Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Văn học VN Hải ngoại
Chủ đề:
Giới thiệu sách mới
Tác giả:
BS Trần Văn Tích
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Chúng
ta đã có nhiều công trình biên khảo về nền văn học dân tộc của
Dương Quảng Hàm, Nghiêm Toản, Phạm Thế Ngũ, Hà Như Chi, Phạm Văn
Diêu, v.v. Đó là chỉ nói về Miền Nam, dưới chế độ quốc gia. Ở
Miền Bắc cũng có nhiều tuyển tập văn học sử, phần lớn do một tập
thể biên soạn.
Các tác giả sáng tác theo tinh thần
quốc gia chỉ nhắm mục đích là cung cấp cho giới đọc sách một cái
nhìn tổng quát về văn học sử Việt Nam. Đến lượt mình, Trần Bích
San nêu rõ tâm nguyện khi chấp bút nơi trang 25 sách Văn học Việt
Nam: “Sách này được soạn thảo với mục đích bảo tồn sự trung thực
của lịch sử văn học Việt Nam.” Như vậy, khác hẳn các nhà nghiên
cứu văn học sử tiền bối, Trần Bích San không những là một người
biên khảo văn học mà còn là một người lính chống cộng.
Tác phẩm Văn học Việt Nam phát hành
cuối năm 2018, dày 1200 trang, in chữ cỡ lớn, do Nhà Xuất bản Cỏ
Thơm ấn loát và tác giả cùng thân nhân phát hành. Sách gồm 31
chương, bắt đầu với:
Chương 1 Nguồn gốc Văn học Việt Nam;
rồi qua các:
Chương 2 Chữ Việt Thượng Cổ,
Chương 3 Chữ Hán Chữ Nho,
Chương 4 Chữ
Nôm,
Chương 5 Chữ Quốc Ngữ;
kế tiếp là các:
Chương 6 Giáo Dục Nho Học,
Chương 7 Giáo Dục Pháp Thuộc,
Chương 8
Giáo Dục Quốc Gia,
Chương 9 Giáo Dục
Cộng Sản;
rồi
đến các:
Chương 10 về Nho Giáo,
Chương 11 Quan
Niệm Quân Tử-Đại Trượng Phu,
Chương 12
Mẫu Người Kẻ Sĩ,
Chương 13 Danh Vị Tam
Nguyên,
Chương 14 Học Vị Phó Bảng. Từ
Chương 15 Văn Khảo Khái Luận;
qua các:
Chương 16 Phương Pháp Biên Soạn Văn Học
Sử,
Chương 17 Sai Lầm, Nghi Vấn Trong
Văn Học Sử,
Chương 18 Trở Ngại Biên Khảo
Nho Nôm.
Sách
trình bày cung cách và tầm nhìn văn học sử cùng với những vấn đề
tồn nghi. Lịch sử văn học dân tộc được ký thác trong các:
Chương 19 Trương Vĩnh Ký,
Chương 20 Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong Tạp Chí,
Chương 21 Tự Lực Văn Đoàn,
Chương 22 Các
Nhà Văn Nữ Chữ Việt,
Chương 23 Trào Lưu
VănChương Lãng Mạn,
Chương 24 Khuynh
Hướng Trào Phúng,
Chương 25 Thơ Văn Yêu
Nước,
Chương 26 Thi Ca Dục Ái.
Phần cuối gồm những:
Chương 27 Câu Đối,
Chương 28 Phê Bình Văn Học,
Chương 29
Truyện Ngắn,
Chương 30 Phóng Sự-Tuỳ Bút
và 31 Ca Dao.
Sách chấm dứt với ba Phụ Lục: Các Nhà Văn Nữ Chữ Quốc Ngữ, Mục
Lục Tác Giả, Nhân Vật và Tiểu Sử Tác Giả.
Sáng tạo
Chương 2 Chữ Việt thời Thượng cổ là một
chương mới, các sách viết về văn học sử dân tộc trước kia không
có. Chương này trình bày các luận cứ nhằm chứng minh là người
Việt có văn tự riêng từ đời thượng cổ căn cứ vào các di tích khảo
cổ học. Sách còn giới thiệu cả bài hịch của Hai Bà Trưng viết
theo tự dạng tiếng Việt thời cổ đại.
Các chương dành riêng cho hai vấn đề
Danh vị Tam nguyên và Học vị Phó bảng là những chương chỉ giáo
quý báu và khoa học, chúng được trình bày một cách có hệ thống về
hai học vị thời phong kiến kèm theo danh tính và tiểu sử các vị
tam nguyên (Lê Quý Đôn, Trần Bích San, Nguyễn Khuyến, Vũ Phạm Hàm
cùng với giai thoại văn học) và một số vị phó bảng (như Nguyễn
Văn Siêu, Hoàng Diệu, Kiều Oánh Mậu, Phan Chu Trinh, v.v.) Riêng
đối với Kiều Oánh Mậu, sách Văn học Việt Nam chỉ ghi nhận Ông là
tác giả Bản triều Bạn nghịch Liệt truyện. Thực ra Kiều Oánh Mậu
còn là một nhân vật văn học sử rất quan tâm đến nền văn học chữ
Nôm nên đã diễn nôm các truyện Tỳ bà, Hương sơn Quan Thế Âm. Đáng
nói hơn nữa, Kiều Oánh Mậu đã tiến hành chú thích rất công phu
Truyện Kiều của Nguyễn Du, phân biệt rõ ràng các bản phường, bản
kinh và trả lại tên gọi chính thức Đoạn trường Tân thanh cho
Truyện Kiều.
Chương 17 Sai lầm, Nghi vấn trong Văn học sử có thể được xem như
một bản tập đại thành về những vấn đề còn tồn nghi liên quan đến
thành phần chính thức của Tự lực Văn đoàn, đến năm sinh năm mất
của một số nhân vật, đến hành trạng tiểu sử của một vài khuôn
mặt, đến tác giả đích thực của một số tác phẩm văn học, v.v.
Ca dao đã được đề cập đến ở Chương 1
nhưng Chương cuối, Chương 31 lại cũng mang tên Ca dao. Đúng ra nó
phải mang tên “Ca dao Lịch sử” vì Chương này trình bày ca dao
thời Nguyễn triều và nhất là ca dao thời hiện đại, ca dao đả kích
chế độ cộng sản, gồm từ trang 997 đến trang 1023 với những tiểu
mục Sau tháng Tư đen, Đổi tiền, Học tập cải tạo, Hợp tác xã, Đi
kinh tế mới, Đào kinh, Phí phạm công quỹ, Vượt biên, Vượt biển,
Cuộc chiến biên giới Việt-Trung năm 1979, Việt kiều, Khối cộng
sản tan rã, Đổi mới, Chế độ, Dân biểu nghị gật, Lãnh tụ, Cán bộ
cao cấp, Đường lối cai trị, Tham nhũng thối nát, Phẩm chất Việt
xuống thấp, Bán nước.
Kèm theo những phần do chính tác giả
phụ trách viết, có những phần gọi chung là “Bài đọc thêm”, những
phần này góp công vào việc giải thích chi tiết hơn, chu đáo hơn,
cụ thể hơn những điều đã được ký thác trong văn bản chính.
Thiếu sót
Có những chi tiết tác giả chưa
biết để nêu ra trong thành quả trí tuệ của mình.
Không những chỉ có Nam Phong được
chuyển toàn bộ vào sáu dĩa DVD (tr. 644) mà Bách Khoa cũng được
tàng trữ nguyên vẹn tại Thư viện Quốc gia của Quốc Hội Hoa Kỳ và
thư viện Đại học Yale; mới đây tạp chí này còn được Diễn đàn Thế
kỷ bên Mỹ số hoá toàn bộ và 426 số báo đã được điện tử hoá, qua
công trình của nhà nghiên cứu văn học Phạm Phú Minh.
Trần Thanh Mại đã tìm ra khuê danh của
Bà Huyện Thanh Quan là Nguyễn thị Hinh. Chữ “hinh” viết với bộ
“hương” trong chữ Hán nghĩa là mùi thơm lan toả mạnh và xa, như
nói hinh hương đảo chúc nghĩa là đốt hương cầu khấn; thuỳ hinh
thiên tự nghĩa là để lại tiếng thơm ngàn năm. Khi Hiệp khách hành
của Kim Dung sắp chấm dứt, người đọc có dịp làm quen với nhân vật
nữ tên họ là Mai Văn Hinh, Văn Hinh có thể chuyển sang Anh ngữ
thành literary perfume, một cái tên thực đẹp.
Trong tác phẩm của mình, Tác giả Trần
Bích San chỉ có thể trình bày những kiến giải tưởng chừng đã ổn
định nhưng thực ra không phải hoàn toàn chính xác.
Ví dụ, đối với Kinh Dịch, tác giả chấp
nhận là đã được “Khổng Tử giải nghĩa” (tr. 290). Đó là một phần
nội dung thuyết tác dịch tam thánh của Trịnh Huyền đời Đông Hán,
theo thuyết này, truyền thuyết cho rằng Phục Hy chế ra quẻ, Chu
Văn Vương viết Quái từ và Không Tử viết Thập dực. Tuy nhiên theo
khảo chứng của các tác giả gần đây, thuyết này không đáng tin vì
Phục Hy là một nhân vật hư cấu, huyền thoại, không có thật; vả
lại Kinh Dịch không phải là tác phẩm do một nhân vật viết trong
một thời đại. Chu Dịch đã được nhiều tác giả chuyển sang Việt
ngữ, như Phan Bội Châu, Ngô Tất Tố, v.v.
Nơi trang 125, tác giả cho rằng Thuyết
Văn Giải Tự của Hứa Thận soạn có 9,353 chữ. Sự thực lịch sử phức
tạp hơn. Hứa Thận căn cứ vào kinh điển cổ văn cùng các sách Sử
lựu thiên và Thương Hiệt thiên để biên soạn thành bộ tự điển
Thuyết Văn Giải Tự vào năm Kiến Quang nguyên niên đời Hán An đế
(121). Công trình trước tác đòi hỏi 23 năm. Nguyên bản sách này
đã bị tàn khuyết, triều Nam Đường thời Ngũ Đại, Từ Huyền hiệu
đính xác định văn bản thu chép được 10,516 chữ, trong đó có 1163
chữ trùng lắp, còn lại 9,353 chữ. Năm 1963 sách được Trung Hoa
Thư cục xuất bản. Trong lịch sử qua các triều đại, các bản chú
thích Thuyết văn Giải tự có rất nhiều, ảnh hưởng lớn nhất là
Thuyết văn Giải tự chú của Đoàn Ngọc Tài đời Thanh do Thượng Hải
Cổ tịch Xuất bản xã phát hành năm 1981.
Chế độ quốc gia vốn quan tâm rất lớn
đến kho tàng văn học chữ Hán nên đã có nhiều cống hiến rất đáng
biểu dương và trân trọng như thành lập Ủy ban Dịch thuật thuộc
Phủ Quốc vụ khanh Đặc trách Văn hoá với người đứng đầu cơ quan là
Mai Thọ Truyền, kế đó lại thành lập Trung Tâm Học Liệu với trụ sở
ở đường Trần Bình Trọng. Ngoài ra còn có những tổ chức dịch thuật
từ Hán sang Việt khác như Ủy ban Phiên dịch của Viện Khảo cổ Sài
Gòn, Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam của Viện Đại học Huế, Hội
Việt Nam Nghiên cứu Liên lạc Văn hoá Á châu, v.v. Riêng Ủy ban
Dịch thuật của Phủ Quốc vụ khanh qui tụ nhiều ban ngoài ban Hán,
ban Nôm còn có các ban Trung Hoa học, Anh, Pháp, Nhật, Đức, v.v.
Mỗi ban lại chia ra nhiều tổ chuyên môn như ban Hán văn có các tổ
Sử, tổ Địa, tổ Triết. Đội ngũ dịch giả khá đông đảo, dễ đến hơn
trăm người, nhiều người có danh vọng và uy tín như Đoàn Trung
Còn, Lê Xuân Giáo, Lê Mạnh Liêu, Hoàng Khôi, Lê Xuân Mai, Tạ
Quang Phát. Những dịch phẩm đã hoàn tất bao trùm các lĩnh vực
văn, sử, triết, luật, địa, kinh… Xin liệt kê vài tác phẩm đáng để
ý vì có giá trị đặc biệt về văn học lịch sử, do từng cá nhân hoặc
do Phủ Quốc vụ khanh phụ trách dịch thuật, ấn loát và phát hành:
Quốc
triều Hình luật do Cao Nãi Quang dịch, xuất bản năm 1956;
An Nam Chí lược, do Ủy ban Phiên dịch
Sử liệu Việt Nam Viện Đại học Huế xuất bản năm 1961;
Ô Châu Cận lục do Bùi Lương dịch, xuất
bản năm 1961;
Sử ký Tư Mã Thiên, Nhượng Tống dịch, xuất bản năm 1964;
Ức Trai tập, Hoàng Khôi dịch, xuất bản
năm 1972, v.v.
Ngoài ra Công dư Tiệp ký của Vũ Phương
Đề, Vân đài loại ngữ, Kiến văn Tiểu lục của Lê Quí Đôn, Lịch
triều Hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, v.v. cùng với Tứ thư
Ngũ kinh của Nho giáo cũng được Trung tâm Học liệu tổ chức dịch
thuật và ấn loát, phát hành trong khi Truyện Kiều bản Chiêm Vân
Thị in tại Nhà in Tương Lai, đường Võ Tánh, Sài Gòn cũng được
đích thân Bộ Văn hoá Giáo dục và Thanh niên tái bản năm 1973 với
phần chữ Nôm in rất mỹ thuật. Các tài liệu tham khảo này in và
đóng thành sách với trang giấy cỡ lớn, văn bản ít lỗi ấn loát và
nhất là với ưu điểm nổi bật mà chỉ có sách dịch dưới chế độ quốc
gia mới làm được, đó là việc in nguyên văn chữ Hán chữ Nôm kèm
theo ở phần sau hoặc xen kẽ với phần dịch. Công việc in nguyên
văn Hán tự không những giúp phổ biến rộng rãi các tác phẩm cổ mà
các nguyên bản chữ Hán đính kèm dịch phẩm còn có tác dụng giúp
người đọc có phương tiện và cơ hội thẩm tra lại những chỗ còn
nghi vấn khi cần thiết hoặc cung cấp thêm tài liệu cho giới
nghiên cứu tiến hành khảo dị.
Bổ túc
Chúng tôi trộm nghĩ sách Văn học Việt
Nam cần được bổ túc bằng một chương riêng liên quan đến thi loại
từ trong văn học Việt Nam.
Tất cả các tài liệu văn học sử Việt Nam
từ trước đến nay không có tài liệu nào trình bày về thi loại từ.
Trường Đại học Văn khoa Hà Nội trước 1954 và Trường Đại học Văn
khoa Sài Gòn trước 1975, cả hai trường đều không có một giờ nào
giảng về từ cho sinh viên. Thậm chí Giáo sư Văn khoa Trần Trọng
San còn cho rằng “trong văn học Việt-Hán chỉ có độc nhất một bài
từ: bài này làm theo điệu Vương lang qui do Đại sư Ngô Chân Lưu
tặng sứ thần nhà Tống Lý Giác ở thời Lê Đại Hành (năm 907); trong
văn chương chữ Nôm chỉ có mấy bài từ làm theo điệu Tây giang
nguyệt trong truyện Sơ kính tân trang của Phạm Thái ở đời Hậu
Lê”. Đến lượt mình, tác giả Trần Bích San chỉ có một lần duy nhất
đan cử thể từ nơi trang 183 một cách ngắn ngủi, nguyên văn: “các
bài từ của Phạm Thái”.
Từ là một thể loại thi ca cổ điển của
Trung Hoa. Từ manh nha thời Nam triều, trưởng thành vào đời
Đường, thịnh hành ở thời Tống. Từ sản sinh sớm nhất trong dân
gian, gốc gác của nó vốn là chốn thanh lâu và các chuyên viên
trình diễn từ đầu tiên là giới kỹ nữ. Từ là tổng hoà thi và nhạc
bởi vì mỗi bài từ đều được viết theo một nhạc phổ mà thuật ngữ
chuyên môn gọi là từ phổ và công việc đặt lời ca cho từ phổ được
gọi là điền từ.
Bài ca của Đại sư Ngô Chân Lưu sáng tác
để tống tiễn sứ thần Lý Giác thực ra làm theo điệu Nguyễn lang
qui chứ không phải Vương lang qui. Nhà Trần tiếp sứ Nguyên là
Trần Phu đã cho cử nhạc gồm các điệu Trang Chu mộng điệp, Bạch
Lạc Thiên, Mẫu biệt tử, Vi sinh, Ngọc tiêu, Đạp ca, Thanh ca,
Giáng chân long, Nhập Hoàng đô, Yến giao trì và Nhất thanh phong.
Đó là những khúc hát đã được Lê Quí Đôn ghi lại trong Kiến văn
Tiểu lục, dựa theo Giao châu Thi tập của Trần Cương Trung; rất có
thể đây là những điệu từ. Điệu Đạp ca chẳng hạn có lẽ là điệu Đạp
ca từ. Bài từ cuối cùng là của Tản Đà, đó là bài Tống biệt viết
vào năm 1917 theo điệu Hoa phong lạc.
Giữa hai thời điểm 907 và 1917 – hơn
mười thế kỷ – thỉnh thoảng cũng có tác giả vận dụng thể từ. Về
phái nữ có Liễu Hạnh tiên chúa với những bài theo các điệu Bộ bộ
thiềm, Xuân quang hảo, Cách phố liên, Nhất tiễn mai; Trương Quỳnh
Thư trong Sơ kính tân trang với hai điệu Tây giang nguyệt và Nhất
tiễn mai; Hồ Xuân Hương với điệu Xuân đình lan.
Về nam giới có thể kể chúa Trịnh Cương
với điệu Kiều dương cách; Ngô Thì Sĩ với điệu Tô mộ già; Tùng
Thiện Vương với rất nhiều điệu tập hợp trong từ tập Cổ duệ từ như
Hoãn khê sa, Thanh bình lạc, Dương châu mạn, Mô ngư nhi, Giải bội
lệnh, Lưỡng đồng tâm, Kim nhân bổng ngọc bàn, Pháp khúc hiến tiên
âm; Đào Tấn với gần hai mươi điệu trong Mộng mai từ tập: Mãn
giang hồng, Bồ tát man, Nhất lạc sách, Ngư phủ từ, Lâm giang
tiên, Trường tương tư, Giá cô thiên, Ức Vương tôn, Ức Giang nam,
Hậu đình hoa, Ỷ la hương, Ngu mỹ nhân, Tiểu trùng sơn, Như mộng
lệnh, Điệp luyến hoa, Chuyển ứng khúc, Bốc toán tử, v.v. Thi hào
Nguyễn Du cũng có ít nhất một bài theo điệu Hành lạc từ và mười
lăm bài theo điệu Trúc chi từ (mà tác giả Truyện Kiều gọi là Trúc
chi ca). Ngoài ra các nhân vật hư cấu truyện Nôm như Vương Thuý
Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Tô Hữu Bạch trong Ngọc Kiều
Lê tân truyện của Lý Văn Phức cũng đều có điền từ.
Phần “Bài Đọc Thêm” của Chương này sẽ
giới thiệu vài ba bài từ kinh điển, quen thuộc chữ Hán của các
tác giả Trung Hoa nổi tiếng bên cạnh các bài từ cùng điệu bằng
chữ Hán hay chữ Nôm của nam nữ từ gia Việt Nam.
***
Khoa
văn học sử có nhiệm vụ nghiên cứu các hiện tượng văn học, các
phong trào văn học, các tác giả văn học. Văn học sử tìm hiểu quá
trình phát triển của nền văn học dân tộc, khám phá những qui luật
nội tại của văn học giúp áp dụng những qui luật ấy vào công việc
phê bình và đính chính văn học. Văn học sử cố gắng giải thích
những điều kiện lịch sử trong đó nền văn học dân tộc đã hình
thành và tồn tại. Văn học của một dân tộc có những đặc điểm không
giống với văn học của các dân tộc khác và nhiệm vụ của văn học sử
là nghiên cứu những đặc điểm liên hệ; ví dụ một đặc điểm của nền
văn học Việt Nam là sự phát triển song song của nền văn học viết
bằng chữ Hán và nền văn học viết bằng chữ Nôm trong khung thời
gian dài nhiều thế kỷ, hoặc một đặc điểm khác là sự chống đối
mãnh liệt giữa hai nền văn học tạm gọi nôm na là văn học Việt
quốc và văn học Việt cộng.
Ra đời trong bối cảnh lưu vong, Văn học
Việt Nam của Trần Bích San đáp ứng được phần lớn nhiệm vụ mà văn
học sử đã ủy thác cho nó. Nó là một trân phẩm hiện đại, khoa học,
nhân bản, khai phóng; nó đáng được xem là của gia bảo đối với
những ai còn nặng lòng với tiếng Việt chữ Việt.
Bonn, CHLB Đức, 09/01/2019
Trần Văn Tích
Địa chỉ mua sách:
Tiến sĩ Trần Gia Thái, Ph.D. hoặc Trần
Ngọc Châu
P.O.Box 740248,
New Orleans, LA 70174, USA.
ĐT:
(504)615-5606, (504) 263-5661;
E.mail:
chautran6@aol.com.
Giá bán sách:
$50.00USD. Độc giả ở Hoa Kỳ được miễn bưu phí.
Tất cả tiền bán sách dùng tặng quỹ yểm trợ Thương Phế Binh VNCH
của Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Thắng cảnh thiên nhiên Bắc Mỹ châu. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tvt chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, January 11, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang