Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Trang Thi-Văn & Âm nhạc
Hồi ký
Chiến Trường
Tác giả: Người Xứ Nghệ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Rất
tình cờ tôi biết được Người Lính Địa Phương Quân Lê Phi Ô, khi
đọc bài “Tử
Thủ” của tác giả Hắc Điểu trên một tờ báo online. Nội dung viết
về Tiểu đoàn 344/Địa Phương, thuộc Tiểu khu Bình Tuy, đã cầm chân
được Sư đoàn 6 Tân lập của Việt cộng, được tăng cường một Trung
đoàn Pháo, dưới quyền chỉ huy của Thượng Tướng VC Trần văn Trà,
Tư lịnh Quân khu 7, trực diện tấn công Chi khu Hoài Đức, thuộc
trách nhiệm phòng thủ của Tiểu đoàn 344/Địa Phương.
33
ngày đêm tử thủ ở Bộ chỉ huy Chi khu Hoài Đức, Tiểu đoàn 344/ĐP
quân số chỉ còn 50% hoặc ít hơn. Trong khi đó Chi khu Tánh Linh
gần đó đã thất thủ, và đơn vị tăng phái Liên đoàn 7 Biệt Động
Quân, sau một thời gian quần thảo với SĐ 6 Việt cộng đã lui binh.
Tiểu đoàn 344/ĐP đã đơn thương độc mã, tả xung hữu đột, đánh trả
những đợt tiền pháo hậu xung bằng biển người của địch quân không
cho chúng tràn ngập Bộ chỉ huy Chi khu Hoài Đức. Những người Lính
ĐPQ thuộc TĐ344/ĐP vào thời điểm này, thật sự chiến đấu trong
tuyệt vọng, với tình trạng một người lính ĐPQ chống 10 thậm chí
đến 20 Việt cộng với hỏa lực Pháo khủng khiếp. Nhưng với tinh
thần Bảo Quốc An Dân trong mỗi người lính ĐPQ, nên niềm tin nơi
họ chưa tuyệt [vọng]. Và cuối cùng sự cứu viện của Sư đoàn 18BB
gồm Trung đoàn 52/SĐ18BB từ hướng Nam đánh lên, Trung đoàn
43/SĐ18BB từ hướng Bắc Định Quán đánh xuống, mà nỗ lực chính là
Tiểu đoàn 2/43, Tiểu đoàn trưởng là Thiếu tá Nguyễn hữu Chế
“người hùng” của Sư đoàn 18BB đã đánh tan tác các đơn vị cộng
quân, giữ vững được Bộ chỉ huy Chi khu Hoài Đức đã điêu tàn vì
bom đạn. Người Hùng trong cuộc chiến 33 ngày đêm tử thủ, cầm chân
được Sư đoàn 6 Tân lập Việt cộng, không để cho Chi khu Hoài Đức
thất thủ, đó là Đại úy Lê phi Ô.
Người Lính ĐPQ Lê phi Ô
tốt nghiệp khóa 15 Trường Võ khoa Thủ Đức, cựu học sinh Trường
công lập Phan Bội Châu Phan Thiết từ năm 1955. Đáng lẽ, anh đã
mang cấp bậc Thiếu tá ngày 01 tháng 04 năm 1975, nhưng tình hình
chiến sự, đường bộ bị cắt đứt, đường hàng không kể cả Trực Thăng
tải thương cũng không có nên Quyết định thăng cấp từ Bộ TTM không
gởi đến được. Bạn anh, một Sĩ quan làm việc tại Phòng Tổng Quản
Trị Bộ TTM cũng đã cho biết thêm, lúc đó mọi phương tiện vận
chuyển đều phải ưu tiên cho chiến trường. Anh cùng Tiểu đoàn của
anh với 3 Tiểu đoàn bạn và 2 Đại đội Trinh Sát, đã không rút lui
khi một Sư đoàn Chính quy của Cộng sản Bắc Việt (thuộc Quân đoàn
5 CS) được tăng cường 24 Tanks T-54 và một Trung đoàn Pháo tiến
vào Thị xã La-Gi, trong đó có Bộ Chỉ huy Tiểu khu Bình Tuy, so
với tương quan lực lượng có thể nói là “Châu chấu đá Xe”. Nhưng
những người lính ĐPQ Tiểu khu Bình Tuy đã đánh một trận để đời
vào đêm 23 tháng 04 năm 1975, để rồi gãy súng tan hàng...
Cùng với vận nước nổi trôi, đã đẩy đưa anh vào những nhà tù khắc
nghiệt của cộng sản, trong chính sách trả thù tàn độc nhất của
những kẻ chiến thắng. Người lính ĐPQ Lê phi Ô đã từng nằm ở khám
Chí Hòa và sau đó bị đưa đến trại Trừng Giới A20, mà lúc ở trại
tù Xuyên Mộc người viết bài này đã từng nghe những lời khủng bố
của bọn Công an được gọi là Cán bộ Giáo dục đe dọa: “Các anh cứ
ngoan cố chống đối đi, chúng tôi đưa các anh tới trại Kiên Giam
A20 là các anh tiêu đời”. Trại Trừng Giới A20 khủng khiếp đến
chừng nào? Chúng tôi nhân dịp bài viết này, xin phép được nói về
trại A20 qua lời kể của những người Lính bị giam giữ ở nơi đây:
Trại Trừng Giới A20 nằm ở thung lũng Xuân Phước, một thung
lũng tử thần, vào rồi khó có đường ra. Muốn vào tới đây, người ta
phải vượt qua 60 cây số đường rừng. Nhưng tại sao lại gọi là Trại
Trừng Giới? Thực ra không có tài liệu nào định nghĩa những trại
xếp vào loại A, nhưng do quy chế với tù nhân cải tạo đặc biệt,
khắt khe hơn những kiểu trại Lý bá Sơ hay Đầm Đùn nên chúng tôi
gọi Trại A20 là trại Trừng Giới. Nhưng có thể mô tả một cách tổng
quát một trại tù được gọi là Trại Trừng Giới, khi nó được xử dụng
để làm tan vỡ sức đề kháng tư tưởng của những người tù cải tạo
cứng đầu nhất, tập trung từ những cuộc thanh lọc ở các trại giam
khác. Nói tóm lại, trừ phi có những biến chuyển chính trị ngoại
lai, những người tù cải tạo ở trại này có thể bị tù rất lâu mà
không được xét tha. Những cán bộ kiểm tra cộng sản trước khi ghi
chúng tôi vào danh sách chuyển trại theo phương án 4 (thanh lọc)
đã nói huỵch toẹt: “Vào đây (A20) thì có thép cũng phải chảy. Lũ
chúng bay cứ gọi là rũ tù với những hồ sơ chết đi theo”.
Trại Trừng Giới A20 rất đẹp, và nhìn qua người ta có cảm tưởng là
một điểm du lịch, vườn rau, ao cá, những hàng dừa thẳng tắp,
những căn buồng giam bằng gạch, mái lợp ngói đỏ, bệ nằm bằng
xi-măng, nhà ăn, một phòng văn hóa với những sách Đỏ, một hội
trường thênh thang với sức chứa 1,000 người. Nhưng nếp sống của
tù nhân đàng sau nét đẹp khang trang này, là cả một địa ngục trần
gian, ăn đói, làm việc khổ sai, bệnh không có thuốc, ít được gặp
gia đình. Mỗi tối tù nhân phải “ngồi đồng” để phê phán nhau về
lao động, bình bầu mức ăn hàng tháng, lấy của người này, cho
người kia, gây chia rẽ cấu xé nhau trong số tù nhân. Đó là chưa
kể đến buổi tối bọn cán bộ trại giam buộc tù nhân ngồi đấu tố lẫn
nhau. Bọn cộng sản trại giam cài vào hệ thống ăng-ten dày đặc, và
những dãy xà-lim kỷ luật, mà chúng tôi gọi là chuồng cọp cũng
được dựng lên. Cán bộ an ninh trại giam thường áp dụng chiến
thuật “Ra tay trước”, nghĩa là một người tù chỉ bị báo cáo “không
an tâm cải tạo” sẽ phải nằm trong chuồng cọp hàng năm trời, bị
cắt thực phẩm, bị cắt nước uống. Trong số những “Tù Vương” (từ
ngữ để chỉ những người bị cùm lâu nhất trong chuồng cọp), người
viết bài này nhớ đến hai vị Linh Mục là: Linh Mục Nguyễn văn Vàng
(Dòng Chúa Cứu Thế), năm 1969 lúc theo học khóa 9 Trung cấp CTCT
tại Trường Đại học CTCT Đà Lạt, đã được nghe ngài giảng dạy về
môn học “Nghệ thuật nói chuyện”, ngài bị bắt khi tham gia vào một
tổ chức Phục quốc, bị kết án chung thân và bị chuyển về trại giam
A20, nghe những người bạn tù ở Trại tù A20 kể: ngài chết sau 3
năm bị cùm ở chuồng cọp, toàn thể người Ngài bị ghẻ lở, kể cả
gương mặt, chỉ chừa đôi mắt. Linh Mục Nguyễn Luân, người viết
biết Ngài ở trại tù Xuyên Mộc, người tù bất khuất đã dám viết
hàng chữ: “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam - Không có Độc Lập
- Không có Tự Do - Không có Hạnh Phúc” trên mọi tờ khai lý lịch
mà cộng sản bắt Ngài viết, sau đó bị chuyển ra trại giam A20, một
số bạn tù khuyên Ngài nhẫn nhục để sống, vì cuộc đấu tranh lâu
dài, sẽ cần có người như Ngài. Ngài chỉ nói: “Tôi muốn chỉ là
viên gạch lót đường cho những cuộc đấu tranh sau này.” Ngài đã về
nước Thiên Đàng sau 3 năm nằm chuồng cọp.
Với thời gian
nằm chuồng cọp nhẹ nhất là nửa tháng đến một năm và nặng nhất từ
3 năm đến 5 năm bị cùm chân. Một bữa ăn trong chuồng cọp nhằm
thời kỳ bị thẩm cung hay tù nhân bị “Đì”, chỉ được phát 2 thìa
cơm hay 3 lát khoai mì, được trộn với lượng muối đậm đặc, và 2
muỗng nước nên tù nhân bị đói khát triền miên, từ ngày này qua
ngày khác. Ngoài sự hành hạ về thể xác do cai tù chủ trương, còn
có sự hành hạ của muỗi, muỗi nhiều đến nỗi mỗi người tù chúng tôi
đành phải cho chúng hút máu no nê, không bay được nữa thì lăn
đùng ra bệ nằm, rồi lấy tay chà để giết chúng. Cho nên khi vào
chuồng cọp, phải lấy ngày làm đêm, giấc ngủ chập chờn trong thảng
thốt, ăn uống thiếu thốn, ốm đau không có thuốc, sức lực tiêu tán
rất mau. Để chống lại những biện pháp này, chỉ còn một phương
pháp duy nhất: Chấp nhận phần xấu về mình, nghĩa là cầm chắc cái
chết trong phòng kiên giam, khi chấp nhận cái giá này sẽ thấy
mình thư thái, hết lo lắng, vượt qua được đói khát, vì thế người
tù sống bình thản, không nghĩ gì về cái chết và sự sống nữa.
Ngày người viết còn ở trong Ban Chấp Hành Hội CTNCT/New
Orleans, trong một lần gặp ông Đào văn Bình Tổng Hội trưởng Tổng
hội cựu TNCT. Ông có kể cho tôi nghe câu chuyện của Phóng viên tờ
Nhật Báo Chính Luận trước năm 1975, Ký giả Nguyễn Tú, cũng là
người tù Trại Trừng Giới A20 về những sỉ nhục mà người tù bị làm
nhục và hành hạ:
Thứ nhất: Theo ông
(Nguyễn Tú) thì bọn cộng sản VN còn tàn độc hơn bọn ác quỉ vì bọn
chúng có khoái cảm hành hạ tù nhân. Tại trại tù A20 mỗi khi tù
nhân bị kiên giam, cứ mỗi chén cơm chúng thêm vào một chén nước
muối. Vì đói quá cho nên người tù vừa gạt nước mắt vừa ăn. Khi
được thả ra vì quá khát nước, nên người tù cứ gục mặt xuống uống
nước cống rãnh mà không sao kéo lên được. Cảnh tượng này giống
cảnh chết khát trên sa mạc. Trong khi đó thì bọn cai tù CS thản
nhiên đứng cười hô hố!
Thứ hai: Có một
điều mà thế giới Phương Tây không sao hiểu được, là trong khi họ
ra sức chống lại chế độ “Phân Biệt Chủng Tộc” ở Nam Phi, thì
chính sách Phân Biệt Lý Lịch của CSVN còn tệ hại hơn rất nhiều mà
họ không biết. Chủ nghĩa Phân Biệt Chủng Tộc Nam Phi chưa tinh vi
và tàn khốc bằng sự Phân Biệt Lý Lịch Phản Động. Họ đã biến người
Miền Nam thành một loài nô lệ, một thứ dân bị trị hay đúng hơn
một thứ kẻ thù cần bị tiêu diệt.
Thứ ba:
Trong khi cả loài người lên án bọn diệt chủng Pol-Pot, thì người
ta quên lên án tội diệt chủng khủng khiếp của bọn đao phủ Hà Nội.
Bọn Khmer Đỏ chỉ giết 1 triệu người thôi. Còn bọn CSVN sau khi
chiếm được miền Nam, đã bỏ đói cả dân tộc suốt 15 năm. Hiện nay
trẻ em còi cọc không lớn được, phụ nữ không có khả năng sinh nở
vì thiếu dinh dưỡng hoặc bị sẩy thai liên miên, dân miền Nam đang
phải đối đầu với nạn diệt chủng qui mô có toan tính, có sách
lược.
Thứ Tư: Trong lịch sử nhân loại
chưa có chế độ nào tàn phá lương tâm và nhân phẩm con người bằng
chế độ cộng sản. Hiện nay ở Việt Nam chỉ cần một cái nhìn đểu là
người ta có thể giết nhau, chỉ cần một tí tiền là cháu nội có thể
lấy búa bổ lên đầu ông bà nội để cướp.
Nói đến người tù
Trại Trừng Giới A20, chúng ta lại nghĩ đến người lãnh tụ da đen
Nam Phi Nelson Mandela. Mandela ở tù 26 năm nhưng không mất vợ
mất con, gia đình và Tổ Quốc của ông vẫn còn đó. Danh vọng, sự
nghiệp, nhà cửa, bằng cấp, chiến hữu của ông vẫn còn đó. Chắc
chắn ông không bị bỏ đói, không phải kéo cày thay trâu, ông chưa
phải ăn chuột chết, gián sống, chưa phải uống nước cống rãnh,
chưa bị lột trần truồng cùm chân trong chuồng cọp. Chưa ngồi
trong phiên họp để chửi bới, kết tội cha ông, bạn bè, chiến hữu
mình. Con gái ông chưa phải đi làm đĩ, hay đi bán dưa hấu trên
sân ga, bến xe, thế mà ông được thế giới ca tụng là Tù Vương!
Nhưng còn Nguyễn Tú, trong đó có người lính ĐPQ Tiểu khu Bình Tuy
Lê phi Ô, và hàng trăm ngàn Quân Cán Chính VNCH thì sao? Họ đã
mất tất cả từ vợ con, gia đình đến Tổ Quốc. Họ mất cả thân thế,
dĩ vãng, bằng cấp, của cải và nhân phẩm. Họ đã trải qua cuộc sống
của loài thú vật trong địa ngục ghê rợn nhất. Để rồi khi được
phóng thích, họ đã can đảm đạp lên cái chết, lên sóng nước hiểm
nguy để tìm tự do. Và họ đến mảnh đất Hoa Kỳ này trong âm thầm
tủi nhục mà không ai biết đến họ. Nếu như có dịp gặp Mandela, tôi
sẽ nói thẳng với ông ấy, là sau 26 năm ông vẫn giữ vững tinh thần
chiến đấu, đó là nét đẹp tuyệt vời. Tuy nhiên những nỗi thống khổ
mà ông đã chịu đựng, so với hàng trăm ngàn Tù Vương Việt Nam sau
khi mất nước thì ông chỉ là con số không!
Sở dĩ tôi dài
dòng kể lại cái khủng khiếp của những trại tù cộng sản được dựng
lên dài từ Nam ra Bắc để cầm tù Quân Cán Chính VNCH, sau khi cộng
sản cưỡng chiếm được miền Nam mà trong đó Trại Trừng Giới hay
Trại Kiên Giam A20 là một. Vì người lính ĐPQ Tiểu khu Bình Tuy Lê
phi Ô, sau 7 năm tù đã hiên ngang bước ra từ địa ngục A20 này.
Thế mới biết sự chịu đựng dẻo dai, sự nhẫn nhục để đợi chờ: “Ngày
mai trời sẽ sáng” của những người lính, người tù khi Nước mất.
Qua đến xứ người, người lính ĐPQ Lê phi Ô, không cam tâm trở
thành cái bóng của quá khứ, an nhàn trong cuộc sống hiện tại. Anh
muốn kể lại những chặng đường chiến đấu đầy máu lửa của thế hệ
anh, những người lính can trường chiến đấu trong cuộc chiến tranh
tự vệ, chống lại cuộc xâm lăng của cộng sản phương Bắc. Để con
cháu tương lai được hãnh diện với quá khứ của Cha Ông chúng, tiếp
tục dấn thân vào con đường đấu tranh cho một đất nước Việt Nam tự
do, dân chủ và quyền làm người của cả một dân tộc. Trong những
Hồi Ký và Tùy Bút Chiến Trường anh viết và tải lên trang Blog của
anh, chúng tôi đọc được những dòng chữ viết bằng máu và nước mắt,
của 33 ngày đêm anh cùng Tiểu đoàn 344/ĐP tử thủ quyết không cho
cộng sản chiếm được BCH/Chi khu Hoài Đức. Anh đã sống dưới trận
mưa Pháo của địch, những cuộc tấn công biển người của những con
thiêu thân “sinh Bắc tử Nam”. Anh đã từng chứng kiến những người
lính thân yêu trong đơn vị mình, từng người, từng người một nằm
xuống. Một địa ngục được quân cộng sản dựng nên trong âm mưu
cưỡng chiếm vùng đất thân yêu Hoài Đức, Bình Tuy nói riêng và cả
nước VNCH nói chung. Thì anh, cái địa ngục trần gian A20 do bọn
cộng sản dựng lên dể hành hạ những Thiên thần gãy cánh như anh,
thì có sá gì!
Bài viết rất thực, không phải tự vinh danh
mình, người chỉ huy của trận đánh mà anh đã vinh danh cả tập thể
Quân cán Chính của Chi khu Hoài Đức, đặc biệt là những người “Vợ
Lính”. Trong một Tùy Bút Chiến Trường với tựa: “Chiến Sĩ Vô Danh”
với lời dẫn: - “Trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam trước họa
xâm lăng của cộng sản phương Bắc, Quân lực VNCH đã có biết bao
Anh Hùng, Liệt Nữ vị Quốc vong thân. Bên cạnh đó, có những hy
sinh không kém hào hùng ít được nhắc tới, tôi muốn nói đến những
người lính không có số quân: “Vợ Lính”!” Anh đã kể lại trận đánh
có sự tham dự của những người Vợ Lính, và họ đã anh dũng hy sinh
trong trận đánh này:
(Xin
xem bài Tiểu Đoàn 344/ĐP với 33 ngày tử thủ tại Chi Khu Hoài Đức).
Trong những lần trò chuyện với anh qua email, được anh cho
biết có mở riêng một trang blog để giới thiệu về những bài anh
viết. Tôi đọc được 4 Hồi Ký “Một Thời Lửa Đạn”, 6 Tùy Bút Chiến
Trường, 17 bài của Bạn bè viết cho anh và 30 bài Thơ của Anh. Có
thể là rất nhỏ bé, nhưng đã trang trải một chặng đường dài cuộc
đời của “Người Lính Địa Phương Quân Lê Phi Ô”. Từ quãng đời thơ
mộng lúc còn đi học, cho đến ngày cống hiến đời trai vào nghiệp
chiến chinh để bảo vệ Tự Do, Dân Chủ, Ấm No, Hạnh Phúc cho miền
Nam Việt Nam nói chung, và cho vùng đất thân yêu Bình Tuy nói
riêng. Và bây giờ lưu lạc trên xứ người, người lính ĐPQ Lê Phi Ô
vẫn còn trăn trở với nỗi đau của Quê Hương đang trầm luân dưới
chế độ độc tài Đảng trị CSVN. Chắc là anh cũng như bao người lính
VNCH tự đặt cho mình một câu hỏi: Ta làm gì với quãng đời còn lại
cho Quê Hương?
Người viết xin cám ơn Người Lính ĐPQ: LÊ
PHI Ô, từ những bài của anh tôi tìm
thấy một phần đời của một thời cầm súng. Tôi trở thành người dân
“Đất Biển Tình Nồng” Bình Tuy rất muộn, nhưng tại Quê Hương thứ 3
này, tôi tìm thấy tình thương yêu rất mặn nồng, của người dân
Bình Tuy dành cho người lính ĐPQ trong chiến đấu, hoặc bị tù sau
khi Nước mất. Và, tôi đã có câu trả lời: “Tại sao những người
Lính ĐPQ lại đổ xương máu để bảo vệ vùng đất thương yêu này đến
giây phút cuối cùng, trong đó có người Lính ĐPQ Lê phi Ô”.
NGƯỜI XỨ NGHỆ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
|
Hình nền: Xuân trên Non. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by Lê-phi-Ô chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, February 12, 2017
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang