Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Hồi ký Chiến trường
Chủ đề: Hải Chiến Hoàng Sa (HCHS)
Tác giả: Tất Ngưu
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Chuyện thật xảy ra vào trung tuần Tháng Giêng năm 1974
Lời giới thiệu:
Tất Ngưu là người bạn cùng lớp
(Khóa 20) trường Hàng Hải Thương Thuyền (HHTT) – Trung Tâm Kỹ
Thuật Phú Thọ, Việt Nam. Chúng tôi tốt nghiệp vào lúc nước nhà
thất điên bát đảo, kiệt quệ trong khói lửa chiến tranh. Mộng tìm
việc làm trên các thương thuyền tan theo mây khói. Cùng một số
bạn cùng khóa chẳng hạn như Nguyễn Văn Kết, Trần Minh Trung, Phạm
Tánh Dược, Nguyễn Chánh Nghĩa... chúng tôi đành lên đường nhập
ngũ tòng chinh. Một số anh em cùng với tôi đã gia nhập Hải Quân
và Quân Vận VNCH với hy vọng có cơ hội áp dụng những kỹ thuật hải
hành hấp thụ được ở trường HHTT. Thế rồi trong một trận hải
chiến, chiến hạm bị đánh đắm. Lênh đênh trên biển cả ba đêm, bốn
ngày không thực phẩm và nước uống, Tất Ngưu đã chết đi rồi sống
lại.
Là người
may mắn được xem bài tường thuật trong quyển nhật ký được cẩn
thận giữ gìn hơn 32 năm qua, tôi đã xin và được anh cho phép đăng
tải nguyên văn.
Xin nói thêm là đối với một người đã
một lần chết đi rồi sống lại như anh, danh lợi chỉ là chuyện phù
phiếm. Anh đang có một cuộc sống bình dị, thoải mái, không màng
đến vinh hoa phú quý. Đăng tải bài tường thuật này là việc ngoài
ý muốn của anh, nhưng bởi sự yêu cầu khẩn khoản của tôi, anh đã
đồng ý. Dẫu sao đây cũng là một dịp để xác nhận chiến công của
những chiến sĩ vô danh và các đồng đội mà anh còn nhớ tên trong
đó có Trung sĩ Trọng Pháo (TSTP) Xuân, Hạ sĩ Nhất Vận Chuyển
(HS1VC) Tây, Hạ sĩ vận Chuyển (HSVC) Sáu, và còn nữa...
Cũng nhân tiện chúng tôi thuộc khóa đàn
em Hàng Hải Thương Thuyền (HHTT) xin được cảm kích chiến công của
HQ Tr/úy Cơ Khí (CK/HHTT) Huỳnh Duy Thạch là đàn anh (thuộc khóa
13 HHTT), nguyên Cơ khí Trưởng của Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ10 đã
đi theo chiến hạm vào lòng đại dương.
Xin độc giả dành cho anh Tất Ngưu và
các đồng đội của anh sự tri ơn thành thật nhất. Riêng tôi, xin
“thẩm quyền nước Việt” trao đến các anh bằng Tưởng Lục cao quý
nhất, Anh Dũng Bội Tinh, và Đệ Nhất Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, và
hằng mong Thượng Đế, Trời, Phật luôn theo sát phò hộ các anh.
Phó Thịnh Đường
(nguyên Hải Quân Thiếu úy Hàng Hải Thương Thuyền)
Florida, Spring 2006
Bổ túc chi tiết:
Trước trận hải chiến, Hộ Tống Hạm Chí
Linh HQ11 hiện diện tại quân cảng Đà Nẵng. Lúc trận chiến diễn
ra, HQ11 đã rời bến đi tăng viện Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ10. Khi
rời bến HQ11 đã nhận giữ thư từ của HQ10. Giữa đường đến quần đảo
Hoàng Sa, để tránh không tập của địch và bảo toàn lực lượng, HQ11
đã được lệnh gọi quay trở về. Trên HQ11 có HQ Th/úy HHTT Nguyễn
văn Kết. Mới đây Kết có gởi cho Tất Ngưu một điện thư như sau:
(E-mail ngày 30 tháng 3 năm 2006)
Không biết là Tất Ngưu có biết (hay có
nhớ) rằng tớ là người đầu tiên nghe danh sách các chiến sĩ của
HQ10, được tầu buôn Hòa Lan vớt lên...
Hôm đó tớ đi ca đêm trên Hộ Tống Hạm
Chí Linh HQ11, khi anh Hạ sĩ trực máy truyền tin nhận được tín
hiệu từ tầu buôn Hòa Lan, tớ liền lên máy. Bên kia là một giọng
nói Việt Nam, đọc cho tớ nghe tên của các chiến sĩ được vớt lên
tầu...
Tớ
không thể nào diễn tả được cảm xúc của mình lúc đó khi nghe tên
của Chuẩn úy Tất Ngưu được đọc lên trong máy...
Ký tên,
Nguyễn
văn Kết
Hộ Tống Hạm Chi Linh HQ11
Sau đây là tên các chiến sĩ sống sót
được chép lại từ quyển nhật ký của Tất Ngưu:
Danh sách thủy thủ đoàn thuộc Hộ Tống
Hạm Nhựt Tảo HQ10 đã trở về sau trận Hải Chiến Hoàng Sa:
1 Trung sĩ Bí Thư (TSBT) Võ văn Bằng
2 Trung sĩ Tiếp Vụ (TSTV) Đỗ kim Hoàng
3
Hạ sĩ 1 Trọng Pháo (HS1TP) Nguyễn văn Tám
4 Hạ sĩ Trọng Pháo (HSTP) Trần ngọc Sơn
5 Hạ sĩ Trọng Pháo (HSTP) Phạm văn Lợi
6
Hạ sĩ Trọng Pháo (HSTP) Võ văn Tuấn
7 Hạ
sĩ Trọng Pháo (HSTP) Lê tấn Hưng
8 Hạ sĩ
Trọng Pháo (HSTP) Vương văn Và
9 Hạ sĩ I
Cơ Khí (HS1CK) Lưu tố Nữ
10 Hạ sĩ Cơ Khí
(HSCK) Nguyễn hồng Cứng
11 Hạ sĩ Cơ Khí
(HSCK) Huỳnh văn Hòa
12 Hạ sĩ Tiếp Vụ
(HSTV) Nguyễn văn A
13 Thủy thủ 1 Cơ Khí
(TT1CK) Trần văn Hà
14 Hạ sĩ Bí Thư
(HSBT) Đỗ văn Thành
15 Thủy thủ 1 Thám
Xuất (TT1TX) Trương văn Long
16 HQ Trung
úy K8/OCS Hà đăng Ngân
17 HQ Trung úy
K20/NT Phạm văn Thì
18 HQ Trung úy K1/70
ĐB Ngô văn Hòa
19 HQ Trung úy K25/VBĐL
Nguyễn đông Mai
20 HQ Thiếu úy K24/NT
Phạm thế Hùng
21 HQ Chuẩn úy K1/IOCS Tất
Ngưu
TRẬN HOÀNG SA
Nhật Ký của Tất Ngưu
Tất Ngưu -
Người về từ Hoàng Sa
Sài Gòn ngày 30
tháng 5 năm 1974,
Tôi đã sống lại một kiếp sống thứ hai.
Phải, tôi đã thoát chết, đã kinh nghiệm một cái sống khi tôi
không còn một tia hy vọng trong trí não. Nhưng thật sự tôi đang
còn đây, và tôi sẽ thuật lại một trận chiến hãi hùng đầy cam go,
và một cuộc sống lênh đênh trên mặt biển liên tục bốn ngày ba đêm
trên một con bè với một túi thực phẩm chỉ gồm kẹo và nước uống.
“Te-Tít... Te-Tít... Te-Tít...Te-Tít...
Te-Tít... Nhiệm sở vận chuyển.”
Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ10
Hạm trưởng hiên ngang đứng trên đài chỉ
huy ra lệnh tháo giây. Một số anh em khấp khiểng chạy về chiến
hạm. Họ vừa đi nhậu về, hôm nay mới lãnh lương mà. Nhân viên trên
tầu chỉ có thế, lãnh lương ra thì lại đi uống rượu.
“Nhanh lên, tầu rời bến, nhanh lên!”
“Tủm!”
“Ối!”
Anh HS1TP Tám chếnh choáng rơi tõm
xuống nước. Tôi thấy hạm kiều náo động, nghe tiếng hối thúc:
“Thả phao”, “Vớt người”...
Đó phải chăng là một điềm chẳng lành.
Chiến hạm chúng tôi (HQ10) sau một đêm
lềnh bềnh tuần tiễu tại cửa Đà Nẵng, nhận lệnh theo HQ5 trực chỉ
quần đảo Hoàng Sa. Nhiệm vụ của chúng tôi là yêu cầu các thuyền
đánh cá của Trung Cộng rời khỏi thềm lục địa của đảo Quang Hòa
(Duncan).
“Chuẩn Úy, Chuẩn Úy, tới giờ đổi ca”. Mắt nhắm mắt mở tôi nhìn
đồng hồ. Đã 2345H (11 giờ 45 đêm) rồi, nhanh nhỉ. Thời tiết tháng
Giêng còn hanh lạnh, tôi khoác thêm một chiếc áo choàng mầu navy
blue. Nhận ca, tôi được biết chiến hạm đang thả trôi tại quần đảo
Hoàng Sa. Cùng có sự hiện diện của cả khu trục hạm HQ4, hai tuần
dương hạm HQ5, và HQ16.
Trong suốt ca trực từ 2400H đến 0400H,
tôi cùng HSTP Lợi nói chuyện vui với nhau. Anh này vừa mới tân
đáo và đây là chuyến công tác đầu. Tôi nghe anh ta kể lại những
ngày huy hoàng sống ở giang đoàn. Nào là bắt những con tôm càng,
thịt, bánh mì sandwich, v.v. Nghĩ mà thú nhỉ!
Vào khoảng 0100H, tôi nhận được chỉ thị
– không đúng – một công điện khẩn thì đúng hơn: “0600H GIỜ THI
HÀNH”. Tôi trình công điện lên hạm trưởng. Đêm đó hạm trưởng an
giấc tại phòng vô tuyến phụ, cạnh đài chỉ huy. Thời gian đi như
chợp mắt, mới đó mà đã đến gần 0400H rồi. Tôi gọi:
“Anh Lợi ơi, xuống gọi Th/úy Mai lên
đổi ca giùm đi!”
Thế rồi hạm trưởng thức giấc. Đứng trên
đài chỉ huy, ông ngó nhìn xung quanh để quan sát vị thế, rồi ra
lệnh kéo còi nhiệm sở tác chiến. Một hồi còi rợn người nổi lên: “
Tít... Tít... Tít... Tít... Tít... Tít...” Tiếng của hạm trưởng
vang trên hệ thống nội thông:
“Đây là Hạm Trưởng”
“Nhiệm sở tác chiến, nhiệm sở tác
chiến”
“Tất cả
vào nhiệm sở tác chiến”
“Nhiệm sở tác chiến”
“Tất cả vào nhiệm sở tác chiến”.
“Tít... Tít... Tít... Tít.........”
Tất cả anh em thủy thủ đoàn vội vã thức
giấc. Ai nấy vào nhiệm sở của mình. Riêng tôi, vừa đi xong ca
cách mạng (phiên trực hải hành từ nửa đêm đến tờ mờ sáng) lại
vướng vào nhiệm sở tác chiến, cảm thấy mệt đừ. Ngay sau đó:
“Nhiệm sở phòng không” “Nhiệm sở phòng
không”
Tôi
thấy ngay lập tức những nòng súng rợp rợp hướng lên trời góc 45
độ, nào là các đại bác 76.2ly, bô-pho 40ly, 20ly, đại liên 30,
súng cối 81ly.
“Đài chỉ huy, đây sân mũi, 76.2ly cò
điện bất khiển dụng”
“Thôi được, cho dùng cò chân”
“Đài chỉ huy, đây 41, 42 tôi phát hiện
một phi cơ bay từ ánh trăng hướng về phía ta, hướng 3 giờ.”
“Đài chỉ huy nghe rõ, tất cả các khẩu
hướng về hướng 3 giờ”
“Đài chỉ huy, phi cơ bay vào mây và mất
dạng”
Toàn thể
nhân viên chiến hạm cứ luôn ở vào một tình trạng căng thẳng. Chắc
hẳn mọi người, ai cũng đang linh cảm rằng một cuộc hải chiến sẽ
xảy ra. Có lẽ cũng giống như các bạn đồng đội, đầu óc tôi đang
nghĩ đến một chiến thắng huy hoàng, một ngày về với bộ tiểu lễ
trắng tinh, hiên ngang đứng giữa hàng quân, trên ngực đầy những
huy chương. Tất nhiên, không ai nghĩ đến hậu qủa của một cuộc
chiến: thương vong.
Khoảng thời gian từ 4 giờ sáng đến 6
giờ sáng ngày 19 tháng Giêng, chiến hạm vẫn tiến, và nhân viên
vẫn cảnh giác trước phi cơ của địch. Trời lờ mờ, chưa tỏ hẳn ánh
dương, hải đội của ta lập thành một đội hình. Bên địch (Trung
Cộng) cũng gồm bốn chiến đỉnh 389, 396, 271, và 274, vẫn chạy đan
qua đan lại có vẻ như muốn khiêu khích. Lắm lúc như muốn đâm
thẳng cả tầu vào chiến hạm của ta. Sau một thời gian kèm sát bên
nhau, địch và ta dường như đang tìm những vị thế thích hợp để
công kích nhau.
Sau một loạt đèn hiệu được choé sáng,
từ đảo nọ bốn chiếc tầu đánh cá hướng về phía Bắc, di tản, và bốn
chiến đỉnh của họ vận chuyển song song để bảo vệ.
Thế rồi anh em trên chiến hạm thoáng
nét vui mừng.
Ồ! Họ đã chịu lui bước, trả lại mảnh đất cho chúng ta. Nào ngờ
sau khi bốn tầu đánh cá đi khá xa, bốn chiến đỉnh địch quay đầu
trở lại với lối vận chuyển đầy khiêu khích. Chiến hạm lại nhận
được lệnh chuẩn bị tác chiến. Tất cả nòng súng hướng vào phía đảo
để tránh sự khiêu khích với tàu địch. Trên tầu anh em xôn xao
căng thẳng, chỉ chờ một hiệu lệnh tác xạ ban ra là những viên đạn
vô tri này sẽ phá tan một hòn đảo nhỏ bé ngoài khơi, và bao nhiêu
nhân mạng trên đảo sẽ bị chôn vùi dưới lòng đại dương.
Trông chờ mãi, khẩu lệnh vẫn chưa được
ban hành, thủy thủ đoàn có phần nản chí, không còn vẻ hăng say
của thoạt đầu, xem những cuộc quần thảo giữa địch và ta như trò
đùa. Anh em trở nên chán ngán, quên hẳn sự căng thẳng giữa địch
và ta, bẵng đi việc sẵn sàng của nhiệm sở tác chiến. Một số nhỏ
hớ hênh để súng cá nhân xuống sàn tầu rồi cùng trò chuyện vui đùa
với nhau. Thức dậy từ lúc tờ mờ sáng đến giờ không có gì lót dạ,
anh em chúng tôi cảm thấy đói, riêng tôi như thấy kiến bò trong
bụng, may quá chúng tôi được lệnh luân phiên nhau vào nhà ăn để
dùng cháo.
“Th/úy Mai. Anh vào dùng trước, tôi sẽ ăn sau.”
Khi Th/úy Mai vừa dùng diểm tâm xong,
chúng tôi được lệnh tác xạ mà mục tiêu là các chiến hạm địch: Bất
kể nơi nào, thấy chiếc nào trong tầm thì cứ bắn, mục tiêu chính
yếu là chiếc dương tốc đỉnh 396.
Và rồi những nòng súng nay đã được
hướng vào chiến hạm địch. Rồi những chiến hạm của địch và ta lại
tiếp tục quần thảo nhau.
Vào khoảng sau 0900H, một lệnh “BẮN”
được ban hành mà tôi nghe được qua chiếc headphone. Riêng tôi,
trong nhiệm sở tác chiến là sĩ quan đảm trách 2 khẩu 20ly và súng
cối 81ly ở sân sau. Tôi vội vã hô to:
“Bắn, bắn nhanh lên”.
Những tiếng súng ầm ầm vang dội, những
tia sáng thi nhau bay về phía địch, những đóm lửa lần lượt bao
chụp lên chiến hạm địch.
TSTP Xuân hiên ngang đưa khẩu 20ly qua
lại, bắn liên hồi.
“Tạch... Tạch... Tạch...”
“Ối! sao khẩu 20ly không bắn nữa?”
“Thưa Ch/úy, súng trở ngại tác xạ”
“Trở ngại thế nào?”
“Kẹt đạn”
“Bắn một nòng”
“Tạch... Tạch... Tạch...”
“Hết đạn”
“Nằm xuống, để tao”, Hạ sĩ nhất vận
chuyển Tây thét lên, gạt Xuân ra, dựt lấy khẩu 20ly.
“Tạch... Tạch...Tạch..”
Trong khi đó HSVC Sáu lom khom chạy qua
chạy lại lấy đạn 81ly nạp vào khẩu súng cối.
“Ầm!” “Ầm!”
Tầu địch bốc cháy. Tôi thấy những viên
đạn trọng pháo lớn nhỏ đua nhau bám vào tầu địch.
“Rầm!!!”
Có giọng nói giữa đám anh em đang hỗn
loạn:
“Tàu
Trung Cộng đổ bộ, anh em cẩn thận”.
Một loạt đạn M16 túa bay ra từ đài chỉ
huy. Nhìn phía trước, tôi thấy mũi tầu của ta đâm vào tầu địch.
Thế rồi hai tàu từ từ dang ra. Tàu ta bất khiển dụng cả hai máy
chánh, cứ vậy mà trôi lênh đênh.
Sau khi hai chiếc tàu đụng nhau, tiếng
súng lớn dường như im bặt, chỉ còn nghe những tiếng súng nhỏ.
Giai đoạn hải chiến hình như chấm dứt. Anh em đồng đội chuẩn bị
cứu thương lẫn nhau. Hầm máy đang cháy, nhân viên phòng tai lo
cứu hỏa. Một số nhân viên cơ khí chết thui dưới hầm máy. Những
anh còn tỉnh thì được kéo lên boong chánh. Trung úy Huỳnh Duy
Thạch (cùng là đàn anh của tôi xuất thân từ trường Việt Nam Hàng
Hải Thương Thuyền, cũng là Cơ Khí Trưởng của chiến hạm HQ10,
chẳng may đã tử trận trong hầm máy. Ôi! tiếng rên la ảo não ngần
nào. Đài chỉ huy hoàn toàn tê liệt, cả cầu thang từ trung tâm
chiến báo (CIC) lên đài chỉ huy cũng bay mất một góc.
Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ10
Phòng y tá hoàn toàn thiêu trụi. Trong
phòng ăn sĩ quan (được sử dụng làm trung tâm phòng tai), sĩ quan
phòng tai HQ Thiếu úy Bửu (Khóa 25/Võ Bị Đà Lạt) đang rên la với
một chân trái bị bay mất, máu ướt đẫm người. Vừa được đưa ra đến
sân sau, anh đã trút hơi thở cuối cùng. Các anh em bị thương khác
không có thuốc men cấp cứu gì hơn, chỉ dùng vạt áo để băng bó.
“Ồ! HQ16, anh Thương hãy đánh SOS cho
họ đến tiếp cứu!”
Chúng tôi đánh hiệu bằng cờ, nhưng HQ16
đã quay đầu đi thẳng trong sự thất vọng hoàn toàn của chúng tôi.
Những tiếng súng lại bắn vang, cùng với những tiếng nổ trên tàu.
Chính lúc này Thiếu tá Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà đã anh dũng hy
sinh trên đài chỉ huy. Tôi còn nhớ là đài chỉ huy trước khi bị tê
liệt hoàn toàn đã ra lệnh cho chúng tôi đào thoát. Những dòng tư
tưởng quay cuồng trong tôi. Thế còn tàu? Và nếu có đào thoát,
chắc hẳn có sống không? Rồi tôi tự nhủ rằng HQ16 sẽ quay lại cứu
mình.
Những
tiếng súng lại vang lên, tiếng nổ trên tàu lại tiếp diễn. Nhìn ra
phía sau, hai chiến hạm địch lù lù tiến đến, hướng về phía mình.
HQ16 di tản càng ngày càng xa. Trên boong thây xác ngổn ngang,
chiến hạm trơ trơ mặc sóng gió đẩy đưa. Trên mặt biển, đồng đội
lô nhô trên những bè cấp cứu. Ôi thay! Tôi tự hỏi mình có nên đào
thoát hay không.
Hạ sĩ nhất cơ khí Nữ chạy đến với giọng
run run:
“Ch/úy. Ch/úy biết bơi có gì Ch/úy kéo hộ tôi nhé!”
“Rồi cứ nhảy đi, tôi sẽ kéo ra bè cho.”
“Ch/úy, phao này cho hơi vào cách nào?”
Tôi bèn kéo chốt cho hơi vào phao và
nói anh ấy nhảy đi. Một chốc sau ngó xuống nước tôi lại không
thấy anh ta đâu nữa. Tôi đoán có lẽ vì sóng to quá nên anh ta dạt
vào thành tàu. Ngay lúc đó, anh TSVC Đa và HSCK Hòa hấp tấp chạy
đến:
“Ch/úy
nhảy nhanh lên, kho đạn 20ly và 40ly nổ, nhảy nhanh lên!”
TSVC Đa, HSCK Hòa, và tôi cùng nhảy
xuống. Tôi hoảng khi thấy bè thì quá xa, sóng lại to, ngẫm không
biết mình có thể bơi ra đến nơi không.
Xin mở ngoặc nơi đây là: Trước khi đào
thoát, tôi có gọi luôn cả HS1VC Tây cùng nhảy, nhưng anh ta trả
lời rằng: “Thôi, tôi ở lại ăn thua đủ với Trung Cộng. Ch/úy cứ
nhảy đi.”
Thật
đúng y như câu nói của người xưa: “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”. Chẳng biết HS1VC Tây có được
đến trường để học và thấu hiểu câu nói thâm thúy này không? Anh
có nghe ai bàn về câu nói ấy không? Thế mà anh đã thực hiện được
sự việc đó mới là hay chứ. Việc mà chỉ có những đại anh hùng, các
bậc trượng phu không biết “tham sinh úy tử” là gì họa may mới làm
được. Thật là anh hùng. Tôi xin ngã mũ.
Lóp ngóp trên mặt biển, bơi mãi vẫn
không đến bè được, tôi mới tiếc rẻ: “Ối! phải biết ở lại tàu còn
hơn!” Chất thuốc mầu vàng của bao thuốc trị cá mập trong phao cá
nhân của tôi đã được bật ra. Thuốc hòa lẫn với nước biển biến
thành một vũng mầu xanh lá cây. Tôi cứ bơi, bơi mãi, bè cứ dạt
xa. Mỗi lần sóng đánh đến, nước biển lại tràn vào miệng cùng với
thuốc trị cá mập, có vị đắng đắng cay cay, Ôi! Hơi sức nào để ý
đến nữa, mục đích là sự sống. Chỉ làm cách nào bám vào được bè,
mạng sống mới có thể vãn hồi. Nhưng mệt nhừ rồi, còn sức đâu nữa
mà bơi ra bè. Không, ta phải sống, bản năng sinh tồn lúc đó không
cho phép tôi ngừng, cứ bơi, bơi mãi, đến khi bám được bè, nhìn
thấy mặt anh em, tôi ngất đi trong giây lát. Phải chăng lực tiềm
tàng trong cơ thể đã cạn, hay là ta đã tìm thấy sự sống nên lực
đó không cần thiết nữa. Khi được kéo lên bè, người tôi lả đi vì
đói khát mệt mỏi.
Thật là “họa bất đơn hành”, sau khi
ngồi yên trên bè, kéo chung những bè lại, nhìn về hướng tàu,
trong khi hai chiếc tốc đỉnh của Trung Cộng sân sân tiến tới,
khẩu 20ly trên HQ10 cứ nổ vang. Hai chiến hạm của TC cũng không
vừa, cứ vừa tiến vừa tác xạ, thế rồi khẩu 20ly đành im bặt. Những
tiếng súng sau cùng đó... Hỡi ơi! anh Tây, anh Sáu, các anh đã hy
sinh đền nợ nước cùng một số đông các chiến sĩ bất tử của HQ10.
Các anh ngã mình một cách anh dũng, nhưng có ai biết đến, chỉ có
những đồng đội cùng tàu với hai anh mới thấu hiểu. Nói đến sự hy
sinh chiến đấu vô vọng, tôi biết rằng giá trị còn tùy thuộc quan
niệm của mỗi con người. Có người cho rằng: “Quân tử phục thù,
thập niên vị vãn”. Nhưng theo tôi, các anh là những tấm gương anh
dũng rạng ngời. Đúng như vậy, anh Tây rất xứng với dòng chữ xâm
trên tay “Mặc Thế Nhân”. Thân xác hai anh giờ này đã chôn vùi
dưới đáy biển Hoàng Sa cùng với chiếc tàu thân yêu HQ10. Ước gì
tên tuổi của hai anh HS1VC Tây và HSVC Sáu được lưu mãi trong sử
xanh.
Hai
chiến hạm của dòng khát máu Cộng Sản Trung Cộng vẫn không buông
tha một chiến thuyền đã đang bốc cháy và bất khả vận chuyển.
Chúng cứ luân phiên nhau vây đánh chiếc HQ10, sau đó quay đầu
tiến đến bè của chúng tôi. Chúng tôi nghĩ là nếu họ tác xạ mình
thì anh em lại đào thoát lần thứ hai. Mắt Thượng Đế vẫn còn đây,
bầu trời xanh lồng lộng còn đó, mọi sự đã an bài sẵn. Tôi tự nhủ
hãy phó thác mạng sống mình cho Trời Phật. Số đã sống thì không
thể chết, số chết thì không sao cứu vãn được. May thay họ lại bỏ
đi. (Tôi nghĩ rằng không phải họ vì nhân đạo – cộng sản làm gì có
nhân đạo – lý do chính là chung quanh đây chỉ có những đảo mà họ
chiếm và cả một mặt biển rộng mênh mông. Họ chẳng cần vớt người
làm chi cho nhọc công, để chúng tôi chết dần mòn khỏi phải mang
tiếng với quốc tế.)
Qua cơn bĩ cực đầu tiên, tôi phải đương
đầu với đại dương trùng sóng và đói khát. Người đã mệt lả đi, lại
cứ nôn mửa suốt hơn cả tiếng đồng hồ. Tôi say sóng cũng thường
rồi, nhưng lần này uống nhằm mấy ngụm nước có thuốc trị cá mập,
tôi ói ra hết mật xanh, mật vàng. Vừa ói vừa rên, tôi cảm thấy
người không còn chút sức lực nào.
Nhìn lại xung quanh, tôi thấy tất cả có
năm chiếc bè, bốn lớn và một nhỏ, hầu hết đã bị bắn thủng. Chúng
tôi cột chung các bè lại với nhau. Nhưng vì sóng to gió lớn, một
chiếc bị tản mác. Mặc dù chúng tôi đã tìm mọi cách nhưng không
thể lại gần nó được. Bè đông người và được cột chum nhau, chìm
xuống mặt nước. Chúng tôi không có một dụng cụ nào khác để chèo
ngoài những bàn tay hết sinh lực. Trôi đến chiều hôm đó (ngày 19
tháng giêng), chúng tôi thấy một hoang đảo có nhiều cây cối. Mắt
trông thật rõ nhưng lấy tay khoát nước mãi vẫn không sao lại gần
đảo được, vì hôm đó sóng quả rất to.
Sau khi kiểm điểm lại chúng tôi chia
làm bốn bè:
Bè
số 1: coi như bè hướng dẫn, gồm có tôi, Tr/úy Thì, Tr/úy Hòa,
Th/úy Mai, HSBT Thành, HSCK Hòa, và TS1GL Thương.
Bè số 2: bè hậu bị tiếp sức, gồm có
Th/úy Hùng, TSBT Bằng, TSTV Hoàng, HSTV A, HSTP Lợi, HSTP Tuấn và
TT1CK Hà.
Bè
số 3: bè tản thương, gồm HS1TP Hưng, HSTP Và, TSQK Tuấn, ThSTP
Châu, TSĐT Thọ.
Bè số 4: bè dưỡng thương, đó là một bè
nhỏ có hai mảnh ván bé kê lên để bệnh nhân có thể nằm cho không
ướt người. Bè gồm có TSVC Đa, và TSTP Nam.
Riêng về bè trôi dạt không thể cột chùm
được kia gồm có: Hạm Phó Trí, Tr/úy Ngân, HS1CK Nữ, HSTP Sơn,
HSCK Cứng, TT1TX Long.
Bầu trời đã tối mịt, sóng lại to hơn.
Anh em mệt lả người phần vì đói khát, phần vì mệt nhọc sợ hãi.
Chúng tôi cứ mặc cho bè trôi quanh đây với hy vọng sáng sẽ bơi
vào đảo được. Đêm hôm đó Hạm Phó Trí đã trút hơi thở cuối cùng.
Thân xác Hạm Phó cũng đành giao cho thủy thần định liệu.
Suốt đêm cơn lạnh đã hành hạ cơ thể của
tôi, với bộ quân phục ướt như chuột lột. Anh em cứ ôm gồng lấy
nhau mà run rẩy chờ đêm qua. Đêm sao qua chậm thế! Giờ này mới ba
giờ đêm, bốn giờ, năm giờ... trời bắt đầu sáng. Thật là quái dị.
Đêm vừa qua lại không trăng sao, sáng nay mặt trời lại không mọc.
Phải chăng ông Trời cũng không dám diện kiến một cảnh tượng thê
lương trên biển của thủy thủ đoàn HQ10?
Thân mệt nhừ, tôi quay qua quay lại
nhìn dáo dác, rồi lẩm bẩm:
“Ủa! Đảo hôm qua đâu? Thôi rồi anh em
ơi, chúng ta không biết đã trôi về đâu?”
Ai nấy đều lộ vẻ thất vọng. Khi TS1GL
Thương mang ra được một la bàn cầm tay thì chúng tôi mới hỡi ơi
là hiện tại luồng nước xoáy đang đưa bè theo hướng Đông Bắc, nếu
muốn vào đảo anh em phải chèo ngược lại theo hướng Tây Nam.
Cơn đói khát lại hành hạ. Sau khi kiểm
điểm thì thấy bè số 1 không có bao thực phẩm nào cả dù rằng dây
buộc vẫn còn đó. Bè số 2, 3 mỗi bè gồm một bao thực phẩm chứa 20
lon nước (cỡ chai coca-cola) và 12 bao kẹo, mỗi bao gồm 8 miếng
kẹo. Thế rồi phải lấy ra gom lại chia đều ra. Trong đó có 6 bao
kẹo không thể sử dụng được, nhưng cũng để dành lại đó. Chúng tôi
khui những lon nước, mỗi người hớp một ít, và ăn một miếng kẹo.
Những người bị thương nặng như TS1GL
Thương, TSQK Tuấn, có lẽ bị mất quá nhiều máu nên họ cứ đòi nước
mãi. Ngày đầu tiên trôi dạt trên biển chúng tôi vẫn nuôi hy vọng
sẽ lên được một đảo nào đó gần đây, hay có thể được chiến hạm của
ta ra cứu vớt, nên vấn đề uống nước ngọt chưa bị hạn chế. Nhất là
nghe các anh bị mất nhiều máu rên rỉ gọi khát chúng tôi chúng tôi
không đành nên cho họ uống cả lon. Khoảng 9 giờ sáng ngày 20
tháng Giêng, TSQK Tuấn đã ra đi một cách âm thầm không một lời
trối trăn, mà cách đó ba bốn giờ đồng hồ miệng cứ kêu la khát,
khát quá.... Ý thức được rằng sẽ còn nhiều ngày lênh đênh trên
biển nữa, nước ngọt rất cấp thiết, chúng tôi tự hạn chế trong
việc sử dụng nước ngọt và kẹo. Bè cứ mặc cho dòng nước đưa trôi.
Sáng hôm nay lại nghe những tiếng súng nổ vang. Chúng tôi thắc
mắc phải chăng chiến hạm tăng phái của ta đã đến và một cuộc hải
chiến lại tiếp diễn?
“Anh em hãy gắng sức chèo về hướng Tây
Nam, đúng hướng đó rồi, hướng của những hòn đảo hôm qua ta tranh
giành.”...
“Cố
lên anh em, chúng ta sẽ sống nếu gặp lại tầu bạn.”...
Khoát nước, chèo mãi vẫn không đi tới
đâu.
“Thôi
chúng ta tháo hai miếng ván của bè nhỏ để chèo đi, chèo mãi theo
hướng Tây Nam sẽ đến đảo ngay.”
“Anh em cứ cố gắng lên, đừng nghỉ tay,
nếu không công trình khoát chèo, bơi từ sáng đến gìờ coi như
hoang phí. Đêm nay chúng ta luân phiên chèo nhé!”...
Bè nay đã được cột chùm vào nhau; lúc
đầu cột ngang nhau, nhưng sóng đập mạnh, các bè cứ va đập vào
nhau. Bè lật, vỡ bể thêm ra. Sau cùng đành cột theo hàng dọc nối
đuôi nhau. Bè của tôi dẫn đầu, sau đến bè số 2, số 3, rồi bè nhỏ.
Những bè sau đa số là anh em bị thương, mệt mỏi, chán nản, nên
chỉ còn chúng tôi (Tr/úy Thì, Th/úy Mai, Th/úy Hùng, Tr/úy Hòa,
HSTV A, và tôi) là những người còn đủ sức để chèo. Đêm đó cứ luân
phiên nhau mà chèo. Lúc đầu dựa vào hướng của la bàn, nhưng trong
đêm tối la bàn đã bị đánh mất, phải nhờ các vị sao định hướng để
chèo. Suốt đêm anh em chỉ được nghỉ ngơi đôi chút.
Khoảng sáu bảy giờ sáng ngày 21 tháng
Giêng, thình lình tôi thấy hướng Tây Bắc có hỏa châu lóe lên rồi
mất hẳn. Tôi mới hô to: “Có hỏa châu, một là chiến hạm tìm kiếm
ta, hai là lính địa phương quân trên đảo. Anh em hãy chèo về
hướng đó nhanh lên!”
Nhưng trời chưa tha bọn người hoạn nạn
như chúng tôi. Sáng hôm đó sóng quá to, hơn nữa lại phải chèo
ngược sóng, cho nên cứ chèo mãi mà hình như bè vẫn ở tại chỗ.
Buồn thay, buổi sáng nay thêm một bạn đồng nghiệp nữa lẳng lặng
ra đi không một lời từ biệt – TS1GL Thương. Buổi chiều, thêm TSĐT
Thọ từ giã anh em. Xin được mỹ miều chua xót ghi là “Sáng, thủy
thần lại gọi thêm trình diện thủy cung. Chiều, thêm người theo
hạm trưởng đi công tác đáy biển bằng tàu ngầm HQ10.”
Có lẽ trước vài tiếng đồng hồ mà thủy
thần gõ cửa kêu tên, mọi người đều nghe văng vẳng bên tai một
cách yếu ớt “Khát quá... khát quá...” Tinh thần của anh em lúc
này có vẻ giao động, nghĩ đến giây phút thần chết sắp gọi tên
mình, nghĩ đến những bạn đồng đội đã đi “công tác trên tầu lặn
với hạm trưởng.” Nếu không muốn nói là mọi người như sắp điên
loạn. Chiều hôm đó Thượng Sĩ Châu hỏi tôi:
“Đây cách Đà Nẵng bao xa?”.
“Khoảng trăm mấy, hai trăm hải lý.”,
tôi nói.
Thế
là ông tuyên bố ai muốn cùng đi với ông ta về Đà Nẵng thì đi, nếu
không ông sẽ đi một mình! Đoạn ông đẩy những anh bị thương trên
bè xuống biển. Thế rồi chúng tôi lại phải thất công lần lượt kéo
từng người lên. Thượng Sĩ Châu đã mất trí!
Ban ngày nhìn thấy chim hải âu bay qua
lượn lại, chúng tôi cứ hy vọng gần đây sẽ có đảo. Nhưng nhìn dáo
dác, biển cả vẫn hoàn toàn biển cả. Kẹo và nước ngọt đều dùng
cạn. Anh em bắt buộc phải dùng những lon không đã hết nước, pha
nước tiểu với nước biển để uống. Lúc bấy giờ không ai để ý đến
đói, nhưng cơn khát hoành hành cảm thấy thấm thía. Đêm đó ai nấy
đều mệt nhừ, đến nỗi các giây cột các bè lại với nhau đứt hồi nào
không hay.
Sáng hôm nay, ngày 22 tháng Giêng, tỉnh dậy tôi không còn thấy
một bè nào cột bên cạnh bè mình. Nhìn về trước, một bè trôi khá
xa. Ngó về phía phải cũng thấy một bè, nhưng cố gắng chèo mãi mà
không sao tới nổi. Dần dần những bè đó khuất dần ngoài tầm mắt
của tôi Trưa rồi lại chiều. Chân tôi giờ này sưng thủng, không
sao cử động được, miệng cứ tự động thều thào hai tiếng “khát
quá... khát quá”. Mắt, miệng đã sưng vù lên. Th/úy Mai đã nói lâm
râm:
“Ch/úy
Ngưu chắc không qua khỏi đêm nay.”
Tai tôi vẫn nghe thấy những tiếng đó,
đầu óc tôi cũng biết rằng mình không thể nào thoát khỏi tử thần
trong đêm nay – có lẽ giờ này hạm trưởng đang cứu xét mình có đủ
điều kiện đi tàu lặn HQ10 chăng?
Chiều hôm đó, khoảng sáu giờ, anh em
chuẩn bị ôm lấy nhau để qua đêm rét buốt. Thình lình HSCK Hòa
thét lên: “Có tàu!”
“Ôi! Tàu đâu, tàu đâu?”
Một cứu tinh hiện trước mặt. Lúc đó tự
dưng tôi bật đứng lên trên bè được, tay gỡ áo phao đỏ mà phất.
Tôi hy vọng họ sẽ phát giác ra mình, dù rằng chiếc tàu cứu tinh
còn cách bè mấy hải lý.
“Phải rồi! Chúng ta đã sống, tàu đang
ngừng!”
“Có lẽ
họ đã phát hiện chúng ta, anh em cố chèo về hướng tàu nhanh lên,
nếu đêm tối họ sẽ không nhìn thấy để cứu vớt ta, la lớn lên anh
em.”
“Một hai
ba... Ô!” “ Một hai ba... Ô!” “123... Ah!” “123... Ah!”, một mặt
lo chèo, mặt khác la to lên.
“Hình như bè không tiến tới chút nào
cả, và tàu họ cũng không vận chuyển!”
“Anh em ơi, nhảy xuống bơi!”
Nhưng hơi sức đâu mà bơi nữa. nhất là
vùng này đầy cá mập, nay thuốc chống cá mập lại không còn.
“Ô kìa! Tàu quay đi đâu? Thôi chết rồi,
hết hy vọng rồi, cố lên anh em!”
Hy vọng xen lẫn thất vọng. Màn đêm đang
dần dà bao phủ thì bỗng xa kia ánh sáng đèn tàu rực lên. Ôi chao!
Trông chiếc tàu dễ thương biết bao! Sau đó một ánh đèn pha rọi
sáng và từ từ di chuyển.
“À! họ đã thả dzu dzu ra để vớt chúng
ta. Sao họ chạy đường kia?”
“Có lẽ họ đang vớt đồng đội mình. Kìa,
họ tới mình, la lên cho họ biết anh em!”
“Ah! Oh! help us sir, please help us.”
“Okey, take it easy, be careful. Are
there any wounded?”
“Yes sir, most of us are wounded.”
“All right...”
Chiếc dzu dzu từ từ cặp sát bè và đưa
chúng tôi lên. Dzu dzu chạy một cách chậm chạp về tàu. Trên dzu
dzu ngoài một nhân viên lái, và hai nhân viên phụ tá còn có vị
thuyền phó người Hòa Lan, tay cầm một máy truyền tin đang liên
lạc với thuyền trưởng,. Chiếc dzu dzu cặp sát vào tàu. Trên tàu,
các thủy thủ người Hồng Kông đang thả dây xuống, móc vào dzu dzu.
Thế rồi dzu dzu được nhẹ nhàng kéo lên. Khi thành của dzu dzu
ngang với boong tàu, một cầu thang bật ra, lần lượt cứ hai nhân
viên lại dìu một người chúng tôi lên tàu.
Họ đưa chúng tôi vào một phòng ngủ, cởi
tất cả quần áo ướt ra, đắp cho mỗi người một tấm chăn, rồi cho
chúng tôi luân phiên đi tắm rửa bằng nước ấm. Cùng lúc đó họ đem
cho chúng tôi sữa tươi, cà phê, soup, thuốc lá. Sau đó thuyền phó
hỏi tôi là hình như trong nhóm có một lieutenant. Tôi đáp lại
rằng chỉ có Lieutenant Junior Grade (tức là trung úy) và chỉ
Tr/úy Thì. Ông đưa Tr/úy Thì đi tắm rửa và lên phòng ông để liên
lạc với Hải Quân Việt Nam.
Chúng tôi đã thật sự sống lại. Ngay khi
đó đồng hồ tôi chỉ đúng 12 giờ khuya, tôi hô to lên với anh em:
“Chúng ta đang qua đêm giao thừa trên
chiếc tàu Hòa Lan Kopionella, vị ân nhân của chúng ta!”...
Ghi chú: Th/úy Nguyễn đông Mai là một
sĩ quan hiện dịch, xuất thân từ trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt,
trước khi xảy ra trận chiến anh đã có nghị định và sắp đến ngày
đeo lon Trung úy; sau khi trở về, Tr/úy Mai được đặc cách thăng
cấp lên chức Đại úy.
Tác giả: HQ Th/úy HHTT Tất Ngưu HQ10
Bổ túc chi tiết: HQ Th/úy HHTT Nguyễn văn Kết HQ11
Sửa kỹ thuật: HQ Th/úy K25NT Lê văn Kim
Giới thiệu và đánh máy: HQ Th/úy HHTT Phó thịnh Đường
Yêu cầu: Tất cả bạn hữu và chiến hữu Khóa 25 SQ/HQNT và IOCS
http://vnhanghaiphap.free.fr/?p=446
Phó thịnh Đường
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những trang Liên hệ
Văn thơ:
Lời cho Hải đảo
Đồng bào tại VN Tưởng niệm 74 Tử sĩ QLVNCH hy sinh bảo vệ Hoàng Sa - 2019
Tưởng niệm 45 năm Hải Chiến Hoàng Sa 19/01/1974-19/01/2019
Trận Hải Chiến Hoàng Sa 19/1/1974
Huy Hiệu Quân Chủng Hải Quân VNCH
Văn thơ:
Chiến Sử Hoàng Sa
Lễ An Vị Tượng đài Đức Trần Hưng Đạo và Lễ Giỗ Trận HCHS, Victoria-Australia - 2018
Trận Hải Chiến Hoàng Sa dưới mắt một người còn sống sót
Lễ Tưởng Niệm Anh Hùng Tử Sĩ Hải Quân VNCH - Hoàng Sa Ngày 19-01-1974
Tưởng Nhớ Hải Chiến Hoàng Sa 19-01-1974
40 Năm Ngày Hoàng Sa Tại HTĐ - THVNHTĐ
Đức Trần Hưng Đạo - Thánh Tổ Quân Chủng Hải Quân VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Quân Chủng Hải Quân VNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by th chuyển
https://aihuubienhoa.com/p122a7525/tran-hai-chien-hoang-sa-duoi-mat-mot-nguoi-con-song-sot
Đăng ngày Chúa Nhật, January
21, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang