Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Lịch sử
CV3SĐ
Tác giả: Hồ Đinh (Mường Giang)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Hơn
85 năm qua, CSVN lúc nào cũng tìm đủ mọi cách để trương ngọn cờ
máu
trên lãnh thổ VN và những nơi chốn có người Việt TNCS sinh sống
sau ngày mất nước 30-4-1975. Hiệp định Genève năm 1954 chia cắt
VN thành hai miền riêng biệt tại vĩ tuyến 17, lấy con sông Bến
Hải làm ranh giới. Theo quy định, mỗi một miền được đặt hai đồn
canh, dọc theo bờ sông giới tuyến: Đồn Hiền Lương và Cửa Tùng
(Bắc Việt), Xuân Hòa và Cát Sơn (VNCH), cả hai phía đều có treo
cờ hằng ngày. Và đó là nguyên nhân đã làm hai phía đổ máu nhiều
lần vì “Lá Cờ” được treo ở hai đầu cầu Hiền Lương.
Thời gian đầu thi hành Hiệp định Geneve
(1954-1956) còn có sự hiện diện của các
toán kiểm soát đình chiến, nên hai phía vẫn tôn trọng cở lá cờ
được qui định 3.2x4.8m. Nhưng từ sau năm 1956, phía VNCH bên đồn
canh Xuân Hòa luôn thay đổi khổ lá cờ Vàng ba Sọc Đỏ, theo lệnh
của các đơn vị trưởng trấn đóng miền giới tuyến. Thế là trận giặc
“Chọi Cờ” bùng nổ hai bên bờ sông Bến Hải, mà phần thắng luôn về
phía VNCH vì có đủ phương tiện và được tự do quyết định hơn phía
CSBV. Theo các tài liệu còn lưu trữ cho biết suốt 20 năm chia
cắt, cả hai phía đã thay đổi cở “cờ” tới 267 lần để ăn thua,
trong đó nhiều lần cột cờ phía bắc bị máy bay oanh tạc mà nặng
nhất vào năm 1967, cả cột cờ, đồn canh và cầu Hiền Lương về phía
CS bị bom đánh xập.
CẦU
HIỀN LƯƠNG SÔNG BẾN HẢI [VĨ TUYẾN 17] [BỜ NAM] -
VẠCH MỐC SƠN GIỮA CẦU - RANH GIỚI CHIA LY ĐOẠN TRƯỜNG
CẮT RUỘT GIỮA HAI BỜ NAM-BẮC TỪ 1954
Có hiểu thấu những câu chuyện bên lề lịch sử, chúng ta mới thấy
được tầm mức quan trọng và thiêng liêng của lá cờ. Cho nên không
ai có quyền bắt buộc người khác phải theo ý mình, đứng chung dưới
một lá cờ mà trong thâm tâm của họ, đã coi nó như là biểu tượng
của một chế độ dã man, xấu xa bán nước như lá cờ máu của Cộng
Đảng VN.
Ngoài lá Quốc kỳ “Màu Vàng Ba Sọc Đỏ”, quốc dân VN còn phải biết
lịch sử của hai tiếng VN mà chúng ta đang trân trọng gìn giữ và
bảo tồn. Theo sử liệu, thì quốc hiệu VIỆT NAM chính thức xuất
hiện vào niên lịch 1802 (STL) là năm mà Đức Gia Long Hoàng Đế nhà
Nguyễn, đã có công thống nhất được toàn cõi sơn hà từ Ải Nam Quan
cho tới Mũi Cà Mâu, sau hơn 300 năm nội chiến triền miên, giữa
các dòng họ Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn.
Thật ra từ thế kỷ thứ XIV, hai tiếng
Việt Nam đã thấy xuất hiện trong nhiều tác phẩm lúc đó như Nam
Thế Chí của Hồ Tông Thốc, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của
Phan Huy Chú, Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi, Trình Tiên Sinh Quốc
Ngữ Văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm... Ngoài ra, các nhà khảo cồ sau
này, còn tìm thấy nhiều bia đá có niên lịch ghi trước thế kỷ
XVIII ở Bắc Việt. Trong tất cả các bia ký này, đều thấy có khắc
hai chữ Việt Nam. Theo nhận xét của các học giả, sử gia hiện tại,
thì hai chữ Việt Nam lúc đó, mang chung ý nghĩa rất thiêng liêng,
nhằm chỉ về một nước Việt ở Nam Phương. Để đối chọi với sự mai
mỉa khinh nhờn của người Tàu phương Bắc, mà suốt dòng lịch sử,
luôn coi VN như một quận huyện bản xứ, qua danh từ miệt thị “An
Nam hay Giao Chỉ”.Thời Pháp thuộc, thực dân cũng sử dụng những
danh từ hạ bạc của người Tàu trong quá khứ, mục đích cũng chỉ để
làm nhục dân tộc VN mà thôi.
Theo Dự Am Thi Tập của Phan Huy Chú
viết năm 1792, cho biết vào thời Quang
Trung thứ 5 nhà Tây Sơn, đã ban chiếu đổi quốc hiệu An Nam thành
Việt Nam. Tiếc thay triều đại trên quá ngắn ngủi, nên việc sử
dụng quốc hiệu VN cũng theo vận nước trôi vào quên lãng.
Riêng hai
tiếng VN cũng đâu có khác gì thân phận của dân tộc Hồng-Lạc nhược
tiểu, luôn bấp bênh trong dòng sinh mệnh lịch sử. Năm 1802 ngay
khi thống nhất được đất nước, vua Gia Long đã cử Trịnh Hoài Đức
và Lê Quang Định đi sứ sang nhà Thanh, trả lại ấn phong của vua
Quang Trung và xin nhận quốc hiệu cũ là Nam Việt.
Ta biết Nam Việt là quốc hiệu của VN
thời nhà Triệu (207-111 trước tây lịch), có lãnh thổ rộng lớn,
bao gồm Vân Nam, Lưỡng Quảng, Hải Nam, Bắc Việt và ba tỉnh
Thanh-Nghệ-Tĩnh phía bắc Trung Phần. Do đó, chừng nào vua Càn
Long mới chịu chấp nhận. Bởi vậy cho tới năm Gia Long thứ 3
(1804), nhà Thanh mới sai Tế Bá Sâm, mang quốc ấn và chiếu phong
vua Gia Long, đồng thời cũng chấp nhận quốc hiệu của nước ta vào
thời nhà Nguyễn là Việt Nam thay vì Nam Việt. Tuy nhiên phải đợi
tới cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hai tiếng VN mới được cả
trong và ngoài nước, sử dụng với tất cả ý nghĩa thiêng liêng và
toàn bích.
1. Cờ Đỏ Sao Vàng Của Đảng CSVN:
Hiện VC đang sử dụng lá cờ máu đỏ sao
vàng, nhái theo lá cờ của đảng cộng sản Trung Hoa tỉnh Phúc Kiến.
Cờ này chỉ xài tại nội địa và được treo bên trong các lãnh sự
quán của VC ở hải ngoại. Ngoài ra Hà Nội còn xài thêm lá cờ nữa
gọi đảng kỳ, hình thức giống lá cờ trên nhưng được vẽ thêm búa
liềm. Cờ này cũng đưọc nhái theo nguyên mẫu lá cờ của Liên Bang
Xô Viết cũ.
Căn cứ vào các nguồn tài liệu hiện tại, thì lá cờ của CSVN được
gọi là Hồng Kỳ
(Cờ Đỏ), do Nguyễn Hữu Tiến vẽ mẫu và xuất hiện lần đầu tiên vào
tháng 11-1940. Tuy nhiên Lá Cờ Đảng đã xài từ sau ngày 20-7-1954
tới nay, đã khác với Kỳ Hiệu của Phong Trào Việt Minh, vì các
cạnh của Ngôi Sao Vàng không còn là đường cong, mà đã trở thành
đường thẳng, y chang Cờ Liên Xô và Trung Cộng.
Tổng hợp các tài liệu viết về phong
trào đầu tiên của Cộng Sản Tàu tại Huyện Phúc Châu (Fuzhou) tỉnh
Phúc Kiến vào năm 1934, đã tìm thấy Lá Cờ Đỏ Sao Vàng, mà CSVN
đang sử dụng làm quốc kỳ từ đó đến nay. Ngoài ra Đảng còn xài
thêm Lá Cờ Búa Liềm, đã sao chép của Liên Xô. Đây là những lá cờ
của ngoại bang đem về, nên làm sao có thể bắt buộc mọi người phải
tôn trọng, trừ phi họ bị áp buộc và khủng bố.
2. Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ:
Quốc dân VN thì chính thức sử dụng lá
cờ màu vàng ba sọc đỏ, xuất hiện từ ngày 2-6-1948 cho tới tháng
7-1954. Sau đó, dù đất nước bị chia đôi nhưng chính phủ VNCH ở
phía nam vĩ tuyến 17, từ Đồng Hà-Quảng Trị, vào tới Mũi Cà Mâu,
vẫn tiếp tục sử dụng quốc kỳ của quốc dân VN. Kể từ ngày
1-5-1975, tuy VNCH không còn nhưng Lá Cở Vàng Ba Sọc Đỏ vẫn tồn
tại và theo chân người Việt TNCS, qua khắp mọi nẻo đường hải
ngoại, vẫn theo truyền thống của ông cha, trân quý bảo tồn và coi
đó như một biểu tượng thiêng liêng của Tổ Quốc và Dân Tộc VN.
Tại các nước Âu Châu, Canada, Úc và nhất là Hoa Kỳ, có nhiều
người Việt tỵ nạn định cư, sau bao chục năm đấu tranh liên tục,
nên đã đạt được ý nguyện, thỉnh cầu chính quyền sở tại, công nhận
“Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ” của VNCH, như là một biểu tượng tinh thần
cao quý nhất của Cộng Đồng VN tỵ nạn. Sự kiện mới đây, chính
quyền thành phố Westminster thuộc Tiểu Bang California (Hoa Kỳ),
ban hành quyết định “cấm lá cờ máu đỏ sao vàng của VC xuất hiện
nơi công cộng”, là một chiến thắng lớn của người Việt QG/TNCS,
trên chặng đường đấu tranh quang phục đất nước, đang nằm dưới ách
nô lệ của bạo quyền.
Về nguồn gốc của Lá Cờ, căn cứ theo tác
phẩm “Quốc Kỳ Việt Nam” của tác giả Quốc Duy Nguyễn Văn An, thì
quốc kỳ VN được khởi đầu từ sáng kiến của Phan Thanh Giản. Năm
1863 khi làm Chánh sứ hướng dẫn phái đoàn đi sứ sang Pháp, để xin
chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Phần: Gia Định, Biên Hòa và Định
Tường, đã bị thực dân Pháp cưỡng chiếm vào năm 1862. Khi tàu vào
tới hải cảng, Pháp yêu cầu phái bộ VN treo quốc kỳ, để họ tổ chức
bắn súng đại bác chào đón theo nghi cách ngoại giao quốc tế. Vì
không chuẩn bị trước, nên Phan Thanh Giản phải lấy tạm chiếc khăn
lụa màu vàng và dùng son đỏ viết trên đó bốn đại tự “Đại Nam Khâm
Sứ”. Cũng từ đó, lá cờ trên đã trở thành Cờ Long Tỉnh, tượng
trưng cho Triều Đình Nhà Nguyễn, với lãnh thổ còn lại gồm Bắc và
Trung Phần.
Ngày 16-4-1945, học giả Trần Trọng Kim được Quốc Trưởng Bảo Đại,
ủy nhiệm lập Chính Phủ với nội các gồm 10 Bộ Trưởng. Ngày
2-6-1945, Thủ Tướng Trần Trọng Kim quyết định chọn quốc kỳ mới
cho VN. Đó là lá cờ nền vàng, ba sọc đỏ theo hình quẻ Ly (--)
trong kinh Dịch. Ngày 30-6-1945, Ông lại chọn bài Đăng Đàn Cung
làm Quốc Thiều.
Tháng 2-1946, D’Argenlieu được cử làm
Cao Ủy Đông Dương, mục đích tái lập lại sự đô hộ trên ba nước
Việt-Miên-Lào, mà Pháp đã bị quân phiệt Nhật đánh đuổi khỏi vùng
vào ngày 3-9-1945. Để tiến tới ý đồ bất lương trên, thực dân mưu
toan nhiều lần tách hẳn Nam Kỳ của VN, để nhập vào lãnh thổ Pháp,
đồng thời cai trị Bắc và Trung Phần như trước tháng 3-1945. Tuy
nhiên âm mưu xảo trá và nguy hiểm của giặc, lần lượt bị quốc dân
VN phát hiện và chống trả, khiến cho các chính phủ Nguyễn Văn
Thinh và Lê Văn Hoạch, cũng lần lượt sụp đổ theo ý đồ thâu tóm
đất đai của người Việt.
Ngày 8-10-1947, Nguyễn văn Xuân làm Thủ
Tướng và lập nội các mới, trong đó Trần Văn Ân được cử làm Thứ
Trưởng Thông Tin. Trong giai đoạn này, hầu như tất cả các vị trí
thức yêu nước cũng như những đảng phái quốc gia, đều cực lực
chống lại chiêu bài chia cắt Nam Phần thành một miền tự trị thuộc
Pháp.
Nương
theo lòng dân lúc đó, cụ Trần Văn Ân qua tư cách của một chính
khách kiêm Thứ Trưởng Chính Phủ, đã đề nghị Thủ Tướng Xuân, sử
dụng danh xưng “Nam Phần VN”, để thay thế cái gọi là “Nam Kỳ Cộng
Hòa Tự Trị”, mà Pháp và bọn Việt Gian lúc đó đã ngụy xưng một
cách trơ trẽn. Ngoài ra ông cũng đã chọn Quốc Ca - Quốc Kỳ cho cả
nước.
Vào thời
điểm 1948, lúc đó trên lãnh thổ VN đang sử dụng năm lá cờ khác
nhau: Ba lá của ba kỳ Bắc-Nam-Trung, một của đạo Cao Đài và lá
thứ năm của Phật Giáo Hòa Hảo.
Trong thành phần Ủy Ban chọn Quốc Ca và
Quốc Kỳ cho Quốc Gia VN độc lập, lúc đó có Nguyễn Hữu Thiều là
chủ tịch, cùng các đại diện Đỗ Quang Giai (Miền Bắc), Trần Văn Lý
(Miền Trung), Nguyễn Văn Xuân (Miền Nam) cùng hai đại diện của
Phật Giáo Hòa Hảo và đạo Cao Đài. Cuộc triển lãm năm mẫu cờ tại
Phòng Khánh Tiết Sài Gòn. Cuối cùng Ủy Ban đã quyết định chọn Lá
Cờ Nền Vàng Ba Sọc Đỏ, làm Quốc Kỳ của Quốc Dân và Quốc Gia VN.
Sự kiện lịch sử trên, về sau được Cựu
Hoàng cũng là cựu Quốc Trưởng Bảo Đại, đề cập tới trong tác phẩm
“Con Rồng Việt Nam (Le Dragon D’Annam)”, xuất bản năm 1990. Ngày
5-6-1949, trên chiến hạm Duguay Trovin, bỏ neo trong vịnh Hạ
Long. Lúc đó trên tàu có sự hiện diện của Quốc Trưởng Bảo Đại,
Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân, Cao Ủy Pháp tại Đông Dương là Emile
Bollaert đại diện nước Pháp, thừa nhận nền độc lập của VN, mà
quốc kỳ là lá cờ vàng ba sọc đỏ như chúng ta hiện tại đang trân
quý trên khắp mọi nẻo đường lưu vong hải ngoại và cả trong hồn
tim của triệu triệu người VN trong nước đang sống nơi xã nghĩa
thiên đàng.
Bởi vậy Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ có một ý nghĩ khác biệt với Lá Cờ
Máu của cộng
sản VN, vì nó không phải là của riêng bất cứ ai, từ Bảo Đại tới
Nguyễn Văn Xuân, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương
hay Dương Văn Minh. Trong khi đó lá cờ máu sao vàng, từ hình thức
tới nội dung là tài sản riêng của đệ tam cộng sản quốc tế, của
Liên Xô, Trung Cộng và Việt Cộng. Đó cũng là lý do thiêng liêng
mà người Việt qua mọi giai đoạn lịch sử, từ trong nước cho tới
cuộc sống lưu vong, vẫn quyết tâm gìn giữ và đấu tranh để quốc tế
công nhận, dù hiện nay người Việt quốc gia không có lãnh thổ, từ
sau ngày 30-4-1975, quốc hận, gia vong, đổi đời, súc vật lên làm
chánh quyền, cai trị cả nước.
Lá quốc kỳ VN là biểu tượng cao quý
nhất trong linh hồn người Việt. Tháng 7-1954 hơn hai triệu người
đất Bắc và các tỉnh miền Trung bên kia vĩ tuyến 17 vì công nhận
lá cờ vàng ba sọc đỏ của quốc dân, nên cắt ruột gạt nước mắt, bỏ
xứ vào Nam tìm tự do dưới bóng lá quốc kỳ màu vàng. Ngày
30-4-1975 người Việt lại bỏ nước ra đi vì không sống nổi đưới lá
cờ máu của đảng cộng sản, cho tới ngày nay, lập trường chính trị
vẫn không hề thay đổi.
Lá Cờ của quốc dân VN hiện tại, nền màu
vàng, hình chữ nhật bề ngang bằng 2/3 chiều dài. Trên nền vàng, ở
phần giữa là ba sọc đỏ có kích thước bằng nhau. Màu vàng của lá
cờ tượng trưng cho dân tộc VN, trong cộng đồng các dân tộc Châu Á
da vàng. Màu đỏ tượng trưng cho sự đấu tranh gian khổ, đẫm đầy
huyết hận, nước mắt đoanh tròng, trong suốt chiều dài của lịch sử
chống ngăn ngoại xâm. Riêng Ba sọc đỏ tượng trưng cho ba phần của
đất nước VN.
Lúc đó, chính ký giả Nguyễn Kiên Giang (tên thật Lý Thanh Cần),
giữ chức Giám Đốc Phòng Báo Chí thời Thủ Tướng Xuân. Ông là người
được chính phủ giao phó thực hiện lá quốc kỳ. Song song Thủ Tướng
Xuân còn chấp nhận bài hát “Thanh Niên Hành khúc” của Lưu Hữu
Phước sáng tác làm Quốc Ca, vì lúc đó đương sự cũng như hằng
triệu triệu thanh niên nam nữ VN yêu nước, đang dấn thân đấu
tranh chống thực dân Pháp, trong hàng ngũ Việt Minh... nên tim
óc, chữ nghĩa, chỉ hướng về hồn nước, hồn người. Đó cũng là lý do
mà Chính phủ VNCH khi trước và Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải
Ngoại hiện nay, không thay đổi bài hát nào khác, dù bài “Việt Nam
Việt Nam” của Phạm Duy, rất được nhiều người ưa thích nên đề nghị
dùng nó để thay thế bài hát của họ Lưu.
Cũng liên quan tới Lịch sử Lá Quốc Kỳ,
trong tác phẩm “Việt Nam Nhân Chứng”, cựu tướng Trần Văn Đôn đã
viết là, chính ông ta và tướng Lê Văn Kim, là tác giả đã đề nghị
thực hiện quốc kỳ và quốc ca VN hiện tại. Nhưng sự xác nhận trên,
chẳng những bị cụ Trần Văn Ân là nhân chứng, tác giả cờ và quốc
ca, cực lực phản đối, mà còn bị nhiều người gạt bỏ không tin là
sự thật. Bởi vào năm 1948, Trần văn Đôn cũng như Lê Văn Kim...
chỉ là sĩ quan cấp nhỏ trong quân đội Pháp, thì chừng nào mới tới
phiên được mời vào phòng hội, để nghị sự một vấn đề trọng đại của
quốc gia lúc đó, chỉ có Nguyên Thủ, các cấp Bộ Trưởng, Thủ Hiến
ba kỳ và lãnh đạo cao cấp của các giáo phái... mới được mời họp
với ý kiến và quyết định.
Trong suốt cuộc chiến VN kéo dài gần 20
năm (1955-1975), những ai đã từng là người dân trong vùng chiến
nạn, xôi đậu, bị giặc chiếm hay là lính trận chiến đấu nơi sa
trường, đồn nghĩa quân cheo leo miền biên tái, những biệt chính,
biệt kích cảm tử hoạt động riêng rẽ và các quân nhân bị thất lạc
trong lúc đụng trận, mới cảm nhận được sự thiêng liêng của lá cờ
và bản quốc ca hùng tráng, được thổi lên khi xung trận.
Quốc kỳ VN như một ngọn đuốc, soi đường
mở lối đấu tranh cho thanh niên nam nữ miền Nam trong suốt 20 năm
đoạn trường máu lệ, vì đất nước bị cộng sản đệ tam xâm lăng cướp
đoạt. Cũng nhờ Lá Quốc Kỳ, mà những người Việt lưu vong tỵ nạn
khắp bốn phương trời, sau ngày mất nuớc 30-4-1975, đã ngồi lại
với nhau để cùng sớt chia buồn vui vận nước. Đó là cấp lãnh đạo
tối cao nhất của Cộng Đồng VN tỵ nạn Hải Ngoại, hầu như từ truớc
tới nay chưa có ai dám phản đối hay xúc phạm.
Có còn nhớ hay không những ngày tang
tóc hỗn loạn của Tết Mậu Thân (1968), mùa hè đỏ lửa 1972 tại An
Lộc (Bình Long), Quảng Trị, Kon Tum, Bình Định... Rồi những ngày
thi hành cái gọi là hiệp định ngưng bắn vào tháng 1-1973 và sau
rốt là 55 ngày cuối cùng của VNCH vào năm 1975, lá cờ lại đẵm
thêm thịt xương, máu và nước mắt Lính.
Tại chiến trường, để treo được ngọn cờ
vàng ba sọc đỏ, biểu tượng của quốc gia, lên Kỳ Đài Huế trong Tết
Mậu Thân, trên ngọn Đồi Đồng Long (An Lộc), Tòa Hành Chánh Kon
Tum và nhất là tại Cổ thành Đinh Công Tráng-Quảng Trị... đã có
không biết bao nhiêu sinh mạng của lính, trong mọi binh chủng từ
NQ+ĐPQ, Bộ Binh, Biệt Động Quân, Biệt kích Dù, Thủy Quân Lục
Chiến và Nhảy Dù... đã gục ngã, trong quyết tâm làm thang cho
đồng đội, tiếp nối hết lớp này tới đợt khác, mới đạt được thắng
lợi cuối cùng.
Năm 1973, cộng sản Hà Nội qua đồng
thuận của Mỹ, được công khai đóng quân trên lãnh thổ VNCH theo
tinh thần hiệp ước ngưng bắn. Chúng đã cố gắng treo dán khắp nơi
từ cờ lớn tới cờ nhỏ, những lá cờ máu, khiến cho người lính VNCH,
lại phải chịu nhiều thương vong, để bảo vệ xóm làng, dân chúng,
không để mất vào tay cộng sản. Điều vinh hạnh nhất hiện nay tại
hải ngoại, đối với những người lính già mang mọi cấp bậc, thành
phần, giai cấp xã hội... ai mà chẳng mơ ước được Cộng Đồng người
Việt Quốc Gia và đồng đội, phủ cho mình một Lá Quốc Kỳ Cờ Vàng Ba
Sọc Đỏ trên nắp quan tài, trước khi vĩnh viễn bước vào cõi niết
bàn thênh thênh không vướng bận.
Tám mươi lăm năm qua, người Việt đã
trăm lần hòa hợp, hòa giải, hòa bình với cộng sản nhưng trăm lần
như một, lần nào cũng bị chúng xảo quyệt, lường gạt, đâm sau
lưng, mà lần cuối cùng đau đớn nhất là ngày 30-4-1975. Cho nên
bốn mươi hai năm nay, kể cả trẻ con cũng không còn ai tin vào sự
hứa hẹn của cộng sản, trừ bọn cò mồi không tim óc dù đã có cả núi
bằng cấp và chữ nghĩa. Bởi vậy chỉ còn một cách duy nhất, là cả
nước đứng dậy phá tan xiềng xích nô lệ của đảng cộng sản, để đòi
lại những gì mà chúng ta đã mất, trong đó quan trọng nhất là
quyền sống của kiếp người.
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 1-2017
HỒ
ĐINH
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những bài liên hệ
Bạn Không Phải Yêu Nước Mỹ
Đừng nên để đảng cộng sản bịt mắt, mò mẫm dẫn lên chủ nghĩa xã hội
Đề từ theo kiểu Nguyễn Quốc Khải
Tại sao tôi từ bỏ cờ đỏ để đi với cờ vàng
Buổi Họp Báo của Cộng Đồng VN HTĐ về vấn đề Mai Khôi
Người Việt Nam Cộng Hòa và Những Người Việt Khác
Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ Là Biểu Tượng Cao Quý Nhất của Quốc Dân VN
Buổi Chào cờ không có lá Quốc kỳ trước một cuộc hành quyết
Phản ứng CĐ: v/v vẹm MK được mời "hét" tại vùng HTĐ&PC
Ôm Bọn Chống Cộng Cuội Vào Lòng!
Con người và Sự kiện tại CĐ Washington, D.C. qua nữ ca sĩ Văn công VC Mai Khôi
Quốc Ca và Quốc Kỳ không phải là trò đùa
Ban Tổ Chức đêm Nhạc Thính Phòng Trói Vào Tự Do bất kính với lá Quốc Kỳ
Trung tâm lưu trữ những buổi lễ Mừng Thánh Tổ SĐND/QLVNCH
|
Hình nền: Xuân Đinh Dậu. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by ddcb chuyển
Đăng ngày Thứ Hai,
January 16, 2017
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang