,
chậm chạp lê bước trên những con dốc ngoằn ngoèo, trơn trợt.
Nhiều người té lên té xuống. Hai bên và phía sau là những tên vệ
binh ôm súng AK thúc giục. Tới đầu một con dốc, anh Giáo đặt thân
cây xuống, ngồi trên đó nghỉ mệt. Khi một người không đi nổi thì
cả đoàn phải dừng lại chờ. Điều này bọn cai tù Việt cộng không
muốn. Tên chỉ huy đến chỗ anh Giáo bắt phải đứng lên đi tiếp. Anh
Giáo trả lời mệt quá nên phải nghỉ. Tên cán bộ không chịu. Thế là
cuộc đấu trí bắt đầu. Đến khi đuối lý, tên cán bộ rút khẩu K54 ra
khỏi vỏ. Cả đoàn tù hồi hộp. Cả khu rừng như nín thở. Tên cán bộ
đến bên anh, nghiêm sắc mặt:
- Anh có đứng lên không?
- Tôi còn mệt.
- Anh không chấp hành
lệnh phải không?
- Tôi đã nói là tôi còn
mệt. Bao giờ hết mệt tôi sẽ đi.
Tên cán bộ hướng khẩu K54 về phía anh
Giáo:
- Anh
không đứng lên tôi bắn.
Anh Giáo vẫn ngồi bất động, lạnh lùng
đáp:
- Anh cứ
bắn đi!
Tên
cán bộ Việt cộng bóp cò. Hai tiếng nổ chát chúa vang động cả khu
rừng. Một bầy chim bay lên tán loạn, kêu quang quác... Nhiều
người tù gục xuống, ôm ngực:
- Lạy Chúa tôi.
Sự việc diễn ra chỉ trong vài giây ngắn
ngủi nhưng đã nói lên tất cả nét bi hùng của cuộc chiến sau “Hòa
bình” mà kẻ có vũ khí trong tay đã thua, đồng thời tính chất anh
hùng của người chiến sĩ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong hoàn
cảnh sa cơ thất thế vẫn sáng ngời, chói lọi. Người tù đã thắng!
Không biết vì sợ hãi hay run tay mà đường đạn nhắm vào anh Giáo
đã đi trượt một bên tai, làm bể nát phần thân cây mà anh Giáo
đang ngồi trên đó. Tôi thì sửng sốt, bàng hoàng, tưởng như mình
vừa trải qua một giấc mơ, vừa chứng kiến một cảnh chỉ có thể xảy
ra trên màn ảnh, truyền hình!
Anh Giáo thường hay kể truyện Tam Quốc,
truyện Thần Điêu Đại Hiệp, truyện Tây Du Ký cho chúng tôi nghe.
Hết truyện Tàu đến truyện tiếu lâm, làm cho đời sống tù tội bớt
căng thẳng. Sau một thời gian ở Phú Quốc, Việt cộng nhiều lần cho
họp liên trại, phát động lại chiến dịch đấu tranh bắt anh Giáo
nhận tội, nhưng rồi không thể nào lay chuyển được tư tưởng của
anh.
Riêng đám
tù binh chúng tôi bấy giờ rất thoải mái chớ không còn căng thẳng
như lúc ở Hốc Môn. Người ta chỉ tổ chức đấu tranh với anh Giáo
cho có lệ. Những lần như thế chúng tôi khỏi phải lên rừng vác
củi, được nghỉ lao động, lại thích hơn.
Nhưng thời khắc định mệnh đã tới! Một
hôm trong lúc xếp hàng điểm danh cuối ngày, cán bộ Việt cộng ra
lệnh cho anh Giáo phải bỏ kính ra. Anh trình bày vì cận thị từ
lâu nên không bỏ ra được. Chỉ chờ có thế, chúng ra lệnh nhốt anh
vào cũi sắt làm bằng dây thép gai, thứ mà chúng ta hay gọi là
chuồng cọp, diện tích rất hẹp, nằm không được mà ngồi cũng không
được. Chuồng cọp để giữa trời, không có mái che mưa che nắng.
Ngay từ năm 1930, khi thành lập đảng cộng sản, họ đã có chính
sách “Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc bốc tận rễ”. Anh KTG là một
trí thức mặc dầu thua trận vẫn cương quyết giữ vững lập trường
chống Cộng và quyết tâm bảo vệ chính nghĩa Quốc Gia thì sẽ bị
tiêu diệt là điều khó tránh khỏi. Tiến sĩ toán ĐXH, cá nhân tôi
và biết bao anh em khác cùng đội cũng mang kính trắng giống như
anh KTG mà không hề bị làm khó dễ. Điều này được giải thích như
thế nào đây? Mỗi ngày Việt cộng chỉ cho anh Giáo nửa chén cơm
lạt. Anh lại tuyệt thực để đấu tranh và phản đối chính sách dã
man và sự trả thù hèn hạ của chúng. Ngoài tuyệt thực, anh Giáo
còn dùng lời ca, tiếng hát để làm vũ khí đấu tranh. Bài hát anh
Giáo sử dụng là bài Đêm Nguyện Cầu, trong đó có những câu:
“Con tim chân chính không bao giờ biết
đến nói dối...
Nghẹn ngào cho non nước
tôi, trăm ngàn ưu phiền...”
Có lẽ trong giờ phút đó, anh Giáo biết
rằng mình đã ở vào thế hoàn toàn tuyệt vọng và chỉ có thể nguyện
cầu mà thôi. Đây là lần đầu tiên mà có lẽ cũng là duy nhất trong
đời, tôi nhìn thấy một người hát bằng tất cả linh hồn như vậy.
Anh Giáo thường cất tiếng hát của mình vào những đêm khuya thanh
vắng. Giọng hát của anh bay vào không gian, vào từng lán, trại,
có lúc thật cảm xúc, có lúc nghe rợn người như âm thanh phát ra
từ cõi chết. Nhiều người nghe anh hát thì ngủ không được, nhiều
người đang ngủ thì bừng tỉnh dậy và khóc nức nở. Bài Đêm Nguyện
Cầu là của Lê Minh Bằng. Anh Bằng năm nay vẫn còn sống ở Mỹ, chắc
anh không ngờ sáng tác của anh lại có người sử dụng trong hoàn
cảnh đắng cay như vậy. Giờ đây mỗi lần nghe lại bài hát này tôi
không cầm được nước mắt vì nhớ tới người bạn của mình. Lời ca của
anh Giáo rồi thì cũng yếu dần và tôi không nhớ cho đến khi nào
thì tắt lịm. Anh bị xuống sức rất nhanh. Từ một thanh niên khỏe
mạnh cao hơn một thước bảy, chỉ trong vòng một tháng anh chỉ còn
là một bộ xương, duy có đôi mắt là còn tinh anh, sáng ngời, khiến
cho nhiều người không dám nhìn thẳng vào mắt anh, nhất là cán bộ
Việt cộng.
Ngày 20 tháng 6 năm 1977 Việt cộng cho di chuyển một số tù nhân
từ Phú Quốc về Long Giao, Long Khánh. Anh Giáo di chuyển đợt đầu,
tôi thì đi đợt kế tiếp. Trong lúc di chuyển, anh Giáo bị còng
tay, lúc nào cũng có vệ binh ôm súng canh chừng. Ngay khi về tới
Long Giao tôi vội đi tìm anh Giáo. Khi gặp được anh thì anh đang
hấp hối. Tôi nắm tay anh, bàn tay lạnh ngắt. Lời nói cuối cùng
anh nhắn lại với tôi là khi nào được về thì nói tất cả sự thật
cho gia đình anh biết. Tôi hỏi địa chỉ ở đâu thì anh thều thào
trong hơi thở rất yếu. Hình như anh thốt ra hai chữ Huyền Trân.
Sau này khi đi lao động tình cờ tôi gặp được nấm mộ của anh, phủ
đầy cỏ dại ở một góc sân banh hoang vắng. Trên mộ có tấm bảng gỗ
nhỏ có đề tên anh, nét chữ nhạt nhòa.
Tôi được tha về cuối năm 1977. Mặc dầu
phải đương đầu với biết bao khó khăn trong đời sống hàng ngày đối
với một người vừa mới ra tù, tôi vẫn để tâm đi tìm gia đình anh
Kha Tư Giáo. Theo quyết định ra trại, tôi chỉ được tạm trú ở nhà
một tháng, sau đó phải chịu sự điều động của địa phương đi “Kinh
Tế Mới”. Nhờ may mắn, tôi xin được giấy chứng nhận là thuộc diện
sử dụng vào công việc của thành phố. Từ đó tôi xin được việc làm
và dần dần ổn định được đời sống. Tôi đã tìm khắp mọi nẻo đường,
từ Sài Gòn vô Chợ Lớn, Bà Chiểu, Phú Nhuận, nhất là đường Huyền
Trân Công Chúa, đường có hai chữ Huyền Trân mà tôi đã nghe anh
Giáo thốt ra trong lúc lâm chung. Nhưng con đường này toàn là
biệt thự, có vẻ là công sở hơn là nhà tư nhân. Tôi cứ đi qua, đi
lại con đường này không biết bao nhiêu lần. Khi tôi vào hỏi đều
nhận được cái lắc đầu của chủ nhà. Cũng có lần tôi cầu may lên
Thành ủy Sài Gòn ở đường Trương Định, quận Ba để hỏi thăm về đồng
chí KVC, Bộ Trưởng Bộ Công Nghiệp Nhẹ nhưng tôi không qua được
cổng bảo vệ vì khi được hỏi quan hệ như thế nào với đồng chí bộ
trưởng thì tôi trả lời quanh co mà không chứng minh được gì cả.
Trong suốt hai mươi năm ở Sài Gòn không
tìm được gia đình anh Giáo thì tôi được người em vợ bảo lãnh đi
Mỹ, định cư ở Chicago vào cuối năm 1997. Sang Mỹ tôi vẫn tìm cách
thực hiện nguyện vọng cuối cùng của người bạn quá cố. Tôi cố gắng
dò hỏi trong số bạn bè mà tôi liên lạc được xem có ai biết gia
đình họ Kha ở đâu không. Một lần nữa tôi không có tin vui. Điều
tôi làm được là cuối tháng 12 năm 2001 tôi viết lại câu chuyện về
anh Kha Tư Giáo, đặt tựa đề NGƯỜI KHÔNG NHẬN TỘI và gửi cho tờ
Việt Báo ở California, mục “Viết về nước Mỹ”. Tôi chọn mục này vì
đây là diễn đàn có số độc giả rất lớn, ở khắp nơi trên thế giới,
biết đâu gia đình anh Giáo sẽ đọc được. Hy vọng của tôi rất mong
manh vì bài của tôi không nói gì về nước Mỹ mà chỉ viết về người
bạn của mình đã ngã gục trong tù cộng sản. Vậy mà không ngờ, bài
viết cũng được chọn đăng và được phổ biến trên hệ thống toàn cầu.
Tôi lại hồi hộp chờ đợi bài viết của mình đến với gia đình anh
KTG. Ngày 23 tháng 1 năm 2002 tôi nhận được email của Ban Chủ
Nhiệm Việt Báo chuyển cho cùng với bức điện thư của anh KTC, em
của anh KTG gửi từ Austin, Texas, báo tin gia đình anh đã đọc
được bài viết của tôi. Bức điện thư ngắn ngủi nhưng đã gây cho
tôi một cảm xúc mạnh, một niềm vui lớn. Bạn hãy tưởng tượng cũng
biết được là tôi hạnh phúc như thế nào khi nỗi niềm đã được giải
tỏa, khi ước mơ 25 năm đã thực hiện được, nhất là ước mơ đó là
của người quá cố, nên có tính cách linh thiêng.
Chiều chủ nhật 27 tháng 1 năm 2002, tôi
đang ở nhà thì nhận được điện thoại từ Texas:
- Hello! Tôi là KHT, em ruột anh Kha Tư
Giáo. Xin lỗi có phải....
- Tôi, Duy Nhân đây.
- Chào anh Duy Nhân! Có phải anh là tác
giả bài viết Người Không Nhân Tội?
- Tôi đây chị.
- Hân hạnh được nói chuyện với anh. Gia
đình tôi đọc được bài viết của anh trên Internet. Không ngờ sự
thật như vậy....
Tới đây thì tiếng nói đứt quãng. Tôi
nghe được cả sự nghẹn ngào bên kia đầu dây. Chị HT quá xúc động.
Tôi cũng vậy. Tôi giữ được im lặng trong một phút, rồi nói:
- Đây là giây phút mà tôi chờ đợi suốt
hai mươi lăm năm nay.
- Gia đình chúng tôi cám ơn anh nhiều
lắm.
- Tôi chỉ
làm nhiệm vụ đối với anh Giáo, một người bạn của tôi.
- Bài viết của anh nói lên được nhiều
điều. Qua đó, gia đình tôi hiểu rõ sự thật về anh Giáo, về cộng
sản mà nhiều cán bộ cao cấp theo cộng sản suốt đời cũng không
hiểu được.
Tôi
lại nghe tiếng nức nở bên kia đầu dây. Chị HT lại khóc. Sau đó
chị kể cho tôi nghe những sự kiện tiếp theo cái chết của anh
Giáo. Chín tháng sau khi anh Giáo chết thì Việt cộng mới báo tin
về gia đình, Họ có hoàn lại cho gia đình một số vật dụng cá nhân,
trong đó có cặp kính trắng. Bây giờ tới phiên tôi đau lòng và xót
xa khi nghe nhắc tới cặp kính trắng. Đó, chứng tích của sự trả
thù hèn mọn và một chính sách sai lầm đối với trí thức, đối với
người thuộc chế độ cũ mà tôi là nhân chứng từ đầu tới cuối. Khi
gia đình nhận được giấy báo tử của anh Giáo thì mẹ và các em đi
gặp cán bộ có chức quyền để hỏi. Họ nói anh Giáo nhịn ăn cho tới
chết. Mẹ anh hỏi lý do gì khiến anh Giáo phải tuyệt thực, anh
Giáo có tội gì phải [bị] biệt giam, đề nghị cho xin bản án hoặc
biên bản về cái chết của anh Giáo. Việt cộng không trả lời. Mặc
dầu uất ức nhưng mẹ anh cố kềm nước mắt không bật khóc trước mặt
Việt cộng. Đến khi mẹ anh Giáo đề nghị được dẫn đi tìm mộ thì bọn
Việt cộng lại tỏ ra khó chịu và đòi hối lộ. Cuối cùng, bà và các
em phải đi tìm một mình và dĩ nhiên là không thể nào tìm được! Vì
quá đau buồn, mẹ anh Giáo qua đời sau đó ít lâu. Khi tôi nhắc đến
tên Huyền Trân thì chị nói đó không phải là tên đường mà là tên
của chị. Có lẽ trong lúc lâm chung anh Giáo gọi tên chị mà tôi
tưởng là tên đường. Chị HT nói cho tới bây giờ gia đình chị không
ai biết anh Giáo nằm ở đâu. Tôi thì biết rất rõ. Ngôi mộ quay đầu
về hướng Đông ở một góc sân banh. Trên mộ có xuất hiện một cây
hoa dại có bông rất lạ. Ngày xưa mỗi lần đi lao động về ngang qua
ngôi mộ tôi đều bứt vài bông đem về cắm trong lọ mà tưởng tượng
anh Giáo như còn sống. Anh Giáo đã chết một cách vô danh mà anh
hùng như loài hoa kia đã dũng cảm vươn lên giữa khô cằn và gai
góc.
Sau chị
HT thì anh KTH, em kế anh Giáo từ bên Pháp đã liên lạc với tôi
bằng thư và nói chuyện qua điện thọai. Anh cho biết rõ hơn về
tính tình ngay thẳng, cương trực của anh Giáo. Anh H tỏ ra rất
hãnh diện và tự hào về người anh của mình, đã chọn cái chết mà
không phải ai cũng làm được. Anh đã thanh thản đi vào trang sử bi
hùng của Quân Lực VNCH và dân tộc.
Anh Kha Tư Giáo ơi! Ở một nơi nào đó
chắc là anh đã mãn nguyện vì ước muốn sau cùng của anh đã được
thực hiện, dầu có muộn màng. Bài mà tôi viết về anh người ta đã
lấy dựng thành kịch (1), cho phổ biến, trình chiếu khắp nơi mà
không xin phép phía sở hữu tác quyền của người quá cố, nhân vật
chính của truyện hồi ký này. Thôi thì hãy ngậm cười mà tha thứ
cho họ, tha thứ tất cả. Tha thứ cho những kẻ đã hành hạ anh,
những kẻ bỏ đói anh, tha thứ luôn cho cái chuồng cọp nhốt anh đêm
ngày và cái còng sắt siết chặt tay anh rướm máu! Bây giờ đã là ba
mươi bốn năm, vậy mà tôi tưởng như mới ngày nào.... Lịch sử vẫn
đang ghi nhận những sự thay đổi, những bước tiếp diễn lạnh lùng
của nó. Có những điều anh nhận định, anh mong mỏi bây giờ đã là
sự thật, ngoại trừ Tự Do và Hạnh Phúc cho mọi người. Gia đình anh
có nhiều thay đổi: Mẹ anh đã qua đời, ông chú anh cũng đã ra đi.
Người ta dùng tên chú anh để đặt tên một con đường nhỏ ở Thủ Đức
nhưng lại viết sai chính tả! Anh còn lại những người thân nhưng
đã phân tán mỗi người mỗi ngã. Có người còn ở Việt Nam, có người
ở Pháp, ở Mỹ.... Tôi vẫn đang liên lạc với họ, vẫn nghe tiếng họ
nói mà chưa một lần gặp mặt. Vậy mà cảm thấy như đã thân quen tự
thuở nào. Về phần tôi, khi nào điều kiện cho phép tôi sẽ về lại
Việt Nam. Tôi sẽ đi tìm ngôi mộ của anh, sẽ thắp lên đó một nén
hương và trồng bên cạnh đó một cây sứ có bông màu trắng.
Duy Nhân
Tác giả chú thích
[1]
Bài viết Người Không Nhận Tội đã được Trung Tâm Băng Nhạc Asia
dàn dựng với cùng tựa đề, do Ban kịch Sống – Túy Hồng trình diễn
trong cuốn Asia số 36 (chủ đề Người Lính) tưởng niệm 27 năm tháng
4 đen (30/4/1975 – 30/4/ 2002). Bài này được viết lại tháng 4 năm
2010 để tưởng niệm 35 năm ngày mất nước.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Mùa QH 30-T4-Đ/2018. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MĐ Trần Hồng Minh chuyển
Đăng ngày Thứ Hai, May 7, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang