Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Sưu tầm
Chủ đề:
Xuân và Hoa Mai Hoa Đào
Tác giả:
Mường Giang
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Hà
Nội, hằng năm sau ngày cúng đưa Táo quân về trời, bắt đầu từ sáng
24 kéo
dài tới chiều ba mươi, suốt một tuần lễ có phiên chợ Hoa đặc biệt
ở Phố Hàng Lược, chỉ bán các loại hoa, cây cảnh, đặc biệt là Hoa
Ðào và Quất, rất được nhiều người ưa thích vì lâu tàn, có thể
chơi suốt tháng giêng mới đem bỏ. Chợ Hoa ở Hàng Lược còn là
trung tâm cung cấp hoa cho các chợ Ðồng Xuân, Cửa Nam, Mơ, Hôm,
Hàng Da và nhiều hè phố khắp Hà Nội. Ðây là chốn ngàn năm văn vật
của Ðại Việt, nên từ xưa kinh thành Thăng Long đã là xứ ngàn hoa
đua nở, từ Hồ Tây, Nghi Tầm, Võng Thị, Trích Sài... kéo dài tới
Làng Yên Hoa trên đê Yên Phụ, Quảng Bá, Ngọc Hà, Nhật Tân... Tất
cả làm cho Hà Nội thành xứ ngàn hoa, từng được thi nhân bao đời
gọi là rừng mơ với nhiều loại hoa mai, hoa đào trân quý.
Sài Gòn những ngày gần tết, đi đâu cũng
thấy toàn là hoa, làm cho mùa xuân thêm muôn màu nghìn dáng, với
đủ loài hoa từ Ðà Lạt, Phương Lâm, Sa Ðét, Gò Vấp, Thủ Ðức, Phú
Thọ đưa vào. Những ngày này, đi đâu cũng thấy Sài Thành thật là
thơ mộng, qua hình ảnh của những chiếc thổ mộ lăn bánh cóc cách
gõ nhịp khắp đường phố, xe nào cũng chất đầy hoa như đang chở cả
mùa xuân từ muôn phương đem về dâng hiến làm vui cho Sài Gòn. Tóm
lại, theo tập quán của tổ tiên truyền lại, thì vui xuân đón tết,
ngoài việc bày cỗ bàn cúng kính tiền nhân. Ngoài ra hầu như nhà
nào, dù giàu hay nghèo, cũng không thể thiếu các món trà, rượu,
pháo và nhất là các loại hoa đào (miền Bắc), mai (miền Trung và
Nam), đồng thời còn thưởng thức thêm các loại hoa cúc, hồng, vạn
thọ, trường sanh, mồng gà... Riêng các cụ xưa có phần kiểu cách
hơn, nên luôn trong nhà lúc nào cũng có sẵn một chậu Lan, Cúc hay
Mai tứ thời. Nhưng dù các loài hoa có khoe trăm hương, ngàn sắc,
thì những ngày Tết Nguyên Ðán tại VN, đào và mai cũng vẫn là hai
loài hoa trân quý, được mọi người ái mộ nhất.
MỖI
NĂM LẠI MÙA TẾT
LÒNG BÂNG KHUÂNG LỆ RƠI
NHỚ NHỮNG XUÂN NĂM CŨ
LÍNH GIỮ QUÊ CHO
NGƯỜI
NHỮNG
NĂM MAI VÀNG NỞ
MIỀN NAM VUI TẾT XUÂN
SÚNG CỘNG THAY PHÁO NỔ
GIẾT MUÔN DÂN
CHẬP CHÙNG
CỘNG
PHỈ NHÂN BẤT NGHĨA
HUẾ XUÂN NÀO TANG
THƯƠNG
NGẬM NGÙI VẠN MỘ ĐỊA
KHĂN TANG TRẮNG PHỐ PHƯỜNG
RỒI
NAY XUÂN LẠI ĐẾN
CỜ MÁU NỖI KINH HOÀNG
ĐÓN XUÂN TAY BỊ TRÓI
NON NƯỚC TÔI LẦM
THAN
1. MỖI NĂM HOA ÐÀO NỞ:
Ngày Tết chơi hoa đào, hầu như chỉ
thịnh hành trên đất Bắc. Riêng các tỉnh từ nam Vỹ tuyến 17 vào
tới mũi Cà Mâu, nhà nhà dùng Mai thay Hoa Ðào trong ba ngày xuân,
dù Ðà Lạt được mệnh danh là xứ hoa đào. Mai và Ðào đều là hai
loài hoa tinh khiết, quý hiếm trong muôn loài, tượng trưng cho
sức sống kỳ diệu của hoa giữa trời xuân, lại có hương thơm nhẹ
nhàng thanh thoát, hợp với không khí đầm ấm hạnh phúc của người
đang rạo rực vui xuân.
Thú chơi Ðào ngày tết đã có từ lâu rồi.
Tổ tiên ta thuở bình minh dựng nước trên đất Bắc, khi chọn hoa
đào để làm thú tiêu khiển trong ba ngày tết, chắc hẳn đã nghĩ tới
màu đỏ thắm rực rỡ của đào, giống như viễn ảnh của một năm mới
sắp tới, cũng trong sáng đẹp đẽ như màu hoa. Hơn nữa theo quan
niệm của Á Ðông, màu đỏ luôn tượng trưng cho niềm hy vọng của con
người. Ngoài ra theo truyền thuyết, ngoài hoa sắc nõn nường, hoa
đào còn được coi như là vật trấn yêu, trừ ma quỷ. Diễn tích trên
được rút từ truyện hai vị thần Uất Lũy và Trần Trà ở núi Ðộ Sơn,
cai quản một đám âm binh, quỷ sứ. Ðể trị bọn chúng, hai thần đã
dùng cành đào như một thứ vũ khí đặc biệt. Vì lý do trên, người
VN nhất là ở miền Bắc, qua ảnh hưởng của Trung Hoa, đều tin rằng
chơi hoa đào trong ba ngày tết, ma quỷ sẽ không dám vào nhà để
lộng hành phá phách, làm hại mọi người.
Tại Hà Nội, vào những ngày Tết có bán
hai loại hoa đào, đó là Hồng đào và Bích đào... Ðây là loại hoa
kiểng có màu đỏ thắm rất đẹp, không có quả. Thứ hoa này có thể
sống được vài ngày. Xưa nay với những người Việt di cư từ miền
Bắc vào Nam năm 1954, thì mỗi lần Tết đến có trăm nhớ nghìn
thương, chứ đâu phải chỉ có hoa đào, cây nêu và câu đối đỏ, như
một nhà thơ nào đó đã viết:
Em ở
mình đây trời nắng lắm
Sài Gòn không
biết có xuân sang
Xuân này xứ Bắc ra sao
nhỉ
đào có hây hây, cúc có vàng
câu đối có còn ôm đỏ cột
nêu dài tiếng
khách có khua vang?”
Nói như người Hà Nội thì mùa xuân là
mùa hoa, tựa như con người trên đường đi tìm hạnh phúc cho chính
mình, biết gìn giữ hay thưởng thức, nói chung phải có người biết
chơi hoa, yêu hoa, trân quý nâng niu thì hoa mới có ý nghĩa với
đời. Bởi vậy đã có không biết bao văn nhân tài tử đất Bắc, hàng
năm không thèm ghé vào chợ Hoa Tết Hàng Lược trước mắt, mà phải
lặn lội trong mưa phùn gió bấc lạnh lẽo khổ sở, tìm tới các rừng
Mơ ở tận Nhật Tân, Quảng Bá, Nghi Tàm, Từ Liêm... với mục đích
chỉ tìm cho bằng được một hồn hoa còn trinh bạch, đang thẹn thùng
e lệ núp lén đâu đó trong cảnh mưa gió phũ phàng. Ðâu đâu cũng
ngổn ngang những nhánh Chi Mai, một góc Trà Thâm, nhiều giỏ Ðại
Ðóa đang chen vai khoe sắc bên cạnh các chậu Mộc Lan... tuy nhiên
tất cả đều không phải là những thứ người nghệ sĩ đang tìm kiếm,
mà là Hoa Ðào. Ðây chính là loài hoa được Thôi Hộ, Ôn Như Hầu,
Nguyễn Du... từng nhắc nhớ, loài hoa Hồ Ly Tinh trải qua bao thế
kỷ, đã ru hồn các nghệ sĩ, khiến cho họ phải từng canh bâng
khuâng, xao xuyến, mộng mị trong mong chờ. Vì vậy dù Tết đã qua,
hoa đã thành “khứ niên” nhưng linh hồn của nó vẫn như đọng lại
nơi tâm khảm của khách yêu hoa, khác nào nỗi ngất ngư của mối
tình đầu mà ta đã trải qua trong đời với người yêu dấu ái.
Bao đời Hà Nội ngày xuân tươi thắm qua
màu đỏ chói của Bích Ðào, Mộng Tự lẫn Ðào Thăng Long. Ngoài ra
còn loại Bạch Ðào cực hiếm khó có được, nên trong phút giao thừa
đêm cuối chạp, thường làm cho người yêu hoa phải ngẩn ngơ thao
thức, đứng với hoa trong ánh bạch lạp chập chờn trên bàn thờ, mà
tưởng như hồn đã hóa thành đá, giữa cõi mênh mang trống vọng biển
đời, thực ảo, hơn thua, biết đâu mà mộng mị.
Nhưng nhắc tới hoa Ðào, ta không thể
không nhớ tới Vũ Ðình Liên với thi phẩm tuyệt tác “Ông đồ già”:
Mỗi năm
hoa đào nở
lại thấy ông đồ già
bày mực Tàu giấy đỏ
bên phố đông người
qua
năm nay đào lại nở
không thấy ông đồ xưa
Hỡi ơi mỗi năm mỗi tuổi như đuổi xuân
đi, bạn bè người thân may mắn còn sống sót sau cuộc chiến, nào
Nhật Trường, Hồ Tài, Trần Tác, Phùng Thế Xương, kể cả Võ Thị
Thanh Tâm, tuổi đời mộng mơ đang chớm, cũng đã trở thành người
trăm năm cũ, dù Tết nào hoa Ðào cũng vẫn nở, mà bóng người xưa đã
khuất nẻo mây ngàn. Tóm lại, Hoa Ðào ngoài công dụng làm vật
trang trí cho người tiêu khiển, cũng đã đi vào kho tàng văn
chương, tục ngữ của nhiều dân tộc. Trong “Cung oán ngâm khúc”, Ôn
Như Hầu đã viết:
“Áng
đào kiểm đâm hoa não chúng
khóc thu ba
dợn sóng khuynh thành”
Qua hai câu thơ trên, tác giả đã mượn
màu sắc tươi thắm, nõn nường của hoa đào, để diễn tả nhan sắc
chim sa, cá lặn của những người đàn bà đẹp. Nhưng tình là gì, nếu
không phải là những uẩn khúc thương tâm và càng xa xót đối với
người đẹp. Bởi vậy thi nhân đã hạ bút viết thêm “Mà xui phận bạc
nằm trong má đào”.
Má đào cũng được dùng để chỉ người đẹp.
Danh từ trên được rút từ điển tích Thôi Hộ đời nhà Ðường, nhân
tiết Thanh Minh ngoạn cảnh, đi lạc vào một vườn hoa đào. Sau đó
đã gặp và yêu một người con gái đẹp tên Ðào Phụng Trinh. Cả hai
đã gắn bó, thề hẹn và chàng hứa sẽ trở lại thăm nàng. Năm sau,
Thôi Hộ lại đến vườn đào nhân buổi đầu xuân, nên khắp nơi hoa đào
rực rỡ khoe hương sắc đầy trời. Nhưng cảnh cũ còn đây, hoa đào
còn đó, mà bóng người xưa đã biền biệt phương trời. Não lòng,
Thôi Hộ đặt bút viết một bài thơ tứ tuyệt, dán nơi cửa vườn hoa
năm ngoái, mà hai người đã gặp gỡ:
“Khứ
niên kim nhật thử môn trung
nhân diện
đào hoa tương ánh hồng
nhân diện bất tri
hà xứ khứ
đào hoa y cựu tiếu đông phong”
Năm sau nữa cũng độ xuân về, lòng
thương nhớ không nguôi, Thôi Hộ lại lần mò đến vườn xưa, chợt
nghe tiếng khóc than thảm thiết, hỏi ra mới biết, đó là tiếng
khóc của cha Ðào Phụng Trinh. Nàng vì thất tình nên mang bệnh
trầm kha, trong cơn hấp hối, sau khi được đọc qua bài thơ tỏ tình
của Thôi Hộ. Cảm xúc trước cảnh đau lòng, nên chàng mong được gặp
Ðào Phụng Trinh lần cuối. Nhờ vậy nàng đã sống lại khi nghe tiếng
chàng gọi mình, thế là hai người đẹp duyên cầm sắc, giữa vườn đào
đang nở rộ đón xuân sang. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du tiên sinh
cũng đã viết:
“Trước sân nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”
Tóm lại danh từ “má đào” dùng để chỉ
những người đàn bà đẹp. Ngoài ra “hoa đào” còn tượng trưng cho
tuổi thanh xuân, của các cô gái sắp về nhà chồng, như Kinh thi đã
viết:
“Ðào chi yên yên
thước thước kỳ hoa
chi tử vu quy
nghi kỳ thất gia”
Ý nói:
“mơn
mởn đào non,
rực rỡ màu hoa,
cô đi lấy chồng,
hạnh phúc trăm năm”.
2. MAI VÀNG:
Tự ngàn xưa, Mai đã được xếp vào loại
hoa quý nhất trong ngàn hoa. Trong nhiều bức tranh cổ còn lưu
truyền như tranh Tứ Bình, vẽ bốn loại hoa cực quý là Mai, Lan,
Cúc, Trúc. Ngoài ra còn có tranh tứ thời, cũng vẽ bốn loại hoa
cảnh nổi tiếng là Tùng, Cúc, Trúc, Mai hay Lan, Sen, Cúc, Mai.
Tóm lại dù con người qua các thời đại có thay đổi quan niệm
thưởng ngoạn thế nào chăng nữa, thì ta vẫn thấy có sự hiện diện
của hoa Mai:
“Ðua chen thu cúc, xuân đào
lựu phun lửa hạ, mai chào gió đông”
--(Bích Câu kỳ ngộ)
Tại VNCH trước ngày 30-4-1975 có rất
nhiều hoa Mai nhưng nhiều nhất là hai tỉnh Quảng Nam và Bình
Thuận. Ở thủ đô Sài Gòn vào những ngày sắp tết, Mai từ các tỉnh
miền Trung như Ðà Lạt, Phương Lâm (Lâm Ðồng) hay Nam Phần tại Sa
Ðéc, đổ vào hàng trăm loại hoa. Giữa muôn hồng ngàn tía, khoe
hương sắc rực rỡ nhưng thiên hạ vẫn nườm nượp ùa tới những gian
hàng bán Hoa Mai, để tha hồ nhìn ngắm, lựa chọn những cành mai
vàng năm cánh mỏng như lụa, đang rung rung nhè nhẹ trước cơn gió
thoảng. Ðây là người bạn lâu đời nhất của Miền Nam, quanh năm
sống heo hút trong rừng sâu, núi cao, chỉ những ngày sắp Tết mới
hiện diện vui xuân với mọi nhà. Ngày nay theo thời thượng, nên
nhân sinh đã tạo ra rất nhiều loại mai mới, có giống tới mười
cánh, hai mươi cánh với các màu sắc lòe loẹt trắng, vàng hay ghép
đủ màu sặc sỡ lố bịch. Ðây là sản phẩm tự chế của xã nghĩa thiên
đàng, quen xét đời qua giá trị của sản phẩm vật chất mà không cần
biết tới cõi hồn tinh khiết bên trong, dù đó là hồn nước, hồn
người hay hồn hoa thắm đượm.
Mai có thân hình khẳng khiu nhưng cứng
rắn mà vẫn ẻo lả duyên dáng, còn cánh hoa thì màu sắc thắm tươi,
mỏng manh cho đến khi lìa cành mà màu sắc vẫn không thay đổi. Mai
được xếp đầu trong muôn hoa, nở rộ trong những ngày đầu xuân
“tiên hưởng bạch hoa đầu thượng khai”. Mai cũng là đề tài muôn
thuở, làm mê say đắm lụy tâm hồn văn thi sĩ, họa sĩ, nghệ nhân
bao đời. Nhờ vậy đã lưu truyền cho hậu thế nhiều tác phẩm nghệ
thuật, nói về Mai rất đặc sắc và trữ tình. Có điều tuy cùng ngâm
vịnh hoa Mai nhưng âm hưởng đã hoàn toàn khác biệt giữa giống Mai
mà các văn nghệ sĩ VN ngâm vinh và loài Mai Trúc trong nghệ thuật
hội hoa, điêu khắc và ca tụng trong nền văn học Trung Hoa.
- HOA MAI TRONG VĂN CHƯƠNG CỔ ÐIỂN:
Loài Mai này hoàn toàn khác biệt với
giống Mai vàng đã có từ lâu đời tại Miền Nam VN. Giống Mai này có
tên khoa học là Prunus Mume, thuộc ho Hoa Hồng (Rosaleal). Mai
này tương cận với cây Mơ, có tên khoa học Prunus Armeniaca Lin,
cũng như cây Ðào (Prunus Persica Stokes). Mai này có hoa năm
cánh, màu trắng, hồng hay đỏ thắm, mùi thơm. Quả Mai lúc sống màu
xanh và biến thành màu vàng khi chín. Người Trung Hoa miền Quý
Châu, đem sấy khô thành quả Ô Mai hay Ô Môi và đem bán ở các thị
thành VN mà chúng ta gọi trại là Xí Muội. Những chữ Mai trúc
trong văn chương cổ điển Trung Hoa, chính là loại Mai này.
- MAI VÀNG TẠI MIỀN NAM VN:
Giống Mai này có tên khoa học là Dohna
Harman, thuộc ho Hoàng Mai (Ochnaceae). Mai vàng không thơm, quả
chỉ nhỏ bằng hạt đậu, khi còn tươi có màu xanh và biến thành màu
đen lúc cây chết, không ăn được. Ngoài ra còn có một giống Mai
thuộc họ Tre, thân dài thẳng đứng, vỏ cây rất dày có nhiều đốt,
lá to. Loại Mai này được đốn với tre đem về làm nhà, ống đựng
nước uống, nó hoàn toàn khác biệt với hai loài hoa Mai trên.
“Miệng ăn măng trúc, măng mai
những tre cùng nứa lấy ai bạn cùng”
--(Phong dao VN)
Nhưng cho dù thuộc giống Mai nào chăng
nữa, thì Mai vẫn là một loài thực vật có thể chịu đựng được tuyết
giá đông hàn, luôn ngạo nghễ nở hoa, để chào đón chúa xuân, trong
phút giây giao thời. Chính cái bản sắc cuồng ngạo đó, đã lôi cuốn
nhân sinh vào cuộc chơi. Ðó cũng vì Mai chính là hiện thân của
hàng Kẻ Sĩ, Trượng phu, anh hùng mã thượng, chịu đựng tất cả dâu
biển của cuộc đời, kể cả phong ba bão táp, để đạt cho được mục
đích cuối cùng “lợi dân, ích nước, làm đẹp cho người”. Và cũng
chỉ có Mai mới đủ thực chất để đại diện cho lớp người chọc trời
khuấy nước, coi thường danh lợi phú quý như phù vân, xem vua quan
thối nát thua loài cỏ rác, coi bọn khoa bảng trí thức xu thời, bợ
thế, dua mị, nhắm mắt chạy theo lợi nhuận, chẳng khác nào sâu bọ,
cầm thú đội lớp người. Ðiển hình nhất trong lớp người, có Chu
Thần Cao Bá Quát, ông đã viết:
“Thập
tái luận giao cần cổ kiếm
nhất sinh đề
thủ bái mai hoa”
Như Ðào, hoa Mai cũng được các thi nhân
vay mượn, dùng làm đề tài, để diễn tả nét đài trang, thanh nhã
của những người đàn bà đẹp trong đời, qua các thời đại, như
Nguyễn Du tiên sinh đã viết trong “Ðoạn Trường Tân Thanh”:
“Mai
cốt cách, tuyết tinh thần
mỗi người một
vẻ, mười phân vẹn mười.”
Yêu quý mai, trân trọng mai tới độ bái
phục mà các văn thi nhân còn chưa thấy là đủ, nên cuối cùng đã
chọn mai làm người bạn tri kỷ, để ra vào cùng đối ẩm, cận kề:
“nghêu
ngao vui thú yên hà,
mai là bạn cũ, hạc
là người quen”
- TAO NHÂN MẶC KHÁCH VỚI MAI:
Chơi xuân, mỗi người một cách, nên hầu
như không ai giống ai cả, nhất là đối với hàng tao nhân mặc
khách. Ðối với hạng bình dân chất phác, khi lựa chọn một cành mai
để vui ba ngày tết, thì chỉ cần có nhiều hoa nở, đúng vào lúc
giao thừa. Sau đó hoa vẫn tiếp tục nở rộ trong ba ngày xuân, thế
là đủ rồi, vì đối với họ, đó là niềm vui cũng như sự may mắn.
Nhưng với lớp người trưởng giả, thì khi chọn mai để thưởng thức
phải là giống to, cao, hoa lá xum xê, để chủ nhà biểu lộ với hàng
xóm láng giềng, về sự giàu sang sung túc của mình... Tuy nhiên
đối với hàng tao nhân mặc khách, nhất là giới nghệ sĩ, thì mai
không phải là loài vô tri, mà là một sinh vật có linh hồn, chẳng
thế mà thiên hạ đã cùng đồng tâm chấp nhận “Mai là hoàng hậu của
muôn hoa”.
Ái
mộ, nâng niu, chiều chuộng nên thi nhân bao đời đã nhân cách hóa
và đặt tên cho Mai nhiều mỹ danh vô cùng diễm lệ. Do đó với loài
Mai có màu trắng như ngọc tuyết tinh khôi, thì gọi là Bạch Mai,
Chi Mai hay Mai Ngự Sử. Với loài Mai có màu xanh, thì được đặt
tên là Mai Thanh Ðài. Còn Mai có màu vàng thì gọi là Hoàng Mai
hay Lạp Mai, vì loại mai này chỉ nở vào những ngày cuối đông mà
thôi. Ngoài ra còn nhiều loại Mai khác như Hồng Mai (màu đỏ), Mai
Thanh Ðài Lục Ngạc (Hoa mai có 6 cánh đan chéo vào nhau như sừng
nai, màu xanh), Mai Chuỗi (màu tím có hoa và trái kết thành
chuỗi), Mai Chiếu Thủy (màu trắng, cánh nhỏ, thường rũ nghiêng
xuống mặt nước), đây là loại mai quý hiếm. Cuối cùng là Mai tứ
Thời có hoa suốt năm, bốn mùa.
Hiện không có tài liệu nào xác nhận
thời gian đầu tiên loài Mai xuất hiện trên trái đất. Nhưng cái
tên Mai lại được giải thích rằng: có một loài hoa rất gai gốc
chịu đựng cảnh băng giá mưa đông, để kịp nở hoa vào buổi giao
thời, giữa năm cũ và năm mới. Hoa có năm cánh, kết thành một vòng
tròn, biểu tượng ánh thái dương đang tỏa nắng ấm tới nhân gian
vào buổi sớm đầu xuân. Với các đặc tính đó, loài hoa này mới được
gọi là Hoa Mai. Ngoài ra liên quan tới giống hoa này, xưa nay đã
có rất nhiều điển tích liên hệ như:
- TRÚC MAI: Vì bán mình để có
tiền chuộc mạng cho cha mẹ, nên Thúy Kiều phải theo gã Mã Giám
Sinh về Lâm Tri. Ðêm đó một mình nàng ôm mặt khóc với bóng đèn
khuya, nhớ đến người tình đang ngoài muôn dặm là Kim Trọng, mà
đứt ruột nát hồn. Ðể diễn tả hoàn cảnh bi thiết đó, Nguyễn Du
tiên sinh đã mượn điển tích “Trúc Mai” và viết:
“Tái
Sinh chưa dứt hương thề
làm thân trâu
ngựa đền bù Trúc Mai”
Trúc Mai là hai loại cây vẫn xanh tốt
trong mùa đông băng giá. Ðặc tính của hai loại cây này là “Trúc
bất chỉ thiên, Mai bất chỉ địa”, đó là một sự hòa hợp âm dương
rất tuyệt diệu. Ngoài ra theo sách “Lưỡng bạn thư vũ tùy bút” có
viết câu chuyện Trúc Mai như sau: Vào mùa đông, các tao nhân mặc
khách thường tới Ðầm Long Môn tại tỉnh Quảng Ðông để thưởng
ngoạn, vì tại đây có rừng Trúc Mai vẫn tươi tốt trong cảnh tuyết
băng giá buốt lạnh lẽo. Tại đây, có hai giai nhân tài tử tên
Hoàng Kỳ Mai và Lam Bá Trúc được dịp quen biết rồi yêu nhau tha
thiết. Nhưng rồi cũng phải chia tay, trước giờ phân kỳ Lam Bá
Trúc đã bẻ một cành Mai còn Hoàng Kỳ Mai thì dùng một nhánh trúc,
để làm kỷ vật trao đổi, thệ nguyện nên cuối cùng đã toại nguyện.
Từ đó để nói tới tình yêu trai gái, vợ chồng, người đời sau hay
lấy điển tích “Trúc Mai” để diễn tả.
- NHẤT CHI MAI: Ðiển tích này
được trích từ tập “Kiến Văn Tiểu Lục” của Lê Quý Ðôn, nói về đời
tư của Hồ Quý Ly. Theo sách cho biết tổ phụ ông là người Tàu, vì
loạn lạc nên mới di cư sang Ðại Việt. Lớn lên đi tìm công danh,
nên Quý Ly đã bỏ làng quê tới kinh đô Thăng Long. Trên đường vô
tình ông lượm được một quyển sách tên “Quảng Hàn Cung Lý Nhất Chi
Mai” nên mở mang được nhiều kiến thức chính trị quân sự. Về sau
Ông được vua Trần Nghệ Tông trọng dụng, nên thăng quan tiến chức
rất nhanh. Một hôm nhân các triều thần hội họp trong cung vua,
Nghệ Tôn mới chỉ vào rừng quế, quanh điện Thiên Thủ, ra một câu
đối:
“Thanh thủ điện tiền thiên phụ
quốc”
Trong lúc các quan chưa kịp ứng đối,
thì Quý Ly chợt nhớ tới nhan đề của cuốn sách mà trước đây mình
đã vô tình lượm được, nên dối ngay:
-
“Quảng Hàn cung lý Nhất Chi Mai”
Nhà vua cho đó là duyên kỳ ngộ, nên đã
đem công chúa gả cho Quý Ly. Từ đó họ Hồ mới có cơ hội xây dựng
thế lực và vây cánh, cướp ngôi nhà Trần sau khi Thượng Hoàng Nghệ
Tông mất.
-
MAI TRƯỜNG AN: Còn có tên là Mai Tứ Quý là giống Mai nở
hoa bốn mùa. Ðiển tích “Mai Trường An” được rút ra từ câu chuyện
nàng Tây Thi, cô gái nước Việt, đã giúp cho Vua Việt Câu Tiễn,
đánh bại Ngô Phù Sai, rửa nhục và thu hồi lại đất nước đã mất.
Ðiển tích trên, đồng thời cũng nhắc tới câu chuyện nàng Dương
Thái Chân, tức là Dương Quý Phi ái thiếp của vua Ðường Minh
Hoàng. Thời đó có Lục Khải làm quan tại Giang Nam, nhân lính trạm
mang thư tín về kinh đô Trường An, nên ông đã bẻ một cành Mai, để
gửi về tặng bạn là Phạm Việp, trong đó có kèm theo một bài thơ:
“Chiết
Mai phùng dịch sứ
Ký dữ lũng đầu nhân
Giang Nam vô sở hữu
Liễu tặng Nhất Chi
Mai”
Quá cảm động và càng thương quý bạn nên
Phạm Việp đã đem cành mai đó trồng và sau đó Mai có hoa nở cả bốn
mùa. Sau này các văn thi sĩ thường mượn loài Mai trên, tức Mai
trường An, để nói về nhan sắc chim sa cá lặn của các giai nhân
nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa, nhất là Tây Thi và Thái Chân.
- MAI VÀ THƠ VĂN:
Xưa nay, những người thoát tục ngoại
hạng, thường ưa thích hoa Mai, vì cho đó là một biểu tượng cao
quý của hạng Sĩ phu, Quân tử... theo quan niệm của Nho giáo. Thật
vậy, với thái độ sừng sững giữa trời mưa gió. Trong cõi trời đất
gần như hư vô bất động này, Mai đã rụng hết lá, chỉ còn lại thân
cây trơ trọi. Thế rồi những ngày cuối chạp sắp Tết, bỗng dưng
khắp thân Mai, tràn đầy lá xanh và búp nở. Tất cả như đợi chờ một
khoảnh khắc giao mùa của trời đất, mới chịu mãn khai.
Ðứng trước nỗi thế thái biển dâu của
nhân tình và vạn vật, Mãn Giác Ðại sư (1045-1096), một cao tăng
thời Lý, đã viết bài kệ “Cáo Tật Thị Chúng”, rất nổi tiếng nên
được lưu truyền tới ngày nay:
“Xuân
qua trăm hoa rụng
xuân tới trăm hoa tươi
trước mắt việc đi mãi
trên đầu già đến
rồi
chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
đêm qua sân trước nở cành mai”
Ðây cũng chính là một thông điệp vô
cùng trân quý, mà Thiền sư đã gởi lại cho hậu thế VN, với lời
nhắn nhủ thật chân thành, khuyên bảo mọi người “phải kiên trì để
mà sống, không cần sợ hãi bất cứ một nghịch cảnh nào, giống như
đêm qua sân trước nở cành mai, dù ai cũng nghĩ rằng xuân tàn hoa
rụng hết”.
Còn
nhà sư Tế Kỷ sống vào thời Nhà Ðường, đã mượn cớ “Tảo Mai”, để
làm một bài thơ, cũng có ý tưởng rất cao siêu như Thiền sư Mãn
Giác, khuyên mọi người phải sống kiên trì, giống như Hoa Mai, mới
mong thành tựu:
“Vạn
mộc đông dục chiết
cô căn noãn độc hồi
tiền thân thâm tuyết lý
tạc nhật nhất
chi khai”
Bài thơ cho biết là trong lúc muôn cây
sắp chết cóng, riêng có Mai thì rễ đang trở mình, giữa cảnh tuyết
băng giá lạnh, chợt đêm qua Mai nở hoa.
Trong văn chương cổ điển Trung Hoa, Ðại
Ðường và Bắc Tống là hai thời đại rất thịnh hành về lối thơ Thất
Ngôn ngâm vịnh. Ðặc biệt thời Bắc Tống, có rất nhiều tao nhân mặc
khách nổi tiếng, cũng không thua kém gì các thi thần, thi bá Lý
Bạch, Ðỗ Phủ, Bạch Cư Dị... đời nhà Ðường. Cũng vì vậy, họ đã lưu
lại cho hậu thế rất nhiều bài thơ “Vịnh Mai” vô cùng đặc sắc.
Trong số này đáng kể nhất có Lam Pha, suốt đời chỉ mê đắm Hoa Mai
mà thôi, chứ không hề ngó tới đàn bà, dù đó là những người đẹp
nổi tiếng tại kinh đô Biện Kinh (Khai Phong). Với Vương An Thạch
(1021-1086), tể tướng thời Tống Thần Tông, chủ trương Tân Ðảng,
lừng lẫy một thời trên trường chính trị cũng như trong văn đàn,
đã lưu lại cho hậu thế nhiều trước tác giá trị, trong đó có bài
thơ “Mai Hoa”, rất được nhiều người ưa thích:
“Tường
dốc sổ Chi Mai
Lăng Hàn độc tự khai
dao tri bất thị khuyết
dữ mai tinh tác
thập phần xuân”.
Ý thơ muốn nói, nơi góc tường mấy nhánh
mai, tự nở hoa trong rét, xa nhìn không phải tuyết vì có hương
thầm bay.
Riêng Lư Mai Pha, thì chẳng những ca tụng Mai, mà ông còn đề cao
cả tuyết và thơ. Theo quan niệm của ông, cho rằng người đời, bất
cứ là ai, nếu đã sẵn có trong tay ba thứ trên, coi như họ đã có
một trời xuân hạnh phúc:
“Nhật
mộ thi thành, thiên hữu tuyết
dữ Mai
tinh tác, thập phần xuân”
Ý ông nói là vừa làm xong bài thơ thì
đêm tới, trong lúc ngoài trời đầy tuyết, còn nơi góc nhà Mai cũng
nở hoa, coi như ta đã hưởng trọn vẹn mười phần xuân rồi.
Mao Ngọc Long là con gái quan Ngự sử
Mao Phụng Thiều, có chồng đã hy sinh ngoài sa trường, nên ở vậy
thủ tiết làm người sương phụ. Một mùa đông nọ, ngồi bên song cửa,
nhìn tuyết đang rơi lã chã ngoài sân, chợt thấy cành mai lẻ loi
đang khép nép dưới mái hiên lạnh, vừa nở rộ một cánh hoa trong
cơn buốt giá. Nhìn cảnh sinh tình, thêm tủi phận cô đơn góa bụa
của mình, nên nàng đã viết bài thơ “Ðông Dạ”, để gửi gấm tâm sự u
hoài của đời người sương phụ:
“Thùy
liêu tịch mịch, thư song hạ
Ðấy ảnh Mai
Hoa, loạn dạ đăng”.
Sau này các Họa sĩ cũng theo gót các
văn nhân thi sĩ nhập cuộc. Trong số này có Trọng Nhân, đã dùng
mực nước, vẽ một cành Mai với hai màu đen trắng, ai cũng khen là
Hoa có hồn. Ðời nhà Minh có Vương Ðiệu ở Hàng Châu, tỉnh Chiết
Giang, chuyên vẽ Hoa Mai Tây Hồ, với những nét u hoài lãng mạn
nhưng cũng không kém phần mạnh mẽ, với nụ hàm tiếu đang mãn khai
vô cùng duyên dáng, trữ tình. Hàng Châu từ lâu đời đã là kinh đô
của Nhà Nam Tống, vùng đất nổi tiếng về Trà và sản xuất tơ lụa.
Vì vậy các nghệ nhân đã đem Mai in trên tơ lụa, mà nổi tiếng nhất
vẫn là những hình vẽ về loài “Ẩn Mai”, do Vương Ðiệu sáng tạo,
với khung cảnh như không như có, hấp dẫn lạ lùng.
Nhưng người nổi tiếng nhất khi vẽ Hoa
Mai, trong nền hội họa cổ điển Trung Hoa, từ xưa tới nay vẫn được
công nhận, vẫn là Vua Tống Huy Tông (1100-1125), thời Bắc Tống vì
ham vẽ, mê chơi, lại tin nghe bọn nịnh thần như Sài Kính, Trương
Ban Xương... làm cơ nghiệp nhà Tống đổ nát vào giặc Kim ở phương
Bắc. Năm 1127, vua lúc đó là Thượng Hoàng, cùng với vua Khâm Tôn
và nhiều triều thần, đã bị nước Kim bắt đem về giam giữ tại Nội
Mông và chết ở đó. Tuy vua Huy Tông chỉ sống rất ngắn ngủi
(1108-1135) nhưng ông đã lưu lại cho hậu thế rất nhiều tranh vẽ
giá trị, trong số này có bức danh họa “Kết năm màu trên nhành
Mai”, hiện được trưng bày tại Viện Bảo Tàng Boston (Hoa Kỳ).
Bây giờ mọi người mới hiểu tại sao thời
Nhà Tống, ai cũng thích Hoa Mai hơn các thời đại khác trong lịch
sử Trung Hoa. Theo sử liệu, cho thấy nhà Tống rất yếu về quân sự,
so với các nhà Hán, Ðường và Minh. Do trên đất nước Tàu, từ thời
Tống Thái Tổ (Triệu Khuông Dẫn) lập quốc năm 916, cho tới đời Vua
cuối cùng là Ðế Bình, thì bị Mông Cổ tiêu diệt năm 1279, luôn
luôn bị các nước Liêu, Kim, Tây Hạ, Thổ Phồn, Mông Cổ, Ðại Lý và
Ðại Việt... tấn công, xâm lấn. Do trên, các bậc văn nhân, thi sĩ
kể cả họa sĩ và nhất là giới sĩ phu trí thức, thường lấy Hoa Mai
làm biểu tượng tinh thần của người anh hùng trong thời loạn ly
lửa khói, để đề cao dũng khí, sự tinh khiết cùng lý tưởng cứu
dân, giúp nước của mọi người. Do trên, thời nhà Tống mới có nhiều
thơ văn và họa phẩm nổi tiếng về Hoa Mai.
Tóm lại hiện có hai loài Mai, một của
Trung Hoa đã xuất hiện từ thời thượng cổ, mà kinh thi đã từng đề
cập. Riêng về giống Mai Vàng nổi tiếng của VN, tới nay vẫn chưa
truy tìm được xuất xứ, cũng như thời gian ban đầu Mai xuất hiện.
Tuy nhiên Mai vàng chỉ mọc ở Miền Nam VN, nhiều nhất trong hai
tỉnh Quảng Nam và Bình Thuận. Theo Vương Hồng Sển, viết trong
“Sài Gòn năm xưa”, thì miệt Sài Gòn chỉ có giống Mai Trắng, mọc
rất nhiều tại Thứu Lãnh Tự (Chùa Cây Mai), Gò Mai và Phụng Sơn Tự
(Chùa Gò). Cũng theo tác giả, thì giống Bạch Mai này, được đem từ
Cao Miên về trồng.
Tương truyền khi còn cầm quyền, vua Chế
Mân đã lập vườn Mai Uyển ở Cà Ná là ranh giới giữa hai tỉnh Ninh
Thuận và Bình Thuận hiện nay. Tại đây Vua cùng với Hoàng hậu
Paramervan (Công chúa Trần Huyền Trân của Ðại Việt), tới dạo chơi
và thưởng ngoạn các loại hoa quý trong vườn, nhất là Mai. Tại đậy
Hoa Mai có nhiều loại, từ Hồng Mai, Bạch Mai hai tầng có cánh rất
lạ, cho tới loại Hoàng Mai có cánh vàng, mỏng mà ta thường thấy
trong dịp Tết. Hiện chiến tranh đã tàn phá tất cả, dù cảnh vẫn
còn đó.
Những
năm tháng sống tại quê nhà trước ngày 30-4-1975, năm nào tết tới
cũng đều ao ước có được một cành mai vàng nho nhỏ để vui xuân
nhưng đã trót làm dân xóm nhỏ, thì làm gì dư tiền để mua Mai như
thiên hạ. Bởi vậy chỉ còn ngắm Mai vô hồn trong các bức tranh
tết, treo trên vách lá, phên tre. Rồi thì tới tuổi lớn, thật sự
mới có dịp thưởng thức Mai thật trong rừng hay trên các vách núi
cheo leo, qua những bước hành quân xuôi Nam ngược Bắc. Nhưng buổi
đó chiến tranh càng ngày càng mù mịt, tuổi đời như gắn liền với
tuổi lính, thân phận còi cọc lăn lộn trong khói lửa quê hương,
nên còn hồn đâu mà chiêm bái, Mai vàng, Hoa đào hay Cúc tía...
thậm chí có lúc cả bọn chưa cạn xong tiệc rượu nơi quán bên
đường, thì bên ngoài trống trận, đã giục giã đoàn quân lên đường.
Hỡi ơi đời lính là vậy đó.
Giờ thì lặng yên trong những ngày tết
sắp tới nơi xứ người, bỗng thèm một cành Mai, để bắt chước người
dân nước Tống thuở nào, mượn Mai dục hồn người vong quốc, xa nhà,
sống đời lưu vong buồn sầu đứt ruột. Nhưng hỡi ơi tất cả các loài
hoa ở đây, như đã bỏ ta đi trốn. Càng não nùng hơn là những con
đường thơ mộng của Hạ Uy Di ngày nào, nay chỉ còn đầy gió và lá
rụng, làm thêm đau điếng khi nhớ tới những ngày xuân thơ ấu ở quê
làng. Ở đây tết người đã tàn đêm hội, nên chỉ còn lại có những
cơn mưa năm mới, làm nhớ tới ngày nào cũng trong cơn mưa, ta đã
vuốt tóc em ướt sũng nước mưa, mà cứ tưởng đó là ngàn vạn đóa mai
vàng mừng mùa xuân diễm tuyệt của hai đứa mình.
Lại thêm một tết quê người mà ta cứ mãi
ngóng chờ mai đào chớm nở nhưng tất cả chỉ là mộng mị buồn rầu-/-
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Giêng 2017
Mường Giang
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Trung tâm lưu trữ những buổi lễ Mừng Thánh Tổ SĐND/QLVNCH
|
Hình nền: Xuân Đinh Dậu. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by ddcb chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, January 26, 2017
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang